You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT HÌNH SỰ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM:

QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ

Giảng viên : Đặng Lê Phương Uyên

Môn học :Những quy định chung về dân sự, tài sản và thừa kế

Lớp :HS48A1 – Nhóm: 1

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 04 năm 2024


DANH SÁCH THÀNH VIÊN

HỌ VÀ TÊN MSSV

Phạm Viết Quốc An 2353801013006

Quách Gia Bảo 2353801013030

Trần Lê Quang Bảo 2353801013031

Nguyễn Đàm Gia Hiếu 2353801013076

Phan Thanh Hoàng 2353801013080

Trần Huy Hoàng 2353801013081

Lưu Đình Nhất Huy 2353801013086

2
MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ..........................................................................6
Tóm tắt - Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân
thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phú.........................................................................6
Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán TANDTC..............6
1.1 Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. ...................................................................6
1.2 Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế
bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao? .................8
1.3 Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. .................................................................................9
1.4 Trong Bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có
câu trả lời? ..............................................................................................................9
1.5 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án
số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. .........10
1.6 Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao? .....................................................................10
1.7 Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?............................................11
1.8 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan
đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K...............................11
1.9 Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con
mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di
sản để chia không? Vì sao?....................................................................................11
1.10 Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong
diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?.................................................................12
1.11 Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao?......................................................................................................12

3
1.12 Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần
còn lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao?......................................................................................................13
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN........................................................................15
Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS – PT ngày 10/06/2020 của Tòa án nhân dân
tỉnh Sơn La “Tranh chấp quyền thừa kế”..............................................................15
2.1 Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di
sản của ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?.....15
2.2 Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người
quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.............................................16
2.3 Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền
quản lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.....................16
2.4 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu
sửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời........16
2.5 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con
trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.............................................................17
2.6 Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có
quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................................................................................18
VẤN ĐỀ 3:THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ................................20
TÓM TẮT ÁN LỆ SỐ 26/2018/AL VỀ XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM VÀ
THỜI HIỆU YÊU CẦU CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ BẤT ĐỘNG SẢN........20
3.1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam...........20
3.2. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào
của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?.....................20
3.3. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015
cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
...............................................................................................................................21
Câu 3.4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS
2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế
năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì
sao?........................................................................................................................21

4
Câu 3.5: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ 26/2018/AL nêu trên. - Án lệ số
26/2018/AL tuy thuyết phục nhưng vẫn còn tồn tại 1 số điểm bất hợp lý như sau:
...............................................................................................................................21
Bài viết liên quan pháp luật về tài sản và pháp luật về thừa kế..........................23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................25

5
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ
Tóm tắt - Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân
thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phú
Nguyên đơn: Ông Hòa.
Bị đơn: Anh Nam và chị Hương.
Tranh chấp: Thừa kế tài sản.
Nội dung: Ông Hòa và bà Mai có tài sản chung là một mảnh đất 169,5m2.
Sau khi chết, bà Mai không để lại di chúc nên phần tài sản chung được hình thành
trong thời kỳ hôn nhân được chia cho ông Hòa một nửa và còn một nửa phần tài sản
của bà Mai thì chia cho những người thừa kế hàng thứ nhất (ông Hòa, anh Nam và chị
Hương). Do tuổi cao sức yếu nên ông có nguyện vọng sở hữu toàn bộ nhà đất và chia
thừa kế tài sản cho anh Nam, chị Hương nên dẫn đến sự tranh chấp này.
Quyết định của Tòa án: Chấp nhận đơn kiện của ông Hòa, chia tài sản thừa
kế theo đúng quy định của pháp luật: Ông Hòa được hưởng một nửa tài sản chung và
1⁄3 tài sản riêng của vợ cùng với hai người con, đối với phần đất chưa có Giấy chứng
nhận yêu cầu sử dụng đất thì yêu cầu ông Hòa và anh Nam lần lượt phải có trách
nhiệm liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
Nguyên đơn: Chị H1, chị N1, chị P, chị H2.
Bị đơn: Anh T.
Tranh chấp: Quyền quản lý tài sản thừa kế.
Nội dung: Ông N chết không để lại di chúc, bà G cùng anh T quản lý và sử
dụng nhà đất của hai ông bà. Bà G chuyển nhượng cho ông K một phần. Trước khi
chết, bà G để lại di chúc để chia một phần đất cho chị H1 nhưng anh T không đồng ý
phân chia. Các nguyên đơn yêu cầu giải quyết phân chia di sản thừa kế theo di chúc.
Quyết định của Tòa án: Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm, sơ thẩm và
giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc xét xử lại.
1.1 Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Điều 612 Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 615 Bộ luật dân sự
2015.

6
a) Di sản là gì?
Theo quan điểm trong cuốn “Luật thừa kế Việt Nam bản án và bình luận bản
án” của Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Văn Đại thì pháp luật Việt Nam chưa có định nghĩa di sản
là gì mà chỉ quy định di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của
người chết trong tài sản chung với người khác.
Tuy nhiên ta có thể hiểu định nghĩa di sản qua các quan điểm theo góc độ khoa
học của các nhà nghiên cứu.
- Xét trên phương diện đạo đức - xã hội: Di sản thừa kế là của cải, vật chất (tài
sản), là phương diện thực hiện bổn phận tiếp theo của người chết nhằm gây dựng và
chăm lo cho tương lai đối với những người hưởng thừa kế.
- Xét trên phương diện kinh tế: Di sản thừa kế là của cải vật chất (tài sản) của
người chết để lại cho những người khác còn sống để dùng vào mục đích sản xuất, kinh
doanh, sinh hoạt và tiêu dùng.
- Xét trên phương diện khoa học luật dân sự: Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản
thuộc quyền sở hữu của người chết để lại, là đối tượng của quan hệ dịch chuyển tài sản
của người đó sang cho những người hưởng thừa kế, được nhà nước thừa nhận và bảo
đảm thực hiện.
b) Di sản có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không?
Căn cứ Điều 615 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
“Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong
phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã
nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc
thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá
nhân”
Ta thấy được điều khoản trên không hề quy định nghĩa vụ của người quá cố với
di sản mà nghĩa vụ này đã được giao lại cho người thừa kế.

7
1.2 Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?
Tùy trường hợp mà tài sản người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay
thế bởi một tài sản mới có được coi là di sản hay không.
Thứ nhất, Nếu việc di sản đó được thay thế bởi nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân con người không biết trước,
không lường trước được hậu quả, nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Ví dụ: hỏa
hoạn, lũ lụt, động đất, bão tố hay các thảm họa tự nhiên khác...
Những yếu tố này tác động vào di sản thừa kế làm cho nó bị hư hỏng và thay
vào đó là di sản mới, di sản cũ không còn giá trị hiện thực. Ví dụ Ông A chết để lại di
sản thừa kế là ngôi nhà, nhưng do hỏa hoạn làm cho ngôi nhà thiêu cháy rụi hoàn toàn
và không còn giá trị sử dụng. Trước thời điểm mở thừa kế ngôi nhà khác được xây
dựng thay thế ngôi nhà này. Khi đó ngôi nhà mới này sẽ được coi là di sản thừa kế mà
ông A để lại.
Trường hợp này để đảm bảo quyền lợi của những người thừa kế tài sản mới
thay thế cho di sản thừa kế đó sẽ có hiệu lực pháp luật, phần tài sản mới này sẽ được
chia theo pháp luật, đồng thời tài sản là ngôi nhà đó cũng sẽ được chia theo quy định
của pháp luật về thừa kế
Thứ hai, Được thay thế bởi nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân chủ quan được xác định có sự tác động phần nào đó bởi yếu tố
con người.
Trường hợp này xác định thay thế vì mục đích gì, đó là nhằm chiếm đoạt toàn
bộ di sản thừa kế cũ đó hay nhằm mục đích khác. Sự thay thế do tự bản thân cá nhân
nào muốn thay thế hay đó là sự thay thế được sự đồng thuận bởi tất cả những người
thừa kế và được pháp luật thừa nhận.
Nếu nhằm mục đích chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế ban đầu đồng thời thay thế bởi
một tài sản khác khi đó tài sản mới này sẽ không được coi là di sản thừa kế.
Tại thời điểm mở thừa kế di sản được quy định còn tồn tại thì di sản đó được
chia theo quy định của pháp luật
Tuy nhiên,nếu vì lý do chủ quan mà di sản thừa kế bị làm hư hỏng hoặc bị bán
mà không có sự đồng ý của các đồng thừa kế thì giá trị phần di sản vẫn được coi là di
sản thừa kế và người làm thất thoát di sản có trách nhiệm trả lại phần giá trị làm thất
thoát để chia thừa kế.

8
1.3 Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Điều 612 Bộ luật dân sự 2015 quy định: ”Di sản bao gồm tài sản
riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”
về cơ bản thì di sản trước hết phải là tài sản. Mà theo pháp luật Việt Nam giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sử dụng đất không phải là tài sản mà là quyền sử dụng đất, Do
đó, nếu có chứng cứ chứng minh người quá cố là người có quyền sử dụng đất hợp lệ
thì quyền sử dụng đất đó vẫn được xác định là di sản thừa kế.
Pháp luật cho phép người sử dụng đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất vẫn có quyền để thừa kế trong trường hợp họ có các giấy tờ thay thế như giấy tờ do
cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp; giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền
với đất ở; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời hoặc có tên trong sổ đăng ký
ruộng đất, sổ địa chính,… theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 50 Luật
đất đai 2003. Đến Luật đất đai 2013 quy định này đã có sự thay đổi, theo đó, người sử
dụng đất được thực hiện quyền thừa kế khi có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất. Luật đất đai 2013 không chỉ căn cứ vào các loại giấy tờ thay thế giấy chứng
nhận như Luật đất đai 2003, mà đã nới rộng điều kiện này bằng cách quy định “đủ
điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất”. Nói là nới rộng vì Luật đất đai 2013 đã bổ sung thêm nhiều loại
giấy tờ mà nếu có nó người sử dụng đất sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất như: sổ mục kê đất, sổ kiến điền lập trước ngày 18 tháng 12 năm 1980; dự án hoặc
danh sách hoặc văn bản về việc di dân đi xây dựng khu kinh tế mới, di dân tái định cư;
Giấy tờ của nông trường, lâm trường quốc doanh về việc giao đất cho người lao động
trong nông trường, lâm trường để làm nhà ở.
→Từ đó thấy được để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử
dụng đất của người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không. Tuy nhiên cần phải trải qua các thủ tục hành chính tương đối phức tạp, phụ
thuộc nhiều vào ý chí của các cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
1.4 Trong Bản án số 08, Toà án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có
câu trả lời?
Trong Bản án số 08, Tòa án coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản. Được thể hiện qua đoạn: “Tại phiên tòa đại
9
diện, Viện kiểm sát nhận định và lập luận cho rằng không được coi là di sản thừa kế...
Gia đình ông Hòa đã xây dựng ngôi nhà 3 tầng, sân và lán bán hàng trên một phần
diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận; diện tích đất này được hộ ông Hòa quản
lý, sử dụng ổn định nhiều năm nay, các hộ liền kề đã xây dựng mốc giới rõ ràng,
không có tranh chấp, không thuộc diện đất quy hoạch phải di dời, vị trí đất tăng nằm
tiếp giáp với trước ngôi nhà và lán hàng của hộ ông Hòa, giáp đường Nguyễn Viết
Xuân đất thuộc diện được cấp giấy chứng nhận sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế,
tiền thuế là 19.000.000đ/m2. Do đó, đây vẫn là tài sản của ông Hòa, bà Mai, chỉ có
điều là đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, nếu không xác định
là di sản thừa kế và phân chia thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên đương sự. Phần đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát không được Hội đồng xét
xử chấp nhận.”
1.5 Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án
số 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hướng xử lý của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý và thuyết phục.
Tòa án đã xem phần diện tích đất 85,5m2 là di sản mặc dù theo quy định của
pháp luật (Điều 162 BLDS 2015) thì không phải là di sản vì chưa có Giấy chứng nhận
quyền sở hữu đất. Điều 162 đã quy định như sau:
1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm
vi quyền của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ
luật này, luật khác có liên quan quy định khác. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh phần đất đó
đã được hộ ông Hòa sử dụng ổn định,
các hộ liền kề không tranh chấp thì việc xem phần đất trên là di sản thừa kế
giúp bảo vệ quyền lợi của các bên được hưởng thừa kế.
1.6 Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Ở án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 392m2 đất, phần di sản của Phùng Văn
N là 199m2. Vì thời điểm ông N mất là năm 1984, thời điểm chia thừa kế cũng được
tính từ lúc này , nên với 398m2 đất tài sản chung thì chia ½ phần tổng số diện tích cho
cả 2 vợ chồng. Riêng phần đất mà bà G bán cho ông K mấy năm sau là phần tài sản
của bà G được sự đồng thuận của những người đồng thừa kế nên không trừ vào di sản
chung được.
10
1.7 Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Theo án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản thừa kế, vì:
-Phần diện tích đất đó được bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K, các đồng thừa kế đều biết và không có ý kiến, bà G cũng lấy số tiền đó trang
trải nợ nần và nuôi các con.
-Ông K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Trong án lệ khẳng định: “Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà
Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa
án cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã
bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.”. Vì tài sản ở thời điểm mở thừa kế
thì nó là di sản nhưng phần di sản ấy đã được bán với sự đồng ý của những đồng thừa
kế cho nên nó là tài sản được chuyển giao quyền sở hữu cho người khác không phải di
sản mà những người thừa kế được hưởng
1.8 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.
Hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã chuyển
nhượng cho ông Phùng Văn K là hoàn toàn hợp lý. Khi bà Phùng Thị G thực hiện giao
dịch chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K, tuy giao dịch không có mặt của những
người đồng thừa kế nhưng trong phần nhận định của Tòa án có đề cập việc các con của
bà Phùng Thị G đều biết, không ai có phản đối việc đó. Như vậy, có thể hiểu các đồng
thừa kế đã đồng ý với giao dịch và hợp đồng chuyển nhượng phần đất cho ông Phùng
Văn K là hợp pháp.
Thêm vào đó, bà Phùng Thị G đã dùng số tiền ấy để trang trải nợ nần và nuôi
các con chứ không dùng cho việc riêng và ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan
nhà nước cấp Giấy nhận quyền sử dụng đất.
Từ các căn cứ trên có thể thấy, hướng giải quyết trong Án lệ phù hợp với quy
định về định đoạt tài sản cho người khác và các quy định khác về di sản, không làm
ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của bên thứ ba là ông Phùng Văn K.
1.9 Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để
chia không? Vì sao?

11
Nếu bà Phùng Thị G bán đất không để lo cho cuộc sống của các con mà dùng
số tiền đó cho việc cá nhân bà Phùng Thị G sẽ xuất hiện hai trường hợp:
Trường hợp 1: Phần đất đã bán là tài sản của ông Phùng Văn N. Do phần đất đó
là di sản của ông Phùng Văn N và do trước khi ông Phùng Văn N chết không để lại di
chúc. Như vậy, di sản của ông Phùng Văn N sẽ được chia theo pháp luật. Nhưng bà
Phùng Thị G lại bán đi phần đất đó phục vụ cho việc cá nhân thì phần tiền bán diện
tích đất đó phải được được đưa vào di sản để chia thừa kế.
Trường hợp 2: Phần đất là tài sản riêng của bà Phùng Thị G đã được chia từ tài
sản chung của cả hai vợ chồng là 398m2 đất, sau khi chia thì ông Phùng Văn N chết.
Như vậy, tài sản chung của cả 2 vợ chồng là 398m2, sau khi chia thì ông Phùng Văn N
sở hữu 199m2 đất và bà Phùng Thị G sở hữu 199m2 đất. Phần đất mà bà Phùng Thị G
chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K là 131m2 thuộc vào phần tài sản riêng của bà
Phùng Thị G, phần đất còn lại sau khi chuyển nhượng là 68m2. Như vậy thì số tiền
bán đi diện tích đất đó sẽ là tài sản riêng của bà Phùng Thị G, vì thế nên số tiền sẽ
không được xem là di sản và sẽ không được đưa vào phần di sản thừa kế và bà Phùng
Thị G có quyền sử dụng số tiền đó cho cá nhân.
1.10 Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện
tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?
-Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích
đất trên là ½ của 267m vuông đất vì:
+Ngày 19-12-2010 bà Phùng Thị G chết, trước khi chết bà đã để lại di chúc lập
ngày 05-3-2009 có nội dung để lại cho chị Phùng Thị H1 (con gái bà Phùng Thị G)
diện tích 90m2 đất trong tổng diện tích 267m2 đất trên.
+Nhưng diện tích đất 267m vuông được nêu trên được hình thành trong thời
gian hôn nhân nên phải được xác nhận là tài sản chung của vợ chồng của ông Phùng
Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia, ông N thì mất không để lại di chúc, vì thế bà G
chỉ có quyền định đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m vuông. Do đó, di sản
mà bà Phùng Thị G để lại là ½ khối tài sản (133,5m vuông)
1.11 Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không?
Vì sao?
-Việc tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng là hợp lý.
-Trước khi chết, bà Phùng có lập di chúc ngày 5/3/2009 để lại cho chị Phùng
Thị H1 90m vuông đất trong 267m vuông đất, nhưng do 267m vuông đất là thuộc tài

12
sản chung của Ông N và bà G nên theo khoản 1 điều 33 Luật Hôn nhân gia đình 2014
“Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có
được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.” Do đó, bà G chỉ có quyền định đoạt ½
trong tổng số 267m vuông đất, tức 133,5m vuông
-Vì thế, vẫn theo nguyện vọng trong di chúc mà bà G để lại là để lại 90m vuông
đất cho chị Phùng Thị H1, nên di sản còn lại của bà Phùng Thị G là 43,5m vuông đất
là hợp lý
-Đây là nội dung của án lệ số 16 vì thể hiện rõ nội dung đoạn “Bà Phùng Thị G
chỉ có quyền định đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ
chồng bà. Do đó, phần di sản của bà Phùng Thị G để lại là ½ khối tài sản (133,5m2)
được chia theo di chúc cho chị Phùng Thị H1 (con gái bà Phùng Thị G) là 90m2, còn
lại là 43,5m2”
1.12 Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn
lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì
sao?
-Việc tòa án quyết định còn lại 43,5m vuông được chia cho 5 kỷ phần là không
hợp lý, ban đầu Tòa án cấp phúc thẩm xác định toàn bộ diện tích 267m2 đất là di sản
của bà Phùng Thị G để chia theo di chúc cho chị Phùng Thị H1 90m2 đất và phần đất
còn lại 177,4m2 chia theo pháp luật cho 5 kỷ phần là không đúng, do 267m vuông đất
đấy là tài sản chung của bà Phùng Thị G và ông N
-Do đó việc xác định lại di sản của bà G là cần thiết, do đó, bà G chỉ có quyền
quyết định ½ trong tổng số 267m vuông, tức 133,5m vuông, theo di chúc của bà G
để lại là chia 90m vuông đất cho chị Phùng Thị H1, còn lại 43,5m vuông chia
cho 5 kỷ phần còn lại, thế nhưng quyết định này của tòa án lại có phần thiếu hợp lý,
theo điều 651 BLDS 2015:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác

13
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ
nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di
sản hoặc từ chối nhận di sản.
-Vì thế, việc chia di sản còn lại phải dựa trên thứ tự trong điều 651 BLDS 2015,
việc tòa xác định di còn lại 43,5 m vuông chia cho 5 kỷ phần còn lại là không đúng.
Ngoài ra, trong án lệ cũng không áp dụng điều 651 BLDS 2015 cũng là một thiếu sót
của Tòa án.

-Đây là nội dung của Án lệ số 16 vì có đoạn : “Bà Phùng Thị G chỉ có quyền
định đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng bà. Do
đó, phần di sản của bà Phùng Thị G để lại là ½ khối tài sản (133,5m2) được chia theo
di chúc cho chị Phùng Thị H1 (con gái bà Phùng Thị G) là 90m2, còn lại là 43,5m2
được chia cho 5 kỷ phần còn lại (trong đó chị N2 nhường kỷ phần thừa kế cho anh
Phùng Văn T; chị Phùng Thị H2, chị Phùng Thị N1 và chị Phùng Thị P nhường kỷ
phần cho chị Phùng Thị H1)”

14
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN.
Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS – PT ngày 10/06/2020 của Tòa án nhân dân
tỉnh Sơn La “Tranh chấp quyền thừa kế”
Khi còn sống, ông Đ và bà T có một ngôi nhà đứng tên bà T, đến khi mất, vì
không để lại di chúc phân chia di sản, qua thời gian dài, ngôi nhà đã xuống cấp trầm
trọng, các con đều có nhà riêng, ông H và ông T đều đi chấp hành án. Sau khi anh H
chấp hành án xong, theo nguyện vọng của các anh chị, anh H muốn sửa lại ngôi nhà để
làm nhà thờ thì bị anh N (con ông T) ngăn cản với lý do có giấy ủy quyền của bố (ông
T) với nội dung ủy quyền cho anh N trông coi căn nhà đến ngày ông T chấp hành án
xong. Anh H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh N và ông T để anh tiếp tục tu sửa căn
nhà. Tòa sơ thẩm cho phép anh H được quyền sửa chữa ngôi nhà, cấm tuyệt đối anh N
cản trở việc sửa chữa ngôi nhà. Anh N kháng cáo yêu cầu Tòa phúc thẩm sửa lại quan
hệ pháp luật thành “Tranh chấp di sản thừa kế”.
Tòa phúc thẩm sửa lại quan hệ pháp luật thành “Tranh chấp quyền quản lý di
sản thừa kế”, giấy ủy quyền trông coi của ông T cho anh N không có giá trị pháp lý,
không chấp nhận kháng cáo của anh N về việc bác quyền khởi kiện và quyền quản lý
di sản thừa kế của anh H. Anh H tiếp tục quản lý di sản.
2.1 Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản
của ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?
Trong Bản án số 11, Tòa án xác định anh H là người có quyền quản lý di sản
của ông Đ và bà T. Việc xác định như vậy thuyết phục vì:
Theo Khoản 2 Điều 616 BLDS 2015: “Trường hợp di chúc không chỉ định
người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì
người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi
những người thừa kế cử được người quản lý di sản”.
Khi ông Đ và bà T mất thì không lập di chúc tài sản giao cho con cái nào trong
gia đình được sử dụng, quản lý ngôi nhà và diện tích nói trên. Vì vậy mà ngôi nhà lẫn
diện tích đất đều không thuộc quyền sở hữu và quản lý của bất kì ai
Trong bản án, tất cả những thành viên còn lại ở hàng thừa kế thứ nhất đều đồng
ý giao cho anh Phạm Tiến H quản lý khối di sản của ông Đ, bà T. Vì vậy ông bà Hiệu,
Nhi, Nhường, Hài, Hoài, Liền đều có đủ năng lực hành vi dân sự, đây là một giao dịch
dựa trên nguyên tắc tự nguyện, không lừa dối, không vi phạm điều cấm của pháp luật
và không trái với đạo đức xã hội, theo Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015: “2. Cá nhân, pháp

15
nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự
nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ
thể khác tôn trọng.”
2.2 Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người
quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án là người quản lý di
sản. Vì:
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 616 BLDS 2015: “Trường hợp di chúc không chỉ
định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản
thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến
khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.” Vào năm 2012, sau khi bà T
chết, ông Thiện là người trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, ông Đ và bà T mất lại
không để lại di chúc giao cho con cái nào trong gia đình được sử dung, ủy quyền quản
lý ngôi nhà cũng như diện tích đất, do đó ngôi nhà và diện tích đất không thuộc quyền
quản lý của ai. Vì vậy sau 1 thời gian đi chấp hành án, ông Thiện đã không còn minh
chứng cho việc sinh sống và quản lý ở đấy, quyền dở hữu cũng như quản lý lúc này
phải áp dụng theo trường hợp khác của luật quy định.
2.3 Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quản
lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Thuyết phục vì:
Theo Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015: “2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa
thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức
xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.”
2.4 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa
lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di
sản như trong Bản án số 11. Căn cứ khoản b Điều 617 BLDS 2015: “b) Bảo quản di
sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng
hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;” thì nhiệm
vụ người quản lý di sản theo chủ định trong di chúc hay theo thỏa thuận của những
người thừa kế hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý có nghĩa vụ bảo quản di
sản, tu sửa, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản. Trên cơ sở
quản lý người này phải thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế. Nếu
16
làm mất mát, hư hỏng thì phải bồi thường thiệt hại, giao lại di sản theo yêu cầu người
thừa kế.
Ông H đã theo nguyện vọng các chị em trong nhà giao cho quyền quản lý tu sửa
ngôi nhà để làm nơi thờ cúng chứ không phân chia. Ông H là người quản lý di sản dựa
theo sự thỏa thuận của những người đồng thừa kế đồng ý ủy quyền cho ông đứng ra
trông coi, sửa chữa, tôn tạo lại đất đai, tài sản, nên ông H có đủ điều kiện để quản lý di
sản.
2.5 Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con
trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ khoản 1, 2 Điều 616 BLDS 2015:
“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những
người thừa kế thỏa thuận cử ra.
2. Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người
thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý
di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản
lý di sản.”
Trong Bản án số 11 ông Thiện giao lại cho con trai là không đúng. Vì sau khi bà
T chết, ông Thiện đúng là người trực tiếp sinh sống tại nhà và đất, cũng như nắm giữ
quyền quản lý di sản của 2 ông bà Đ và T. Khi ông Thiện đi chấp hành án, có giao lại
cho Nghĩa – con trai ông trông coi di sản ông bà. Tuy nhiên theo khoản 1 Điều 616
BLDS 2015.
“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những
người thừa kế thỏa thuận cử ra.”
2 ông bà Đ và T không để lại bất kì di chúc chia di sản nào -> Con trai ông
Thiện không nằm trong di chúc để quản lý di sản”.
Trường hợp những người thừa kế thỏa thuận lại không có. Ông Thiện không
được sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế.
Ông Thiện không có quyền giao lại cho anh Nghĩa trông coi, sử dụng di sản của
ông bà Đ, T.
Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại TP.HCM.
Nguyên đơn: ông Trà Văn Đạm

17
Bị đơn: Phạm Văn Sơn Nhỏ
Về việc: tranh chấp lối đi
Nội dung Diện tích 1.497 m2 đất thuộc số 528, tờ bản đồ HTC2 tọa lạc tại đội
3, ấp Hậu Thuận, xã Hậu Thành, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang được UBND huyền
Cái Bè cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Đạm đại diện hộ gia đình đứng
tên. Thửa đất này nằm phía trong thửa 525 của ông Phạm Văn Ngót do ông Phạm Văn
Sơn Nhỏ quản lý, sử dụng. Giữa ông Đạm và ông Nhỏ có thỏa thuận cho ông Đạm mở
một lối đi từ đất của ông Đạm qua đất của ông Ngót đến đường đi công cộng rộng 2m
dài 21m. Ông Đạm chịu chi phí bơm cát lấp 1 ao, 1 mương làm lối đi, đặt bọng nước,
làm hàng rào và đổ 2 khối cát, 2 khối đá, đưa tiền mặt 1.000.000 đồng để ông Nhỏ làm
cống rào tại nhà của ông Nhỏ. Ông Đạm thực hiện xong thỏa thuận với chi phí
42.205.000 đồng. Nay ông Đmj khởi kiện yêu cầu ông Nhỏ và bà Chơi cùng những
người cùng hành thừa kế với ông Nhỏ xin mở lối đi ngang 1.5m dài 21m qua đất ông
Ngót tại thửa đất 525 nêu trên.
2.6 Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền
tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Trong quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự
thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là thuyết phục vì căn cứ theo điểm b
khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 thì “người quản lý di sản có nghĩa vụ bảo quản di sản;
không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình
thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản.”
Thửa đất số 525 nêu trên là tài sản chung của ông Ngót và bà Chơi tạo dựng
trong thời kỳ hôn nhân. Ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản của ông Ngót và phần
diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà Chơi, chứ ông Nhỏ không có quyền định
đoạt. Tuy nhiên,ông Nhỏ lại tự ý thỏa thuận cho ông Đạm mở lối đi khi không được sự
đồng ý của bà Chơi cùng các đồng thừa kế thứ nhất của ông Ngót. Do đó, ông Ngót đã
vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS 2015.
Thêm vào đó, theo điểm b khoản 2 Điều 167 Luật Đất đai 2018:
“b) Trường hợp nhóm người sử dụng đất mà quyền sử dụng đất phân chia được
theo phần cho từng thành viên trong nhóm, nếu từng thành viên của nhóm muốn thực
hiện quyền đối với phần quyền sử dụng đất của mình thì phải thực hiện thủ tục tách
thửa theo quy định, làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và được thực hiện quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất theo quy định của Luật này;

18
Trường hợp quyền sử dụng đất của nhóm người sử dụng đất không phân chia
được theo phần thì ủy quyền cho người đại diện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của
nhóm người sử dụng đất.”
Và theo Khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai 2018 thì: “Trường hợp nhận thừa kế
quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền khi có Giấy chứng
nhận hoặc đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất.”
Có thể nhận thấy, ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản do ông Ngót để lại,
không có quyền định đoạt tài sản. Trên thực tế, phần tài sản là thửa đất 525 thuộc
quyền sử dụng của bà Chơi và cũng không có bất kỳ một văn bản hay loại giấy tờ có
công chức nào chứng thực ông Nhỏ có quyền định đoạt hay sử dụng đất thửa số 525.
Do đó, việc Tòa án xác định ông Nhỏ không có quyền tự thỏa thuận mở lối đi cho
người khác qua di sản là thuyết phục và dựa trên cơ sở pháp lý là hợp tình hợp lý.

19
VẤN ĐỀ 3:THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ
TÓM TẮT ÁN LỆ SỐ 26/2018/AL VỀ XÁC ĐỊNH THỜI ĐIỂM VÀ THỜI
HIỆU YÊU CẦU CHIA DI SẢN THỪA KẾ LÀ BẤT ĐỘNG SẢN
Tại Hà Nội, vợ chồng Cấn Văn K (gọi tắt: cụ K), Hoàng Thị T (gọi tắt: cụ T) có
8 người con chung là Cấn Xuân V (gọi tắt: ông V), Cấn Thị N1 (gọi tắt: bà N1), Cấn
Thị N2 (gọi tắt: bà N2), Cấn Thị M1 (gọi tắt: bà M1), Cấn Thị T1 (gọi tắt: bà T1), Cấn
Thị H (gọi tắt: bà H), Cấn Xuân T (gọi tắt: ông T), Cấn Văn S (gọi tắt: ông S, chết năm
2008, có vợ là Nguyễn Thị M và hai con là Cấn Thùy L và Cấn Hoàng K). Từ khi lấy
nhau, cụ K và cụ T đã tạo lập được mảnh đất rộng 612 m², định cư ở đây. Năm 1972,
cụ T chết, không để lại di chúc. Cụ K sau đó đã lấy Nguyễn Thị L (gọi tắt: cụ L) và có
bốn người con chung là Cấn Thị C (gọi tắt: bà C), Cấn Thị M2 (gọi tắt: bà M2), Cấn
Anh C (gọi tắt: ông C) và Cấn Thị T2 (gọi tắt: bà T2). Cụ K được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trên mảnh đất cư trú, rồi qua đời năm 2002, cũng không để lại di
chúc. Nhà đất được vợ hai là cụ L và con trai là ông C quản lý, sử dụng.
Vấn đề nảy sinh khi tám người con của vợ thứ nhất yêu cầu phân chia di sản
thừa kế của bố mẹ để lại là cụ K và cụ T. Ngày 2 tháng 11 năm 2010, nguyên đơn 8
anh chị em do Cấn Thị N2 đại diện đệ đơn khởi kiện bị đơn là mẹ kế và em trai cùng
cha khác mẹ là ông C, đơn gửi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, được thụ lý giải
quyết từ sơ thẩm, phúc thẩm tại Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội rồi
giám đốc thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao, đưa ra nhận định để xét xử lại.
3.1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam
Có 3 thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế theo Điều 623 BLDS 2015:
- Thời hiệu yêu cầu chia di sản: "Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản
là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế."
- Thời hiệu yêu cầu xác nhận quyền thừa kế hoặc phản đối quyền thừa kế của
người khác: "Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế."
- Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản
của người chết để lại: "Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản
của người chết đế lại là 03 năm, kế từ thời điếm mở thừa kế."
3.2. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
- Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm 2017.

20
- Đoạn Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL là: " Như vậy kể từ ngày
Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623
Bộ luật Dân sự năm 2015 đề xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước
ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-
1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di
sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật."
3.3. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho
di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
- Viêc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T có cơ sở của Khoản 1 Điều 623 BLDS 2015.
- Việc này là hoàn toàn thuyết phục. Vì theo ta thấy di sản của cụ T đa phần là
bất động sản, mà bất động sản là một tài sản có giá trị lớn nên việc chia di sản thừa kế
này phải có thời hiệu là 30 năm. Hơn nữa việc qui định thời hiệu 30 năm đối với bất
động sản này là hợp lí như việc trong qui định trong Điều 236 BLDS 2015 đối với căn
cứ xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật là 30 năm đối với bất động sản.
Câu 3.4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015
cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?
- Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được
công bố chưa có cơ sở văn bản nhưng nó thuyết phục. Bởi vì: Nội dung Án lệ số
26/2018/AL là sự kết hợp giữa BLDS 2015 và Khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế
1990. Do đó, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế từ ngày Pháp
lệnh thừa kế năm 1990 công bố (ngày 10/9/1990). Với quy định như trên, thời hiệu
chia di sản thừa kế vẫn còn; được Tòa án kéo dài thêm thời hiệu nhằm mục đích bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thừa kế.
Câu 3.5: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ 26/2018/AL nêu trên. - Án lệ số
26/2018/AL tuy thuyết phục nhưng vẫn còn tồn tại 1 số điểm bất hợp lý như sau:
+ Việc dẫn điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS 2015: “Thời hiệu được áp dụng
theo quy định của bộ luật này.”. Nhưng khoản 1 Điều 688 được áp dụng đối với “giao
dịch dân sự” mà theo Điều 116 BLDS 2015 thì: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự.” - Trong vụ án tranh chấp “ thừa kế tài sản và chia tài sản chung ” mà Hội
đồng Thẩm phán đang xem xét không có “giao dịch dân sự” nào cả. Vậy nên việc dẫn

21
điều này làm căn cứ pháp lý là bất hợp lý. - Việc dẫn khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa
kế ngày 30/8/1990, nhưng lại bỏ quên Nghị quyết số 02/1990/NQ-HĐTP ngày
19/10/1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế 1990, theo đó
tại Điểm b Điều 10 Nghị quyết số 02 đã quy định rõ như sau: “Đối với những việc
thừa kế đã mở trước ngày 10/9/1990, thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày
10/9/1990”, do đó: + Sau ngày 10/9/2000, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu
cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của
người khác.
+ Sau ngày 10/9/1993, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu người
thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các chi phí từ di
sản. - Thế nhưng, Hội đồng Thẩm phán lại áp dụng Điều 623 BLDS 2015 để hồi tố lại
quyền khởi kiện đối với các trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/09/1990 lại tạo ra
sự bất công bằng trong xã hội.

22
Bài viết liên quan pháp luật về tài sản và pháp luật về thừa kế.
− Đinh Duy Bằng, “Một số vướng mắc về bán đấu giá tài sản để thi hành án”, Dân
chủ và Pháp luật, số tháng 2 năm 2012 (239);
− Đặng Phước Thông, “Quyền đối với tài sản trong BLDS năm 2015 và hoàn thiện
pháp luật về đăng ký tài sản”, Luật học, Số 8 năm 2018, tr. 74;
− Lê Đăng Phước Hải, Trần Khánh Vân, “Chế định chuộc lại tài sản - So sánh pháp
luật Việt Nam và một số quốc gia”, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7 (399) năm
2021, trang 22;
− Lê Hồng Hạnh, Nguyễn Thanh Tú, “Tài sản ảo và bảo vệ quyền đối với tài sản
ảo”, tạp chí Luật học, số 4 năm 2021, trang 3;
− Lưu Quốc Thái, “Chế định thu hồi đất và vấn đề đảm bảo quyền tài sản của người
sử dụng đất”, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam, số 03 (70) năm 2012, trang 57 –
63;
− Nguyễn Thành Tới, “Cầm cố quyền sử dụng đất vướng mắc của Tòa án trong việc
giải quyết tranh chấp”, Tòa án Nhân dân, Số 15/2018, tr. 31;
− Phạm Thị Minh Trang, “Chế định bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất
khi Nhà nước thu hồi đất”, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 (403) năm 2021,
trang 59;
− Trần Linh Huân, “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng ủy quyền xác lập, thực hiện
giao dịch bất động sản”, Nhà nước và Pháp luật, số T3/2019, từ tr.16 đến 20;
− Vũ Lê Giang, “Quyền sở hữu tài sản trong Hiến pháp năm 2013 và vấn đề hoàn
thiện pháp luật về quyền sở hữu tài sản”, tạp chí Luật học, số 9 năm 2021, trang
27.
− Nguyễn Thanh Phúc, “Quyền của chủ thể có quyền hưởng dụng theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6(386), 2020, từ tr.30
đến 37.
− Nguyễn Thanh Thư, Nguyễn Thị Ngọc Tuyền, “Hình thức của di chúc theo quy
định của Bộ luật Dân sự 2015”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14(438), 2021, từ
tr.44 đến 48.
− Nguyễn Hồng Quang, Nguyễn Thị Thu Hà, “Chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân trong pháp luật Việt Nam hiện hành, thực trạng và giải
pháp”, Tạp chí Nghề luật, số 12, 2022, từ tr.27 đến 32.

23
− Lê Hoàng Nam, “Xác lập di sản thờ cúng theo thỏa thuận của những người thừa
kế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11(415), 2022, từ tr.42 đến 48.
− Nguyễn Thị Trà My, “Bàn về thừa kế thế vị khi có yếu tố con nuôi”, Tạp chí Kiểm
sát, số 05, 2024, từ tr.27 đến 32.
− An Văn Khoái, Vũ Hoàng Long, “Di chúc bằng văn bản không có người làm
chứng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 - một số tồn tại, hạn chế và đề
xuất, kiến nghị”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 05, 2024, từ tr.34 đến 40.
Phương pháp tìm: Sử dụng các từ khóa như “tài sản”, “thừa kế”, trên các trang
Tạp chí chuyên ngành luật uy tín có độ xác thực cao để khoanh vùng tài liệu cần tìm,
kết hợp học theo mốc thời gian. Cuối cùng dò đọc lại tài liệu liên quan và ghi chú lại.

24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ luật Dân sự 2005, 2015;
Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh
Yên tỉnh Vĩnh Phúc;
Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La;
Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại TP. Hồ Chí Minh;
Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản.
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 4-7, 8-10 và 11-13, 33- 36 và 37-
40, 189-190 và 191-194;
Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế
của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương V;
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.236 đến 237, tr.244 đến 245, tr.269 đến 271.
Luật thừa kế Việt Nam bản án và bình luận bản án (PGS.TS Đỗ Văn Đại giảng
viên Trường đại học Luật Tp HCM).

25

You might also like