You are on page 1of 24

Khoa Quản trị

Lớp Quản trị - Luật 44A.1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM


QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ

Bộ môn: Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế

Giảng viên:
Nhóm: 05

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 06 tháng 4 năm 2020


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 01..................................................................................................................1
Tóm tắt Quyết định số 30/2013:................................................................................1
Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là
di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng..................................1
1.1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời......................................................................................................2
1.2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một
tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?..................................2
1.3. Trong Quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, 02 tài sản tranh chấp có là di sản
của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?...........................................................4
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng quyết định trên của Viện kiểm sát..................4
1.5. Trong Quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, 02 tài sản tranh chấp có là
di sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?.................................................5
1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng quyết định trên của Hội đồng thẩm phán.......6
1.7. Ở án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao?.....................................................................................7
1.8. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
có được coi là di sản để chia chia không? Vì sao?....................................................8
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần
diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.............................................8
1.10. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của các con
mà dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để
chia không? Vì sao?..................................................................................................8
1.11. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện
tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?.............................................................................9
1.12. Việc Tóa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43.5m2
có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung án lệ số 16 không? Vì sao?.......9
1.13. Việc Tòa án quyết định “còn lại 43.5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có phải là nội dung án lệ số 16 không? Vì sao?. .10
VẤN ĐỀ 02................................................................................................................10
Quyết định: số 26/GĐT...........................................................................................11
2.1. Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và
những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời....................................................................................................11
2.2. Theo BLDS ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...................................................................................12
2.3. Nghĩa vụ của bà Loan đối với ngân hàng có là nghĩa vụ về tài sản không? Vì
sao? 12
2.4. Nếu ngân hàng yêu cầu được thanh toán, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ
trả nợ trên của bà Loan? Vì sao?.............................................................................13
2.5. Trong quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người quá
cố khi họ còn sống?.................................................................................................13
2.6. Trong Quyết định trên, theo Tòa án giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?.................................13
2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối
quan hệ với các quy định về nghĩa vụ của người quá cố)........................................13
VẤN ĐỀ 03................................................................................................................15
Khái quát nội dung án lệ số 26/2018/AL:................................................................15
3.1. Cho biết thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam...................................15
3.2. Pháp luật nước ngoài có áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu chia tài sản không?
16
3.3. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?..............................16
3.4. Việc án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?...........16
3.5. Việc án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được
công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?..................16
3.6. Suy nghĩ của anh chị về án lệ số 26/ 2018/AL nêu trên.................................17
VẤN ĐỀ 04................................................................................................................18
Yêu cầu 1:Liệt kê những bài viết có liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật
vềthừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2017 đến
nay........................................................................................................................... 18
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên..........................18
1

VẤN ĐỀ 01
DI SẢN THỪA KẾ
Tóm tắt Quyết định số 30/2013:
Vợ chồng cố Thái Anh, cố Liêng có tạo lập được 2 căn nhà (số 5 Hoàng Hoa
Thám và số 122 Nguyễn Hùng Sơn). Sau khi chết, họ không để lại di chúc. Căn nhà số
5, hai cố cho con thứ - Thái Tri, còn nhà số 122 cho con trưởng – Thuần Hy. Về sau,
có sự tranh chấp căn nhà số 122 giữa các cháu và con của cụ Thái Tri và cụ Thuần Hy,
bên nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế di sản.
Quyết định của các cấp xét xử:
Tòa sơ thẩm lần 1 bác yêu cầu của nguyên đơn; Tòa phúc thẩm lần 1 hủy bản án sơ
thẩm lần 1.
Tòa sơ thẩm lần 2 xác định căn nhà số 122 là di sản; Tòa phúc thẩm lần 2 xác định
căn nhà số 122 của cụ Hy.
VKS kháng nghị bản án sơ-phúc thẩm lần 2, yêu cầu Hội đồng thẩm phán chấp thuận
theo hướng giải quyết của VKS.
Tòa án Nhân dân Tối cao không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKS; giữ
nguyên bản án dân sự phúc thẩm lần 2.
Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.
Tài sản chung của ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G là 1 ngôi nhà cấp 4
diện tích đất 398m2. Năm 1984, ông N chết (trước khi chết không để lại di chúc), bà
G là anh T quản lí và sử dụng nhà đất trên. Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển
nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích 131m 2 trong tổng diện tích 389m2 của thửa
đất trên, phần diện tích còn lại của thửa đất là 267,4m 2. Năm 1991, bà Phùng Thị G
được cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m 2, bà Phùng Thị G
cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G
chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết nhưng
không phản đối có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để trang trải cuộc sống của bà và
các con. Tháng 3/2010 bà Phùng Thị G đã lập di chúc để lại cho chị Phùng Thị H1
diện tích đất 90m2. Các nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia di sản thừa
kế theo di chúc.
Quyết định của các cấp xét xử:
2

Bản án dân sự sơ thẩm: chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị H1,
buộc anh T có trách nhiệm thanh toán cho chị H1 số tiền 340.000.000đ. Không
chấp nhận yêu cầu của chị N1, H2, P khởi kiện chia thừa kế theo pháp luật.
Bản án dân sự phúc thẩm: chấp nhận yêu cầu chia thừa kế. Giao cho anh T và
người đại diện theo pháp luật diện tích 267,4m2.
Tòa tối cao: hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm và sơ thẩm.

1.1.  Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo Điều 612 BLDS 2015 thì: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết,
phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” Ngoài ra, Điều 105
BLDS 2015 cũng qui định:

1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.


2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản
có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.

Như vậy, quan điểm cho rằng di sản bao gồm tài sản của người chết mà không
bao gồm nghĩa vụ tài sản được thể hiện tại Điều 624 và các Điều 614, 615 BLDS
2015. Có thể hiểu rằng, trước khi chia di sản, những người thừa kế phải thanh toán các
nghĩa vụ của người chết để lại xong còn lại mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ
không phải với tư cách là chủ thể của nghĩa vụ do họ xác lập mà thực hiện các nghĩa
vụ của người chết bằng chính tài sản của người chết.1

Do đó, di sản không bao gồm nghĩa vụ của người quá cố.

1.2.  Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay
thế bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì
sao?

Theo khoản 1 Điều 611 BLDS 2015: “1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm
người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời
điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này.”

Theo quy định tại điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”
1
Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế của Đại
học Luật TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2012, tr. 192 – 196.
3

Thứ nhất, nếu việc di sản đó được thay thế bởi nguyên nhân khách quan.

Nguyên nhân khách quan: hỏa hoạn, lũ lụt, động đất, bão tố hay các thảm họa
tự nhiên khác... Những yếu tố này tác động vào di sản thừa kế làm cho nó bị hư hỏng
và thay vào đó là di sản mới, di sản cũ không còn giá trị hiện thực. Trường hợp này để
đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế thì tài sản mới thay thế cho di sản thừa kế
đó sẽ có hiệu lực pháp luật, phần tài sản mới này sẽ được chia theo pháp luật.

Thứ hai, được thay thế bởi nguyên nhân chủ quan.

Nguyên nhân chủ quan được xác định có sự tác động phần nào đó bởi yếu tố
con người. Sự thay thế do tự bản thân cá nhân nào muốn thay thế hoặc sự thay thế
được sự đồng thuận bởi tất cả những người thừa kế và được pháp luật thừa nhận. Nếu
nhằm mục đích chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế ban đầu đồng thời thay thế bởi một
tài sản khác thì khi đó tài sản mới này sẽ không được coi là di sản thừa kế. 

Nếu vì lý do chủ quan mà di sản thừa kế bị làm hư hỏng hoặc bị bán mà không
có sự đồng ý của các đồng thừa kế thì giá trị phần di sản vẫn được coi là di sản thừa
kế và người làm thất thoát di sản có trách nhiệm trả lại phần giá trị làm thất thoát để
chia thừa kế.

Đối với những di sản bị thay thế, xuất hiện sau thời điểm mở thừa kế BLDS các
năm không có quy định nào về vấn đề tài sản thay thế có được xem là di sản hay
không. “Thực tiễn, tài sản thay thế di sản là “di sản thừa kế””. Hướng giải quyết này
chưa quy định trong văn bản nhưng rất thuyết phục (án lệ của Pháp cũng giải quyết
theo hướng này và ngày nay án lệ này đã được luật hóa tại Điều 815-10 Bộ luật Dân
sự Pháp) và được áp dụng đối với trường hợp di sản được thay thế bằng một khoản
tiền như tiền đền bù (đây là hướng giải quyết của Bản án số 98/2006/DSPT ngày 20-1-
2006 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh), tiền bảo hiểm tài sản được bảo
hiểm... Thực tế con cho thấy khi di sản bị bán cho người khác, Tòa án nhân dân tối
cao cũng giải quyết theo hướng tiền từ việc bán (chuyển nhượng) là di sản (Quyết
định số 02/2011 ngày 23-02-2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)
và, trong trường hợp Tòa án đã giao di sản cho một người không được hưởng (và bản
án đã có hiệu lực pháp luật), người được giao sở hữu tài sản phải thanh toán giá trị tài
sản và giá trị này cũng được chia di sản (Quyết định số 141/DS-GĐT ngày 19-3-2012
của Tòa dân sự Tòa án nhân tối cao). Tương tự như vậy khi Tòa án quyết định bán đấu
giá di sản và di sản đã được bán hợp pháp cho người khác (Quyết định số
31/2014/DS-GĐT ngày 10-07-2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
giải quyết theo hướng vừa nêu) hay Tòa án giao di sản cho cho một người thừa kế và
người thừa kế chuyển nhượng di sản cho người khác nhưng sau đó quyết định giao di
sản bị hủy thì di sản được chuyển thành tiền và người nhận tiền phải chia cho những
4

người thừa kế tiền đã nhận (Hướng giải quyết tại Quyết định số 03/2011 DS-GĐT
ngày 23-2-2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết định số
129/2011/DS-GĐT ngày 22-2-2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao)2.

1.3. Trong Quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, 02 tài sản tranh chấp
có là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?

Trong Quyết định số 100/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 16/08/2011 được trích từ


Quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, căn nhà số 05 Hoàng Hoa Thám không là di sản
của cố Thái Anh và cố Liềng, căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là di sản của cố Thái
Anh và cố Liềng.

Bởi theo lập luận của phía Viện kiểm sát:

Tại Quyết định số 100/QĐ-KNGĐT -V5 ngày 16/8/2011 được trích trong
Quyết định số 30, Viện kiểm sát nhận định: “Sinh thời cố Thái Anh và cốNguyễn Thị
Liêng có tài sản là căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám (...), căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn
(...) căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám các bên đều thừa nhận Cố Anh đã cho cụ Tri và
không tranh chấp, nên tòa án không xem xét là đúng”. Cụ Tri đứng tên là chủ sở hữu
từ năm 1967, do vậy, căn nhà số 05 Hoàng Hoa Thám không phải là di sản của cố
Thái Anh và cố Liêng.

Còn đối với căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn thì Viện kiểm sát cho rằng đây
là di sản của hai cố vì: “Theo bằng khoán điền thổ số 320 ngày 25/6/1935 thì cố Thái
Anh là chủ sở hữu, hồ sơ vụ án không có bất cứ tài liệu nào xác định cố Thái Anh đã
chuyển sở hữu căn nhà cho cụ Hy. Đến thời điểm cố Thái Anh và cố Liêng chết thì
nhà đất chưa chuyển dịch sang tên cho ai, vì vậy căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là
di sản của cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng để lại chưa chia.” Vậy, sau khi hai cố
mất hai căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là di sản của hai cố.

1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng quyết định trên của Viện kiểm sát.

Thứ nhất, đối với nhận định về căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám không phải là di
sản của cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng là hợp lý, có căn cứ pháp luật. Bởi lẽ,
theo Điều 612 BLDS 2015 thì “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản chung với người khác.” Và khi còn sống, hai cố Thái Anh và Nguyễn Thị Liêng
đã chia cho cụ Thái Tri căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám, và cụ Thái Tri đã hoàn thành
thủ tục đứng tên là chủ sở hữu từ năm 1967. Điều này được các bên thừa nhận và

2
Đỗ Văn Đại,Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb.Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư). Bản án số 8-10, trang 113
5

không tranh chấp. Như thế, căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám được Viện kiểm sát xác
định không phải di sản là thỏa đáng.

Thứ hai, việc Viện Kiểm sát xác định căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là di
sản của Cố Thái Anh và có tiếng là hợp lý. Cụ thể, khi hai cố mất thì căn nhà này vẫn
chưa được chuyển quyền sở hữu cho cụ Hy nên theo Điều 612 BLDS 2015 thì được
xem là di sản. Hơn nữa, theo Viện Kiểm sát thì căn nhà này cần được chia thừa kế
theo pháp luật ứng với điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015 (trường hợp không có di
chúc). Bên cạnh đó, Viện Kiểm sát ghi nhận công sức của cụ Hy nên việc chia đều
cho các chủ thể mà không tính đến công sức bảo quản di sản của cụ là không hợp lý.

Tuy nhiên, xét về tình thì đây là hướng giải quyết chưa hoàn toàn “hợp tình”.
Ta có thể thấy rõ là khi còn sống thì hai cố đã có ý định phân chia cho con trai thứ là
cụ Tri căn nhà 5 Hoàng Hoa Thám (đã sang tên) và cho con trai trưởng là cụ Hy sống
chung để thực hiện việc phụng dưỡng cha mẹ, thờ cúng tổ tiên. Việc cho rằng căn nhà
122 Nguyễn Hùng Sơn là di sản và chỉ cho người con trai sống chung hưởng một phần
căn nhà này là quá thiệt thòi cho cụ. Cụ Tri đã được cha mẹ tạo dựng cho cơ hội để sở
hữu căn nhà của riêng mình khi còn sống nhưng về phần cụ Hy, do sống chung với
cha mẹ nên không rõ về mặt giấy tờ rằng cụ có được thừa kế căn nhà hay không.
Hướng hiểu rằng do cha mẹ đã cố gắng tạo điều kiện cho các cụ khi còn sống thì căn
nhà mà cụ Hy sống chung với hai cố tất nhiên thuộc về cụ Hy nên được xem xét đến.

1.5.  Trong Quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, 02 tài sản tranh
chấp có là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Trong quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, 02 tài sản tranh chấp không
là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng. Vì:
Đối với căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám thì cố Thái Anh và cố Liêng còn sống
và đã cho cụ Thái Tri đứng tên là chủ sở hữu từ năm 1967, do vậy, căn nhà số 5
Hoàng Hoa Thám không phải là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng.
Đối với căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn thì hai cố dành cho cụ Thái Thuần
Hy căn nhà vì cụ Hy là con trai trưởng, ở cùng và có công chăm sóc hai cố, chăm sóc
bác ruột và em ruột là cụ Lượng bị bệnh tâm thần và còn có trách nhiệm thờ cúng tổ
tiên sau này. Thực tế, khi cụ Hy phá nhà cũ của hai cố, xây dựng nhà mới thì cụ Thái
Tri còn sống và không phản đối, điều này chứng tỏ cụ Thái Tri tôn trọng định đoạt của
cha. Do đó, căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn không còn là di sản của cố Thái Anh và
cố Liêng.
6

Ghi nhận tại đoạn cuối phần Xét thấy của Quyết định: “Như vậy, căn cứ các tài
liệu trên có cơ sở xác định vợ chồng cố Thái Anh cố Nguyễn Thị Liêng tạo lập được 2
căn nhà, cụ Thái Tri là con thứ nên hai cố cho căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám (nhỏ
hơn); còn căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn (lớn hơn) thì hai cố dành cho cụ Thái Thuần
Hy vì cụ Hy là con trai trưởng, ở cùng và có công chăm sóc hai cố, chăm sóc bác ruột
và em ruột là cụ Lượng bị bệnh tâm thần và còn có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên sau
này. Thực tế, khi cụ Thái Thuần Hy phá nhà cũ của hai cố, xây dựng nhà mới thì cụ
Thái Tri còn sống nhưng không phản đối, điều này chứng tỏ cụ Thái Tri tôn trọng
định đoạt của cha mẹ. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm xác định cố Thái Anh, cố Nguyễn
Thị Liêng đã chia cho cụ Thái Tri căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám, chia cho cụ Thái
Thuần Hy căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn; từ đó bác yêu cầu chia thừa kế của các
nguyên đơn (là con cụ Thái Tri) là có căn cứ. Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn vẫn là di sản của
cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng là không có cơ sở.”
1.6.  Suy nghĩ của anh/chị về hướng quyết định trên của Hội đồng thẩm
phán.
Tôi không hoàn toàn đồng ý với hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm
phán. Vì:
Đối với căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám thì hai cố đã cho cụ Thái Tri sử dụng
trước và đã hoàn thành thủ tục đứng tên sở hữu nhà từ trước khi hai cố chết nên không
được xem là di sản.
Còn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn, cho đến thời điểm cố Thái Anh và cố Liêng
chết, vẫn chưa hề sang tên cho ai nên theo quy định tại điều 634 BLDS 2005, về mặt
pháp luật nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn phải được xem là di sản của hai cố.
Tuy nhiên, Hội đồng thẩm phán quyết định bác yêu cầu khởi kiện của các
nguyên đơn là đúng. Vì theo điều 631, 632, 637 Bộ luật dân sự 2005 thì phần tài sản
của cụ cố Thái Anh và cụ cố Liêng phân chia rất hợp lí.
Thứ nhất, căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám (nhỏ hơn) được chia cho cụ Tri bởi cụ
Tri là con thứ và không nuôi dưỡng, chăm sóc ba mẹ mình.
Thứ hai, căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn (lớn hơn) được chia cho cụ Thái Hy
vì cụ Hy là con trưởng ở cùng cha mẹ và có công chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; nuôi
dưỡng vợ chồng cố Thái Cẩm An và nuôi em ruột là cụ Thái Thị Lượng bị tâm thần,
đến khi những người này chết. Như vậy, tài sản đã được chia theo đúng với phần công
được bỏ ra và theo nguyện vọng của 2 cụ cố.
7

1.7. Ở án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Theo nhận định của Tòa án thì diện tích 398m2 đất là tài sản chung của vợ
chồng ông N và bà G. Năm 1991 bà G chuyền nhượng cho ông K 131 m2 đất nhằm
trả nợ và nuôi gia đình. Căn cứ vào khoản 2 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014 về
tài sản chung của vợ chổng thì phần đất sau khi chuyển nhượng trên được xem như là
tài sản chung:
“2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để
bảođảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.”
Như vậy, tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G lúc này còn 267m2. Phần
di sảncủa ông N là một nửa diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng ông và bà G, tức
là 133,5m2.
Theo khoản 2 Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về giải quyết
tài sản vợ chồng khi một bên chết:
“…2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia
đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ,
chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật
về thừa kế…”
Như vậy, phần diện tích đất của ông N sẽ là 133.5m2. Mặc dù ông N chết và
phần diện tích 267m2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà G
(phần đất chỉ còn 267m2 là vì bà đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K vào năm
1991 một phần diệntích đất trên là 131m2 và năm 1999 bà mới được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất) nhưng phần đất được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, là
tài sản chung của vợ chồng. Cho nên phần di sản của ông N sẽ được tính là 1/2 tổng
diện tích đất chung của vợ chồng ông và bà G theo Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao
gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tàisản chung với
người khác”.
1.8. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông
Phùng Văn K có được coi là di sản để chia chia không? Vì sao?
Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
khôn được coi là di sản để chia, vì:
Trong án lệ trên đã nhận định: “Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho
ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản
8

đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc
sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà Phùng
Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông
Phùng Văn K”.
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan
đến phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
Theo em, hướng giải quyết của Án lệ liên quan đến phần diện tích đất đã
chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K là tương đối thuyết phục:
Thứ nhất, về ý chí của các chủ thể khi tham gia. Việc bà Phùng Thị G bán đất
cho ông Phùng Văn K đều được các con của bà G biết và không phản đối. Điều đó
chứng tỏ các con bà G tuy không tham gia quá trình giao dịch dân sự trực tiếp nhưng
đã thể hiện sự đồng ý.
Thứ hai, điều thể hiện sự đồng ý của chủ thể với giao dịch dân sự có nhiều cách
khác nhau như bằng văn bản, xác nhận… tuy nhiên Luật chưa quy định rõ về vấn đề
này.
Thứ ba, việc bà Phùng Thị G bán đất cho ông Phùng Văn K ngoài việc đã được
các con bà G đồng ý thì điều quan trọng hơn đó là số tiền bán đất đã được chứng minh
rằng bà G dùng để lo cuộc sống của bà và các con.
Thứ tư, điều này chứng tỏ, phần đất đã được bán cho ông Phùng Văn K đã
không còn là di sản thừa kế của bà G và các con mà nó đã là tài sản chuyển giao
quyền sở hữu cho người khác.
1.10. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của các
con mà dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được
coi là di sản để chia không? Vì sao?
Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của các con mà
dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó được coi là di sản thừa kế để
chia, vì:
Việc bán đất đã dùng vào mục đích cá nhân của bà G, làm mất quyền lợi thừa
kế của những người liên quan. Do đó, số tiền bán đất đó được coi là di sản để thừa kế.
Hướng giải quyết vụ việc như trên là lấy số tiền đó bù vào giá trị tương ứng của miếng
đất đã bán để tiến hành chia di sản thừa kế.
9

1.11. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong
diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diên tích đất
trên là 133.5m2. Mặc dù khi bà Phùng Thị G chết diện tích 398m 2 đất đứng tên của bà.
Tuy nhiên, đất này được hình thành trong hôn nhân nên đây là tài sản cũng của cả ông
Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia. Như vậy, trừ đi diện tích 131m 2 đất đã
1
chuyển nhượng cho ông K, bà G chỉ có quyền định đoạt diện tích đất trong tổng
2
diện tích đất chưa chia của vợ chồng bà-tức 133.5m2.
Cơ sở pháp lý: dựa vào khoản 2 điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
quy định về việc giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc
bị Tòa án tuyên bố là đã chết: “Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ
chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần
tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định
của pháp luật về thừa kế.”
1.12. Việc Tóa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43.5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung án lệ số 16
không? Vì sao?
Theo nhóm, việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G
là 43.5m2 là chưa thuyết phục.
Theo quy định tại điểm a khoản 1, khoản 2 điều 651 BLDS 2015 về việc chia
thừa kế: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, còn nuôi của người chết”, “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng di
sản như nhau”.
Như vậy, phần di sản của ông T sẽ được chia thành 7 phần bao gồm cả phần của
bà G, mỗi thừa kế được hưởng 19.07m 2 đất. Trừ đi phần đất 90m2 bà G cho con gái,
phần di sản của bà G để lại sẽ là 62.57m2 đất.
Đây không phải là nội dung án lệ số 16 vì án lệ số 16 công nhận hợp đồng
chuyển nhượng đất là di sản do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Hay nói
chi tiết hơn, án lệ số 16 đã công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà G và ông
K là hợp pháp và số đất đó không còn nằm trong phần đất thừa kế được chia.
10

1.13. Việc Tòa án quyết định “còn lại 43.5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn
lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có phải là nội dung án lệ số 16
không? Vì sao?
Như đã phân tích ở câu 1.12; theo nhóm, việc Tòa án xác định “còn lại 43.5m2
được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là chưa hợp lý. Theo đó, phần di sản của bà Phùng
Thị G để lại khi đã trừ đi 90m2 cho người con gái là 62.57m2. Vậy 62.57m2 này sẽ
được chia cho 5 kỷ phần còn lại.
Đây không phải là nội dung án lệ số 16 vì án lệ số 16 công nhận hợp đồng
chuyển nhượng đất là di sản do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.

VẤN ĐỀ 02
NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI TÀI SẢN
11

Quyết định: số 26/GĐT


Cụ Phúc (chết năm 1999) và cụ Thịnh (chết năm 2007) có 6 người con gồm có:
Vũ, Oanh, Dung, Thu (những người này là nguyên đơn),Vi (định cư tại Đức), và Ông
Vân (bị đơn). Khi cụ Phúc chết không để lại di chúc. Tài sản giữa cụ Phúc và cụ
Thịnh tạo lập được gồm nhà, đất tại 708 Ngô Gia Tự. Trước khi chết cụ Phúc có ý
nguyện bán nhà, đất tại 708 Ngô Gia tự sau đó chia cho các con trai mỗi người 100
triệu, con gái mỗi người 30 triệu. Sau khi cụ Phúc chết vì một số lý do bà Oanh, Bà
Dung và Bà Thu đã nhận của ông Vân 30 triệu và phải kí xác nhận số tiền đã nhận với
yêu cầu từ ông Vân là không được đòi hỏi gì từ ngôi nhà trên. Bên cạnh đó Cụ thịnh
đã để lại di chúc với nội dung cho ông Vân hưởng toàn bộ di sản của cụ là ½ nhà đất
số 708 Ngô Gia Tự và phần tài sản mà cụ Thịnh được hưởng từ Cụ Phúc.
Quyết định của cấp xét xử
Tại bản án sơ thẩm xác định nhà đất là tài sản của cụ Phúc, cụ Thịnh; xác nhận di
chúc của cụ Thịnh là hợp pháp; bác bỏ yêu cầu đòi thừa kế của bà Oanh, Dung; không
chấp nhận yêu cầu đòi chia bằng hiện vật của ông Vũ; giao cho ông Vân đươc quyền
sử dụng nhà đất và phải trại lại phần thừa kế của ông vi là 150 triệu, trả cho ông Vũ
110 triệu
Tại bản phúc thẩm sửa lại một phần bản án sơ thẩm : chấp nhận yêu cầu chia thừa kế
của bà oanh, bà dung; Giao cho ông Vân sử dụng nhà đất và phải kí trả phần thừa kế
cho ông vi:150 triệu,ông vũ 110 triệu; bà oanh và bà dung mỗi người 40 triệu.
Tại tòa giám đốc thẩm quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ cho
tòa án nhân dân xét xử lại vì diện tích đất không được xác định rõ ràng, và công chăm
sóc cha mẹ của ông vân, công nuôi dưỡng cha mẹ ( là lúc ông Vi gửi tiền từ Đức về
cho cha mẹ không phải bán căn nhà) của ông Vi cũng không được xác định rõ, và số
tiền chia cho các đồng thừa kế là chưa hợp lý.
2.1. Theo BLDS, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm
dứt và những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên chấm
dứt? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Dựa theo Khoản 8 Điều 372 BLDS 2015 thì nghĩa vụ của người quá cố sẽ
đương nhiên chấm dứt: “Bên có nghĩa vụ là cá nhân đã chết hoặc pháp nhân chấm dứt
tồn tại nghĩa vụ phái do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện.”
Dựa theo Điều 615 BLDS 2015 về thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại:
12

1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản
trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những
người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa
vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần
tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di
chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như
người thừa kế là cá nhân.
2.2. Theo BLDS ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người
quá cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Dựa theo Điều 615 BLDS 2015 về thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại:
“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản
trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế
trong phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà
mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc
thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế
là cá nhân.”
2.3. Nghĩa vụ của bà Loan đối với ngân hàng có là nghĩa vụ về tài sản
không? Vì sao?
Nghĩa vụ của bà Loan là nghĩa vụ về tài sản. Vì nghĩa vụ của bà Loan với Ngân
hàng không phải là quan hệ nhân thân (quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với
người) nên được xếp vào quan hệ tài sản.
13

2.4. Nếu ngân hàng yêu cầu được thanh toán, ai là người phải thực hiện
nghĩa vụ trả nợ trên của bà Loan? Vì sao?
Nếu Ngân hàng yêu cầu được thanh toán, thì các con của bà Loan phải chia
nhau thanh toán số tiền nợ của bà Loan. Vì căn cứ vào điều Khoản 1, Khoản 3 Điều
615 BLDS 2015 thì những người được thừa kế phải có nghĩa vụ tài sản trong phạm vi
di sản do người chết để lại. Cụ thể ở đây là khoản nợ của bà Loan với Ngân hàng,
người được thừa kế di sản của bà Loan chính là các con của bà nên việc trả nợ sẽ trở
thành nghĩa vụ của các con bà Loan.
2.5. Trong quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng
người quá cố khi họ còn sống?
Trong Quyết định số 26, Tòa án xác định ông Vân có công chăm sóc cha mẹ và
quản lý di sản, ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông Vi là người gửi
tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà).
2.6. Trong Quyết định trên, theo Tòa án giám đốc thẩm, công sức chăm
sóc, nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?
Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng của ông Vân và ông Vi được xử lý theo hướng: “Ông Vân có công chăm sóc
cha mẹ và quản lý di sản, ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông Vi là
người gửi tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà), nhưng không xác định rõ công sức
chăm sóc cha mẹ và quản lý di sản mà ông Vân, ông Vi được hưởng là bao nhiêu để
đối trừ, số tiền còn lại mới chia cho các đồng thừa kế là chưa hợp tình, hợp lý.”
2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm
(trong mối quan hệ với các quy định về nghĩa vụ của người quá cố).
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối quan hệ với các quy
định về nghĩa vụ của người quá cố) là hợp lí. Vì trên mảnh đất tranh chấp có 02 ngôi
nhà hai tầng và 01 ngôi nhà trần làm công trình phụ, các đương sự khai không thống
nhấtđược các phần diện tích nhà nào là của ai nhưng Tòa án các cấp lại xác định 02
ngôi nhà một tầng là tài sản của cụ Phúc, bà Thịnh là chưa có căn cứ vững chắc, có
thể vi phạm đến quyền lợi của người khác. Bên cạnh đó, công chăm sóc cha mẹ, quản
lý di sản của ông Vân và việc nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vi cũng không được Tòa án
các cấp xác định rõ để đối trừ, số tiền còn lại mới chia cho các đồng thừa kế. Như vậy
là chưa thỏa đáng. Do đó, Tòa giám đốc thẩm đã hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm,
yêu cầu xem xét lại là đúng căn cứ của pháp luật.
14
15

VẤN ĐỀ 03
THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ

Khái quát nội dung án lệ số 26/2018/AL:


Cụ Hoàng Thị T (là mẹ của các nguyên đơn) mất năm 1972, trước ngày công
bố Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/8/1990 (“Pháp lệnh 1990”). Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao nhận định tại thời điểm xem xét thủ tục giám đốc thẩm, thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Hoàng Thị T vẫn còn do Bộ luật Dân sự năm
2015 (“BLDS 2015”) đang có hiệu lực pháp luật.
Nguồn của án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 06/2017/DS-GĐT ngày 27/3/2017
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh chấp thừa kế tài
sản và chia tài sản chung” tại Hà Nội, giữa nguyên đơn là ông Cấn Xuân V, bà Cấn
Thị N1, bà Cấn Thị T1, bà Cấn Thị H, ông Cấn Xuân T, bà Cấn Thị N2, bà Cấn Thị
M1. Người đại diện cho các đồng nguyên đơn là bà Cấn Thị N2 và bị đơn là cụ
Nguyễn Thị L, ông Cấn Anh C. Người đại diện cho các đồng bị đơn theo ủy quyền là
ông Lê Hồng L. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 07 người.

3.1. Cho biết thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.
Có 3 loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam:
Thời hiệu yêu cầu chia di sản, theo khoản 1 điều 623 BLDS 2015: “Thời hiệu
để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với
động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa
kế đang quản lý di sản đó”
Thời hiệu xác nhận quyền thừa kế hoặc phản đối quyền thừa kế của người
khác, theo khoản 2 điều 623 BLDS 2015: “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác
nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm,
kể từ thời điểm mở thừa kế.”
Thời hiệu khởi kiện để yêu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại, theo khoản 3 điều 623 BLDS 2015 : “Thời hiệu yêu cầu người thừa
kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở
thừa kế.”
16

3.2. Pháp luật nước ngoài có áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu chia tài
sản không?
Pháp luật nước ngoài có áp dụng thời hiệu đối với đối với yêu cầu chia tài sản:
Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan quy định thời hiệu khởi kiện quyền thừa kế là
10 năm tính từ ngày người để tại tài sản chết. Bộ luật dân sự Pháp không quy định cụ
thể mà quy định chung về tất cả các vụ kiện về tài sản và nhân thân có thời hiệu là 30
năm.
3.3. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn
nào của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T 01-01-2017.
Đoạn của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL: “Kể từ ngày Bộ luật
Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật
Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-
01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và
Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ
T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật”.
3.4. Việc án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015
cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục
không? Vì sao?
Theo khoản 1 điều 623 BLDS 2015 thì việc án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời
hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản của cụ T là hoàn toàn có cơ sở và thuyết
phục. Vì xét thấy thì di sản của cụ T đa phần là bất động sản, mà bất động là tài sản
thường sẽ có giá trị lớn nên việc chia tài sản theo thừa kế phải áp dụng thời hiệu 30
năm. Mặt khác, việc quy định thời hiệu 30 năm đối với bất động sản này là hợp lý vì
như quy định trong điều 236 BLDS 2015 đối với căn cứ xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là 30 năm đối
với bất động sản.
3.5. Việc án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015
cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa
kế năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết
phục không? Vì sao?
Việc án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công
17

bố không có cơ sở văn bản cụ thể nào. Theo quy định tại điều 623 BLDS 2015 thì thời
hiệu thừa kế bắt đầu từ thời điểm mở thừa kế. Do vậy, điều này không hề đề cập đến
thời điểm tính từ Pháp lệnh thừa kế năm 1990. Vậy nên, quyết định này không thuyết
phục.
3.6. Suy nghĩ của anh chị về án lệ số 26/ 2018/AL nêu trên.
Án lệ số 26/2018/AL mở ra cho ta một hướng nhìn mới hoàn toàn về thời điểm
bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu cầu chia di sản là bất động sản. Bên cạnh đó
cho chúng ta thấy rằng việc có sự thay đổi giữa các thế hệ dẫn tới áp dụng sự thay đổi
của pháp luật kéo theo đó là sự phức tạp và khó khăn trong quá trình xác định của Tòa
án. Tuy có những quyết định của Tòa án đưa ra chưa thực sự mang lại nhiều sự đồng
tình nhưng vì cần phải đảm bảo tính công bằng và bảo vệ quyền lợi cho các bên nên
Tòa án đã phải xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau để đảm bảo sự thuyết phục.
Do vậy nên án lệ số 26/2018/AL là một án lệ hay vì tính thực tế thường xuyên xảy ra
của nó.
18

VẤN ĐỀ 04
TÌM KIẾM TÀI LIỆU
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết có liên quan đến pháp luật về tài
sản và pháp luật về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành
Luật từ đầu năm 2017 đến nay.
- Những bài viết có liên quan đến pháp luật về tài sản:
Bùi Đức Giang, “Nhận tài sản bảo đảm là phần vốn góp, cổ phần từ quy định
pháp luật đến thực tiễn”, Ngân hàng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 2019, Số 1, tr.
24-27.
Lê Thị Giang, “Hoàn thiện pháp luật đối với trường hợp bên được tặng cho
không thực hiện điều kiện tặng cho khi bên tặng cho đã giao tài sản”, Khoa học Kiểm
sát, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, 2018, Số 01 (21), tr. 45 – 54.
Đoàn Thị Ngọc Hải, “Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam, 2019,
Số 9, tr. 38-42.
Phạm Thị Thúy Hằng, “Giải pháp quản lý tiền ảo, tài sản ảo”, Tài chính, Bộ
Tài chính, 5/2018, Số 680, tr. 18 – 21.
Ngô Thu Hiền, “Một số vấn đề về xác định thiệt hại được bồi thường khi tài
sản bị xâm phạm theo pháp luật Việt Nam”, Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối
cao, 10/2017, Số 19, tr. 34 – 38.
Hoàng Quảng Lực, “Nguyên đơn trong vụ án ly hôn không yêu cầu chia tài sản
chung vợ chồng thì giải quyết thế nào?” Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao,
2019, Số 21, tr. 13-15.
Tưởng Duy Lượng “Quy định về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm
hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật trong bộ luật dân sự năm 2015”,
Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tháng 01/2018, Số 01, tr. 44 – 50.
Nguyễn Văn Tiến, “Quyền khởi kiện của Chấp hành viên trong việc xác định,
xử lý tài sản chung để thi hành án dân sự”, Tòa án nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối
cao, 2018, Số 2, tr. 30 – 32.
Châu Thị Khánh Vân, “Thời điểm kí kết hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê
mua nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai”, Kiểm sát, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, 2018, Số 5, tr. 36-42.
- Những bài viết có liên quan đến pháp luật về thừa kế:
19

Đỗ Văn Chỉnh, “Thừa kế - Thời hiệu thừa kế và thực tiễn”, Tòa án nhân dân,
Tòa án Nhân dân Tối cao, 2017, Số 11, tr. 27 – 30.
Nguyễn Viết Giang, “Thừa kế thế vị theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2015”, Nghề luật, Học viện Tư pháp, 2017, Số 5, tr. 3 - 7; 13.
Nguyễn Viết Giang, Lê Nguyễn Thị Ngọc Lan, “Quan điểm và bình luận từ
một vụ án thừa kế”, Nghề luật, Học viện Tư pháp, 2017, Số 5, tr. 99 – 100.
Phan Thị Vân Hương, Đặng Thị Phượng, “Áp dụng thời hiệu thừa kế đối với di
sản là bất động sản từ ngày 01/01/2017”, Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao,
2017, Số15, tr. 10 – 13.

Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.
Tìm kiếm trên trạng thư viện OPAC của trường và sử dụng các công cụ tìm
kiếm như google.
20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT:
1. Bộ luật Dân sự số: 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội.
2. Bộ luật Dân sự số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội.
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT:
I. Giáo trình.
3. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình pháp luật về
tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế (Tái bản có sửa đổi và bổ sung),
Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
II. Tài liệu chuyên khảo:
4. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb.Hồng
Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2019 (xuất bản lần thứ tư).

You might also like