You are on page 1of 17

17

1
MỤC LỤC
I. KHÁI NIỆM TÀI SẢN:........................................................................................................................... 4
1.1 Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về giấy tờ có giá……..6
1.2 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” có giấy tờ
có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không?................................................6
1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” có là tài
sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Vì sao? ......................................7
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản ...............................................8
1.5.Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà có là
tài sản không? Vì sao?...................................................................................................................................8
1.6. Suy của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”........................................................................................................9
1.7.Bitcoin là gì? ...........................................................................................................................................9
1.8.Theo các bị cáo trong vụ án “cướp tài sản, Bitcoin có là tài sản không...............................................10
1.9.Ở các vụ việc về Bitcoin, Toà án có xác định Bitcoin là tài sản theo Pháp luật Việt Nam không…..…10
1.10.Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị
biết................................................................................................................................................................10
1.11.Theo anh/chị có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không?............................................................10
1.12.Quyền tài sản là gì? ............................................................................................................................11
1.13.Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản
không? .........................................................................................................................................................11
1.14.Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền
mua là tài sản?..........................................................................................................................11
1.15.Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về
quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)? ..........................................................11

II. CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU…………………………………………….……………….12


2.1.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa
án?................................................................................................................................................................12
2.2.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
......................................................................................................................................................................13
2.3.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
......................................................................................................................................................................13
2.4.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
......................................................................................................................................................................14
2.5.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất
có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
......................................................................................................................................................................14

2
2.6.Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp trên cơ sở
quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?....................................................................................15

III. CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN............................................................................................15


3.1.Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................15
3.2.Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời …………………........15
3.3.Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
......................................................................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................16

3
I. KHÁI NIỆM TÀI SẢN:

Tóm tắt Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh
Khánh Hòa:
Nguyên đơn: ông Phan Hai
Bị đơn: ông Phan Quốc Thái
Ông Phan Hai khởi kiện yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do bà Lương Thị Xàm để lại. Toà án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết vụ án vì
cho rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về
Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không phải là giấy
tờ có giá do đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Toà án phúc thẩm quyết
định không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn đồng thời trả lại đơn kiện và các tài liệu
kèm theo về việc đòi lại tài sản.
Tóm tắt Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long
Hồ tỉnh Vĩnh Long:
Nguyên đơn: ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H
Bị đơn: bà Nguyễn Thị Thuỷ T
Năm 2012, ông B và bà H sửa nhà thì phát hiện mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nên xin UBND cấp lại. Khi có giấy thì ông B và bà H không được nhận vì lý do có người
tranh chấp là bà T. Ông B và bà H khởi kiện yêu cầu bà T trả lại giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Bà T yêu cầu phía ông B và bà H trả số tiền 120.000.000 đồng thì mới đồng
ý trao trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng sau đó đã rút yêu cầu đòi nợ. Tòa án
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B và bà H, buộc bà T phải trao trả lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn.
Tóm tắt Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến
Tre:
Nguyên đơn: ông Nguyễn Việt Cường
Bị đơn: Chi cục trưởng chi Cục thuế thành phố Bến Tre
Nguyên đơn là ông Cường khởi kiện Chi cục trưởng Chi cục thuế thành phố Bến Tre vì
truy thu thuế việc ông Cường mua bán tiền ảo trên Internet. Tuy nhiên, khung pháp lý về
tiền kỹ thuật số (tiền ảo) cũng như hành vi mua bán tiền ảo qua mạng Internet đang được
hoàn thiện, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào xác định tiền ảo là hàng hoá và mua
bán kinh doanh tiền ảo là kinh doanh hàng hoá được pháp luật cho phép và phải chịu
thuế. Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Cường và huỷ các quyết định của Chi cục
trưởng Chi cục thuế thành phố Bến Tre đã áp dụng đối với nguyên đơn là ông Cường.
Tóm tắt Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao:
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị H

4
Bị đơn: bà Nguyễn Thị Kim Loan
Năm 1976, cụ T được Quân đội cấp phép sở hữu, sử dụng căn nhà số 63 nhưng sau khi
chết không để lại di chúc, có lập giấy ủy quyền cho bà L trọn quyền giải quyết những
việc có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với căn nhà trên. Các con của
cụ T đã đồng ý cho bà L mua hoá giá căn nhà của cụ T. Tuy nhiên sau đó bà L đã cho
thuê mà không bàn bạc với con cụ T. Bà H khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung là ngôi
nhà trên theo biên bản thoả thuận của Thanh tra Bộ Quốc phòng. Tại Bản án phúc thẩm,
Tòa án xác định căn nhà trên thuộc quyền sở hữu của bà L và chồng. Bà H đề nghị giám
đốc thẩm bản án. Tòa án nhân dân cấp cao tại TP Hồ Chí Minh nhận định Tòa án cấp sơ
thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ chế độ mua nhà của bà L và nhận định sai giấy ủy quyền
của cụ T, quyết định chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng thời hủy Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm để
giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại.
Tóm tắt bản án số 841/2023/HS-PT ngày 01/11/2023 của Toà án nhân dân cấp cao tại
TP. Hồ Chí Minh:
Bị cáo: các bị cáo Hồ Ngọc Tài, Trần Ngọc Hoàng, Trương Chí Hải, Trịnh Tuấn Anh,
Nguyễn Quốc Dũng, Nguyễn Anh Tuấn, Bùi Quang Chung, Phạm Văn Thành, Nguyễn
Chí Thanh, Nguyễn Văn Đức
Bị hại: ông Lê Đức Nguyên
Người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan: bà Trương Ngọc Lệ
Trong quá trình đầu tư, kinh doanh tiền điện tử, Hồ Ngọc Tài và Trần Ngọc Hoàng quen
biết anh Lê Đức Nguyên. Năm 2018, nghe anh Nguyên tư vấn, Tài bán Bitcoin để mua
các loại tiền điện tử mới trên các sàn giao dịch điện tử quốc tế và bị thua lỗ mất hết số
tiền đầu tư. Tài cho rằng việc mình thua lỗ là do bị anh Nguyên lừa nên đã rủ Hoàng cùng
tìm anh Nguyên để đòi lại số tiền đã mất. Tháng 03/2020, Tài thỏa thuận cùng Trịnh Tuấn
Anh sẽ chia 30% số tiền nếu lấy được của anh Nguyên. Tuấn Anh đồng ý và nhờ Trương
Chí Hải đi tìm anh Nguyên nhưng không có kết quả. Tháng 04/2020, Tài nhờ Mai Xuân
Phốt tìm anh Nguyên. Sau khi tìm thấy anh Nguyên, Tài cho người theo dõi lộ trình đi lại
của Nguyên và cùng Tuấn Anh lên kế hoạch lấy lại tiền. Kế hoạch nhờ người tạo vụ va
chạm ô tô để cướp lại tiền ảo từ Nguyên được Tài và các bị cáo cùng vạch ra. Ngày
17/5/2020, theo dõi qua định vị phát hiện thấy xe ô tô của anh Nguyên di chuyển từ thành
phố Bảo Lôc ̣ hướng về Thành phố Hồ Chí Minh, Tài cùng các bị cáo nêu trên cùng hành
động. Sau khi tạo va chạm, các bị cáo truy cập vào ví điện tử của anh Nguyên, khống chế,
ép anh đọc mật khẩu chuyển tiền ảo sang ví các bị cáo. Sau khi chiếm đoạt của anh
Nguyên và chia cho nhau. Các bị cáo sử dụng tiền được chia vào các việc cá nhân, mua
đất, chuyển khoản sang người khác… Số Bitcoin còn lại các bị cáo khai không nhớ tên và
không nhớ mật khẩu đăng nhập nên không thu hồi được. Bản án sơ thẩm xác định các bị

5
cáo chiếm đoạt 18.880.000.000 đồng (quy đổi từ 86,91 Bitcoin). Quá trình tố tụng tại
phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo xin giảm nhẹ và khắc phục hậu quả. Đối với yêu cầu
kháng cáo của các bị cáo về việc cho rằng tiền ảo chưa được pháp luật Việt Nam bảo hộ
nên các bị cáo chỉ phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định là không có cơ sở chấp nhận.
Hội đồng xét xử nhận định hành vi dùng vũ lực, khống chế người bị hại để chiếm đoạt tài
sản của người bị hại là vi phạm pháp luật. Vụ án có đồng phạm, hành vi của các bị cáo là
đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài
sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, tạo dư luận xấu trong xã hội. mục đích của
các bị cáo trong vụ án này là chiếm đoạt tiền đồng thông qua việc chiếm giữ Bitcoin (tiền
điện tử, tiền ảo), tội “Cướp tài sản” là đúng. Bác kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên
bản án sơ thẩm.

1.1 Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về
giấy tờ có giá.
● Theo khoản 8, Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, giấy tờ có giá là
“bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với
người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều kiện khác”
● Theo khoản 2 và khoản 3 Thông tư 01/2012/TT-NHNN thì giấy tờ có giá gồm các
loại như sau:
“Giấy tờ có giá dài hạn là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên kể từ khi phát
hành đến khi đến hạn thanh toán.
Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm kể từ khi phát hành
đến khi đến hạn thanh toán.”
Ví dụ: cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng khoán và
những giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được
phép giao dịch.

1.2 Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu
trả lời không?
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” không phải là giấy tờ có giá vì theo Điều 2 Công văn số
141/TANDTC-KHXX: “Theo các quy định trên đây thì các giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…)
không phải là “giấy tờ có giá” quy định tại Điều 163 của Bộ luật dân sự năm

6
2005; do đó, nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các
giấy tờ này thì Tòa án không thụ lý giải quyết.”
- Trong Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/07/2017, có câu trả lời là:
Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về tài sản như sau:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và Động sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”;
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác”.
Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước
xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp
của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn
liền với đất”.
Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về
quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là
loại giấy tờ có giá.
- Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 "Giấy chứng nhận quyền sử dụng là
chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở,
tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, ...". Như
vậy trong bản án số 39 cho ta câu trả lời giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ là
chứng thư.
1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời
không? Vì sao?
Theo quy định của Điều 105 BLDS 2015:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện
có và là tài sản hình thành trong tương lai.”
Theo quy định của Điều 115 BLDS năm 2015:
“Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu” nhà không được coi là tài sản
- Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/07/2017, có câu trả lời là:

7
Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước
xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp
của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn
liền với đất”. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng
thông tin về quyền sử dụng đất, là văn
bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.
- Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 có đoạn: "Hội đồng xét xử thấy rằng Bộ
luật tố tụng dân sự không quy định rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp này".Như
vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là giấy tờ có giá thậm chí
không được xem là tài sản, do vậy Toà án không thể thụ lý giải quyết.

1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái
niệm tài sản
Theo em, hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản là chưa hợp lý.
Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa nên chấp nhận kháng nghị 01/QĐKN/VKS-DS của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa, chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn ông Phan Hai không đình chỉ giải quyết vụ án vì:
- Căn cứ theo Khoản 2 Điều 14 BLDS 2015: "Tòa án không được từ chối giải quyết vụ,
việc dân sự vì lý do chưa có Điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại
Điều 5 và Điều 6 của bộ luật này được áp dụng".
- Căn cứ theo Khoản 2 Điều 4 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015: "Tòa án không được từ chối
giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có Điều luật để áp dụng; Vụ việc dân sự chưa có
Điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi Điều chỉnh của pháp luật dân sự
nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu
Tòa án giải quyết chưa có Điều luật để áp dụng; Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định
tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật Dân Sự và Bộ luật này quy
định".

1.5.Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
Theo Điều 105 BLDS 2015 quy định:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản
hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

8
Theo Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền,
bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu đất và quyền tài
sản khác”
Vậy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà là những văn bản
chứa đựng thông tin về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà chứ không phải là tài sản.
Tuy nhiên việc xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vật là hợp lý vì giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất định, thậm chí có hình
dạng cụ thể (là tờ giấy), nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể thực hiện
việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), có giá trị
sử dụng (được dùng để chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất).

1.6. Suy của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
Theo em, hướng giải quyết trong Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án
nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà là hợp lý. Theo khoản 2 Điều 131 BLDS 2015: “Khi
giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận; Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành
tiền để hoàn trả": Việc con ông B thế chấp giấy tờ cho bà T để vay tiền có ông B, bà H
biết nhưng phía bà T chưa chứng minh được việc này là có thật thì cũng được xem là giao
dịch dân sự vô hiệu và sẽ phát sinh hậu quả pháp lý. Bên cạnh đó, con ông B đem giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đi vay chỉ được thực hiện bằng lời nói (hoặc bằng giấy
viết tay) mà chưa tuân thủ theo trình tự thủ tục luật định. Việc con ông B mang thế chấp
giấy tờ chứng nhận sử dụng đất không có giá trị pháp lý về mặt hình thức

1.7. Bitcoin là gì?


Bitcoin (ký hiệu: BTC, XBT) là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi cá nhân hoặc
tổ chức vô danh dùng tên Satoshi Nakamoto dưới dạng phần mềm mã nguồn mở từ năm
2009. Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà không cần
thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào.Bitcoin là loại tiền mã hoá điển hình nhất,
ra đời đầu tiên, và được sử dụng rộng rãi nhất trong thương mại điện tử. Các doanh
nghiệp có xu hướng muốn thanh toán bằng Bitcoin để giảm thiểu chi phí. Đến tháng 7
năm 2018, lượng tiền cơ sở của Bitcoin được định giá hơn 109 tỷ đô la Mỹ - là loại tiền
mã hóa có giá trị thị trường lớn nhất. Những biến động lớn trong giá trị của mỗi bitcoin
đã tạo nên những lời chỉ trích về tính phù hợp kinh tế của Bitcoin như là một loại tiền tệ.

9
1.8.Theo các bị cáo trong vụ án “cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản không?
Theo các bị cáo trong vụ “cướp tài sản", Bitcoin được xem là tài sản vì: Theo như luật sư
bào chữa, pháp luật chưa công nhận Bitcoin là tài sản nếu nó tồn tại dưới dạng tiền ảo.
Trong vụ án, các bị cáo đã đổi Bitcoin thành tiền và mua đất, chuyển khoản cho người
khác,...Như vậy số Bitcoin đó không còn là tiền ảo mà đã tồn tại dưới các dạng tài sản
khác nhau.
1.9.Ở các vụ việc về Bitcoin, Toà án có xác định Bitcoin là tài sản theo Pháp luật Việt
Nam không?
- Ở các vụ việc về Bitcoin, Toà án không xác định Bitcoin là tài sản mà Toà án căn
cứ vào định giá đã được quy đổi ra từ Bitcoin để xét xử.
+ Tại bản án số 841/2023/HS-PT ngày 01/11/2023: “Tại phiên tòa phúc thẩm,
các bị cáo và các luật sư bào chữa cho các bị cáo cho rằng các bị cáo
chiếm đoạt tiền điện tử (tiền ảo), nhưng hiện nay pháp luật chưa có quy
định cụ thể về tiền điện tử (tiền ảo) và đây không phải là tài sản theo quy
định tại Điều 105 Bộ luật dân sự nên Bản án sơ thẩm xác định các bị cáo
chiếm đoạt 18.880.000.000 đồng (quy đổi từ 86,91 Bitcoin)”

1.10.Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết
- Một số nước trên thế giới đã công nhận Bitcoin là tài sản và phương tiện thanh
toán hợp pháp.
- Pháp luật Châu Âu coi Bitcoin và các loại tiền điện tử khác là tài sản. Việc sử
dụng Bitcoin trong Liên minh Châu Âu là hợp pháp. Quy định 2023/1114 vào
ngày 31/05/2023 của Nghị viện Châu Âu đã thông qua các quy tắc mới về thị
trường tài sản điện tử (MiCA) nhằm phát triển cách tiếp cận của Châu Âu trong
việc thúc đẩy phát triển công nghệ và duy trì sự ổn định tài chính cũng như bảo vệ
người tiêu dùng. Khi sử dụng Bitcoin làm phương tiện thanh toán, có thể có các cơ
hội thanh toán rẻ hơn, nhanh hơn và thuận tiện hơn vì không phải qua các khâu
trung gian. Miễn là người dùng tuân thủ theo các nguyên tắc đã đặt ra, họ có thể tự
do sử dụng và giao dịch tiền điện tử.

1.11.Theo anh chị, có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì sao?
Theo em, không nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam. Cơ sở pháp lý:
- Theo khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản”
- Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định chế tài xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương
tiện thanh toán không hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự.

10
- ​Tại khoản 6 và 7 Điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP thanh toán không dùng tiền
mặt sửa đổi bởi Nghị định 80/2016/NĐ-CP quy định: “6. Phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi là phương
tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ
ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước; 7. Phương tiện thanh toán không hợp pháp là các phương tiện thanh toán
không thuộc quy định tại khoản 6 Điều này” Bitcoin không nằm trong các phương
tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong giao dịch thanh toán tại khoản 6 của
điều trên.
Như thế, nếu xem Bitcoin là một phương tiện thanh toán thì nó chưa được pháp luật Việt
Nam cho phép thực hiện để thực hiện các hoạt động thanh toán. Từ đó có thể thấy rằng, ở
Việt Nam cho tới thời điểm hiện nay Bitcoin chưa được xem là một loại tài sản, và không
được nhà nước công nhận.

1.12.Quyền tài sản là gì?


Theo Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm
quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài
sản khác.”
“Quyền tài sản” là loại quyền dân sự có thể trị giá bằng tiền, cá nhân hoặc pháp nhân có
quyền tài sản có thể kiểm soát việc sử dụng tài sản và thụ hưởng lợi nhuận thu được từ
việc sử dụng tài sản. Như vậy, quyền đem lại lợi ích về mặt kinh tế thì đó là quyền tài
sản.

1.13.Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản không?
Hiện nay chưa có quy định cụ thể nào khẳng định quyền thuê và quyền mua là quyền tài
sản. Tuy nhiên, theo Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác.” Đặc điểm duy nhất của Quyền tài sản là “được trị giá bằng
tiền". Như vậy, quyền thuê và quyền mua đem lại lợi ích về mặt kinh tế và trả bằng tiền
nên đều là quyền tài sản.

1.14.Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Trong quyết định số 05 của Tòa án nhân dân tối cao có ghi nhận quyền thuê, quyền mua
là tài sản tại phần nhận định của Tòa án: "Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ
luật Dân Sự 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được
bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được
hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T"

11
1.15.Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản)
Theo khoản 1 Điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản.” Theo điều 163 BLDS 2005: "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có
thể chuyển giao trong giao dịch dân sự".Quyền thuê và quyền mua là những quyền trị giá
bằng tiền và có thể được chuyển giao cho các thừa kế vì vậy theo em, hướng giải quyết
của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua là quyền
tài sản là hợp lý.

II. CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU


Tóm tắt Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao:
Nguyên đơn: cụ Dư Thị Hảo
Bị đơn: chị Nhữ Thị Vân
Nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, TP.Hà Nội là tài sản riêng của cụ Dư Thị Hảo có
bằng khoán điền thổ. Năm 1954, cụ Hảo vào Sài Gòn và giao căn nhà lại cho con là vợ
chồng ông Chính và bà Châu quản lý. Đến năm 1968, vợ chồng ông Chính và bà Châu đi
công tác nên cho ông Nhữ Duy Hải thuê nhà, có giấy tờ nhưng sau đó lại bị mất. Sau khi
ông Hải chết, cháu ông Hải là chị Nhữ Thị Vân tiếp tục sử dụng đến nay. Năm 2001, chị
Vân bán nhà cho chị Dương Thị Ngọc Lan, anh Nguyễn Hồng Sơn. Đến năm 2004, cụ
Hảo khởi kiện yêu cầu chị Vân trả lại căn nhà. Tòa án Nhân dân tối cao xác định chị Vân
đã thực hiện việc chiếm hữu ngay tình, liên tục và công khai.

2.1.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn trong quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 cho thấy Toà án
khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là:
“"Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời
khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông
Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính
không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản lý căn nhà. Trong
khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại căn nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông
nội chị ở, sau này là bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở".
- Theo em, khẳng định này của Toà án là chưa hợp lý, lời chị Vân thì gia đình chị
Vân đã sống ở ngôi nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954 đến năm 2004 (năm bị khởi

12
kiện) tức là đã hơn 50 năm. Còn theo lời của ông Chính thì chị Vân sống từ năm
1968 tới năm 2004 tức là đã 36 năm. Dù theo lời của ai thì thời gian gia đình chị
Vân cũng đã sống ở ngôi nhà trên 30 năm, vậy việc chị Vân là chủ sở hữu của
ngôi nhà là thoả đáng vì theo khoản 1 Điều 186 BLDS 2005: " Khi chủ sở hữu
giao tài sản cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung không bao
gồm việc chuyển quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải thực hiện việc
chiếm hữu tài sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch”

2.2.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trong quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “... Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30
năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ
luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu “Người chiếm hữu, người được lợi về
tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn
mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu
tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
này...”.”
Theo em, quyết định của Toà án là chưa hợp lý. Vì theo điều 189 BLDS 2005: "Người
chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu tài sản
đó là không có căn cứ pháp luật". Căn nhà số 2 Hàng Bút là được cụ Hảo cho thuê, tuy
uỷ quyền cho ông Chính quản lí nhưng cụ Hảo vẫn là người đứng tên của căn nhà đó.
Bên cạnh đó, chị Vân vẫn biết là gia đình chị đang thuê ngôi nhà từ ông Chính nên không
thể khẳng định chị Vân chiếm hữu ngay tình ngôi nhà trên 30 năm được.

2.3.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trong quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “... Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30
năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ
luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu “Người chiếm hữu, người được lợi về
tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn
mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu
tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
này...”.”

13
Theo em, quyết định của toà án là hợp lý vì theo Điều 190 BLDS 2005: "Việc chiếm hữu
tài sản được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về tài sản đó
là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu." Gia đình
chị Vân đã sinh sống tại ngôi nhà trên 30 năm, bên cạnh đó gia đình cụ Hảo cũng không
có tài liệu pháp lý xác thực để chứng minh rằng mình có đòi lại ngôi nhà từ chị Vân, từ
đó thiếu cơ sở để xác minh giữa hai bên đã xảy ra tranh chấp.

2.4.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trong Quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: "Sau khi ông nội chết (1995) thì gia đình chị không
đóng tiền thuê nhà cho ông chính nữa, Sau đó bố chị (ông Nhữ Duy Sơn) và chị tiếp tục
quản lý. Năm 1997 bố chị chết thì chị tiếp tục ở tại nhà số 2 (hàng bút tầng 1), chị không
trả tiền thuê nhà cho ai."
Theo em, quyết định của Toà án là hợp lý vì theo Điều 191 BLDS 2005: "Việc chiếm hữu
tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu
diếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người
chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của mình". Theo khoản 1 Điều 138 BLDS
2015: “Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch,
không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và
được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.” Trong suốt quá
trình hơn 30 năm sinh sống tại ngôi nhà, chị Vân và gia đình đã có sự nâng cấp, sửa chữa
cho ngôi nhà, như vậy ngôi nhà đã được chị Vân và gia đình sử dụng với mục đích sinh
sống và được bảo quản, gìn giữ như tài sản của gia đình chị Vân.

2.5.Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là
chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định
này của Tòa án?
Trong Quyết định của Tòa án, đoạn cho thấy Toà án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ
sở hữu của căn nhà là: “Đến năm 2004, cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra tòa án yêu cầu
chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất
như trên.”
Theo em, khẳng định của Toà án là hợp lý. Vì cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản
số 2 Hàng Bút cho bà Nguyễn Thị Châu toàn quyền sở hữu (di chúc có xác nhận của Ủy
ban nhân dân xã Kim Chung). Di chúc có xác nhận của UBND xã là di chúc hợp pháp

14
theo quy định của Điều 655 BLDS 1995 do đó cụ Hảo đã không còn là chủ sở hữu của
ngôi nhà.

2.6.Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
Theo em, gia đình chị Vân không được phép xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền. Vì theo Điều 236 BLDS 2015:
“Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình,
liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản
thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” Gia đình chị Vân đã sống ở ngôi nhà hơn
30 năm, chiếm hữu công khai, liên tục nhưng không ngay tình vì chị Vân biết rằng mình
đã thuê ngôi nhà từ ông Chính, đồng thời người đứng tên là cụ Hảo, khi cụ Hảo mất thì
người đứng tên sẽ là chị Châu vì vậy việc chị Vân và gia đình xác lập quyền sở hữu đối
với ngôi nhà là không phù hợp với quy định của Pháp luật.

III. CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN:

Tình huống: Bà Dung có mua của bà Thủy 01 ghe xoài trị giá 16.476.250 đồng. Tuy
nhiên ghe xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hàng và bà Dung từ chối
thanh toán tiền mua với lý do đây là việc rủi ro.

3.1.Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời
Theo Điều 162 BLDS 2015:
“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi quyền
của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác.”
Như vậy, Chủ sở hữu là bà Dung phải chịu rủi ro đối với tài sản thuộc sở hữu của mình vì
sự cố ghe xoài bị hư do cháy chợ xảy ra sau khi bà Dung đã nhận hàng, bên cạnh đó giữa
bà Dung và bà Thuỷ cũng không có thoả thuận bất cứ thứ gì khác.

3.2.Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
Theo khoản 1 Điều 161 BLDS 2015: “Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường hợp

15
luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật không
quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao. Thời điểm tài sản được chuyển giao
là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản.” Thời
điểm xác lập quyền sở hữu là thời điểm bà Thuỷ chuyển giao ghe xoài cho bà Dung vì
vậy tại thời điểm cháy chợ, bà Dung là chủ sở hữu của số xoài.

3.3.Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời
Theo Điều 162 BLDS 2015 quy định:
“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa
thuận
khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi quyền
của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác.”
Và theo Điều 441 BLDS 2015 quy định: “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài
sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài
sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
Thời điểm xác lập giao dịch dân sự là khi bà Thuỷ giao ghe xoài cho bà Dung tức là trước
khi sự cố cháy chợ xảy ra, việc chuyển giao đã hoàn tất và số xoài trên là tài sản của bà
Dung. Bà Thuỷ đã hoàn thành nghĩa vụ giao ghe xoài cho bà Dung và cả hai người không
có thỏa thuận nào khác nên bà Dung phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền 16.476.250 đồng
cho bà Dung.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Bộ Luật dân sự 2005
Bộ Luật dân sự 2015
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010
Thông tư 01/2012/TT-NHNN
Công văn số 141/TANDTC-KHXX
Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/07/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa
Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long
Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao
Bản án số 841/2023/HS-PT ngày 01/11/2023 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh
Khoản 6 và 7 Điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP thanh toán không dùng tiền mặt sửa đổi bởi
Nghị định 80/2016/NĐ-CP

16
Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ
Quy định 2023/1114 vào ngày 31/05/2023 của Nghị viện Châu Âu
Định nghĩa Bitcoin: https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Bitcoin

17

You might also like