You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT
BỘ MÔN LUẬT DÂN SỰ

***

MÔN: LUẬT DÂN SỰ


BÀI TẬP THẢO LUẬN TUẦN THỨ BA
TÀI SẢN VÀ QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN
LỚP CLC48(A)

Giáo viên hướng dẫn: ThS. Ngô Thị Anh Vân


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Lê Uyên Nhi
Mã số sinh viên: 2353801011215

—————— TP. Hồ Chí Minh – 2024 ——————


MỤC LỤC

BÀI TẬP SỐ 1 ............................................................................................................................... 2


1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về ................. 2
giấy tờ có giá? ............................................................................................................................ 2
1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận.................... 2
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho ....................... 2
câu trả lời không? ...................................................................................................................... 2
1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”
có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời không? Vì sao? ............ 3
1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến “giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu có điều
kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài) ........................................................................... 3
1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu
nhà có là tài sản không? Vì sao? ................................................................................................. 4
1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến “giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà”. ........................................................... 4
1.7. Bitcoin là gì? ........................................................................................................................ 5
1.8. Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản không? ............................. 5
1.9. Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp luật Việt Nam
không? ....................................................................................................................................... 6
1.10. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà
anh/chị biết ................................................................................................................................ 6
1.11. Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì sao? ............................... 7
1.12. Quyền tài sản là gì? ............................................................................................................ 7
1.13. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền tài sản
không? ....................................................................................................................................... 7
1.14. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng quyền thuê,
quyền mua là tài sản? ................................................................................................................. 8
1.15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số
05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài sản)? ................................... 8
BÀI TẬP 2 ..................................................................................................................................... 9
2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa
án? ............................................................................................................................................. 9
2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này
của Tòa án? ............................................................................................................................. 10
2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này
của Tòa án? ............................................................................................................................. 10
2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu
công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này
của Tòa án? ............................................................................................................................. 11
2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở hữu
nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định này của Tòa án? ............ 12
2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp
trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao? .................................................. 12
BÀI TẬP 3 ................................................................................................................................... 14
3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời .. 14
3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời ................... 14
3.3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời ............................................................................................................................................ 15
Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................................................... 16
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

BÀI TẬP SỐ 1
Khái niệm tài sản

1.1. Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh họa về
giấy tờ có giá?
• Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý?
- Giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện nay đặc biệt là
giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Giấy tờ có giá được
hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền, được quy ước một giá trị nhất định, xác định quyền
tài sản của một chủ thể nhất định, và chuyển giao được trong giao lưu dân sự, là phương
tiện thanh toán chung, có thể thay thế trong lưu thông.
- Căn cứ theo khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 có nêu: "Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản". Từ đây có thể thấy trước hết, giấy tờ có giá được xem là một loại tài
sản.
- Căn cứ theo khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010: “Giấy tờ
có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với
người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và những điều
kiện khác.”
• Ví dụ minh họa: Căn cứ theo Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 có
nêu về một số loại giấy tờ có giá như: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, Trái
phiếu chính phủ, tín phiếu, công trái, các loại chứng khoán, trái phiếu đầu tư doanh
nghiệp…

1.2. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho
câu trả lời không?
- Về thực tiễn xét xử, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem là một
loại giấy tờ có giá mà chỉ được xem xét là một chứng thư pháp lý thể hiện quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu các tài sản liên quan, gắn liền với đất.
o Tại Quyết định số 06, Tòa án đã nhận định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền,
không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”
o Tại Bản án số 39, Tòa án nhận định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư
pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác
gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này

2
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật dân sự.”

1.3. Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết định số 06 và Bản án số 39 có cho câu trả lời
không? Vì sao?
- Về thực tiễn xét xử, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem là một loại
giấy tờ có giá mà chỉ được xem xét là một chứng thư pháp lý thể hiện quyền sử dụng đất
và quyền sở hữu các tài sản liên quan, gắn liền với đất.
o Tại Quyết định số 06, Tòa án đã nhận định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng quyền,
không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”
o Tại Bản án số 39, Tòa án nhận định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư
pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác
gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, cho thấy nội dung này
hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật dân sự.”

1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Quyết định số 06 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” nhìn từ khái
niệm tài sản (và nếu có điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước ngoài)
Về khái niệm tài sản, tại khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 có nêu: "Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản".
Hướng giải quyết của thực tiễn xét xử liên quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà" chưa thỏa đáng nếu nhìn từ khái niệm tài sản vì:
Trong Quyết định số 06, Tòa án đã đưa ra nhận định rằng: “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất chỉ là văn bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, là văn bản chứng
quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại giấy tờ có giá.”.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã tồn tại dưới một hình thức vật chất nhất định,
có hình dạng là tờ giấy, nằm trong khả năng chiếm hữu của con người và có giá trị sử dụng.
Việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không tham gia vào giao dịch trao đổi cũng
không làm mất đi bản chất tài sản của nó. Trên thực tế, cũng có những tài sản mà Nhà nước
ta cấm lưu thông như: vũ khí, trang thiết bị quân dụng.
Việc coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải tài sản có thể ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền lợi của người sử dụng đất. Cụ thể, theo quy định hiện hành của Pháp luật
Việt Nam, quyền sở hữu và từng nội dung riêng lẻ khác của quyền sở hữu (quyền chiếm

3
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) chỉ có thể thực hiện trên đối tượng là tài sản. Như
vậy, việc coi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản đã tước bỏ đi quyền
chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất đối với loại giấy tờ này.

1.5. Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng
nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?
Nếu áp dụng BLDS năm 2015, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận
sở hữu nhà” vẫn không thể được xem là tài sản vì:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà không phải là tài
sản. Vì nó không phải là vật, tiền, giấy tờ có giá đồng thời cũng không phải là quyền tài
sản mà nó chỉ là tờ công chứng của các cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền lợi về
tài sản của chủ thể. Trường hợp nếu chủ thể bị mất giấy chứng nhận có thể yêu cầu cấp lại.
Nó không làm ảnh hưởng gì đến quyền lợi của chủ sở hữu.
- Căn cứ theo khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 có nêu: "Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản". Tại đây, có thể thấy “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy
chứng nhận sở hữu nhà” không được liệt kê cụ thể như một loại tài sản. Còn nếu xét “giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà” là một vật và từ đó xem là
tài sản cũng là không hợp lý, bởi 2 loại giấy tờ này về cơ bản không phải là đối tượng của
các giao dịch dân sự.
- Căn cứ theo Điều 115 BLDS 2015 có nêu: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và
các quyền tài sản khác.”. Tại đây, việc quy định cụ thể Quyền tài sản là quyền sử dụng đất
đã chỉ ra rằng trong các giao dịch dân sự liên quan đến nhà đất thì chính nhà đất (và các tài
sản có liên quan đến nhà đất đó) mới là tài sản chứ không phải các giấy tờ chứng thư pháp
lý cho quyền sử dụng đất.

1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Bản án số 39 liên quan đến
“giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà”.
Hướng giải quyết của TAND trong Bản án số 39, Tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông B và bà H, yêu cầu bà T giao trả lại cho ông B bà H giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là hoàn toàn thỏa đáng đảm bảo quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên, đồng
thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Vì Tòa án đã nhận định rằng:
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền
sử dụng đất, cho thấy nội dung này hàm chứa một số quyền về tài sản gắn liền với đất nên
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.” Dù Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

4
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

không phải là loại giấy tờ có giá. Tuy nhiên, có thể xem nó là vật là một vật tài sản gắn liền
với đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một loại giấy tờ có ý nghĩa quan trọng thể
hiện sự công nhận của nhà nước đối với người sử dụng đất hợp pháp, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cũng là một trong những căn cứ cho phép xác định thẩm quyền của các
cơ quan có liên quan trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất.

1.7. Bitcoin là gì?


Bitcoin là một loại tiền mã hóa, được phát minh bởi Satoshi Nakamoto dưới dạng phần
mềm mã nguồn mở từ năm 2009, đây cũng chính là đồng tiền điện tử đầu tiên trên thế giới,
đặt nền móng cho sự phát triển của thị trường trao đổi tiền kỹ thuật số toàn cầu. Bitcoin có
thể được trao đổi trực tiếp bằng thiết bị kết nối Internet mà không cần thông qua một tổ
chức tài chính trung gian nào.

Bitcoin có cách hoạt động khác hẳn so với các loại tiền tệ điển hình, như không có một
ngân hàng trung ương nào quản lý và hệ thống hoạt động dựa trên một giao thức mạng
ngang hàng trên Internet. Sự cung ứng Bitcoin là tự động, hạn chế, được phân chia theo
lịch trình định sẵn dựa trên các thuật toán. Bitcoin được cấp tới các máy tính “đào” Bitcoin
để trả công cho việc xác minh giao dịch Bitcoin và ghi chúng vào cuốn sổ cái được phân
tán trong mạng ngang hàng, thông qua công nghệ blockchain. Cuốn sổ cái này sử dụng
Bitcoin là đơn vị kế toán. Mỗi Bitcoin có thể được chia nhỏ tới 100 triệu đơn vị nhỏ hơn
gọi là satoshi. Bitcoin là loại tiền mã hóa điển hình nhất, ra đời đầu tiên và được sử dụng
rộng rãi nhất trong thương mại điện tử. Các doanh nghiệp có xu hướng muốn thanh toán
bằng Bitcoin để giảm thiểu chi phí.

1.8. Theo các bị cáo trong vụ án “Cướp tài sản”, Bitcoin có là tài sản không?
Trong bản án có ghi nhận: “Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo và các luật sư bào
chữa cho các bị cáo cho rằng các bị cáo chiếm đoạt tiền điện tử (tiền ảo), nhưng hiện nay
pháp luật chưa có quy định cụ thể về tiền điện tử (tiền ảo) và đây không phải là tài sản
theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự nên Bản án sơ thẩm xác định các bị cáo chiếm
đoạt 18.880.000.000 đồng (quy đổi từ 86,91 Bitcoin). Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử xác
định các bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ
luật tố tụng hình sự”.
Từ đây có thể thấy, các bị cáo trong vụ án đều không thừa nhận Bitcoin là một loại tài
sản vì cho rằng pháp luật hiện nay chưa có quy định cụ thể về tiền điện tử (tiền ảo).

5
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

1.9. Ở các vụ việc về Bitcoin, Tòa án có xác định Bitcoin là tài sản theo pháp luật
Việt Nam không?
Trong các vụ việc về Bitcoin, Tòa án thường không công nhận Bitcoin là tài sản vì trên
thực tế pháp luật Việt Nam chưa có bất kì quy định nào liên quan đến Bitcoin, kể cả quy
định về việc Bitcoin có phải là tài sản hay không. Tuy nhiên, các vụ việc liên quan đến
Bitcoin thường sẽ được xem xét theo nhiều hướng khác như liên quan tới hành vi của chủ
thể thay vì chỉ tập trung vào vấn đề Bitcoin có phải tài sản hay không.
Lấy ví dụ, trong vụ việc tại bản án số 841/2023/HS-PT ngày 1/11/2023, phía bên bị cáo
có khai nhận cướp số Bitcoin tương đương 37 tỷ đồng và cho rằng hành vi này không thể
xem là hành vi cướp tài sản vì pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận Bitcoin là tài sản. Tòa đã
bác bỏ quan điểm trên như sau: "Tội cướp là tội cấu thành hình thức. Các bị cáo khai nhận,
ngay từ đầu đã lên kế hoạch để cướp 1.000 Bitcoin, trị giá 200 tỷ đồng của bị hại. Thực tế,
các bị cáo đã cướp số Bicoin quy đổi ra tiền VNĐ là hơn 37 tỷ đồng và bán để chia nhau
hưởng lợi. Do đó, cáo trạng truy tố các bị cáo tội Cướp tài sản là đúng người, đúng tội".1

1.10. Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không? Nếu có, nêu hệ thống
pháp luật mà anh/chị biết
Mỗi quốc gia khác nhau đều sẽ có những quan điểm khác nhau về Bitcoin, có nhiều
quốc gia không công nhận Bitcoin là tài sản, nhưng cũng có nhiều quốc gia thừa nhận điều
ngược lại. Hiện nay trên thế giới chia ra là 3 xu hướng:
1. Công nhận Bitcoin là tài sản để điều chỉnh và quản lý.
- Các quốc gia khác nơi tiền điện tử cũng bắt đầu nhận được sự công nhận bao gồm:
Argentina, Malaysia, Thái Lan, Mỹ, Nga, Úc, Nhật Bản. Cụ thể:
Bitcoin bắt đầu được Chính phủ Nhật Bản thừa nhận từ năm 2016 tại Đạo luật dịch vụ
thanh toán năm 2009 (sửa đổi, bổ sung năm 2016). Cụ thể tại Điều 2 Khoản 5, Luật Dịch
vụ thanh toán quy định: “Tiền kỹ thuật số được hiểu là: Giá trị tài sản có thể được sử dụng
làm khoản thanh toán cho việc mua bán, cho thuê hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ bởi
những người không xác định và có thể chuyển nhượng qua hệ thống xử lý dữ liệu điện
tử…”
2. Không cấm cũng nhưng không chấp nhận Bitcoin.
- Những quốc gia không thừa nhận Bitcoin là một loại tài sản bao gồm: Malaysia, Australia,
Singapore, Newzealand.
3. Hạn chế/cấm mua bán, sử dụng Bitcoin.

1
Hải Duyên, “Chủ mưu cướp Bitcoin trị giá 37 tỷ đồng lĩnh án chung thân”, Báo VnExpress ngày
16/5/2023

6
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

- Hiện nay, có 6 quốc gia trong danh sách cấm triệt để việc sử dụng tiền điện tử KTS gồm:
Iceland, Bolivia, Ecuador, Bangladesh, Kyrgyzstan và Việt Nam.

1.11. Theo anh/chị, có nên coi Bitcoin là tài sản ở Việt Nam không? Vì sao?
Theo tôi, nếu có sự nghiên cứu kỹ càng và đào sâu hơn về lĩnh vực này, việc coi Bitcoin
là một loại tài sản ở Việt Nam là điều nên xảy ra vì:
Việc xem xét Bitcoin là một loại tài sản sẽ cung cấp một cơ sở pháp lý vững chắc để
giải quyết các tranh chấp liên quan đến Bitcoin, đặc biệt là trong bối cảnh số lượng các vụ
tranh chấp tài sản hoặc vụ án liên quan đến Bitcoin đang tăng lên trong những năm gần
đây. Điều này đặt ra nhu cầu cần phát triển các cơ sở pháp lý liên quan đến tính hợp pháp
của Bitcoin và việc xem xét Bitcoin như một loại tài sản
Thị trường Bitcoin trên phạm vi toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ. Sự tiến bộ của Công
nghệ 4.0 đang góp phần làm cho Bitcoin trở nên phổ biến trên rộng khắp nhiều quốc gia,
đặc biệt là ở các nền kinh tế phát triển. Do đó, việc công nhận Bitcoin là một tài sản sẽ
đánh dấu những bước tiến đầu tiên của Việt Nam trong quá trình hội nhập với cộng đồng
quốc tế.
Tại Việt Nam, Bitcoin cũng đã thu hút sự quan tâm và đầu tư của nhiều người, mặc dù
chưa được coi là tài sản và chưa được sử dụng trong các giao dịch dân sự. Sự quan tâm này
là minh chứng cho việc cộng đồng người dùng Bitcoin ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ và
có sự nhận thức đúng đắn về vấn đề này, đảm bảo một môi trường sử dụng Bitcoin văn
minh và không tạo ra những vấn đề xã hội cho Nhà nước.

1.12. Quyền tài sản là gì?


Căn cứ theo Điều 115 BLDS 2015 có quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng
đất và các quyền tài sản khác.”
Từ đây có thể hiểu, Quyền tài sản về cơ bản là quyền sở hữu và sử dụng đối với tài sản
và là quyền trị giá được bằng tiền. Quyền tài sản có thể bao gồm quyền sở hữu trí tuệ,
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.

1.13. Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền
tài sản không?
Theo Điều 115 BLDS 2015: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm
quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài
sản khác”. Quyền thuê, quyền mua tài sản là quyền trị giá được bằng tiền khi việc cho thuê
và mua lại tài sản xảy ra khi hai chủ thể trong giao dịch chấp nhận thỏa thuận với nhau về

7
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

tiền, quyền và nghĩa vụ đối với tài sản đó. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật hiện hành,
chưa có quy định nào khẳng định quyền thuê, quyền mua là quyền tài sản.

1.14. Đoạn nào của Quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo hướng
quyền thuê, quyền mua là tài sản?
Quyết định số 05 cho thấy TANDTC theo hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản qua
đoạn:
“[1]... Như vậy, cụ T là người có công với cách mạng, nên được Quân khu 7 xét cấp
nhà số 63 đường B nêu trên theo tiêu chuẩn của sĩ quan quân đội. Đến thời điểm cụ T chết
năm 1995, cụ chưa làm thủ tục mua hóa giá nhà đối với nhà số 63 nêu trên. Theo quy định
tại Điều 188 và Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T
là quyền tài sản (trị giá được bằng tiền) và được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do
đó, bà H và ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T. ”

1.15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái niệm tài
sản)?
Theo tôi, hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Quyết định số 05 vô
cùng thuyết phục và hợp lý trong mối quan hệ với khái niệm tài sản vì:
Bộ luật Dân sự qua các thời kỳ đều có quy định khẳng định “quyền tài sản” là một
loại “tài sản” (căn cứ vào Điều 105 BLDS 2015) và đưa ra định nghĩa “quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền” (căn cứ vào Điều 115 BLDS 2015), có thể chuyển giao trong
giao dịch dân sự. Thế nhưng vấn đề đặt ra là quy định tại Điều 115 hầu như chỉ đề cập 1
cách rất chung về các quyền tài sản, ngoại trừ quyền sở hữu trí tuệ và quyền sử dụng đất,
các quyền tài sản còn lại đều được xem là “quyền tài sản khác”. Điều này dẫn đến trên thực
tế, khi xem xét các vấn đề liên quan đến các quyền đối với tài sản, quyền sở hữu cụ thể
khác thì sẽ rất khó khăn để xác định đó có phải là “tài sản” theo đúng quy định hay không.
Cụ thể trong chính Quyết định số 05, khi đưa ra hướng giải quyết là xem xét “quyền thuê,
quyền mua” là các loại “tài sản”, việc giải quyết các tranh chấp đã trở nên dễ dàng hơn khi
có thể khoanh vùng vụ việc về vấn đề “tài sản”. Quyết định của Tòa án cũng đã được quy
định thành án lệ số 31/2020/AL, và trong bối cảnh các quyền thuê, quyền mua trong thời
đại ngày nay được sử dụng ngày càng nhiều hơn, quyết định này cũng đã để lại một bài
học kinh nghiệm trong công tác xét xử, hạn chế tối đa những khúc mắc liên quan đến việc
phân định “các quyền tài sản khác” có phải là tài sản hay không.

8
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

BÀI TẬP 2
Căn cứ xác lập quyền sở hữu

2.1. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của anh/chị về
khẳng định này của Tòa án?
Cuối trang 6, đầu trang 7 của Quyết định có đoạn nêu: “Trong khi đó, chị Vân khai gia
đình chị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này
bố chị Vân và chị tiếp tục ở. Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình chị
Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh… đến năm 2004 cụ Hảo mới có
đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế cụ Hảo
không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên 30
năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật
dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”
Đối chiếu Điều 182 BLDS 2005 quy định: “Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản
lý tài sản”. và Điều 179 BLDS 2015 quy định: “Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi
phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản”. Vào
tình huống này có thể thấy quy định gia đình chị Vân đã chiếm hữu căn nhà là chính xác.
Ngoài ra, khẳng định của Tòa án là hợp lý vì nếu căn cứ theo đúng quy định mà Tòa án
viện dẫn (khoản 1 Điều 247 BLDS 2005) thì tranh chấp nhà số 2 Hàng Bút được xem là
tranh chấp tài sản không có căn cứ pháp luật do giấy tờ thuê nhà đã bị mất từ lâu. Mà nếu
theo như lời khai của chị Vân, chị và gia đình đã sống tại nhà này từ năm 1954 sau khi thuê
nhà từ cụ Hảo thì cho đến thời điểm khởi kiện (năm 2004), thời gian chiếm hữu là 50 năm.
Còn nếu xem xét theo hướng thuê nhà này từ ông Chính vào năm 1968 thì đến thời điểm
khởi kiện (năm 2004) cũng đã là 36 năm. Và theo Điều 236 BLDS 2015 quy định: “Người
chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở
thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật
này, luật khác có liên quan quy định khác”. Việc chưa xác minh được căn nhà số 2 Hàng
Bút có phải là nhà vắng chủ, nhà phố cổ được giữ lại bảo tồn, … cùng với việc gia đình chị
Vân đã sinh sống ở đây quá 30 năm, Tòa án khẳng định chị Vân đã chiếm hữu căn nhà trên
30 năm là thỏa đáng.

9
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

2.2. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trang số 7 của Bản án có đoạn nêu: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với
gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh… đến năm 2004 cụ
Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế
cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này
trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều
247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”
Khẳng định này của Tòa án là phù hợp với pháp luật hiện hành vì căn cứ theo Điều 180
BLDS 2015 quy định là “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có
căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.” Và theo Điều 189 BLDS
2005 có quy định về việc chiếm hữu không có căn cứ nhưng ngay tình cho trường hợp:
“Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại Điều 183 của Bộ luật này là chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật. Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó
là không có căn cứ pháp luật.”. Hợp đồng cho thuê nhà ở theo Điều 492 BLDS 2005 phải
được thành lập thành văn bản, nếu thời hạn thuê từ sáu tháng trở lên thì phải có công chứng
hoặc chứng thực và phải đăng kí, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc không
có căn cứ nào cho biết chính xác thời điểm ông Hải cho thuê căn nhà số 2 Hàng Bút cho
thấy tại thời điểm thuê không có văn bản nào được xác lập giữa hai bên. Nói cách khác,
hợp đồng cho thuê căn nhà số 2 Hàng Bút là không phù hợp với quy định của pháp luật.
Vì vậy, việc chiếm hữu căn nhà số 2 Hàng Bút của gia đình chị Vân là không có căn cứ
pháp luật. Các căn cứ này cũng phù hợp với khoản 1 Điều 247 BLDS 2005 như Tòa án đã
viện dẫn, thế nên việc đưa ra nhận định chị Vân chiếm hữu căn nhà này ngay tình là hợp
lý.

2.3. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trang số 7 của Bản án có đoạn nêu: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với
gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh… đến năm 2004 cụ
Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực tế
cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này
trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều
247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”

10
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

Căn cứ theo quy định của Pháp luật hiện hành thì tại khoản 1 Điều 182 BLDS 2015 có
quy định: “Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời
gian mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa
được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.”
Còn về quyết định trên của Tòa án, nếu căn cứ theo Điều 190 BLDS 2005: “Việc chiếm
hữu tài sản được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về tài sản
đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.” Theo Tòa
án, thời gian trễ nhất gia đình chị Vân có thể bắt đầu ở là vào năm 1968, từ mốc thời gian
đó đến thời điểm kiện là năm 2004 đã là 36 năm liên tục thì trong 36 năm đó phía nguyên
đơn khai đã có đòi nhà, cụ thể là từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu pháp lý phù hợp
để chứng thực điều này, từ đó thiếu cơ sở xác minh căn nhà có tranh chấp giữa hai bên.
Các tình tiết vụ án đã cho thấy gia đình chị Vân chiếm hữu ngôi nhà trong một khoảng thời
gian dài mà không có tranh chấp. Từ đây có thể thấy tòa án khẳng định gia đình chị Vân
đã chiếm hữu liên tục nhà đất trên 30 năm là hợp lý.

2.4. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị Vân đã
chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của
anh/chị về khẳng định này của Tòa án?
Trang số 7 của Quyết định có đoạn nêu: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối
với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh… đến năm 2004
cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì thực
tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà
này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1
Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”
Theo tôi, việc khẳng định của Tòa án là có tính thuyết phục. Vì theo quy định tại Điều
191 BLDS 2005: “Việc chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện
một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính
năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình”.
Theo như lời khai của nguyên đơn và bị đơn thì chị Vân và gia đình của chị Vân đã sinh
sống ở đây 1 cách công khai, minh bạch, không có thái độ giấu giếm. Căn cứ theo lời khai
của chị Vân thì hàng năm gia đình chị đóng tiền thuê nhà cho ông Chính cho tới năm 1995,
khi ông Hải - ông nội của chị mất thì gia đình không đóng tiền thuê nhà nữa, sau đó khi bố
chị qua đời năm 1997 thì chị cũng không trả tiền nhà cho ai và trong quá trình cư trú, bố
chị có nâng cao nền nhà, thay cửa. Chị sử dụng ngôi nhà đúng mục đích (là để sinh sống,
sinh hoạt) và cũng bảo quản, giữ gìn như tài sản của mình. Như vậy, gia đình chị hoàn toàn

11
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

đáp ứng đủ điều kiện được nêu trong quy định về chiếm hữu công khai theo BLDS 2005,
việc Tòa khẳng định là hoàn toàn có cơ sở.

2.5. Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là
chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/chị về khẳng định
này của Tòa án?
Trang số 7 của Quyết định có đoạn nêu: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối
với gia đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh… đến năm 2004
cụ Hảo mới có đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ vì
thực tế cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại căn
nhà này trên 30 năm là chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1
Điều 247 Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu…”
Khẳng định của tòa án là không hợp lý. Bởi vì nếu căn cứ theo khoản 1 điều 247 Bộ
luật dân sự 2005 thì còn chưa hợp lý vì vẫn chưa xác minh được là ông Hải thuê nhà của
cụ Hảo năm 1954 hay ông thuê nhà của ông Chính (con của cụ Hảo) vào năm 1968. Ông
Chính thì lại không xuất trình được giấy tờ nào chứng minh cụ Hảo ủy quyền cho ông quản
lý căn nhà. Đồng thời nhà số 02 có bằng khoán điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng ký
trước bạ ngày 4/11/1946, là tài sản riêng của cụ và theo khoản 2 điều 186 Bộ luật dân sự
2005 thì “Người được giao tài sản có quyền sử dụng tài sản được giao, được chuyển quyền
chiếm hữu, sử dụng tài sản đó cho người khác, nếu được chủ sở hữu đồng ý.” Trong quyết
định trên chưa tìm thấy các chứng cứ xác minh rằng cụ Hảo đồng ý cho ông Chính sử dụng
tài sản của mình.

2.6. Theo anh/chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có
tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?
Theo quy định tại khoản 1 điều 247 Bộ luật dân sự 2005 về xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình,liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối
với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”. Gia đình chị Vân không được xác lập quyền
sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền, bởi vì
gia đình chị Vân dù được xác định là đã ở căn nhà trên 30 năm, chiếm hữu, liên tục, công
khai nhưng không thuận tình. Bởi vì vẫn chưa xác định được người cho thuê là ông Chính
hay cụ Hảo và cụ có giấy tờ để xác định mình là người sở hữu tài sản. Vì thế nên việc
chiếm hữu tài sản của chị Vân không phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự, tức là người
chiếm hữu không phải là chủ sở hữu; không phải được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài
sản, không phải là người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự

12
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

phù hợp với ý chí của chủ sở hữu. Ngoài ra, Nội dung này xác định quyền sở hữu của gia
đình chị Vân sẽ được tính từ thời điểm chị bắt đầu chiếm hữu, hoàn toàn không giống với
quy định tại điều 155 BLDS 2005 như sau: “Thời hiệu hưởng quyền dân sự là thời hạn mà
khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự.”. Quy định này cũng tương
đương với quy định của pháp luật hiện hành (cụ thể tại khoản 1 Điều 150 BLDS 2015). Vì
thế, gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà số 2 Hàng Bút theo
quy định về thời hiệu hưởng quyền.

13
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

BÀI TẬP 3
Chuyển rủi ro đối với tài sản

3.1. Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời
Chủ sở hữu và chủ thể có quyền khác đối với tài sản thuộc sở hữu của mình phải chịu
rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS.
CSPL:
- Theo Điều 162 BLDS 2015:
1. Chủ sở hữu phải chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải chịu rủi ro về tài sản trong phạm vi quyền
của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với chủ sở hữu tài sản hoặc Bộ luật này, luật
khác có liên quan quy định khác.”
- Theo Điều 166 BLDS 2005:
“Chủ sở hữu phải chịu rủi ro khi tài sản bị tiêu hủy hoặc bị hư hỏng do sự kiện bất khả
kháng, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

3.2. Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
Tại thời điểm cháy chợ, bà Dung là chủ sở hữu số xoài. Vì bà Thuỷ đã nhận số đã đưa số
xoài cho bà Dung trước khi sự việc cháy chợ xảy ra. Kể từ thời điểm bà Dung nhận số xoài
từ bà Thủy thì bà Dung đã xác lập quyền sở hữu của mình đối với số xoài và bà Thủy đã
chấm dứt quyền sở hữu số xoài kể từ thời điểm giao cho bà Dung.
CSPL:
- Theo Điều 234 BLDS 2005:
“Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay có
quyền sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm chuyển giao tài sản, nếu các bên không có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác”.
- Theo Điều 248 BLDS 2005:
“Khi chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua hợp
đồng mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay hoặc thông qua việc để thừa kế thì quyền sở hữu
đối với tài sản của người đó chấm dứt kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người
được chuyển giao”.

14
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

3.3. Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời
Bà Dung nhận ghe xoài trước khi xảy ra sự cố cháy chợ. Việc chuyển giao đã diễn ra
hoàn tất, bà Dung là chủ sở hữu của ghe xoài vào thời điểm xảy ra sự cố. Bà Dung phải
chịu rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình. Đồng thời, bà Dung có nghĩa vụ thanh toán
tiền ghe xoài, cụ thể là 16.476.250đ cho bà Thủy, là người đã hoàn thành nghĩa vụ giao
chiếc ghe nguyên vẹn cho bà Dun.:
CSPL:
- Theo Điều 440 BLDS 2005:
1. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản mua bán cho đến khi tài sản được giao cho bên
mua, còn bên mua chịu rủi ro đối với tài sản mua bán kể từ khi nhận tài sản, nếu không có
thỏa thuận khác.
2. Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký
quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu
rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, kể cả khi bên mua chưa nhận tài sản, nếu
không có thỏa thuận khác.
- Theo Điều 441 BLDS 2015:
1. Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua, bên mua
chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác.
2. Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký
quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu
rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

15
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh Lớp CLC48A

Danh mục tài liệu tham khảo


I. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật dân sự 2005
2. Bộ luật dân sự 2015
3. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010
4. Đạo luật dịch vụ thanh toán năm 2009

II. Tài liệu tham khảo


1. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại
học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương I và Chương II;
2. Đỗ Văn Đại và Nguyễn Nhật Thanh, “Rủi ro đối với tài sản trong pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2015.
3. Trúc, D. T. (2023a, October 11). Chiếm hữu là gì? Chiếm hữu không ngay tình là
gì?. Thư viện Pháp luật. https://thuvienphapluat.vn/hoi-dap-phap luat/839E18C-hd-
chiem-huu-la-gi-chiem-huu-khong-ngay-tinh-la-gi

16

You might also like