You are on page 1of 28

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT DÂN SỰ

MÔN: LUẬT DÂN SỰ: QUY ĐỊNH CHUNG VỀ TÀI SẢN VÀ THỪA
KẾ
BÀI THẢO LUẬN 6: QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC
GIẢNG VIÊN: LÊ THANH HÀ

NHÓM 2.5

Họ và tên MSSV Họ và tên MSSV


Phạm Ngọc Phương Khánh 2353801012085 Đinh Thị Nga 2353801012121
Hoàng Khánh Linh 2353801012096 Trần Lê Lâm Ngân 2353801012127
Lê Nguyễn Ngọc Linh 2353801012099 Ngô Xuân Nghi 2353801012129
Lê Nguyễn Trúc Linh 2353801012100 Trần Giáng Ngọc 2353801012141
Nguyễn Tạ Huyền My 2353801012118 Võ Nguyễn Bảo Ngọc 2353801012142

1
MỤC LỤC
BÀI TẬP 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC.
1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời……………………………………………………………..
……4
2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp pháp
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời…………………………………………………4
3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?....5
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết
tay………...5
5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế
nào?.................................................6
6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả
lời?.6
7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy định của pháp
luật?........................................................6
8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?....8
9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?.................................................................................................................8
10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì
sao?...................................................................................................................8
11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di
chúc của người không biết
chữ……………………………………………….9
BÀI TẬP 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC.
1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả
lời?.............................................................................................................10
2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong
di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ
Hương?..............................................10
3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả
lời?................................................................................................11
1
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm……
11
5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời……………………………………………………..12
6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì
sao?.................................................................................................................12
7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã
bị thu hồi trước khi hai cụ chết?.....................................................................13
8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản
của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác
định vừa nêu của Tòa giám đốc
thẩm?...........................................................13
9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ
C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước
thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc
thẩm………14
BÀI TẬP 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG.
1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của
vợ chồng?.......................................................................................................16
2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả
lời………………………….16
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung
của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015…………………………..17
BÀI TẬP 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG.
1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời………………………..
……………………………….19
2. Đối với phần đất có diện tích 4.582,3m 2, Tòa án có coi đây là di sản dùng
vào việc thờ cúng không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả
lời?.........................20
3. Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng có được thỏa mãn
không trong vụ việc đang nghiên cứu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời………
20
4. Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3m 2 có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời………………………………….21
2
5. Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3m 2 trở thành tài sản chung của
những người thừa kế có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời...21
6. Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp... liên quan đến
phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời………………………………………………...
……22
7. Tòa án xác định “Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các
đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để
thờ cúng” có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời………………...23
8. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS.24
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
BÀI TẬP 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC.
Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của TAND tỉnh Phú Yên.
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Hiếu.
Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng.
Tranh chấp: Di sản thừa kế.
Nội dung: Ông Nguyễn Này và bà Đặng Thị Trọng là vợ chồng hợp pháp từ năm
1970. Hai người sở hữu tài sản chung là ngôi nhà số 27 thuộc thửa số 83, tờ bản đồ
số 8 được UBND huyện Sông Hinh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG
677357 ngày 2/5/2007. Ngày 16/11/2008, ông Này qua đời và trước khi mất ông có
lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông với
bà Trọng cho ông Hiếu, là con riêng của ông Này. Bà Trọng không đồng ý với
di chúc và muốn chia di sản theo pháp luật. Vì vậy, ông Hiếu muốn Tòa giải quyết
theo ý chí của ông Này. Quyết định của Tòa án: Tại Tòa sơ thẩm, bà Trọng được
nhận toàn bộ tài sản, nhà và đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thối chênh
lệch cho ông Hiếu số tiền được chia và được nhận từ tài sản theo di chúc. Tại Tòa
phúc thẩm, bà Trọng rút toàn bộ đơn kháng cáo và Tòa giữ nguyên quyết định ở
Tòa sơ thẩm.
1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý: Người lập di chúc
phải tự mình viết di chúc bằng chữ viết tay, không được nhờ người khác viết, không
được đánh máy chữ, in vi tính hoặc bằng các cách thức tương tự và người lập di
chúc phải tự mình ký tên, điểm chỉ vào tờ di chúc. Các điều kiện này được quy định
theo Điều 633 BLDS 2015 về di chúc bằng văn bản không có người làm chứng:
“Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn
bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật
này”.
2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp
pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Điều 632 BLDS 2015 quy định về “Người làm chứng cho việc lập di chúc” như
sau:
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1.Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Xét thấy trong bản án, di chúc của ông Này do cha, em trai, em gái của ông Này
điểm chỉ và ký tên làm chứng, những người làm chứng di chúc của ông Này không
là người làm chứng hợp pháp do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 632
BLDS 2015, đây là những người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc, thuộc
hàng Thừa kế thứ nhất và thứ hai theo quy định tại khoản 1 Điều 651 BLDS 2015
như sau:
4
Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi,
mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của
người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì
ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
3. Di chúc của ông Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Di chúc của ông Này là di chúc do ông Này tự viết tay. Vì ở phần nhận thấy của
Tòa án có nêu: “Để tránh tranh chấp về sau nên ông Này viết giấy này để nhà và đất
lại cho cháu Hiếu thừa hưởng sau này ông Này có mất thì cháu Hiếu có chỗ ở và thờ
cúng cho ông Này”. Và phần xét thấy của Tòa án: “Xét thấy, giấy thừa kế do ông
Nguyễn Này viết không được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực
nhưng được lập trong lúc ông Này còn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe
dọa hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên được coi là di chúc hợp pháp”.

Do vậy, di chúc của ông Này là do ông Này tự viết tay.


4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến hình thức di chúc của ông
Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay là hoàn toàn hợp lý. Vì khi ông này
lập di chúc thì quá trình lập đã được cha, em gái, em trai của ông Này chứng kiến,
điểm chỉ và ký tên làm chứng. Dù di chúc của ông Này viết không được chứng thực
bởi chính quyền địa phương nhưng được lập ra trong lúc ông hoàn toàn tỉnh táo,
minh mẫn cũng như không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép nên bản di chúc do ông
Nguyễn Này tự viết tay là hoàn toàn hợp pháp.
Cơ sở pháp lý: Điều 652 BLDS 2005:
“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức di chúc không
trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập
thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

5
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người
làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ
ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công
chứng hoặc chứng thực.”

Tóm tắt Quyết định 874/2011/DS-GĐT


Nguyên đơn: ông Đỗ Văn Quang
Bị đơn: bà Hoàng Thị Ngâm
Ông Quang là con của cụ Hựu và cụ Sách. Trước đó, cụ Hựu cùng đã kết hôn với cụ
Hằng và có 2 người con là ông Hồng (đã mất) có vợ là bà Hoàng Thị Ngâm và bà
Lựu. Cụ Hựu mất ngày 06/02/2005. Di sản để lại gồm thửa đất 56 diện tích 210m2,
thửa đất 54 diện tích 462m2 và thửa đất 57 diện tích 526m2 và cả 3 thửa đất trên
đều đang được do bà Ngân quản lý và cũng đã được cấp giấy chứng nhận đất đối
với các thửa đất trên. Khi kê khai đăng ký quyền sử dụng đất bà Ngâm đã xuất trình
di chúc của cụ Hựu lập năm 1998 với nội dung để lại tài sản, đất cho bà Ngâm và bà
Lựu. Ông Quang cho rằn bản di chúc trên là không hợp pháp nên yêu cầu chia theo
thừa kế.
5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Di chúc được lập ra vào ngày 25/11/1998, cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu
điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó
ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng (Trưởng
thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.
6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả
lời?
Cụ Hựu không biết chữ.
Đoạn của Quyết định 874 cho câu trả lời về việc cụ Hựu không biết chữ là: “Ông
Quang xác định cụ Hựu kà người không biết chữ.”
7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện sau đây để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật:
Theo quy định tại Điều 652 BLDS 2005:
1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe dọa hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không
trái quy định của pháp luật.
6
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Theo quy định tại Điều 656 BLDS 2005:
Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể
nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di
chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng;
những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào
bản di chúc.
Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ luật này.
Theo quy định tại Điều 654 BLDS 2005 mọi người đều có thể làm chứng cho việc
lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; 3. Người chưa
đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 630 BLDS 2015: 1. Di chúc hợp pháp
phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Theo quy định tại Điều 634 BLDS 2015:
Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình
đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít
nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di
chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký,
điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều
631 và Điều 632 của Bộ luật này. Theo quy định tại Điều 632 BLDS 2015 mọi
người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; 3. Người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi.

7
8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?
Căn cứ vào khoản 3 Điều 652 BLDS 2005: “Di chúc của người bị hạn chế về thể
chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản
và có công chứng hoặc chứng thực”. Di chúc của ông Hựu đã đáp ứng được qua các
điều kiện:
Thứ nhất: Người lập di chúc là cụ Hựu vẫn còn minh mẫn, sáng suốt trong khi lập
di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép; nội dung di chúc không trái pháp
luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
Thứ hai: Di chúc của cụ Hựu được ông Vũ là một trong hai người làm chứng viết
lại bằng văn bản.
Thứ ba: Có sự xác nhận của ông Thưởng (trưởng thôn) và UBND xã.
9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của
ông Hựu?
Điều kiện thứ nhất: Không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là vấn đề
người làm chứng và công chứng, chứng thực. Bà Hựu không biết chữ nên bà đã lập
di chúc bằng miệng, bà đọc cho ông Vũ (là người đại diện dòng họ Đỗ) viết di chúc,
bà Đỗ Văn Quý là mẹ của ông Vũ ký tên làm chứng tại thời điểm đó. Sau đó bà Lựu
mang di chúc đến cho ông Thưởng (trưởng thôn) và UBND xã Mai Lâm ký xác
nhận. Vậy trong trường hợp này đã đáp ứng 02 người làm chứng. Tuy nhiên, ông
Thưởng không chứng kiến việc cụ Hựu lập di chúc mà ông chỉ ký xác nhận do bà
Lựu mang di chúc đến nhờ ông ký xác nhận (1 tháng sau khi di chúc được lập). Và
việc UBND xã Mai Lâm ký chỉ là xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không xác
nhận nội dung của di chúc.
Điều kiện thứ hai: “Qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc...dấu vân
tay mở không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định”.
10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
không? Vì sao?
Theo quan điểm của nhóm em, di chúc nêu trên không đủ điều kiện để thỏa mãn về
hình thức. Căn cứ vào khoản 5 Điều 652 BLDS 2005 thì di chúc miệng được coi là
hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít
nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng
kí tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể
hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực. Nhưng qua
điều tra và giám định thì lại không có căn cứ xác minh di chúc này có phải là ý chí
cuối cùng của cụ Hựu hay không. Ngoài ra, bà Lựu cũng không đảm bảo được yếu
tố sau khi lập di chúc phải đi công chứng hoặc chứng thực trong thời hạn năm ngày
(bà Lựu mang di chúc đi xác nhận sau hơn một tháng cụ Hựu lập di chúc).
8
11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình
thức di chúc của người không biết chữ.
Theo quan điểm của nhóm em, quy định liên quan đến hình thức di chúc của người
không biết chữ trong BLDS là hợp lý, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân khi yêu cầu “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không
biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc
chứng thực” cả trong khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 lẫn tại khoản 3 Điều 620
BLDS 2015. BLDS đã quy định rõ với trường hợp di chúc của người bị hạn chế về
thể chất hoặc của người không biết chữ được người làm chứng lập thành văn bản thì
bắt buộc phải có công chứng, chứng thực. Thủ tục này phát sinh nhằm để phân biệt
trường hợp người lập di chúc không tự mình viết ở đây là những người bị hạn chế
về thể chất hay không biết chữ để biết được người lập di chúc hộ có lập đúng các
nội dung theo ý chí của mình hay không. Những quy định nghiêm ngặt về hình thức
như vậy xuất phát từ cơ sở pháp lý và cơ sở kỹ thuật của nó. Nhằm bảo vệ tối đa ý
chí đích thực của người để lại di sản và cũng đề phòng việc người khác lợi dụng
những khiếm khuyết của người để lại di sản để giả mạo di chúc, lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép…

9
BÀI TẬP 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC.
Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa án nhân dân
tối cao
- Nguyên đơn: Cụ Lê Thanh Quý
- Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Dũng, Ông Nguyễn Hữu Lộc
- Nội dung: cụ Quý và cụ Hương có tạo lập được bất động sản gồm nhà và đất
được ông nhận quyền sử dụng đất năm 1994. Ngày 06/04/2009, cụ Hương mất,
trước đó cụ đã để lại di chúc đã được công chứng vào ngày 16/01/2009 có nội
dung chia toàn bộ đất cho 5 người con là ông Đức, ông Nghĩa, bà Hiếu, ông
Dũng, bà Kiều (vợ ông Trí). Nay cụ Quý khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản
chung của vợ chồng là cụ Hương và cụ Quý làm hai phần, yêu cầu được hưởng
1/2 giá trị căn nhà bằng hiện vật, 1/2 căn nhà ở vị trí bên phải từ ngoài nhìn vào,
2/3 suất thừa kế theo pháp luật. Cụ Quý và cụ Hương tạo lập được bất động.
Ngày 25/01/2013 ông Lộc là bị đơn khiếu nại bản án dân sự sơ thẩm vì quyết
định của bản án không quyết định ông Lộc phải trả nhà cho ai.
Giám đốc thẩm xét thấy cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất là không đúng vì là tài
sản chung của vợ chồng. Việc Tòa sơ thẩm xác định nội dung di chúc chỉ có giá trị
một phần nên được chia đều cho 5 người con, 1/2 tài sản còn lại của cụ Quý và cụ
Hương được chia 2/3 suất thừa kế là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa sơ thẩm không
quyết định ông Lộc trả phần nhà đất cho cụ Quý là cách giải quyết chưa triệt để dẫ
đến bản án có hiệu lực pháp luật, không thể thi hành và cần phải xem xét công sức
giữu gìn cho ông Lộc
Quyết định của Tòa án: Tòa án quyết định chấp nhận kháng nghị của Chánh án
TANDTC, hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ xét xử sơ thẩm lại.
1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?
- Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ căn nhà và đất số 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (
số mới 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận) cho 5 người
con.
- Được quy định trong đoạn “Ngày 06/04/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết,
để lại di chúc có nội dung chia toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn
Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho 5 người con là: Nguyễn Ngọc
Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng
Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí), di chúc đã được công chứng tại Phòng công
chứng só 4 thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/01/2009.” Của Quyết định số
359.
2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là
tài sản chung của vợ chồng cụ Hương “...Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có
10
giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ
Quý.”
3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định
số 359 cho câu trả lời?
- Tòa án đã công nhận di chúc có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của
cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con.
- Đoạn của Quyết định số 59 “...Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của
cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối phần tài sản của cụ Hương
(1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông và Nguyễn Ngọc
Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Ông
Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật;
còn 1/2 diện tích đất còn lại được chia cho cụ Quý:...”
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
- Việc Toà án quyết định chia di sản của cụ Quý trên phù hợp với quy định của
pháp luật.
- Xét dưới góc độ của Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 634 của Bộ luật này
quy định về di sản: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác".
- Trong trường hợp của cụ Quý và cụ Hương, tài sản thuộc sở hữu chung của
cả hai người. Trước khi chết, cụ Hương cũng không có tài sản riêng nên chỉ
có phần tài sản trong tài sản chung với cụ Quý của cụ Hương mới được coi là
di sản. Cụ Hương chỉ có quyền định đoạt phần đó. Vì vậy, việc Toà xác định
chỉ có 1/2 nhà đất được chia cho 5 người thừa kế là phù hợp với quy định
trên của pháp luật.
- Khoản 1 Điều 669 của Bộ luật này cũng quy định về Người thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một
người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần
di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản
theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản
theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.
Cụ Quý không thuộc trường hợp tại Điều 642 và Khoản 1, Điều 643 của Bộ luật
Dân sự năm 2005. Khi cụ Hương chết, cụ Quý là vợ cụ Hương cũng không được cụ
Hương là người lập di chúc cho hưởng di sản. Vậy, Tòa án quyết định cho cụ Quý
2/3 xuất thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn phù hợp.
5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

11
- Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì toàn bộ phần di chúc của cụ Hương có
giá trị pháp lý đối với phần tài sản của cụ Hương được hưởng từ phần thừa
kế theo pháp luật khi cụ Quý chết.
- Vì căn cứ theo Khoản 1, Điều 27, Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa
kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất".
Theo đó, sau khi cụ Quý chết, đối với tài sản chung của vợ chồng thì ½ sẽ là của cụ
Hương và 1/2 còn lại là của cụ Quý. Căn cứ vào quy định của Điểm a, Khoản 1,
Điều 675, BLDS 2005 về Những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;"
Và quy định của Điểm a, Khoản 1, Điều 676, BLDS 2005 về Hàng thừa kế thứ nhất
theo pháp luật:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kể thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết;"
Theo đó, cụ Quý chết trước cụ Hương và không có để lại di chúc, do vậy phần tài
sản của cụ Quý sẽ được chia đều cho cụ Hương và các con của cụ Quý - là những
người thuộc hàng thừa kể thứ nhất theo pháp luật. Như vậy, tài sản của cụ Hương là
phần được hưởng thừa kế theo pháp luật và 1/2 trong số tài sản chung với cụ Quý:
sau khi cụ Hương chết, thì cụ Hương có quyền lập di chúc để lại di sản cho những
người chỉ định trong di chúc với phần tài sản của mình.
6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không?
Vì sao?
- Trong trường hợp tai san được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của
cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lí.
- Về hình thức, bản đi chúc này có công chứng của Phòng công chứng số 4,
thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng
nhận sức khỏe của bệnh viện Phú Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫn.
- Về nội dung, toàn bộ phần di chúc đều có giá trị pháp lí vì tài sản lúc này
thuộc chỉ sở hữu cua cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 nên cụ có quyền định

12
đoạt theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật Dân sự năm 2005 về Quyền thừa
kế của cá nhân:
“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình
cho người thưa kể theo pháp luật, hương di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật".
Nếu tài sản là sở hữu chung với cụ Quý thì di chúc chỉ có giá trị pháp lí một phần.
Đó là phần tài sản thuộc sở hữu của cụ Hương. Vì vậy, căn củ ảo Khoản 1, Điều
652 và Điều 631 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì di chúc của cụ Hương lúc này
hoàn toàn có giá trị pháp lí.
Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018-của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội.
- Nguyên đơn: Ông Trần Văn Y.
- Bị đơn: Phòng công chứng M - Vụ việc: Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn
bản công chứng vô hiệu
Nguyên đơn khởi kiện về việc Phòng công chứng M (Bị đơn) đã công chứng cho di
chúc của cụ D và cụ C đối với mảnh đất tranh chấp. - Quyết định của Tòa án: Tòa
án sơ thẩm đã tuyên bố Văn bản Công chứng di chúc và Văn bản Công chứng Văn
bản công bố của Phòng Công chứng M vô hiệu. Ông Nguyễn Văn D1 (con cụ D và
cụ C) kháng cáo. Tại bản án dân sự phúc thẩm, Tòa án phúc thẩm quyết định giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
Đoạn của Quyết định số 58 thể hiện quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu
hồi trước khi hai cụ chết:
“... di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ
số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy
ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên..."1
“... Ngày 07-9-2010, cụ C chết. Ngày 21-01-2011, cụ D chết...”2
Như vậy, quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi (21-7- 2010) trước khi
hai cụ chết (07-9-2010 và 21-01-2011)
8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di
sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về
hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ C và
cụ D là quyền sử dụng đất:

1
Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
2
Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
13
"... Quá trình giái quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem
xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ do ông Y cung cấp và đánh giá hợp đồng chuyển
nhượng giữa ông Y và cụ C để từ đó xác định ông Y có quyền, lợi ích đối với di sản
là thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 18 và có quyền khởi kiện yêu cầu tuyên bố các văn
bản công chứng vô hiệu hay không mà chỉ xem xét nội dung, hình thức, thủ tục của
các văn bản công chứng và tuyên bố các văn bản này là vô hiệu là chưa đủ căn cứ,
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Văn D1.
Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ
bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của
Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có
đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật đất đai nên hai cụ
có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1 ".3
Theo nhóm em, hướng xác định nêu trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý. Vi bảo
vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của anh D1 trong di sản thừa kế. Và theo quy định
tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân và gia đình về việc xác định quyền sử dụng đất là di sản có quy định như sau:
"1. Xác định quyền sử dụng đất là di sản
1.2. Đối với trường hợp đất đo người chết để lại mà người đó có một trong các loại
giấy quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày
01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở
thừa kế."
Như vậy, do đã được công nhận là di sản thừa kế và một trong các hình thức lập di
chúc mà pháp luật công nhận là di chúc bằng văn bản có chứng thực. Do đó, việc
hai cụ lập di chúc để định đoạt đối với toàn bộ di sản trên có chứng thực của Phòng
công chứng và trong tình trạng minh mẫn, tự nguyện thì được xác định là di chúc
hợp pháp. Theo đó, nếu nội dung di chúc định đoạt để lại toàn bộ cho ông D1 là
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 nhưng giá trị quyền sử dụng
đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm là hợp lý.
9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng
cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị
Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa
giám đốc thẩm.
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D
được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi: ... di sản
của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị
thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân
thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi
3
Quyết định số 58/2018/DS-GĐT, trang 4.
14
vẫn được pháp luật đảm bảo theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập
di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1."4
Theo nhóm em, hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn hợp lý, vì:
Theo khoản 1 Điều 42 Luật Đất đai 2003 về Bồi thường, tái định cư cho người có
đất bị thu hồi:
"1. Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của
Luật này thì người bị thu hồi đất được bồi thường, trừ các trường hợp quy định tại
các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 và các điểm b, c, d, đ và g
khoản 1 Điều 43 của Luật này."
Và khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015 cũng như khoản 3 Điều 643 Bộ luật Dân
sự 2015:
"Điều 630: Di chúc hợp pháp 1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật."
"Điều 643: Hiệu lực của di chúc
3. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào
thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần
di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực."
Theo đó, tuy bị Nhà nước thu hồi đất nhưng cụ D và cụ C vẫn còn giá trị quyền sử
dụng đất, đó cũng là di sản của 2 cụ. Đồng thời, theo khoản 1 Điều 630 và khoản 3
Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015 thì di sản của 2 cụ vẫn còn nằm trong thời điểm mở
thừa kế và di chúc của 2 cụ là hợp pháp nên vẫn còn hiệu lực.

4
Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
15
BÀI TẬP 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG.
Tóm tắt Bản án 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của TAND huyện C tỉnh Phú
Thọ.
Nguyên đơn là bà Hoàng Thị H có tranh chấp thừa kế theo di chúc với bị đơn là anh
Hoàng Tuyết H. Nguyên đơn và ông X kết hôn năm 1960 và có 4 người con. Khi
còn khoẻ mạnh và minh mẫn, ông X và bà H đã cùng nhau lập di chúc vợ chồng với
nội dung: Sẽ để lại toàn bộ tài sản chung cho bà H quản lý nếu ông X chết và sẽ
được giao lại cho anh H1 khi bà H chết, mà không phải bị ai ép buộc. Tuy nhiên sau
khi viết xong di chúc thì ông X đi viện điều trị nên di chúc không được chứng thực.
Sau khi ông X chết bà H có họp gia đình để công bố di chúc nhưng anh H, H2, H3
cho rằng đó không phải chữ viết của ông X và điều này gây khó khăn trong việc
thay đổi nội dung di chúc. Vì chỉ có anh H1 trông nom bố mẹ lúc đau ốm, bà H hiện
nay cao tuổi, không người con nào chịu trách nhiệm nên bà yêu cầu Toà án công
nhận di chúc của ông X.
Toà án quyết định: Công nhận di chúc chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà
Hoàng Thị H là hợp pháp. Không chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Tuyết H và
Hoàng Quốc H đòi chia di sản của ông Hoàng Minh X.
1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung
của vợ chồng?
Ngày 10/8/2015 ông X viết di chúc chung của vợ chồng, bà H cùng ký với nội
dung: Nay hai chúng tôi nhất trí giao lại căn nhà 4 gian, sân gạch, giếng nước ăn và
toàn bộ tài sản trong nhà từ cái nhỏ nhất, đến cái to nhất cho con trai Hoàng Hồng
H1 có số chứng minh nhân dân là số vì Hoàng Hồng H1 là người có công nuôi
dưỡng cha mẹ trong khi ốm yếu. Khi cha mẹ qua đời H1 có trách nhiệm chôn cất và
thờ cúng. Sổ đất thổ cư và vườn đổi H1 được hưởng thụ, còn những người con khác
đã phân chia. Nay không có gì để cho. Vì bất hiếu với cha mẹ... Khi tôi ra đi trước
vợ thì bản di chúc này sẽ giao lại cho vợ là Hoàng Thị H. Sau khi bà Hoàng Thị H
mất sẽ giao cho con trai Hoàng Hồng H1 sẽ quản lý sổ đất của gia đình từ trong nhà
đến ngoài đồng là H1 phải chịu trách nhiệm. Vậy kính mong UBND Thị trấn xác
nhận.
2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015. Đoạn của bản án cho câu trả lời:
“Xét tính hợp pháp của bản di chúc không có chứng thực:
Tại điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định di chúc hợp pháp:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

16
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suối trong khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép:
b) Nội dung của di chúc không vì phạm điều cấm của luật, không trải đạo đức xã
hội; hình thức di chúc không trải quy định của luật.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự thừa nhận ông X có tỉnh thần
tỉnh táo, minh mẫn, không phải nằm điều trị cho đến thời điểm trước khi chết. Sự
thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm ông X viết bản di chúc còn khỏe mạnh, mình
mẫn, không có sự ép buộc nào. Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại điều 630 Bộ luật dân sự
năm 2015. Mặt khác, tại Kết luận giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 của
Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú thọ kết luận: Chữ ký dạng chữ viết "X" và
các chữ Hoàng Minh X trên " Bàn di chúc" (tài liệu cần giám định ký hiệu A) so với
chữ ký dạng chữ viết “ X" và các chữ Hoàng Minh X dưới mục “ Người xin; Đại
diện gia đình; Người viết đơn ký tên; Người khai; Người làm đơn" trên “Đơn xin
trợ cấp, Biên bản xác nhận xây dựng nhà ở hoàn thành theo giai đoạn; Đơn đề nghị
giải quyết chất độc da Cam; Bản khai cá nhân đề nghị hưởng chế độ trợ cấp một
lần; Đơn xin vào Hội Cựu chiến Bình kết hợp sơ yếu lý lịch" (tài liệu mẫu so sánh
ký hiệu M1.M2.M3.M4.M5) là do cùng một người ký và viết ra.
Quá trình giải quyết vụ án, anh H, anh H2 và anh H3 không đưa ra được bất cứ một
chứng cứ nào chứng minh cho việc bản di chúc ngày 10/8/2015 không phải do ông
Hoàng Mính X viết. Từ những căn cứ nêu trên HĐXX chấp nhận yêu cầu của bà
Hoàng thị H.
“Áp dụng Điều 627, 630 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1,5 Điều 147 Bộ luật tố
tụng dân sự, điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 điều 27 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
1. Xứ: Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết
ngày 10/8/2015 là hợp pháp.
Không chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Tuyết H và anh Hoàng Quốc H2 đòi chia
di sản của ông Hoàng Minh X.”
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ
với BLDS 2015 trên là thuyết phục. Hướng giải quyết của Toà án đã thoả mãn ý chí
của người quá cố là ông X khi lập di chúc với bà H cũng như phù hợp với Điều 633
BLDS 2005 và Điều 630 BLDS 2015. Thời điểm ông X viết bản di chúc còn khoẻ
mạnh, minh mẫn không có sự ép buộc nào. Di chúc hai vợ chồng có sự nhất trí của
17
2 người là khi 2 vợ chồng chết giao toàn bộ tài sản cho H1 vì có công nuôi dưỡng
cha mẹ và không để lại cho những người khác vì bất hiếu với cha mẹ. Tại kết luận
giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 của phòng Hình sự công an tỉnh Phú Thọ
kết luận bản di chúc này là do ông X viết. Như vậy việc Toà án công nhận di chúc
của ông X và bà H có cơ sở thuyết phục. Tuy nhiên việc lập di chúc chung của vợ
chồng vẫn còn một số hạn chế. Vì khi 1 người mất sẽ gây ảnh hưởng và khó khăn
cho việc thay đổi nội dung đối với người còn lại. Nên thay vì lập di chúc chung thì
việc lập di chúc riêng nó sẽ có lợi hơn đối với những người có nghĩa vụ liên quan
đến phân chia thừa kế.

18
BÀI TẬP 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG.
Tóm tắt Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau Bản án xét xử về việc: “chia thừa kế quyền sử dụng đất":
- Nguyên đơn:
1. Bà Lưu Tuyết M
2. Bà Lưu Thị P
- Bị đơn: Bà Lưu Thị L
- Nội dung trọng tâm của vụ việc: Ông Lưu Văn C khi chết có để lại phần đất
tranh chấp có diện tích gần 13.000m², trong đó có phần đất lá diện tích
4.582,3m². Bà L cho rằng phần đất lá trên không nên chia cho những người
thừa kế vì đó là di sản dùng trong việc thờ cúng. Trong khi đó, phía nguyên
đơn cho rằng phần đất là là di sản được để lại nên phải chia cho các đồng
thừa kế. Tòa án công nhận phần đất lá trên là di sản dùng cho việc thờ cúng
nên bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giao phần đất lá cho bà L quản lí
và xác định phần di sản trên là tài sản chung của những người thừa kế.
1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Khoản 1 Điều 670 BLDS 2005:
- “Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một
người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu
người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả
thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần
di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
- Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản
thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
- Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì
phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản
đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.”

 Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015:

- “Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã
được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người
được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của
những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản
dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
- Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

19
- Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong
số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.”

2. Đối với phần đất có diện tích 4.582,3m2, Tòa án có coi đây là di sản dùng
vào việc thờ cúng không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời?
Trong Bản án, Toà án coi đây là di sản dùng trong việc thờ cúng ở đoạn [3]
có nhắc tới: “… Chấp nhận yêu cầu của bà M, bà P, bà D về việc chia
phần đất diện tích 4.582,3m2 cho các đồng thừa kế và 01 phần dùng để thờ
cúng…”
3. Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng có được thỏa
mãn không trong vụ việc đang nghiên cứu? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời.

Căn vào Điều 645 BLDS 2015 điều kiện để di sản dùng vào việc thừa kế là:

- “Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người
đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu
người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa
thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao
phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
- Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
- Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần
di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó
trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.”

- “Ông C xác định đây là đất dùng vào việc thờ cúng do đó không
được phân chia. Bà L là người có công cải tạo, canh tác toàn bộ di
sản thừa kế của ông C nên giao cho bà L quản lý canh tác toàn bộ
phần đất này là phù hợp…”. => Người lập di chúc (cụ C) có đẻ lại
một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
- Trong di chúc của cụ C tuy chưa hoàn toàn tuân thủ theo quy định
nhưng thể hiện mong muốn là giao đất cho bà L. Bà H có thừa nhận
đất là đất dùng để thờ cúng, nếu bà L không thực hiện đúng trách
nhiệm thờ cúng thì các đồng thừa kế có thể giao có thể giao cho
người khác quản lý, sử dụng đất này để thờ cúng.
- Bản án không đề cập cụ C có nghĩa vụ thanh toán tài sản của mình
nên trường hợp của cụ thỏa mãn điều kiện ở khoản 2 Điều 645 BLDS
2015.
4. Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích 4.582,3m 2 có
thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Toà án không chấp nhận yêu cầu chi phần đất có diện tích 4.582,3m2 là thuyết phục.
20
Vì theo Khoản 1 Điều 670 BLDS 2005:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã
được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ
định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người
thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng
cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”.
Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015:
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không
thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì
những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”.
Phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế mà
được giao cho một người quản lý. Trong trường hợp này tuy rằng di chúc cụ C chưa
tuân thủ theo pháp luật nhưng vẫn nhận thấy rõ được ý chí của cụ C, thêm vào đó có
bà H là người công nhận phần đất này dùng cho việc thờ cúng và trên thực tế bà L
cũng đang thực hiện việc thờ cúng trên mảnh đất ấy. Phần đất dùng thờ cúng này
cũng đáp ứng đúng với quy định tại Khoản 3 Điều 648 BLDS 2005: “3. Dành một
phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng”. Luật quy định một phần nhưng
không cụ thể là bao nhiêu nên có thể là một phần nhiều hoặc một phần ít. Diện tích
4.582,3m2 là một phần di sản mà cụ C để lại. Chính vì vậy mảnh đất đó vừa là để
thờ cúng, vừa là một phần của di sản nên việc toà án không chấp nhận chia mảnh
đất đó là hoàn toàn thuyết phục.
5. Tòa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3m 2 trở thành tài sản chung
của những người thừa kế có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Toà án xác định phần đất có diện tích 4.582,3m 2 trở thành tài sản chung của những
người thừa kế có thuyết phục.
Vì theo Điều 670 BLDS 2005 quy định:

21
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người
đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được
chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ
cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng”.
Điều 645 BLDS 2015 quy định:
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì
phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không
thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì
những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản
dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài
sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”.
Như những điều trên quy định thì phần di sản dùng cho việc thờ cúng sẽ không
được chia mà sẽ được giao cho một người để quản lý di sản. Như luật đã quy định
nếu người được giao quản lý di sản không thực hiện đúng như những gì đã thoả
thuận với những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao cho một
người khác. Chính vì vậy việc giao phần di sản dùng cho việc thờ cúng thành tài sản
chung của nhiều người thừa kế là hợp lý, bởi nó sẽ đảm bảo được ý chí của người
đã mất được thực hiện, nếu người quản lý di sản không hoàn thành nghĩa vụ được
giao thì có thể thay đổi một người khác. Còn nếu chỉ giao phần di sản đó cho một
người thì không thể đảm bảo được rằng người ấy sẽ thực hiện đúng như di chúc đã
giao và không chắc chắn ý chí người đã mất được thực hiện. Từ những lý do trên
mà việc toà án xác định 4.582,3m 2 thành tài sản chung của những người thừa kế là
rất thuyết phục.

22
6. Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp...liên quan đến
phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo em Toà án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp…liên quan đến
phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế" là chưa thuyết phục vì đây
là di sản dùng trong việc thờ cúng vì Toà đã nhằm khẳng định phần đất này có thể
dùng để bán được
- Cơ sở pháp lý: Điều 645 BLDS 20151: “Trường hợp người lập di chúc để lại một
phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và
được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ
cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa
thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản
dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng”
Căn cứ quy định nêu trên thì phần di sản thờ cúng này không được chia thừa kế và
chỉ có người thừa kế đại diện quản lý. Vì thế, nhà để thờ cúng không thuộc quyền
sở hữu của những người thừa kế, thậm chí là người quản lý. Do đó, những người
thừa kế và người quản lý không có quyền bán di sản thờ cúng.
- Chỉ khi “Trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng” Thì lúc này các đồng thừa kế được sử dụng phần đất đó chuyển nhượng, thế
chấp và có sự đồng ý của các đồng thừa kế chiếu theo Điểm b) Khoản 1 Điều 617
BLDS 2015; Điểm a) Khoản 2 Điều 617 BLDS 2015
“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này
có nghĩa vụ sau đây:

b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định
đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng
văn bản;

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616
của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây:
a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định
đoạt tài sản bằng hình thức khác;…”
=> Quy định này nhằm bảo vệ người có quyền lợi trong quan hệ dân sự với người
để lại di chúc, khi di sản còn lại chưa đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người
chết để lại, thì phải dùng phần di sản dùng vào việc thờ cúng thực hiện nghĩa vụ đó
Nên quyết định một cách thông minh để đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
tất cả các thành viên. Trong điều kiện người để lại di sản mà di sản đó không đủ để
thực hiện nghĩa vụ tài sản thì mới ra quyết định bán, thế chấp tài sản dùng trong
việc thờ cúng. Còn nếu người để lại di sản đã hoàn thành nghĩa vụ của mình thì tất
cả các đồng thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ, nhiệm vụ theo di chúc dựa trên ý chí,
nguyện vọng của người để lại chi chúc là bảo quản đất dành cho việc thờ cúng vì
thờ cúng tổ tiên có một nét rất đặc thù là tổ tiên gia đình và tổ tiên cả nước gắn rất
chặt với nhau trong việc tưởng niệm ông bà ta đi trước

23
7. Tòa án xác định “Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì
các đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất
này để thờ cúng” có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu bà L không thực hiện tốt trách nhiệm thờ cúng thì các đồng thừa kế có thể giao
cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ cúng là thuyết phục
Cơ sở pháp lý: Điều 645 BLDS 2015
“...Nếu người chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận
của người thừa thế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào
việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng"
Mục đích di sản dùng để thờ cúng là để làm nhiệm vụ thờ cúng. Người được giao
quản lý di sản thờ cúng và chịu trách nhiệm thực hiện việc thờ cúng
Nếu người được chỉ định, hoặc được chỉ ra trong di chúc không thực hiện nghĩa vụ,
nhiệm vụ thì những người thừa kế có thể thỏa thuận để cử người khác thay thế
Trên cơ sở xác định quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản dùng vào việc thờ
cúng thì mới chỉ ra được những căn cứ pháp lý để từ đó xem xét người quản lý di
sản dùng vào việc thờ cúng đã thực hiện đúng và đầy đủ quyền, nghĩa vụ chưa? có
hoàn thành nghĩa vụ không? Từ đó mới có thể đánh giá và xác định người quản lý
di sản dùng vào việc thờ cúng có thể bị thay đổi không khi có yêu cầu thay đổi.
Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005: “nếu người được chỉ định không thực hiện
đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế, thì những
người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác
quản lý để thờ cúng”.
8. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS.
Điều 645 BLDS 2015 chỉ đề cập đến việc người lập di chúc để lại một phần di sản
dùng vào việc thờ cúng nhưng không nói rõ một phần ở đây là bao nhiêu, còn
trường hợp người lập di chúc dùng toàn bộ di sản cho việc thờ cúng thì không được
nhắc đến. Di sản thờ cúng chỉ mang tính định lượng mà chưa xác định được tính
chất tài sản dùng vào việc thờ cúng. Do vậy, có những tài sản do đặc thù về kích cỡ,
khối lượng có thể dễ dàng tham gia vào các giao dịch dân sự nên rất khó kiểm soát.
Điều này dễ dẫn đến việc di sản được dùng cho việc thờ cúng bị một người khác
định đoạt hoặc bị đem ra chia thừa kế trái với ý chí của người lập di chúc thì luật
chưa quy định hướng giải quyết.
Điều 645 BLDS 2015 cũng cho rằng di sản dùng vào việc thờ cúng không được
chia thừa kế và phải được giao cho một người để quản lý di sản. Tuy nhiên, trên
thực tế Tòa án lại đồng ý yêu cầu khởi kiện của anh Được và tiến hành chia thừa kế
là chưa thỏa đáng. Nếu làm đúng theo quy định của pháp luật, bà Lùng để lại căn
nhà dùng vào việc thờ cúng thì nên tôn trọng quyết định của bà bởi đó là nguyện
vọng mà bà mong muốn. Tuy nhiên, Tòa án cho rằng anh Được được 5/7 anh chị
em đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận.
Cơ sở đó lại không được nêu rõ và trong BLDS không quy định về vấn đề này. Việc
phần đông người con đồng ý chia di sản là trái với ý chí của người lập di chúc nên
không thể căn cứ vào đây để tiến hành chia di sản dùng để thờ cúng.

24
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
 BÀI TẬP 1
- Điều 628 và tiếp theo BLDS 2015 (Điều 652, 654 và 655 BLDS 2005).
- Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Yên; Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.
 BÀI TẬP 2
- Điều 643, Điều 644 BLDS 2015 (Điều 634; Điều 636; Khoản 4, Điều 667
BLDS 2005).
- Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao và Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
 BÀI TẬP 3
- Điều 630 BLDS 2015 (Điều 663, 664, 668 BLDS năm 2005).
- Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C tỉnh
Phú Thọ.
 BÀI TẬP 4
- Điều 645 BLDS 2015 (Khoản 3 Điều 648, Điều 670 BLDS 2005).
- Bản án số 222/2018/DS-PT ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
B. Tài liệu tham khảo
 BÀI TẬP 1
- Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương II.
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 62 và tiếp theo.
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.253 đến 255.
 BÀI TẬP 2
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 51-53 và 54-57.
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.255.
 BÀI TẬP 3
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương VI.
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 108-110.
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.256.
 BÀI TẬP 4
- Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kể của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2023, Chương VI.
26
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng
Đức 2022 (xuất bản lần thứ năm), Bản án số 95 và tiếp theo.
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007, tr.257 đến 258.

27

You might also like