You are on page 1of 14

Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo

Trường Đại Học Luật TP.Hồ Chí Minh


----------------------------------------------------

BÀI THẢO LUẬN


ĐỀ TÀI: CHỦ THỂ CỦA PHÁP LUẬT
GIẢNG VIÊN: Th.S Lê Thị Diễm Phương

Họ và tên: Lê Quỳnh Anh


Mã số sinh viên: 22534002672
Lớp: Quản trị - Luật 47A1

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Mục lục:
I. BÀI TẬP 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN.............................................................................4
1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa
về giấy tờ có giá...............................................................................................................5
1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không?...........................................................................................................6
1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có câu trả lời
không? Vì sao?................................................................................................................6
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ
khái niệm tài sản.............................................................................................................7
1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?..................................................7
1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.......................8
1.7. Bitcoin là gì?.............................................................................................................8
1.8. Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?..................8
1.9. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết...............................................................................................8
1.10. Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối
quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam....................................................................9
1.11. Quyền tài sản là gì?................................................................................................9
1.12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là
quyền tài sản không?......................................................................................................9
1.13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?................................................................................9
1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản)?................................................................................................................................10
II. BÀI TẬP 2: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU...............................................10

PAGE \* MERGEFORMAT 1
2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án?...................................................................................11
2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?...............................................................11
2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?......................................................................12
2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ
của anh/chị về khẳng định này của Tòa án?...............................................................12
2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn
là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án?....................................................................................................13
2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất
có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?.......13
III. BÀI TẬP 3: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN.............................................14
3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời........................................................................................................................14
3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
.........................................................................................................................................14
3.3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời..........................................................................................................14

PAGE \* MERGEFORMAT 1
I. BÀI TẬP 1: KHÁI NIỆM TÀI SẢN
Tóm tắt Quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh
Hòa:
Nguyên đơn: Ông Phan Hai
Bị đơn: Ông Phan Quốc Thái
Ông Hai kiện ông Thái để yêu cầu ông Thái trả lại “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Tòa
án sơ thẩm đình chỉ giải quyết vụ án vì cho rằng “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” không
phải là tài sản, không thể xem đây là loại giấy tờ có giá nên không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa nhưng ông Hai kháng cáo. Tòa phúc thẩm tiếp tục đình chỉ giải quyết vụ án và
trả lại đơn khởi kiện cho ông Hai.
Cơ sở pháp lý:
Điều 105 : Tài sản
Điều 115: Quyền tài sản
Tóm tắt Bản án số 39/2018/DSST ngày 28/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ
tỉnh Vĩnh Long:
Nguyên đơn: Ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thủy T
Ông Võ Văn B và bà Bùi Thị H kiện bà Nguyễn Thị Thủy T, yêu cầu bà T trả lại “Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất” cho ông B và Bà H. Ông B bị mất “Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất” trong lúc sửa nhà nên đã đi tới UBND huyện để làm lại nhưng bị bà T tranh chấp vì bà T
đưa ra được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông H báo mất. Bà T yêu cầu ông B trả số
tiền là 120.000.000 đồng thì mới trả lại “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” trên. Tuy nhiên
sau đó bà T đã rút lại yêu cầu đòi nợ nhưng vẫn giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
ông B và bà H. Tòa án đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và buộc bà T phải giao trả lại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hai người ông B và bà H.
Tóm tắt Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Việt Cường
Bị đơn: Chi cục trưởng Chi cục thuế thành phố Bến Tre
Ông Nguyễn Việt Cường kiện Chi cục trưởng Chi cục thuế thành phố Bến Tre vì đã truy thuế
việc ông Cường mua bán tiền kỹ thuật số (tiền ảo). Trên thực tế, khung pháp lý về tiền kỹ
thuật số cung như hành vi mua bán tiền ảo qua mạng Internet đang được hoàn thiện, hiện chưa
có văn bản quy phạm pháp luật nào xác định tiền kỹ thuật số, tiền ảo là hàng hóa và mua bán
tiền ảo là kinh doanh hàng hóa được pháp luật cho phép và phải chịu thuế. Tòa án đã chấp
PAGE \* MERGEFORMAT 1
nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Việt Cường và hủy các quyết định của Chi cục trưởng
Chi cục thuế thành phố Bến Tre đã áp dụng đối với nguyên đơn là ông Cường.
Tóm tắt Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H – con của cụ Nguyễn Thanh T và cụ Lâm Thị C.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Kim L – con riêng của cụ Nguyễn Thanh T.
Đầu năm 1976, cụ T được Quân đội cấp phép sở hữu, sử dụng căn nhà số 63 nhưng sau khi
chết không để lại di chúc có lập giấy ủy quyền cho bà L trọn quyền giải quyết những việc có
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trách nhiệm đối với căn nhà trên. Bà L đã mua hóa giá căn
nhà trên sau khi có sự đồng ý của toàn bộ các con cụ. Tuy nhiên sau đó bà L đã cho thuê mà
không bàn bạc với con cụ T. Bà H khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung là ngôi nhà trên theo
biên bản thỏa thuận của Thanh tra Bộ Quốc phòng.
Tòa án sơ thẩm: Chấp nhận một phần khởi kiện của bà H, buộc bà L giao lại số tiền thừa kế
dựa trên giá trị ngôi nhà cho những người có quyền được hưởng thừa kế là bà H, ông T1 và
ông T2 – con của cụ T và cụ C theo tỷ lệ tòa án quyết định. Không chấp nhận quyền sở hữu
căn nhà của cá nhân bà L.
Tòa án phúc thẩm: Chấp nhận kháng cáo của bà L và không chấp nhận đơn kháng cáo của bà
H. Tòa đã quyết định công nhận quyền sở hữu căn nhà với bà L và không cần chia tài sản với
những người. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị.
Hội đồng thẩm phán: Quyết định hủy toàn bộ bản án và trả lại cho tòa án sơ thẩm xét xử lại
vì nhận thấy nhiều sai sót của tòa án sơ thẩm lẫn phúc thẩm xét xử.

1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về giấy
tờ có giá.
- Giấy tờ có giá phải xác định được thành tiền, được quy ước một giá trị nhất định, xác định
quyền tài sản của một chủ thể nhất định. Và được giao dịch trong thị trường, có thể được sử
dụng là phương tiện thanh toán chung, có thể thay thế trong lưu thông.
- Cơ sở pháp lý: Điều 105 BLDS 2015 quy định: “ Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản”. Theo khoản 8, Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, giấy tờ có giá
là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở
hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
- Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, tờ séc, những giấy tờ khác theo quy
định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch,..

PAGE \* MERGEFORMAT 1
1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời
không?
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
không phải là giấy tờ có giá.
- Câu trả lời từ Quyết định số 06/2017/QĐ-PT là: Theo Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sản bao
gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản
hình thành trong tương lai”. Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là quyền trị
giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác”. Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng
thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn
liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu
tài sản khác gắn liền với đất”. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản
chứng đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và
không thể xem là loại giấy tờ có giá.
- Bản án số 39 có xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước
xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở mà không phải là giấy tờ có giá.

1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có câu trả lời không? Vì
sao?
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
không là tài sản.
- Câu trả lời từ Quyết định số 06/2017/QĐ-PT là: Theo Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sẩn bao
gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản
hình thành trong tương lai”. Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là quyền trị
giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sử
dụng đất và các quyền tài sản khác”. Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: “Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng
thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn
liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu
tài sản khác gắn liền với đất”. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản
chứng đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và
không thể xem là loại giấy tờ có giá.
- Còn trong Bản án số 39, Tòa án chỉ nhận định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư
pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền
với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất”.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản
- Theo em hướng giải quyết trong quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản được quy định ở khoản 1
Điều 105 BLDS năm 2015 là chưa thỏa đáng. Do: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại
dưới một hình thức vật chất nhất định, có hình dạng cụ thể (một tờ giấy), nằm trong khả năng
chiếm hữu của con người (có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất), có giá trị sử dụng (dùng để minh chứng quyền sử dụng đất
hợp pháp của người sử dụng đất). Việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể tham
gia giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của nó. Thực tế, có những
loại tài sản mà Nhà nước cấm lưu thông, chẳng hạn vũ khí quân dụng, trang thiết bị, kỹ thuật...
Việc coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không là tài sản dẫn tới nhiều hệ quả không giải
thích được về mặt lý luận và thực tế mà còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người
sử dụng đất. Cụ thể, theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, quyền sở hữu và từng
nội dung riêng lẻ của quyền sở hữu là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt chỉ
có thể thực hiện trên các đối tượng là tài sản. Vì vậy, việc coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không là tài sản đã tước bỏ quyền chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất
đối với loại giấy tờ này.

1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
- Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà không là tài sản vì:
Căn cứ vào Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về tài sản như sau: “1. Tài sản là vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. 2. Tài sẩn bao gồm bất động sản và động sản. Bất động
sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.Căn cứ vào
Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm
quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sử dụng đất và các quyền tài sản
khác”.Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của
người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với
đất”.Căn cứ vào những Điều trên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa
đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền. Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà không là tài sản vì nó không là vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá nhằm bảo vệ quyền lợi về tài sản của
chủ thể. Trường hợp khi chủ thể bị mất giấy chứng nhận thì có thể yêu cầu cấp lại và không
ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.
- Theo em, hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là hợp lý. Vì việc bà T chiếm giữ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông B và bà H là trái pháp luật hơn nữa bà không đưa ra được giấy chứng minh
con trai ông B đã thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho bà để vay số tiền
120.000.000 đồng. Nên việc tòa án yêu cầu bà trả lại giấy chứng nhận trên cho ông B và bà H
là đúng.

1.7. Bitcoin là gì?


- Bitcoin là một loại tiền tệ kĩ thuật số được phát hành dưới dạng phần mềm mã nguồn mở và
phát minh bởi Satoshi Nakamoto (05/4/1975 tại Nhật). Đây chính là đồng tiền điện tử đầu tiên
trên thế giới, đặt nền móng cho thị trường crypto
- Bitcoin sử dụng mạng ngang hàng, giúp người gửi giao dịch trực tiếp với người nhận mà
không cần thông qua bất kì trung gian nào. Từ đó, làm giảm hao phí từ các loại phí không cần
thiết và giúp mọi giao dịch có phí rẻ hơn so với dịch vụ chuyển tiền quốc tế.
- Là loại hình tiền điện tử đầu tiên trên thế giới, Bitcoin đã có một chặng đường dài để đạt đến
ngưỡng giá trị như ngày nay.
- Bitcoin vận hành khác hẳn so với các loại tiền tệ điển hình, như không có một ngân hàng trung
ương nào quản lý và hệ thống hoạt động dựa trên một giao thức mạng ngang hàng trên
Internet. Sự cung ứng Bitcoin là tự động, mạng lưới Bitcoin còn chia sẽ một cái sổ cái công có
tên là Blockchain (nơi mọi giao dịch chưa từng được thực hiện). Sổ cái lưu giữ các số này
được lưu giữ trong “block”. Nếu có ý thay đổi một chữ hoặc một số trong block giao dịch sẽ
làm ảnh hưởng đến tất cả block tiếp theo.

1.8. Theo Tòa án, Bitcoin có là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?
- Theo Tòa án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam.
+ Theo điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 về tài sản quy định tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản. Tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Bitcoin không được xem là tài sản vì
Bitcoin không phải là tiền
+ Bitcoin không phải là giấy tờ có giá. Vì giấy tờ có giá là chủ thể được phép phát hành. Giấy tờ
có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, tờ séc, những giấy tờ khác theo quy định của pháp
luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch,..
+ Theo điều 115 Bộ luật Dân sự 2015, quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm
quyền tài sản đối với quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Bitcoin
tồn tại dưới dạng là đồng tiền ảo nên không thể coi là quyền tài sản được

1.9. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật
mà anh/chị biết.
- Theo em biết thì Bitcoin được công nhận là tài sản hợp pháp ở Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trên
PAGE \* MERGEFORMAT 1
thực tế một vụ án ở Trung Quốc được đưa lên Tòa án gần đây nhìn nhận Bitcoin là tài sản hợp
pháp, một cách sâu sắc hơn nó không chỉ là tài sản cá nhân mà còn là tài sản của công dân
Trung Quốc được phép sở hữu hơn cả “hàng hóa” đơn thuần, trong khi một số sản phẩm khác
xung quang Bitcoin vẫn còn bị coi là bất hợp pháp và bị cấm. Trong luật pháp về Bitcoin ở
Nhật, cơ quan thuế quốc gia của Nhật đã quyết định rằng lợi nhuận từ tiền điện tử nên được
phân loại vào loại “thu nhập linh tinh” và các nhà đầu tư bị đánh thuế ở mức 55%.

1.10. Suy nghĩ của anh/chị về quan điểm của Tòa án đối với Bitcoin trong mối quan hệ
với khái niệm tài sản ở Việt Nam.
- Quan niệm của Tòa án về Bitcoin trong mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam là hợp
lý, bởi lẽ dựa trên những trên những phân tích và chứng minh ở phần trên thì ta thấy rằng
khung pháp lý về tiền kỹ thuật số (tiền ảo) cũng như hành vi mua bán tiền ảo qua mạng
Internet đang được được hoàn thiện, tức là hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào xác
định tiền kỹ thuật số (tiền ảo) là tiền tệ hay kinh doanh hàng hóa được pháp luật cho phép và
buộc phải đóng thuế.

1.11. Quyền tài sản là gì?


- Căn cứ vào Điều 115 BLDS quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài
sản khác”.
- Quyền tài sản theo định nghĩa tại Điều 181 BLDS năm 2005 thống nhất viết tắt là quyền trị giá
được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ. Theo
đó thì quyền tài sản trước tiên phải được hiểu là xử sự được phép của chủ thể mang quyền.
Quyền ở đây chính là quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo
vệ. Quyền này phải giá trị được thành tiền hay nói cách khác là phải tương đương với một đại
lượng vật chất nhất định. Quyền tài sản thì có rất nhiều nhưng chỉ có những quyền tài sản nào
có thể trở thành đối tượng trong giao dịch dân sự thì mới được coi là tài sản tại Điều 163
BLDS 2005.

1.12. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài
sản không?
- Điều 115 BLDS 2015 quy định: Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền
tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền khác, do đó
phải thỏa các điều kiện về quyền tài sản thì mới được coi là quyền tài sản, quyền tài sản bao
gồm: quyền đòi nợ, quyền sử dụng tài sản thuê, quyền giá trị bằng tiền, quyền thực hiện hợp
đồng, quyền sở hữu trí tuệ.
 Không có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài
sản.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
1.13. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền
thuê, quyền mua là tài sản?
- Đoạn nhận định số [1] của Tòa án trong Quyết định số 05/2018/DS-GDT cho thấy Tòa án
nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản: “Đến thời điểm cụ T chết năm
1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định tại Điều
188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài
sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và
ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.”

1.14. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết
định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)?
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05/2018/DS-GDT ngày
10/4/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là hoàn toàn thuyết phục:
- Tòa án cấp sơ thẩm xác định căn nhà là tài sản chung của bà H, ông T2 và bà L là có căn cứ,
tuy nhiên khi xác định tỉ lệ phần giá trị để chia thì lại chia không hợp lý.
- Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét rõ về giấy ủy quyền của cụ T ủy quyền cho bà L. Giấy
ủy quyền cho bà L là để bà giải quyết các vấn đề có liên quan đến căn nhà chứ không phải sở
hữu căn nhà như nhận định.
- Cần xác minh bà L mua nhà theo chế độ ưu tiên như thế nào? Chế độ ưu tiên của T hay của
con liệt sĩ  Chưa làm rõ vấn đề bà L mua theo chế độ nào.
- Khi giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành định giái
diện tích đất tranh chấp, tính toán sau khi trừ đi chi phí bà L bỏ ra mua và công sức của bà L,
phần còn lại chia cho nguyên đơn và bị đơn, có tính giá thị trường để đảm bảo cho các bên.
- Hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao Bản án cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
 Hợp lý.

II. BÀI TẬP 2: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU


Tóm tắt Quyết định giám đốc thẩm số 111/2013/DS-GĐT ngày 9/9/2013 của Tòa án nhân
dân tối cao hội đồng thẩm phán:
Nguyên đơn: Cụ Dư Thị Hảo
Bị đơn: Chị Nhữ Thị Vân
Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ từ năm 1954, lúc đầu là ông
nội chị Vân ở sau này bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi
nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh; đến năm
2014 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì
thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở lại căn nhà
này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình liên tục công khai.
Tòa án sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu đòi nhà cho thuê của cụ Hảo (chị Châu đại diện) buộc
PAGE \* MERGEFORMAT 1
gia đình chị Vân và chị Lan (mua nhà số 2 Hàng Bút do chị Vân bán) trả nhà. Chị Vân và chị
Lan có đơn kháng cáo.
Tòa án phúc thẩm: Quyết định hủy bản án dân sự sơ thẩm. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân
quận Hoàn Kiếm giải quyết lại. Sau khi xét xử phúc thẩm, anh Sơn, chị Lan, anh Lâm có đơn
kháng cáo.
Hội đồng thẩm phán: quyết định hủy toàn bộ bản án giao lại cho Tòa sơ thẩm xét xử lại.
Cơ sở pháp lý:
Điều 236: Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật.

2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của Tòa án?
- Đoạn của Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 9/9/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao cho thấy khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp
trên 30 năm là: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình,
liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu
theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi lăm năm đối
với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 điều này...”.
- Khẳng định này của Tòa án là không xác đáng, dù nhà chị Vân ở từ năm 1954, tính tới thời
điểm bán cũng trên 30 năm nhưng nhà này là của cụ Hảo có trên giấy tờ lưu giữ thì nếu không
có văn bản nào của cơ quan nhà nước thì không thể gọi là nhà có đất tranh chấp.

2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn của Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 9/9/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao cho thấy khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu
ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba
mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này...”.
- Tòa án xác định như thế là chưa xác đáng, bởi vì căn nhà số 2 Hàng Bút là gia đình cụ Hảo
cho thuê, cụ Hảo vẫn còn là chủ sở hữu căn nhà nhà, cũng là người đứng tên căn nhà, cụ ủy
quyền cho ông Chính quản lý căn nhà chứ không từ bỏ căn nhà (không từ bỏ quyền sở hữu căn
PAGE \* MERGEFORMAT 1
nhà), gia đình chị Vân chiếm hữu căn nhà lúc nó còn là sở hữu của cụ Hảo mà không được sự
đồng ý thì không thể gọi là chiếm hữu ngay tình được.

2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn của Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 9/9/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao cho thấy khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay
tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền
sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi
năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm
hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này...”. Và ở trong một đoạn khác: “Trong khi
gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân, sau này là
bố chị Vân và chị Vân tiếp tục sinh sống.”
- Theo em, tòa án xử khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất trên 30 năm là
hợp lý vì theo khoản 1 Điều 182 BLDS 2015: “Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện trong
một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài
sản được trao cho người khác chiếm hữu.”
- Theo Tòa án, thời gian trễ nhất gia đình chị Vân có thể bắt đầu ở là vào năm 1968, từ mốc thời
gian đó đến thời gian khỏi kiện năm 2004 đã là 36 năm liên tục, thì trong thời gian 36 năm bên
phía nguyên đơn khai đã có đòi nhà, cụ thể là sau năm 1975, nhưng không có tài liệu pháp lý
phù hợp để chứng thực điều này, từ đó thiếu cơ sở để xác minh căn nhà đó có tranh chấp giữa
hai bên. Các tình tiết của vụ án đã cho thấy gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngôi nhà trong một
khoảng thời gian dài mà không có tranh chấp.

2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị
về khẳng định này của Tòa án?
- Đoạn của Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 9/9/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao cho thấy khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu
ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba
mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này...”.
- Theo em, Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất là hoàn toàn có
căn cứ vì theo khoản 1 Điều 183 BLDS 2015: “Việc chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu
công khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu diếm, tài sản đang chiếm hữu được
PAGE \* MERGEFORMAT 1
sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản
của mình”. Gia đình chị Vân đã sử dụng ngôi nhà với mục đích sinh sống và sinh hoạt. Đồng
thời đã có sửa chữa và nâng cấp ngôi nhà trong thời gian sinh sống ở đó. Ngôi nhà đã được sử
dụng theo đúng tính năng và công dụng được người chiếm hữu giữ gìn, bảo quản như tài sản
của mình.

2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ
sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của
Tòa án?
- Đoạn của Quyết định 111/2013/DS-GĐT ngày 9/9/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao cho thấy khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp
là: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng
không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải tại Ủy ban Nhân Dân phường Hàng Bồ
năm 2001), đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn kiện ra tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không
có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu căn nhà nêu trên”.
- Theo em, Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp dựa vào
lời khai của nguyên đơn và bị đơn là chưa chính xác.
- Nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có bằng khoán điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55,
đăng ký trước bạ tại Hà Nội ngày 04/11/1946. Nghĩa là cụ Hảo đã xác lập quyền sở hữu đối
với căn nhà từ năm 1946. Dù cụ Hảo có vào Nam sinh sống nhưng vẫn chưa từ bỏ quyền sở
hữu đối với căn nhà đó, không có chứng minh nào cho thấy cụ không còn là chủ sở hữu căn
nhà.

2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
Gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp trên cơ sở
quy định về thời hiệu hưởng quyền của BLDS 2015 vì những lí do sau:
- Gia đình chị Vân đã sống ở đây nhiều thế hệ, suy cho cùng dù xét thời điểm là năm 1968 hay
1954 thì thời gian chiếm hữu cũng đã trên 30 năm, căn cứ vào Điều 182 BLDS 2015.
- Việc chiếm hữu nhà số 2 Hàng Bút của gia đình chị Vân không có căn cứ pháp luật, chị Vân
hoàn toàn có thể biết việc chiếm hữu này là không có căn cứ pháp luật dựa vào việc không có
hợp đồng cho thuê nhà nhưng có thể xem là không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, phù
hợp với quy định tại Điều 189 BLDS 2005.
- Gia đình chị Vân đã sử dụng với đúng tính năng, công dụng và được gia đình chị bảo quản,
giữ gìn như tài sản của mình, đồng thời việc chiếm hữu này diễn ra hoàn toàn công khai, minh
bạch, căn cứ vào khoản 1 Điều 183 BLDS 2015.
- Tuy nhiên, nếu theo Điều 180 BLDS 2015 quy định: “Chiếm hữu không ngay tình là việc
chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc có thể biết rằng mình không có quyền đối với tài
sản”. Ở trường hợp này, việc chị Vân biết nhận thức được rằng thực chất căn nhà là do ông nội
chị thuê, có trả tiền nhà đầy đủ trong một khoảng thời gian dài nên chị hoàn toàn có thể biết và

PAGE \* MERGEFORMAT 1
phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đó.

III. BÀI TẬP 3: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN


Tình huống: Bà Dung có mua của bà Thủy 01 ghe xoài trị giá 16.476.250 đồng. Tuy nhiên
ghe xoài này đã bị hư do cháy chợ sau khi bà Dung nhận hàng và bà Dung từ chối thanh toán
tiền mua với lý do đây là việc rủi ro.

3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
- Bà Dung là người phải chịu rủi ro đối với tài sản, vì theo khoản 1 Điều 441 BLDS 2015 có
quy định: “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên
mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thảo thuận
khác hoặc luật có quy định khác”, mà thời điểm xảy ra cháy chợ và ghe xoài bị hư là sau khi
bà Dung đã nhận ghe xoài nên theo quy định của BLDS 2015 thì bà Dung là người phải chịu
rủi ro đối với ghe xoài.

3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Tại thời điểm cháy chợ thì bà Dung là chủ sở hữu số xoài, vì theo khoản 1 Điều 161 BLDS
2015 có quy định:”...thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm
tài sản được chuyển giao. Thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc
người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản”, mà tại thời điểm cháy chợ thì ghe xoài đã
được bà Thủy chuyển giao cho bà Dung nên theo quy định pháp luật thì bà Dung là chủ sở hữu
số xoài.

3.3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời.
- Bà Dung vẫn phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên. Vì bà Thủy đã hoàn tất chuyển giao ghe
xoài cho bà Dung và bà Dung đã trở thành chủ sở hữu của ghe xoài trước khi bị cháy chợ và
ghe xoài bị hư nên theo quy định tại khoản 1 Điều 441 BLDS 2015 thì bà Dung phải thanh
toán tiền cho bên bán là bà Thủy và chịu hoàn toàn rủi ro.

PAGE \* MERGEFORMAT 1

You might also like