Professional Documents
Culture Documents
TỘI PHẠM
I. KHÁI NIỆM VỀ TỘI PHẠM
- Định nghĩa hình thức : Tội phạm là các hành vi do luật hình sư qui định ->
không có trong luật định thì không có tội
- Định nghĩa nội dung : Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi,
trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt
- Định nghĩa theo BLHS 2015 : khoản 1 Điều 8 BLHS -> chi tiết, rõ ràng,
lột tả bản chất chi tiết bên trong của 1 hành vi bị coi là tội phạm.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự
và phải chịu hình phạt
Đặc điểm : Phải thoả đủ 4 đặc điểm mới được coi là tội phạm
- Tính nguy hiểm cho xã hội : gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho
các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ -> là đặc điểm cơ bản, quan
trọng nhất của tội phạm, thuộc tính khách quan của tội phạm, quan
trọng nhất.
o Căn cứ đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội :
Tính chất của quan hệ xã hội mà tội phạm xâm hại
Mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe doạ gây ra cho các quan hệ
xã hội bị xâm hại
Tính chất của hành vi khách quan : thủ đoạn, công cụ,
phương tiện phạm tội
Tính chất và mức độ lỗi
Động cơ, mục đích phạm tội
Hoàn cảnh chính trị xã hội nơi hành vi phạm tội xảy ra
Nhân thân người phạm tội
- Tính có lỗi : ở góc độ xã hội – lỗi là kết quả của sự lựa chọn và tự quyết
định của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình -> sự
phủ định chủ quan của người phạm tội đối với các chủ quan của xã hội. Ở
góc độ tâm lý – thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi của
mình và hậu quả mà hành vi đó gây ra. Yếu tố bắt buộc của mọi hành vi
được coi là tội phạm, thuộc tính chủ quan. Căn cứ tại khoản 1 Điều 8
BLHS.
Tội phạm là phải gắn liền với hình phạt, theo quy định của pháp
luật VN thì hình phạt ngoài yếu tố trừng trị thì còn là giáo dục, cái
tạo người phạm tội ngăn ngừa người khác phạm tội. Vậy khi
chúng ta xác định người thực hiện hành vi phạm tội không có lỗi
thì cái việc thực hiện, đạt được mục đích hình phạt sẽ không có ý
nghĩa -> áp dụng hình phạt sẽ không mang tính chất giáo dục, cải
tạo họ vì từ đầu họ đã nhận thức đúng về hành vi của họ là họ
không có lỗi
- Tính trái pháp luật hình sự : Căn cứ Điều 2 BLHS -> thể hiện tính hình
thức pháp lý.
- Tính phải chịu hình phạt : chịu hậu quả pháp lý, chỉ có người phạm tội
mới có phải chịu hình phạt.
II. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM
Phân chia các loại tội phạm được quy định tại BLHS thành các nhóm khác nhau
dựa trên một căn cứ xác định và nhằm mục đích nhất định.
6 căn cứ để phân loại tội phạm :
- Căn cứ theo tính chất của khách thể loại của tội phạm : chia thành cái
loại tội phạm dựa vào khách thể loại ( phân từ chương XIII đến XXVL ),
dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
( Căn cứ Điều 9 BLHS )
- Căn cứ vào hình thức lỗi
- Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc cấu thành tội phạm
- Căn cứ vào chủ thể thực hiện tội phạm
- Căn cứ vào đặc điểm đặc biệt trong cấu trúc hành vi khách quan
- Căn cứ vào mức độ và tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội
Ý nghĩa :
- Là cơ sở cụ thể hoá chính sách hình sự và đường lối xử lý tội phạm
- Là cơ sở trong việc xác định tội phạm
- Là căn cứ để xây dựng và áp dụng một số quy định pháp luật hình sự hay
tố tụng hình sự
III. PHÂN BIỆT GIỮA TỘI PHẠM VÀ HÀNH VI VI PHẠM PHÁP
LUẬT KHÁC
Giống nhau : hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội
được Nhà nước bảo vệ, hành vi có lỗi, trái pháp luật, do chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện.
Khác nhau :
- Về mặt nội dung : Tội phạm là những hành vi có tính nguy hiểm cho xã
hội khác với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Các vi phạm pháp luật
khác tuy cũng có tính nguy hiểm cho xã hội nhưng còn ở mức độ chưa
đáng kể. Tội phạm là những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội ở mức
độ đáng kể. Ranh giới giữa "nguy hiểm đáng kể" và "nguy hiểm chưa
đáng kể" là ranh giới cần được xác định khi xây dựng luật cũng như khi
giải thích và áp dụng luật hình sự. Căn cứ vào ranh giới này, nhà làm luật
xác định những hành vi bị coi là tội phạm và quy định trong luật hình sự.
Khi tội phạm đã được quy định trong luật hình sự, ranh giới giữa tội phạm
và vi phạm pháp luật khác có thể đã được xác định một cách dứt khoát,
hành vi bị quy định chỉ có thể là tội phạm mà không thể là vi phạm
pháp luật khác được.
- Bên cạnh đó, cũng có những trường hợp điều luật chưa thể hiện được cụ
thể và dứt khoát ranh giới giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác,
hành vi bị quy định có thể là tội phạm trong trường hợp này nhưng ở
trường hợp khác chỉ là vi phạm pháp luật khác. Ví dụ: Hành vi hành hạ
người khác (Điều 140 BLHS), hành vi gây rối trật tự công cộng (Điều 318
BLHS)...
Đối với những trường hợp này, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải
có sự giải thích khi nào những trường hợp đó bị coi là có tính nguy
hiểm đáng kể, khi nào thì chưa. Trong trường hợp ranh giới này chưa
được giải thích, người áp dụng pháp luật phải tự giải thích để xác định
trường hợp cụ thể là tội phạm hay chưa là tội phạm.
- Về hình thức pháp lý : Tội phạm được quy định trong luật hình sự; các
vi phạm pháp luật khác được quy định ưong các văn bản của các ngành
luật khác.
- Về hậu quả pháp lý : Tội phạm bị xử lí bằng biện pháp cưỡng chế nhà
nước nghiêm khắc nhất là hình phạt; các vi phạm pháp luật khác chỉ có
thể bị xử lí bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước ít nghiêm khắc hơn.
Các tiêu chí phân biệt khác dựa trên cơ quan xây dựng luật, cơ quan giải thích
luật, người áp dụng luật.
IV. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA TỘI PHẠM
Quan điểm của các luật gia tư sản : tội phạm là hiện tượng xã hội xuất hiện khi
có xã hội loài người và tồn tại vĩnh viễn cùng với xã hội loài người
Quan điểm của các luật gia xã hội chủ nghĩa : tội phạm là hiện tượng xã hội chỉ
tồn tại trong xã hội có giai cấp, và mất đi khi xã hội không còn giai cấp nữa.
CHƯƠNG IV. CẤU THÀNH TỘI PHẠM
I. CÁC YẾU TỐ CỦA TỘI PHẠM
Chủ thể của tội phạm : người thực hiện tội phạm hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm : biểu hiện ra bên ngoài tội phạm bao gồm hành
vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả, các tình tiết khác.
- Hành vi : hành vi là dấu hiệu bắt buộc ở tất cả các tội phạm. Hành vi gồm
bao gồm hành vi hành động ( giết người, tội cướp tài sản,.. ) và hành vi
không hành động ( hành vi của tội không cứu giúp người đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng,.. )
- Hậu quả : Hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc ở tất cả tội phạm
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm : biểu hiện bên trong của tội phạm (lỗi, động cơ và
mục đích)
- Lỗi : Lỗi cố ý trực tiếp – người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong
muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp – người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi
đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn ý thức để mặc cho hậu
quả xảy ra. Lỗi vô ý vì quá tự tin – người phạm tội tuy thấy trước hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu
quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Lỗi vô ý do cẩu tha
– người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu
quả đó.
Khách thể của tội phạm : quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại
4 yếu tố có mối liên hệ mật thiết với nhau, tội phạm chỉ xảy ra khi có đủ 4
yếu tố này và khi tổng hợp lại ta sẽ có được tính chất và mức độ nguy
hiểm
II. CẤU THÀNH TỘI PHẠM
Định nghĩa : Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất
đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật Hình sự.
Dấu hiệu bắt buộc : luôn phải có mặt trong bất kỳ một cấu thành tội phạm cụ
thể như : quan hệ xã hội bị tộp phạm xâm hại, hành vi nguy hiểm cho xã hội,
năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm đối với cá nhân người
phạm tội, lỗi
Dấu hiệu không bắt buộc : có thể có mặt trong cấu thành tội phạm này nhưng
không có trong cấu thành tội phạm khác : hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu khác, mục đích – động
cơ phạm tội
Đặc điểm của các dấu hiệu cấu thành tội phạm :
- Tính luật định : xuất phát từ tính trái pháp luật hình sự của tội phạm,
nguyên tắc pháp chế không có tội, không có hình phạt nếu không có luật
các dấu hiệu của CTTP phải do luật định
- Tính đặc trưng : có nghĩa là trong sự kết hợp với nhau các dấu hiệu
thuộc cấu thành tội phạm vừa phản ánh được đầy đủ bản chất nguy hiểm
cho xã hội của loại tội phạm nhất định vừa đủ cần thiết cho phép nhân biệt
tội này với tội kia
- Tính bắt buộc : Mọi hành vi bị coi là tội phạm khi nó thoả mãn đầy đủ
các dấu hiệu cấu thành tội phạm -> các dấu hiệu là điều kiện cần và đủ đẻ
xác định tội phạm.
Phân loại cấu thành tội phạm
- Phân loại theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội : cấu thành
tội phạm cơ bản – dấu hiệu định tội ( dấu hiệu mô tả tội phạm ), cấu
thành tội phạm tăng nặng – dấu hiệu định tội + dấu hiệu định khung
tăng nặng, cấu thành tội phạm giảm nhẹ - dấu hiệu định tội + dấu hiệu
định khung giảm nhẹ
Mỗi tội phạm đều có cấu thành tội phạm cơ bản, có thể có một hoặc
nhiều cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ
Ý nghĩa : trong lập pháp hình sự cơ sở phân hoá trách nhiệm hình sự,
trong áp dụng pháp luật là cơ sở định tội danh và định khung hình phạt.
- Phân loại theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm : cấu thành
tội phạm vật chất – mặt khách quan có các dấu hiệu hành vi, hậu quả,
quan hệ nhân quả là dấu hiệu bắt buộc; cấu thành tội phạm hình thức, cấu
thành tội phạm cắt xén – mặt khách quan chỉ có các dấu hiệu hành vi là
dấu hiệu bắt buộc, cấu thành tội phạm cắt xén – mặt khách quan chỉ nêu
một phần hay một giai đoạn của hành vi
o Tiêu chí xây dựng cầu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội
phạm hình thức
Tính nguy hiểm cho xã hội : cao – không cao
Yêu cầu kỹ thuật lập pháp hình sự : thiệt hại về vật chất, hậu
quả xác định – thiệt hại phi vật chất, hậu quả khó xác định
Việc xác định loại tội nào có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội
phạm hình thức phải dựa vào quy định của luật. Việc có hay không có
dấu hiệu “hậu quả nguy hiểm” là do luật định, không phụ thuộc hậu quả
xảy ra trên thực tế.
Ý nghĩa : cơ sở để định tội danh, cơ sở xác định thời điểm hoàn thành tội
phạm
Mối quan hệ tội phạm với cấu thành tội phạm : quan hệ giữa hiện tượng với
mô hình pháp lý, quan hệ giữa nội dung và hình thức của tội phạm
III. Ý NGHĨA CỦA CTTP
Ý nghĩa về chính trị xã hội, về lập pháp hành sự, về áp dụng pháp luật hình sự
Cơ sở định tội danh, xác định thời điểm tội phạm hoàn thành, căn cứ định khung
hình phạt
CHƯƠNG V. KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM
I. KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội quan trọng được luật hình sự bảo vệ
và bị tội phạm xâm hại (các quan hệ xã hội quan trọng Điều 1 và Điều 8 BLHS)
Phân biệt : Quan hệ xã hội được luật hình sự điều chỉnh là quan hệ pháp luật
hình sự, quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là quan hệ xã hội được luật
hình sự tuyên bố bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm.
Ví dụ: A có quyền sở hữu chiếc xe máy và B là người trộm cắp xe máy của A và
Nhà nước là bên thứ 3 xuất hiện.
Quyền sở hữu sẽ là khách thể của tội phạm.
Vậy mối quan hệ phát sinh giữa Nhà nước với bên B – người thực hiện
hành vi phạm tội, ta gọi là quan hệ pháp luật hình sự và được coi là quan hệ xã
hội được luật hình sự điều chỉnh.
Mối quan hệ giữa Nhà nước và quyền sở hữu chiếc xe máy ( khách thể ) của
người A khi bị người B thực hiện hành vi trộm cắp thì được coi là quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ.
Ý nghĩa :
- Về chính trị xã hội : thể hiện bản chất giai cấp
- Trong hoạt động lập phát hình sự : cơ sở xây dựng phần các tội phạm
- Trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự : dấu hiệu định tội
Các loại khách thể :
- Khách thể chung của tội phạm : tổng thể quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm -> ý nghĩa trong việc xác định tội
phạm
- Khách thể loại của tội phạm : nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất
được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của
nhóm tội phạm. Có 14 khách thể loại tương ứng với 14 phần của các tội
phạm-> căn cứ để phân chia tội phạm thành các chương, phân biệt các
tội phạm.
VD : tội vô ý làm chết người là khách thể chung, vô ý làm chết người là
khách thể loại
- Khách thể trực tiếp của tội phạm : là quan hệ xã hội cụ thể dược pháp
luật hình sự bảo vệ và bị một tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại -> là yếu
tố cấu thành tội phạm. Thông thường mỗi tội phạm chỉ có 1 khách thể trực
tiếp, nhưng vẫn có trường hợp đặc biệt là 1 tội phạm sẽ có nhiều khách
thể trực tiếp.
VD : Tội cướp tài sản Điều 168 thì gồm 2 khách thể trực tiếp : quyền sở
hữu tài sản và có khả năng là quyền được bảo vệ về sức khoẻ, tính mạng.
Yếu tố thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội, căn cứ để
gộp hoặc tách những hành vi nguy hiểm vào 1 hoặc nhiều tội danh,
cơ sở định tội danh.
Khách thể chung là bao chùm lên khách thể loại và khách thể trực tiếp,
khách thể loại sẽ bao chùm khách thể trực tiếp. Mối quan giữa cái chung –
cái riêng – cái đơn nhất, bất kì hành vi phạm tội nào xâm phạm đến
khách thể trực tiếp thì cũng sẽ xâm phạm đến khách thể loại và
khách thể chung
II. ĐỐI TƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA TỘI PHẠM
Khách thể của tội phạm được hợp thành bởi 3 bộ phận : con người là chủ thể,
hoạt động bình thường của chủ thể là nội dung, đối tượng vật chất là khách thể
=> gọi chung là đối tượng tác động của tội phạm
VD : quyền sở hữu xe máy là khách thể và xe máy là đối tượng tác động của
tội phạm
Đối tượng tác động của tội phạm là 1 bộ phận của khách thể, bị hành vi phạm
tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã
hội được LHS bảo vệ
Hành vi tác động
→
Đối tượng tác động biến→đổi Tình trạng bình thường thiệt→hại Khách thể