You are on page 1of 17

I. Khái niệm tài sản:.........................................................................................................

2
1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh hoạ về
giấy tờ có giá....................................................................................................................2
2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết đinh số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời
không?..............................................................................................................................2
3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không?. 3
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở
hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản:.................................................................................4
5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?..........................................................................4
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà”.............................5
7. Bitcoin là gì?.............................................................................................................6
8. Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản không?..............6
9. Ở các vụ việc về Bitcoin, Toà án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt
Nam không?.....................................................................................................................6
10. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống pháp
luật mà anh/chị biết?........................................................................................................7
11. Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản của Việt Nam không? Vì sao?..........7
12. Quyền tài sản là gì?...............................................................................................8
13. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài
sản không?........................................................................................................................8
14. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Toà án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?.................................................................................10
15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao trong Quyết
định số 05 về quyên thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)?.......10
II. Căn cứ xác lập quyền sở hữu........................................................................................11
1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này
của toà án?......................................................................................................................11

1
2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Toà án?...........................................................................................12
3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/ chị về khẳng
định này của Toà án:......................................................................................................13
4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/ chị về
khẳng định này của Toà án:............................................................................................14
5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ
sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/ chị về khẳng định này của toà
án? 14
6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?...................15
III. Chuyển rủi ra đối với tài sản:.......................................................................................15
1. Ai phải chịu trách nhiệm rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời...........................................................................................................15
2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...16
3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời?..................................................................................................................16

2
I. Khái niệm tài sản:
1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh hoạ về
giấy tờ có giá.
- Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành
giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời gian nhất định,
điều kiện trả lãi và những điều kiện khác. (Theo khoản 2 và khoản 3 Thông tư
01/2012/TT-NHNN)
- Có hai loại giấy tờ có giá:
+ Giấy tờ có giá dài hạn là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên kể từ
khi phát hành đến khi đến hạn thanh toán.
+ Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm kể từ khi
phát hành đến khi đến hạn thanh toán.
- Ví dụ minh hoạ: Cổ phiếu, trái phiếu,…

2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết đinh số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời
không?
- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” không được coi là giấy tờ có giá.
- Theo công văn số 141/TANDTC-KHXX của Chánh án TAND tối cao nhận
định rằng: “Các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản không phải là “giấy tờ
có giá” quy định tại 163 BLDS năm 2005”
- Quyết định số 06 có cho câu trả lời: Theo Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015
quy dịnh về tài sản như sau: "1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản.2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sán. Bất động sản và động sản có
thể là tài săn hiện có và tài sản hình thành trong tương lai": Điều 115 Bộ luật
dân sự năm 2015: "Quyền tài sản là quyền trị giá lược bằng tiền, bao gồm
quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các

3
quyền tài sản khác". Căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai năm 2013: "Giấy
chứng nhận quyền sử dụng dất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất là chứng thư pháp lý đề Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đât, quyên
sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sắn khác gắn liền với đất.”
Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông
tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và
không thê xem là loại giấy tờ có giá.

- Bản án số 39 không cho câu trả lời

3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không?

- Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” không được coi là tài sản.
Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Theo Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất
và các quyền tài sản khác.”

- Quyết định số 06/2017/QĐ- có cho câu trả lời rằng: Căn cứ Khoản 16 Điều 3
Luật Đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp
pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài
4
sản khác gắn liền với đất”. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ
là văn bản chứa đựng thông tin về quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền,
không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.
- Bản án số 39/2018/DSST không cho câu trả lời.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản:

Theo em, hướng giải quyết trong quyết định số 06/2017/QĐ-PT ngày 11/7/2017
liên quan đến “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu
nhà” nhìn từ khái niệm tài sản là chưa hoàn toàn hợp lý.

- Tòa án nhân dân tối cao xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng
nhận sở hữu nhà không phải là tài sản là chưa phù hợp.

Theo điều 105 BLDS 2015: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.”;
“Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”. Cho nên, “Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” không phải là giấy tờ có giá, tuy
nhiên có thể coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu
nhà là vật. Bởi vì giấy chứng nhận là một tờ giấy, thuộc quyền sở hữu của con
người. Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền chứng nhận sở hữu nhà
tham gia vào giao dịch trao đổi, mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của
giấy.

5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
Căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015 quy định:
“1. Tài sản là tiền, vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

5
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai.”
Căn cứ vào Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu
đất và quyền tài sản khác”

Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà không là tài sản vì nó không là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản mà nó chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn
bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá
nhằm bảo vệ quyền lợi về tài sản của chủ thể. Trường hợp nếu chủ thể bị mất giấy
chứng nhận thì có thể yêu cầu cấp lại và không làm ảnh hưởng gì đến quyền lợi
của chủ sở hữu.

6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà”.

Hướng giải quyết trong Bản án số 39/2018/DSST của Tòa án nhân dân huyện Long
Hồ tỉnh Vĩnh Long liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà” là hợp lý.

Việc Tòa án quyết định bà T đang chiếm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AM090902 do ủy ban nhân dân huyện Long Hồ cấp ngày 29/2/2008 cho hộ ông Võ
Văn B là trái pháp luật. Căn cứ vào lẽ công bằng, Hội đồng xét xử yêu cầu ông Võ
Văn B và bà Bùi Thị H buộc bà Nguyễn Thị Thủy T có nghĩa vụ giao trả giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AM090902 số vào sổ H55802 do Ủy ban nhân dân huyện
Long Hồ cấp ngày 29/02/2008 cho hộ ông Võ Văn B là hoàn toàn hợp lý. Việc con
ông B mang thế chấp giấy tờ chứng nhận sử dụng đất không có giá trị pháp lý về mặt

6
hình thức, nhưng việc vay tiền của con ông B và bà T vẫn tồn tại và hai bên có nghĩa
vụ với nhau.

7. Bitcoin là gì?

Bitcoin là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi Satoshi Nakamoto dưới dạng
phần mềm mã nguồn mở từ năm 2009. Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng
thiết bị kết nối Internet mà không cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào.
Bitcoin có cách hoạt động khác hẳn so với các loại tiền tệ điển hình, như không có
một ngân hàng trung ương nào quản lý và hệ thống hoạt động dựa trên một giao thức
mạng ngang hàng trên Internet. Sự cung ứng Bitcoin là tự động, hạn chế, được phân
chia theo lịch trình định sẵn dựa trên các thuật toán. Bitcoin được cấp tới các máy
tính “đào” Bitcoin để trả công cho việc xác minh giao dịch Bitcoin và ghi chúng vào
cuốn sổ cái được phân tán trong mạng ngang hàng, thông qua công nghệ blockchain.
Cuốn sổ cái này sử dụng Bitcoin là đơn vị kế toán. Mỗi Bitcoin có thể được chia nhỏ
tới 100 triệu đơn vị nhỏ hơn gọi là satoshi. Bitcoin là loại tiền mã hóa điển hình nhất,
ra đời đầu tiên và được sử dụng rộng rãi nhất trong thương mại điện tử. Các doanh
nghiệp có xu hướng muôn thanh toán bằng Bitcoin để giảm thiểu chi phí

8. Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản không?
Các bị cáo cho rằng bị cáo chiếm đoạt tiền điện tử ảo, nhưng hiện nay pháp luật chưa
có quy định cụ thể về tiền điện tử (tiền ảo) và đây không phải là tài sản theo quy định
tại điều 105 BLDS nên Bản án sơ thẩm xác định các bị cáo chiếm đoạt
18.880.000.000 đồng (quy đổi từ 86,91 Bitcoin).

9. Ở các vụ việc về Bitcoin, Toà án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt
Nam không?
Toà án không xác định Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam theo điều 105
BLDS 2015: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” Điều 3 Luật

7
Thương mại năm 2005: “Hàng hóa bao gồm: tất cả các loại động sản, kể cả động sản
hình thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai”. Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam không chấp nhận tiền ảo là tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp pháp. Nghị
định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định chế tài xử phạt vi
phạm hành chính đối với hành vi phát hành, cung ứng và sử dụng phương tiện thanh
toán không hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự. Công văn số 881/TTra
ngày 15/10/2013 của Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông về việc cung cấp
thông tin phục vụ công và Công văn số 125/BTR-TTRA.m ngày 09/12/2013 của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh tỉnh Bến Tre (BL 227 và 230) đều xác
định: pháp luật hiện hành không quy định ngành nghề kinh doanh nạp tiền ảo và
cũng không có khái niệm tiền ảo, đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào
điều chỉnh về việc mua bán tiền ảo trên Internet.

10. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật
mà anh/chị biết?

Bitcoin được một số quốc gia chấp nhận là một phương thức thanh toán chính thức,
là một loại tài sản hợp pháp, ví dụ như là quốc gia Irasel (Cơ quan Thuế Israel đã đưa
ra một tuyên bố nói rằng bitcoin và các loại tiền điện tử khác sẽ không thuộc định
nghĩa pháp lý về tiền tệ và không phải là an ninh tài chính mà là tài sản chịu thuế.
Mỗi lần bán bitcoin, người bán sẽ phải trả 25% thuế lợi tức vốn. Những người khai
thác, buôn bán bitcoin sẽ được coi là doanh nghiệp và sẽ phải trả thuế thu nhập doanh
nghiệp cũng như tính thuế VAT 17%), Lebanon (Hợp pháp nhưng Chính phủ
Lebanon đã đưa ra cảnh báo không khuyến khích sử dụng bitcoin và các hệ thống
tương tự khác.)
11. Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản của Việt Nam không? Vì sao?
Theo tôi, không nên coi Bitcoin là tài sản của Việt Nam, Đồng tiền Bitcoin mang
những ưu điểm vượt trội và là một khởi đầu cho một xu thế mới trên phạm vi toàn
cầu. Bên cạnh đó, Bitcoin vẫn tiềm tàng rất nhiều nhược điểm đến từ tuổi đời non trẻ

8
chưa tới 10 năm của nó, nhiều trong số đó là tiền đề để các hệ thống pháp lý xem xét
và nhận định đây có thực sự là “tài sản” hay không: Bitcoin có thể bị mất nếu xảy ra
vấn đề về ổ cứng, dữ liệu bị nhiễm virus hay các tập tin bị hỏng thì bitcoin sẽ bị mất
và không cách nào khôi phục được; Bitcoin luôn biến động khó lường mà sự biến
động của đồng bitcoin vượt xa mức độ biến động của các đồng tiền truyền thống;
Bitcoin chứa đựng rủi ro lỗ hổng kỹ thuật do nó là một hệ thống công nghệ máy tính,
dễ dàng gây nguy hiểm cho người dùng về mặt tài chính, đặc biệt ở Việt Nam, công
nghệ chưa thật sự phát triển nên việc Bitcoin bị hack, đánh sập là một điều dễ dàng
đối với các hacker nước ngoài.
Ở Việt Nam, khung pháp lý về tiền kỹ thuật số, hay còn gọi là tiền ảo, đang được
hoàn thiện, hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào xác định tiền kỹ thuật số,
tiền ảo là hàng hóa.

12. Quyền tài sản là gì?

Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các
quyền tài sản khác.”

13. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản
không?

Không có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản làquyền
tài sản. Theo Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằn gtiền,
bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác.”, với Điều luật này chỉ đưa ra đặc điểm “quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền” chứ không khẳng định quyền thuê quyền mua được
xem là quyền tài sản.

9
14. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Toà án nhân dân tối cao theo hướng quyền
thuê, quyền mua là tài sản?

Đoạn nhận định số [1] của Tòa án trong quyết định số 05/2018/DS-GĐT cho thấy
Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản:

“[1] Nguồn gốc căn nhà số 63 (tầng 2) đường V, phường X, quận I (nay là đường B,
phường H, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh) là do Bộ tư lệnh Quân khu 7 tiếp quản ,
sử dụng từ sau ngày giải phóng Miền Nam. Năm 1981, Quân khu 7 cấp “Giấy phép
quyền sở hữu sử dụng” số 092/QĐ ngày 16-4-1981 cho cụ T là “để tạo mọi điều kiện
chỗ ăn, ở cho gia đình cán bộ, ổn định lâu dài và cấp do hoàn cảnh gia đình không có
nhà ở”, tại thời điểm cấp bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Văn T1 (con cụ T) sống
chung với cụ T. Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được quân khu 7
xét cấp nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời
điểm cụ T chết năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nếu
trên. Theo quy định tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật dân sự năm 1995, quyền thuê,
mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển
giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền
thuê, mua hóa giá nhà của cụ T.”

15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao trong Quyết
định số 05 về quyên thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)?

Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ
ra rằng quyền thuê, quyền mua hóa giá nhà cũng là loại quyền tài sản (trị giá được
bằng tiền) và có thể được chuyển giao cho các thừa kế
Điều 105 BLDS năm 2015 quy định “Quyền tài sản” là một loại “Tài sản”, và Điều
115 BLDS năm 2015 cũng định nghĩa rằng “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền”

10
Vì vậy, theo tôi, tôi cho rằng lập luận trong quyết định của giám đốc thẩm về vấn đề
pháp lý nêu trên đã đáp ứng được các tiêu chí tuân thủ pháp luật và hợp lý.

II. Căn cứ xác lập quyền sở hữu

1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng
định này của toà án?

Đoạn của Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao cho thấy khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “ Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng
Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ
Hảo và nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam
sinh sống từ năm 1954, ông Chính cũng không xuát trình được tài liệu cụ Hảo uỷ
quyền cho ông Chính quản lí căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chi Vân tại
nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này là bố chị Vân
và chị Vân tiếp tục ở.”

Đây là việc tranh chấp không có căn cứ pháp luật cụ thể là đã làm mất giấy tờ thuê
nhà. Mà theo lời chị Vân thì gia đình chị đã ở nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954 tới lúc
bị khởi kiện là năm 2004 tức là 50 năm, đã trên ba mươi năm. Còn theo lời ông
Chính thì đã cho gia đình chị Vân thuê từ năm 1968 tới lúc khởi kiện là năm 2004
tức là 36 năm, cũng đã trên ba mươi năm. Vậy trong cả 2 trường hợp thì gia đình chị
Vân đều chiếm hữu nhà đất có tranh chấp.

2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Toà án?
11
Đoạn Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh
chấp trên 30 năm:

“… đến năm 2004 cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Toà án yêu cầu chị Vân trả nhà là
không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia
đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công
khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 BLDS về xác lập quyền sở hữu theo thời
hiệu: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi
năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu
chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều này…”

Khẳng định này của Tòa án là phù hợp với pháp luật hiện hành vì căn cứ theo Điều
180 BLDS 2015 quy định là “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người
chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.”

Việc gia đình chị Vân thuê căn nhà từ gia đình cụ Hảo thực chất là chuyển giao
quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự nên để được xem là chiếm hữu có căn
cứ pháp luật thì phải phù hợp với Khoản 3 Điều 183 BLDS 2005: “Người được
chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của
pháp luật.”

Tuy nhiên, quyết định của Tòa án về việc gia đình chị Vân chiếm hữu ngay tình căn
nhà số 2 Hàng Bút chỉ phù hợp với pháp luật hiện hành chứ chưa hợp tình, hợp lý:
Về thời điểm, hợp đồng cho thuê nhà giữa ông Hải và ông Chính được xác lập vào
giai đoạn trước năm 1975, (trước khi nước ta ra đời Bộ luật Dân sự đầu tiên vào năm
1995). Bên cạnh đó, gia đình chị Vân vẫn đóng tiền thuê nhà đầy đủ cho tới thời
điểm ông Hảo vào Nam sinh sống.

12
3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm
hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/ chị về
khẳng định này của Toà án:
Đoạn cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có
tranh chấp trên 30 năm:
“ Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954,
lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này là bố chị Vân và chị vân tiếp tục ở.”… “Gia
đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công
khai theo quy định tại khoản 1 điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba
mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm
bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này…”.”

Theo Tòa án, thời gian muộn nhất gia đình chị Vân có thể bắt đầu ở là vào năm
1954, từ mốc thời gian đó đến thời điểm kiện là năm 2004 đã là năm liên tục thì
trong 50 năm đó phía nguyên đơn khai đã có đòi nhà, cụ thể là từ sau năm 1975
nhưng không có tài liệu pháp lý phù hợp để chứng thực điều này, từ đó thiếu cơ sở
xác minh căn nhà có tranh chấp giữa hai bên. Các tình tiết vụ án đã cho thấy gia đình
chị Vân chiếm hữu ngôi nhà trong một khoảng thời gian dài mà không có tranh chấp.
Từ đây có thể thấy tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất
trên 30 năm là hợp lý.

4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định
này của Toà án:

13
“… Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên
tục, công khai theo quy định tại khoản 1 điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở
hữu theo thời hiệu “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động
sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời
điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này…”.”

Gia đình chị Vân đã sử dụng ngôi nhà tranh chấp với mục đích chủ đạo là nơi sinh
sống và sinh hoạt. Đồng thời đã có sửa chữa, nâng cấp ngôi nhà trong quá trình sinh
sống. Ngôi nhà số 2 Hàng Bút đã được sử dụng theo đính tính năng, công dụng và
được người chiếm hữu là gia đình chị Vân bảo quản và giữ gìn như tài sản của mình.
Như vậy, khẳng định của toà án là thuyết phục

5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Toà án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ
sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/ chị về khẳng định này của
toà án?

Theo Quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09-09-2013 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, có đoạn: “…Đến năm 2004, cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra
tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo không còn là chủ
sở hữu nhà đất như trên.” Đã khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có
tranh chấp.

Việc Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp dựa
vào lời khai của nguyên đơn và bị đơn là chưa thuyết phục, vì những lý do sau:

- Thứ nhất, nhà số 2 Hàng Bút, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội là thuộc quyền sở hữu của
cụ Hảo. Dù cụ Hảo có vào Nam sinh sống nhưng vẫn chưa từ bỏ quyền sở hữu đối

14
với căn nhà đó, không có chứng minh nào cho thấy cụ không còn là chủ sở hữu căn
nhà.
- Thứ hai, năm 2004, cụ Hảo có di chúc giao quyền bất động sản số 2 Hàng Bút cho
bà Nguyễn Thị Châu toàn quyền sở hữu (di chúc có xác nhận của Ủy ban nhân dân
xã Kim Chung). Di chúc có xác nhận của UBND xã là di chúc hợp pháp theo quy
định.

6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?

Theo Điều 236 BLDS 2015 quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm
đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể
từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan
quy định khác.”

Gia đình chị Vân đã ở tại nhà đất có tranh chấp trên từ năm 1954 đến năm 2004 (thời
điểm cụ Hảo đưa khởi kiện ra Toà yêu cầu chị Vân trả nhà) thì đã được 50 năm. Vì
vậy, theo quy định thì hị Vân đã chiếm hữu bất động sản trên 30 năm nên trở thành
chủ sở hữu của tài sản này nên gia đình chị được xác lập quyền sở hữu đối với nhà
đất có tranh chấp.

III. Chuyển rủi ra đối với tài sản:

1. Ai phải chịu trách nhiệm rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.

Sự cố cháy hàng xảy ra sau khi bà Dung là bên mua nhận hàng. Hơn nữa, ở đây
giữa bà Dung và bà Thủy cũng không có thỏa thuận khác, trường hợp này luật

15
cũng không có quy định khác. Vì vậy, bà Dung phải chịu rủi ro đối với tài sản kể
từ thời điểm nhận tài sản.

Theo Khoản 1 Điều 411 BLDS 2015: “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước
khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời
điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Khoản 1 Điều 161 quy định: “ 1. Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường
hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp
luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền
sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao. Thời
điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp
pháp của họ chiếm hữu tài sản. “

Khoản 1 Điều 162 quy định: Chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định
khác”
Tại thời điểm cháy chợ, ghe xoài đã được bà Thủy chuyển giao cho bà Dung. Vì
vậy, ghe xoài thuộc sở hữu của bà Dung vào thời điểm xảy ra sự cố cháy chợ.
3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời?

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 411 BLDS 2015 quy định: “Bên bán chịu rủi ro đối với
tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài
sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có
quy định khác.”

16
Và Điều 162 BLDS 2015 quy định:
“1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi
quyền của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc
Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

Bà Dung nhận ghe xoài trước khi xảy ra sự cố cháy chợ. Việc chuyển giao đã diễn
ra hoàn tất, bà Dung là chủ sở hữu của ghe xoài vào thời điểm xảy ra sự cố. Bà
Dung phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình. Đồng thời, bà Dung có
nghĩa vụ thanh toán tiền ghe xoài, cụ thể là 16.476.250đ cho bà Thủy, là người đã
hoàn thành nghĩa vụ giao chiếc ghe nguyên vẹn cho bà Dung.

17

You might also like