You are on page 1of 49

MỤC LỤC

PHẦN 1............................................................................................................................. 6
Mục 1: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN HỢP LỆ.............................................................6
Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện.........6
Câu 2: Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng Yên
xác lập hợp đồng với Vinausteel?................................................................................9
Câu 3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?......................................................................................................................... 9
Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này? Có thuyết phục
không?)...................................................................................................................... 10
Câu 5: Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?.......................................................................................................................11
Câu 6: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên.....................................................................12
Câu 7: Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng có
thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng Yên không? Biết
rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Hưng Yên (như
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải được giải
quyết tại Tòa án.........................................................................................................13
Mục 2: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN KHÔNG HỢP LỆ................................................15
Câu 1: Trong Quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với Ngân
hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập)?15
Câu 2: Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm
với Ngân hàng về hợp đồng trên không?...................................................................15
Câu 3: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm........................................................................................................................... 16
Câu 4: Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân
hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex
không có quyền đại diện) thì phải xử lý như thế nào trên cơ sở BLDS 2015? Vì sao?
................................................................................................................................... 18
PHẦN 2........................................................................................................................... 20
Mục 1: HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN.................................................................20
Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sỡ hữu tài
sản............................................................................................................................. 20
Câu 2: Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn là
Quyết định 377) cho câu trả lời?...............................................................................23
Câu 3: Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sỡ hữu chung của vợ chông bà hay sở hữu
riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?..........................23
Câu 4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung
của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết
định 377 cho câu trả lời?...........................................................................................23
Câu 5: Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao?........................................................................................................................... 24
Câu 6: Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể di
chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời..............25
Mục 2: DIỆN THỪA KẾ............................................................................................27
Câu 1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu
hay không? Vì sao?...................................................................................................27
Câu 2: Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi
trên có khác không? Vì sao?......................................................................................28
Câu 3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì
sao?............................................................................................................................ 29
Câu 4: Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu đối
với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời................30
Câu 5: Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người
thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao?................31
Mục 3: THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI CHÚC.............33
Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ
tài sản của ông Lưu cho bà Xê?.................................................................................33
Câu 2: Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?.............33
Câu 3: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?.................................................................................34
Câu 4: Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?......35
Câu 5: Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?...............................................................................35
Câu 6: Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm
có được chấp nhận không? Vì sao?...........................................................................36

2
Câu 7: Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án cho
thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?.......................................38
Câu 8: Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?............38
Câu 9: Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên của
cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?............................................39
Câu 10: Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?...39
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án..........................40
Câu 12: Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao
động? Vì sao?............................................................................................................41
Câu 13: Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản........42
Câu 14: Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà,
trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì
bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không?..................45
Mục 4: NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN...............................47
Câu 1: Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên thanh
toán?.......................................................................................................................... 47
Câu 2: Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành không?.............................................................................................................48
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi
còn nhỏ đến khi trưởng thành?..................................................................................48
Câu 4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải
trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi
dưỡng con chung không?...........................................................................................49
Câu 5: Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị
hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án....................................................................49
PHẦN 3........................................................................................................................... 52
Câu 1: Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc
(về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ)............................................52
Câu 2: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định
(tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc) không? Vì
sao?............................................................................................................................ 53
Câu 3: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ hình
thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?...........................................54
Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03 quyết
định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.........................55

3
Câu 5: Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có
điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?.................................................57
Câu 6: Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở
Việt Nam?.................................................................................................................57
Câu 7: Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng.. 59
Câu 8: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên luật
hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung nào?)..........59
PHẦN 4........................................................................................................................... 61
Câu 1: Trong án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân chia
di sản?........................................................................................................................ 61
Câu 2: Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di
sản đã được Tòa án chấp nhận?.................................................................................61
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản
trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức và về
nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản.............................................................62
Câu 4: Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản.................63
Câu 5: Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa
thuận trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản?.....................................64
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Án lệ số 24/2018/AL.................................................................................................64
PHẦN 5........................................................................................................................... 66
Câu 1: Trong Án lệ số 05/2016/AL Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ
phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?........................................66
Câu 2: Trong Án lệ số 05/2016 AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục
không? Vì sao?..........................................................................................................66
Câu 3: Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công
sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?.....................................................67
Danh mục tài liệu tham khảo........................................................................................69

4
PHẦN 1
Mục 1: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN HỢP LỆ

Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện.
Trả lời:
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về người đại diện được trình
bày sau đây:
1. Đại diện
- Căn cứ: Điều 139 BLDS 2005 và Điều 134 BLDS 2015.
- BLDS 2015 thêm “pháp nhân” là người đại diện thay vì chỉ có cá nhân (là “một
người” theo BLDS 2005):
“Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân
danh vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người
được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
- Bỏ “chủ thể khác” (trong cụm cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác) là người thực
hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện trong BLDS 2005:
“Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông qua người
đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy
định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó”.
- Thay đổi điều kiện về người đại diện: từ “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 của Bộ luật này” sang “phải có năng
lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được
xác lập, thực hiện.”
2. Căn cứ xác lập quyền đại diện
- Tách Điều 135 BLDS 2015 (căn cứ xác lập quyền đại diện) ra từ khoản 3 Điều
139 BLDS 2005.
- BLDS 2015 thêm 2 căn cứ xác lập quyền đại diện là “quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền” và theo “điều lệ của pháp nhân”:
“Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người
đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật
(sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật)”.
3. Đại diện theo pháp luật
- Tách Điều 141 BLDS 2005 về người đại diện theo pháp luật ra thành 2 điều là
Điều 136 về đại diện theo pháp luật của cá nhân và Điều 137 về đại diện theo pháp
luật của pháp nhân.
- Bỏ đi quy định liên quan đến chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình; tổ trưởng tổ hợp
tác đối với tổ hợp tác

5
- Điều 137 BLDS 2015 thêm quy định về số lượng người đại diện cho pháp nhân
(Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại
diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của
Bộ luật này).
4. Đại diện theo ủy quyền
- Căn cứ: Điều 142, 143 BLDS 2005 và Điều 138 BLDS 2015.
- Gộp Điều 142 và Điều 143 BLDS 2005 thành Điều 138 BLDS 2015.
- Thay “người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân” thành “pháp nhân”, coi pháp
nhân như một chủ thể của pháp luật:
“Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự”.
- Thêm điều luật quy định về hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân:
“Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ
gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân” (khoản 2 Điều
138 BLDS 2015).
5. Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện
- Căn cứ: Điều 139 BLDS 2015.
- Là một điều khoản hoàn toàn mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005
6. Thời hạn đại diện
- Gộp Điều 147 (chấm dứt đại diện của cá nhân) và Điều 148 (chấm dứt đại diện
của pháp nhân) của BLDS 2005 thành Điều 140 (thời hạn đại diện) (BLDS 2015).
7. Phạm vi đại diện
- Căn cứ: Điều 144 BLDS 2005 và Điều 141 BLDS 2015.
- Giới hạn lại quyền người đại diện có thể thực hiện (trước đó trong BLDS 2005,
người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì
lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác)
(khoản 1 Điều 141 BLDS 2015):
Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại
diện theo căn cứ sau đây:
a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
b) Điều lệ của pháp nhân;
c) Nội dung ủy quyền;
d) Quy định khác của pháp luật.
˗ Thêm nội dung mới về số lượng có thể đại diện: Một cá nhân, pháp nhân có thể
đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân
danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình
hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác (Khoản 3 Điều 141 BLDS 2015)

6
8. Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
- Căn cứ: Điều 145 BLDS 2005 và Điều 142 BLDS 2015
- Thêm các điều khoản loại trừ với trường hợp giao dịch dân sự do người không có
quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh nghĩa vụ đối với người
được đại diện (Khoản 1 Điều 142 BLDS 2015).
- Thêm hậu quả đối với trường hợp không có quyền đại diện và người đã giao dịch
cố ý xác lập, thực hiện giao dịch, cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà gây
thiệt hại cho người được đại diện (khoản 4 Điều 142 BLDS 2015).
9. Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm
vi đại diện
- Căn cứ: Điều 146 BLDS 2005 và Điều 143 BLDS 2015
- Thêm hậu quả đối với trường hợp người đại diện và người đã giao dịch cố ý xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho
người được đại diện (khoản 4 Điều 143 BLDS 2015).
Lưu ý: những chỗ được in nghiêng phía trên là điểm mới trích trong các điều luật của
BLDS 2015.
Câu 2: Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng
Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel?
Trả lời:
Trong phần đầu của phần Nhận thấy của Quyết định cho thấy ông Mạnh đại diện
cho Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel:
“Ngày 16/01/2007, Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (gọi tắt là Công ty kim khí
Hưng Yên – bên A) – do ông Lê Văn Mạnh – Phó Tổng Giám đốc làm đại diện ký Hợp
đồng mua bán phối thép số 01/HĐPT/2007/VA-HY với Vinausteel – bên B)”1.
Câu 3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?
Trả lời:
Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm gì với Vinausteel.
Trích từ bản án: “Việc ông Lê Văn Mạnh có Bản cam kết vào ngày 01/4/2007 “xin
chịu trách nhiệm trước pháp luật và xin cam kết nhận trách nhiệm trả cho Công ty và các
bên thứ ba (trong đó có Công ty liên doanh sản xuất thép Vinausteel) tất cả các khoản nợ
và bồi thường thiệt hại phát sinh từ các giao dịch, hợp đồng” mà ông Mạnh đã ký trước
hoặc từ các giao dịch, hợp đồng của Công ty được ký kết trước đó. Tuy nhiên, Công ty
Vinausteel không tham gia ký kết, không đồng ý nên không thuộc trường hợp chuyển
giao nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khản 1 Điều 315 Bộ luật dân sự năm 2005”.
Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này? Có thuyết
phục không?)
Trả lời:
1
Quyết định số 08/2013/KTMD-GĐT NGÀY 15/03/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

7
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến ông Mạnh là thuyết
phục.
Vì ông Mạnh mặc dù đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên trực tiếp ký Hợp
đồng với Công ty Vinausteel nhưng đó là dưới danh nghĩa của Công ty chứ không phải là
của riêng ông Mạnh, nghĩa là hợp đồng này là giữa hai pháp nhân với nhau. Chính vì thế,
việc Công ty Hưng Yên không giao đủ hàng là trách nhiệm của Công ty kim khí Hưng
Yên, không liên quan đến ông Mạnh. Ông Mạnh được bà Lan ký giấy ủy quyền cho ông
để thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thường mại trong phạm vi ngành kinh doanh
của Công ty. Nên việc ông ký kết Hợp đồng với Vinausteel là hoàn toàn không vượt quá
thẩm quyền của ông, thỏa khoản 1 Điều 141 BLDS 2015về phạm vi đại diện như sau:
“1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại
diện theo căn cứ sau đây:
a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
b) Điều lệ của pháp nhân;
c) Nội dung ủy quyền;
d) Quy định khác của pháp luật.”
Về vấn đề này, PGS. TS. Đỗ Văn Đại có nhận định: “Vì người đại diện xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự trên danh nghĩa của người được địa diện nên, mặc dù người
đại diện giao dịch trực tiếp với người thứ ba, giao dịch dân dân sự không được xác lập
giữa người đại diện và người thứ ba. Về phía người đại diện, mặc dù Bộ luật dân sự
không quy định rõ, chúng ta cũng phải thừa nhận rằng người đại diện không có trách
nhiệm đối với giao dịch được xác lập hợp pháp vì bên trong giao dịch là người được đại
diện chứ không phải là người đại diện. Bộ nguyên tắc châu Âu cũng theo hướng này và
đã quy định rõ hơn chúng ta tại Điều 3:302, theo đó “người đại diện không bị ràng buộc
đối với người thứ ba””2.
Theo Luật Doanh nghiệp 2014: “Người đại diện theo ủy quyền chịu trách nhiệm
trước chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền do vi phạm các nghĩa vụ quy định tại
Điều này. Chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền chịu trách nhiệm trước bên thứ ba
đối với trách nhiệm phát sinh liên quan đến quyền và nghĩa vụ được thực hiện thông qua
người đại diện theo ủy quyền”3.
Như vậy, trách nhiệm giải quyết vấn đề này là của toàn bộ Công ty kim khí Hưng
Yên, còn ông Mạnh không phải chịu bất kỳ trách nhiệm gì đới với Công ty Vinausteel.
Tuy nhiên, ông Mạnh phải chịu trách nhiệm đối với nội bộ Công ty của mình, Công ty
kim khí Hưng Yên theo Luật Doanh nghiệp nêu trên.
Có thể thấy, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng do người đại diện ký kết trong phạm
vi đại diện không là nghĩa vụ, trách nhiệm của người đại diện mà là của bên được đại

2
Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2017
(xuất bản lần thứ 6), Bản án số 35-37, tr. 288.
3
Khoản 3 Điều 16 Luật Doanh nghiệp 2014.

8
diện. Hay nói cách khác, hợp đồng dù do người đại diện ký kết thì trách nhiệm vẫn thuộc
về pháp nhân.
Câu 5: Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?
Trả lời:
Theo Hội đồng thẩm phán, Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán
các khoản nợ và bồi thường thiệt hại với công ty Vinausteel.
Trích trong phần Xét thấy của Quyết định: “Quá trình thực hiện hợp đồng trên,
Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ hàng là trách nhiệm của Công ty kim khí
Hưng Yên”; “Công ty kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và
bồi thường thiệt hại cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhan ông Mạnh, ông
Dũng”.
Câu 6: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên.
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến Công ty kim khí
Hưng Yên nêu trên là hợp lý.
Việc Công ty kim khí Hưng Yên cho rằng việc ông Lê Văn Dũng và ông Lê Văn
Mạnh ký kết thực hiện hợp đồng thế nào Công ty không nắm được là vô lý. Vì trong
Quyết định có nhắc đến rằng Công ty kim khí Hưng Yên thừa nhận sau khi ký hợp đồng,
Công ty Vinausteel đã thực hiện nghĩa vụ chuyển tiền và Công ty kim khí Hưng yên đã
nhận đủ tiền. Cho nên việc Công ty phủ nhận trách nhiệm vì không nắm được hợp đồng
là không có căn cứ.
Ông Mạnh được bà Lan ký giấy ủy quyền cho ông để thực hiện các giao dịch dân
sự, kinh tế, thường mại trong phạm vi ngành kinh doanh của Công ty. Nên việc ông ký
kết Hợp đồng với Vinausteel là hoàn toàn không vượt quá thẩm quyền của mình, nằm
trong phạm vi đại diện thỏa khoản 1 Điều 141 về phạm vi đại diện. Ở Anh, “đại diện là
quan hệ phát sinh khi một bên, người được đại diện, cho phép người khác, người đại
diện, hành động trên danh nghĩa của họ và người đại diện chấp nhận làm việc được cho
phép”. Trong thực tế, “các nguyên tắc của đại diện mở rộng cho những trường hợp khác”
và một trong những trường hợp này là “ủy quyền đại diện có thể được đưa ra sau khi
người đại diện đã hành động trên danh nghĩa người được đại diện; hành động của người
đại diện được coi là ‘chấp thuận’”.
Do đó, theo khoản 1 Điều 139 quy định về hậu quả pháp lý của hành vi đại diện
như sau: “Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp
với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện”. Vì vậy,
Công ty kim khí Hưng Yên chịu trách nhiệm với bên thứ ba là Công ty Vinausteel.
Bộ nguyên tắc châu Âu cũng theo hướng này tại Điều 3:302, theo đó “khi người
đại diện hành động trong phạm vi đại diện như đã được định nghĩa tại Điều 3:301, các
giao dịch của người đại diện ràng buộc trực tiếp người được đại diện và người thứ ba”. Ở

9
đây, “người đại diện làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp lý giữa người
được đại diện và người thứ ba”.4
Có thể thấy, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng do người đại diện ký kết trong phạm
vi đại diện là nghĩa vụ, trách nhiệm của bên được đại diện. Nói cách khác, hợp đồng dù
do người đại diện ký thì trách nhiệm vẫn thuộc về pháp nhân, và pháp nhân không được
từ chối trách nhiệm này.
Câu 7: Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng
có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng Yên không?
Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Hưng Yên
(như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải
được giải quyết tại Tòa án.
Trả lời:
Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng có
thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận này vẫn có ràng buộc Công ty Hưng Yên.
Thứ nhất, vì có thỏa thuận trọng tài trong Hợp đồng nên điều lệ của Công ty Hưng
Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Công ty Hưng yên (như tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải được giải quyết tại Tòa án là không
được áp dụng. Vì theo Luật Trọng tài thương mại 2010: “Trong trường hợp các bên tranh
chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối
thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể
thực hiện được”5. Việc Công ty Hưng Yên có điều lệ như trên là quy định của riêng Công
ty, không thể áp dụng với một công ty khác được.
Thứ hai, theo Điều 19 Luật Trọng tài thương mại nói về tính độc lập của thỏa
thuận trọng tài như sau: “Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay
đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không
làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài.” Như vậy, dù thỏa thuận trọng tài là điều
khoản nhỏ hay văn bản đi kèm thì đều tách biệt với hợp đồng được thỏa thuận. Do đó,
Công ty Hưng Yên vẫn phải chịu trách nhiệm cho những phần khác của hợp đồng chính,
không vì có thỏa thuận trọng tài mà mất đi nghĩa vụ của mình.

4
Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2017
(xuất bản lần thứ 6), Bản án số 35-37, tr. 285.
5
Điều 6 Luật Trọng tài thương mại 2010.

10
Mục 2: TRƯỜNG HỢP ĐẠI DIỆN KHÔNG HỢP LỆ

Câu 1: Trong Quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với Ngân
hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập)?
Trả lời:
Trích từ phần Xét thấy của Quyết định:
“Công ty xây dựng số II Nghệ An có Công văn số 064CV/XDII.TCKT gửi Chi
nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An trong đó có nội dung “đề nghị Ngân hàng Công
thương Nghệ An không cho các Xí nghiệp thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ An vay
vốn khi chưa có bảo lãnh vay vốn của Công ty kể từ ngày 06/4/2001...” và “Các văn bản
của Công ty liên quan tới vay vốn tại Ngân hàng Công thương Nghệ An ban hành trước
ngày 06/4/2001 đều bãi bỏ”, nhưng ngày 14/5/2001 Ngân hàng vẫn ký Hợp đồng tín
dụng số 01/HĐTD cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền”.
Câu 2: Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm
với Ngân hàng về hợp đồng trên không?
Trả lời:
Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex phải chịu trách nhiệm với
Ngân hàng về hợp đồng trên.
Trích từ Quyết định: “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty
cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex phải trả khoản tiền nợ gốc và lãi (1.382.040.000 đồng)
cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam là có căn cứ”.
Tòa giải thích như sau:
“Khi nhận được tiền, Xí nghiệp xây dựng 4 đã mua máy móc phục vụ công việc
được Công ty giao và “cứ 6 tháng Xí nghiệp có báo cáo tài chính một lần” nên Ban giám
đốc Công ty đều biết việc vay vốn Ngân hàng của Xí nghiệp xây dựng 4 và không phản
đối. Hơn nữa, ngày 28/10/2002, Công ty xây dựng số II Nghệ An có Công văn số 44
QĐ/CTII điều chuyển một số máy móc, phương tiện vận tải của Xí nghiệp xây dựng 4
(trong đó có một số thiết bị, máy móc hình thành từ vốn vay Ngân hàng theo hợp đồng
tín dụng trên) về văn phòng cơ quan để phục vụ thi công một số công trình do Công ty
thực hiện.
Mặt khác, ngày 29/10/2004, Công ty cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex có văn bản
(thư xác nhận số dư) yêu cầu Ngân hàng Công thương Nghệ An xác nhận công nợ của Xí
nghiệp xây dựng 4 Công ty xây dựng số II Nghệ An tính đến ngày 30/6/2004; Chi nhánh
Ngân hàng Công thương Nghệ An đã xác nhận vào Thư xác nhận dư nợ: Xí nghiệp xây
dựng 4 còn nợ 1.731.000.000 đồng.

11
Như vậy, sau khi Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền Ngân hàng, Công ty xây dựng số
II Nghệ An biết và không phản đối nên Công ty xây dựng số II Nghệ An (nay là Công ty
cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex) phải chịu trách nhiệm trả khoản nợ này”6.
Câu 3: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm.
Trả lời:
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý.
Trích khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 về hậu quả của giao dịch dân sự do người
không có quyền đại diện xác lập, thực hiện:
“1. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp
sau đây:
a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc
không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có
quyền đại diện”.
Thứ nhất, việc Giám đốc Công ty xây dựng số II Nghệ An (nay là Công ty cổ phần
xây dựng 16 - Vinaconex) nói Công ty không chịu trách nhiệm vì Ngân hàng cho vay vốn
sai nguyên tắc thì phải tự chịu trách nhiệm là không có cơ sở. Ngày 25/02/2001, Tổng
giám đốc Công ty xây dựng số II có Văn bản số 23CV/TCT thông báo cho Chi nhánh
Ngân hàng Công thường Nghệ An (nay là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam –
Chi nhánh Nghệ An) biết việc Công ty đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 trực tiếp vay
vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An. Việc Công ty xây dựng số II Nghệ
An có Công văn số 06CV/SDII.TCKT ngày 06/4/2011 đề nghị Ngân hàng không cho các
Xí nghiệp thuộc Công ty vay vốn khi chưa có bảo lãnh sau đó thì vì Ngân hàng không
nhận được, nên Ngân hàng không biết là không được cho Xí nghiệp thuộc Công ty xây
dựng số II vay vốn. Ngoài ra, bên Công ty cũng không có bằng chứng chứng minh Ngân
hàng đã nhận được Công văn số 06CV/SDII.TCKT ngày 06/4/2011 nên việc Ngân hàng
vẫn tiếp tục ký kết với Xí nghiệp xây dựng 4 là việc có thể chấp nhận được, và Công văn
số 06CV/SDII.TCKT coi như không có. Theo điểm a và điểm c khoản 1 Điều 142 nêu
trên, Công ty xây dựng số II có quyền và nghĩa vụ đối với giao dịch với Ngân hàng do đã
công nhân giao dịch này.
Thứ hai, “cứ 6 tháng Xí nghiệp có báo cáo tài chính một lần” nên sau khi Xí
nghiệp 4 nhận được tiền, Ban giám đốc Công ty đều biết việc Xí nghiệp vay vốn và
không hề phản đối. Ngoài ra, Công ty xây dựng số II có văn bản yêu cầu Ngân hàng xác
nhận công nợ của Xí nghiệp xây dựng 4. Điều này cho thấy Ban giám đốc Công ty xây
dựng số II đều biết và không hề phản đối việc Xí nghiệp xây dựng 4 vay vốn. Do đó theo

6
Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

12
điểm b khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 đã được nêu ở trên, Công ty xây dựng số II phải có
trách nhiệm đối với giao dịch giữa Xí nghiệp xây dựng 4 và Ngân hàng.
Đồng quan điểm nêu trên, theo Điều 3:207 Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng,
“giao dịch được xác lập, thực hiện bởi người không có quyền được đại diện hay vượt quá
phạm vi đại diện có thể được người đại diện chấp nhận. Một khi được chấp nhận, giao
dịch được coi là đã được phép”. Với quy định này, “giao dịch của người đại diện được
coi là như đã ràng buộc người được đại diện và người thứ ba ngay từ đầu”. Tương tự như
vậy trong Bộ nguyên tắc Unidroit (Điều 2.2.9)7.
Câu 4: Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân
hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex
không có quyền đại diện) thì phải xử lý như thế nào trên cơ sở BLDS 2015? Vì sao?
Trả lời:
Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng
phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có
quyền đại diện) thì sự phản đối này của Ngân hàng không được chấp nhận.
Theo BLDS 2015 về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại
diện xác lập, thực hiện: “Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền
đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi
thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại
diện mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này” 8.
Trong trường hợp này, Công ty xây dựng số II không phản đối hợp đồng, nghĩa là
đã công nhận giao dịch theo điểm a khoản 1 Điều 142 BLDS 2015. Chính vì vậy, theo
điều luật đã nêu ở phía trên về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại
diện xác lập, Ngân hàng Công thương Nghệ An (người đã giao dịch với người không có
quyền đại diện) không có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch
dân sự đã xác lập.
Bàn về vấn đề này, PGS. TS. Đỗ Văn Đại trích dẫn một số nguyên tắc, điều luật
nước ngoài và bình luận như sau:
“Nghiên cứu so sánh cho thấy các hệ thống luật mà chúng tôi biết không cho phép
người thứ ba phủ nhận giao dịch khi người trước đó không có quyền đại diện, vượt quá
phạm vi đại diện. Chẳng hạn, theo Điều 3:302 Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng, “giao
dịch được xác lập, thực hiện bởi người không có quyền được đại diện hay vượt quá phạm
vi đại diện có thể được người đại diện chấp nhận. Một khi được chấp nhận, giao dịch
được coi là đã được phép”. Với quy định này, “giao dịch của người đại diện được coi là
như đã ràng buộc người được đại diện và người thứ ba ngay từ đầu”. Tương tự như vậy
trong Bộ nguyên tắc Unidroit (Điều 2.2.9). Ở Anh, “đại diện là quan hệ phát sinh khi một
bên, người được đại diện, cho phép người khác, người đại diện, hành động trên danh

7
Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam 2017
(xuất bản lần thứ 6), Bản án số 48-51, tr. 355.
8
Khoản 3 Điều 142 BLDS 2015.

13
nghĩa của họ và người đại diện chấp nhận làm việc được cho phép”. Trong thực tế, “các
nguyên tắc của đại diện mở rộng cho những trường hợp khác” và một trong những trường
hợp này là “ủy quyền đại diện có thể được đưa ra sau khi người đại diện đã hành động
trên danh nghĩa người được đại diện; hành động của người đại diện được coi là ‘chấp
thuận’”.
Ở Pháp, án lệ không cho phép người thứ ba phủ nhận giao dịch khi người được địa
diện chấp nhận giao dịch. Ở đây, pháp luật Pháp theo hướng các quy định về không có
quyền đại diện hay vượt quá phạm vi địa diện được thiết lập để bảo vệ người được đại
diện nên chỉ được người địai diện được viện dẫn án lệ để áp dụng, còn người thứ ba
không được viện dẫn án kệ để vô hiệu hóa hợp đồng khi người được đại diện chấp nhận
và muốn duy trì hợp đồng, với lý do “vô hiệu hợp đồng do không có quyền đại diện của
người đại diện là vô hiệu tương đối và chỉ người được đại diện mới được yêu cầu tuyên
bố hợp đồng vô hiệu”.

14
PHẦN 2
Mục 1: HÌNH THỨC SỞ HỮU TÀI SẢN

Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sỡ hữu tài
sản.
Trả lời:
Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sỡ hữu tài sản:
1. Từ 6 hình thức sỡ hữu tài sản (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở
hữu chung, sở hữu của các tổ chức chính trị xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp), BLDS 2015 rút lại
còn 3 hình thức sở hữu tài sản (sở hữu toàn dân, sở hữu riêng, sở hữu chung).
Viêc rút gọn này thực chất là gộp 4 loại sở hữu: sở hữu tập thể, sở hữu chung, sở
hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp và sở hữu của cá tổ chức chính trị xã hội lại thành một.
Điều này giúp giản lược bộ luật và tránh sự trùng lặp một phần ý của ba loại sở hữu
này.
2. Sở hữu toàn dân
- Điểm mới đầu tiên của BLDS 2015 về sở hữu toàn dân là tên tiểu mục này. Từ “sở
hữu nhà nước” (BLDS 2005) đổi thành “sở hữu toàn dân” (BLDS 2015). Điều này
phù hợp với tinh thần của Hiến pháp 2013 là tôn trọng người dân của đất nước (ví
dụ: tất cả chữ “Nhân dân” đều được viết hoa chữ “N”).
- Sở hữu toàn dân: Điều 197 của BLDS 2015 thay đổi định nghĩa về tài sản thuộc sở
hữu toàn dân so với Điều 200 BLDS 2005 theo Hiến pháp 2013: “Đất đai, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên
thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”9.
- Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp:
Điều 200 BLDS 2015 bỏ đi giới hạn quyền sở hữu của Nhà nước là chỉ trong
“doanh nghiệp nhà nước” của Điều 203 BLDS 2015 thành “doanh nghiệp”:
“Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước
thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về
doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại
doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
- Quyền của cá nhân, pháp nhân đối với việc sử dụng, khai thác tài sản thuộc sở hữu
toàn dân: Điều 203 BLDS 2015 bỏ đi điều kiện “trong trường hợp pháp luật có
quy định và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép” của Điều 206 BLDS
2005. Đồng thời, cũng không quy định thêm điều kiện nào trong việc sử dụng,
khai thác này: “Cá nhân, pháp nhân được sử dụng đất, khai thác nguồn lợi thủy
9
Điều 53 Hiến pháp 2013.

15
sản, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân đúng mục
đích, có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của
pháp luật”.
3. Sỡ hữu riêng
- Điểm mới đầu tiên của BLDS 2015 về sở hữu riêng là tên tiểu mục này. Từ “sở
hữu tư nhân” (BLDS 2005) đổi thành “sở hữu riêng” (BLDS 2015).
- Sở hữu riêng và tài sản thuộc sở hữu riêng: được gộp Điều 211 về sở hữu tư nhân
và Điều 212 về tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân của BLDS 2005 thành Điều
205 của BLDS 2015.
4. Sở hữu chung
- Là sở hữu được gộp 4 loại sở hữu: sở hữu tập thể, sở hữu chung, sở hữu của tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
và sở hữu của cá tổ chức chính trị xã hội lại thành một.
- Sở hữu chung của cộng đồng: xác định rõ tài sản chung của công đồng là tài sản
chung hợp nhất không phân chia (Điều 211 BLDS 2015)
- Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình: được BLDS 2015 thêm như một
điều luật mới (Điều 212 BLDS 2015) so với BLDS 2005.
- Sở hữu chung của vợ chồng: Tại Điều 213 BLDS 2015 được thêm một khoản mới
so với BLDS 2005 như sau: “Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo
thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung
của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này”.
- Định đoạt tài sản chung: Điều 218 BLDS 2015 có một số thay đổi so với Điều 223
BLDS 2005 như sau:
o Bỏ “theo quy định của pháp luật” đối với quyền định đoạt của mỗi chủ sở hữu:
“Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của
mình” (khoản 1 Điều 218 BLDS 2015).
o Ở khoản 3 điều này, thêm ý: “Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản
và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán
cho người không phải là chủ sở hữu chung”.
o Thêm hai trường hợp từ bỏ quyền sở hữu thành hai khoản mới:
“5. Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ phần
quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì
phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.
6. Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài
sản chung thì việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo quy định tại Điều
228 của Bộ luật này”.
- Chia tài sản thuộc sở hữu chung: Khoản 1 Điều 219 BLDS 2015 thêm ý “trừ
trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác” so với Điều 224 BLDS
2005: “Trường hợp sỡ hữu chung…bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường
hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác”.
Điều này thể hiện sự tôn trọng đối với các chủ thể.

16
Câu 2: Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn là
Quyết định 377) cho câu trả lời?
Trả lời:
Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân
với bà Thẩm.
Phần Xét thấy của Quyết định 377 nói rõ: “Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông
Lưu và bà Thẩm là quan hệ hôn nhân hợp pháp và vẫn đang tồn tại theo quy định của
pháp luật, còn quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Xê là vi phạm pháp luật. Căn nhà số
150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu
tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Thẩm”10.
Câu 3: Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sỡ hữu chung của vợ chông bà hay sở
hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
Trả lời:
Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà, không phải sở
hữu riêng của ông Lưu.
Trích từ phần Nhận thấy của bản án: “Còn bà Thẩm cho rằng căn nhà số 150/6A
Lý Thường Kiệt trên diện tích 101 m 2 đất là tài sản chung vợ chồng bà nên không nhất trí
theo yêu cầu của bà Xê. Bà đề nghị Tòa giải quyết theo pháp luật để bà được hưởng thừa
kế tài sản của ông Lưu cùng với chị Hương”.
Câu 4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung
của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết
định 377 cho câu trả lời?
Trả lời:
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên không thuộc sở hữu chung
của ông Lưu, bà Thẩm mà chỉ thuộc sở hữu riêng của ông Lưu.
Theo như Tòa: “Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lưu và bà
Thẩm, nhưng từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác và căn nhà được
tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông; bà Thẩm không có đóng góp về kinh tế cũng như
công sức để cùng ông Lưu tạo lập ra căn nhà này nên ông Lưu có quyền định đoạt đối với
căn nhà nêu trên.”
Câu 5: Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao?
Trả lời:
Theo em, giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là chưa hợp lý.
Theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về tài sản chung
của vợ chồng:
10
Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

17
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1
Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có
được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”11.
Ở đây, Tòa không công nhận căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt là tài sản chung
do căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông Lưu khi ông vào miền Nam đi
công tác và bà Thẩm không góp công sức, kinh tế cùng với ông Lưu. Tuy nhiên, thứ nhất,
ông Lưu và bà Thẩm là vợ chồng hợp pháp(Ông Võ Văn Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết
hôn ngày 26-10-1964 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tịa Ủy ban nhân dân xa
Kinh Kệ, huyện Lâm Thảo, tỉnh Phú thọ 12). Thứ hai, theo như điều luật đã nêu trên, tài
sản chung của vợ chồng có bao gồm thu nhập hợp pháp. Do đó, mặc dù thu nhập đó là do
ông Lưu làm ra nhưng vẫn là tài sản chung của hai vợ chồng ông Lưu bà Thẩm về mặt
pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là phần tiền dùng để tạo lập căn nhà số 150/6A Lý
Thường Kiệt cũng là tài sản chung của vợ chồng ông Lưu, bà Thẩm. Vì vậy, cũng theo
điều luật trích dẫn phía trên, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là
tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng, căn nhà là của
chung vợ chồng ông Lưu, bà Thẩm.
Ngoài ra, trong Luật Hôn nhân và gia đình cũng có nói: “vợ, chồng bình đẳng với
nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”. Nghĩa là, mặc
dù tiền do ông Lưu làm ra nhưng vẫn là tài sản chung của hai vợ chồng ông Lưu bà
Thẩm, không cần biết bà Thẩm có hay không làm ra tiền và góp vốn xây dựng nhà.
Như vậy, căn nhà trên không phải là tài sản riêng của ông Lưu và việc Tòa xác
định căn nhà 150/6A Lý Thường Kiệt là tài sản riêng của ông Lưu là không có căn cứ
hợp lý, không đúng theo quy định của pháp luật.
Câu 6: Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể
di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu không thể di
chúc định đoạt toàn bộ căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt.
Theo luật, vợ chồng có quyền định đoạt ngang nhau đối với tài sản chung của vợ
13
chồng . Căn cứ theo khoản 2 Điều 213 BLDS 2015 về sở hữu chung của vợ chồng: “Vợ
chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc
11
Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình.
12
Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

18
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”. Do đó trong trường hợp này, ông Lưu chỉ
có quyền di chúc định đoạt ½ căn nhà trên thôi, ½ còn lại của căn nhà là thuộc về bà
Thẩm.

13
Điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình: Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.

19
Mục 2: DIỆN THỪA KẾ

Câu 1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu
hay không? Vì sao?
Trả lời:
Chỉ có bà Thẩm và chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu, còn bà
Xê thì không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.
Theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Đối với người vợ, để được hưởng thừa kế của nhau, thì quan hệ hôn nhân giữa vợ
và chồng ở đây phải là quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc hôn nhân đấy phải được pháp
luật công nhận là hôn nhân thực tế. Do bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu ( Ông Võ
Văn Lưu và bà Nguyễn Thị Thẩm kết hôn ngày 26-10-1964 trên cơ sở tự nguyện, có đăng
ký kết hôn tịa Ủy ban nhân dân xa Kinh Kệ, huyện Lâm Thảo, tỉnh Phú thọ 14), nên bà
thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Còn đối với bà Xê, mặc dù ông Lưu và bà Xê có làm thủ tục
đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang tuy
nhiên vì ông Lưu chưa ly hôn với bà Thẩm nên việc ông kết hôn với bà Xê là bất hợp
pháp15. Do đó, để biết bà có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu hay không, ta xét
coi quan hệ giữa bà Xê và ông Lưu có phải hay không phải hôn nhân thực tế.
Do ông Lưu thuộc trường hợp người có nhiều chồng hoặc vợ, ta căn cứ vào điểm a
khoảng 4 Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có quy định: “Trong
trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố
danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam
và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc
kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ
đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người
thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ”16.
Ở đây, ông Lưu và bà Xê làm thủ tục đăng ký kết hôn và chung sống với bà Xê từ
năm 1996 và đến năm 2003 thì ông Lưu chết. Như vậy, thời điểm mà hai ông bà chung
sống với nhau là sau ngày 25-3-1997, là ngày cuối cùng công nhận hôn nhân thực tế ở
miền Nam. Do đó, quan hệ giữa hai người không phải là hôn nhân thực tế, và bà Xê
đương nhiên cũng không nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu theo trích dẫn từ
Nghị quyết số 02 đã nêu trên.
Về phần chị Hương, chị là con đẻ của ông Lưu (Ông Võ Văn Lưu và bà Nguyễn
Thị Thẩm kết hôn ngày 26-10-1964 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban
14
Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
15
Điều 5: “2. Cấm các hành vi sau đây:
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có
chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”.
16
Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990.

20
nhân dân xa Kinh Kệ, huyện Lâm Thảo, tỉnh Phú thọ và có một con chung là chị Võ Thị
Thu Hương17) nên đương nhiên thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo điểm a khoản 1 Điều
651 BLDS 2015 đã nêu trên.
Câu 2: Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi
trên có khác không? Vì sao?
Trả lời:
Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976, thì hôn nhân của hai người
vẫn không được công nhận là hôn nhân hợp pháp, vì ở thời kỳ đó, Luật Hôn nhân và Gia
đình 1959 đã có quy định “Cấm lấy vợ lẽ”18. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai người được
công nhận là hôn nhân thực tế. Cũng vì thế, bà Xê nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của
ông Lưu.
Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có quy định: “Trong trường
hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn
bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán
bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau
không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người
thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng
thứ nhất của tất cả các người vợ”19.
Do ông Lưu và bà Xê kết hôn và chung sống với nhau ở miền Nam (Tiền Giang)
vào cuối 1976, trước thời hạn cuối cùng công nhận hôn nhận thực tế ở miền Nam (ngày
25-3-1977). Theo đó, bà Xê là vợ thực tế của ông Lưu, nằm trong hàng thừa kế thứ nhất
của ông Lưu theo Nghị quyết 02 đã nêu trên.
Câu 3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì
sao?
Trả lời:
Trong vụ việc trên, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu.
Vì ông Lưu đã viết di chúc để lại toàn bộ tài sản cho bà Xê. Do đó, theo di chúc,
chị Hương không được hưởng phần nào từ di sản của ông Lưu. Tuy nhiên, ta xét thêm chị
Hương có hay không thuộc trường hợp được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc.
Theo luật, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít
hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

17
Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
18
Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình.
19
Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990.

21
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.20
Ở đây, chị Hương là người đã thành niên (chị sinh năm 1965, nghĩa là đến ngày
ông Lưu chết (năm 2003), chị đã là người thành niên), chị cũng không bị mất khả năng
lao động. Như vậy, chị Hương không thuộc trường hợp nào trong hai trường hợp đã nêu
phía trên, và theo đó chị không là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
của ông Lưu.
Như vậy, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu trong vụ việc trên.
Câu 4: Theo pháp luật hiện hành, ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu
đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Theo pháp luật hiện hành, thời điểm người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản
là di sản do người quá cố để lại là thời điểm người thừa kế nhận di sản đó.
Tuy nhiên, trong BLDS 2015 thì không có điều luật nào nói cụ thể thời điểm
người thừa kế có quyền sở hữu đối tài sản, chỉ xác định rằng tại thời điểm mở thừa kế,
người thừa kế có các quyền tài sản do người chết để lại, quy định trong Điều 614 BLDS
201521.
Bàn về vấn đề này, PGS. TS. Phạm Văn Tuyết và TS. Lê Kim Giang có nhận
định: “Nếu cho rằng người thừa kế đương nhiên là chủ sở hữu đối với di sản thừa kế tại
thời điểm mở thừa kế thì về logic, họ sẽ không có quyền từ chối nhận di sản. Di sản đã
thuộc sở hữu của họ nên việc từ chối đó trở thành việc từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản,
và như vậy sẽ phát sinh một hậu quả pháp lý hoàn toàn khác. Bởi theo quy định tại khoản
1 Điều 228 BLDS 2015 thì tài sản đã bị chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu sẽ trở thành tài
sản vô chủ, nếu tài sản đó là động sản thì sẽ thuộc sở hữu của người phát hiện được; nếu
tài sản đó là bất động sản thì thuộc sở hữu của Nhà nước.
Tóm lại, chúng tôi cho rằng, thời điểm mở thừa kế chỉ là thời điểm làm phát sinh
quyền của người thừa kế mà chưa xác lập quyền sở hữu đối với di sản, quyền sở hữu đối
với di sản thừa kế chỉ xác lập ở người thừa kế kể từ thời điểm họ nhận di sản đó bởi nếu
người thừa kế không nhận di sản thì đương nhiên sẽ không phát sinh quyền sở hữu của họ
đối với di sản thừa kế”22.
Trong trường hợp người thừa kế di sản được định đoạt bằng di chúc, thì di chúc
này là ý chí của riêng người lập di chúc, là hành vi pháp lý đơn phương từ người lập di
chúc. Và việc có hay không đồng ý với việc định đoạt này là quyền của người thừa kế
theo di chúc. Nếu người thừa kế không đồng ý nhận di sản thì sẽ không xảy ra vấn đề
quyền sở hữu ở người thừa kế này. Cũng tương tự đối với trường hợp thừa kế theo pháp
luật hay không phụ thuộc vào nội dung di chúc, người thừa kế cũng hoàn toàn có quyền

20
Điều 644 BLDS 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
21
Điều 614. Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế
Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
22
Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang, Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Nxb. Tư pháp, 2017, tr.
98-99.

22
từ chối tiếp nhận di sản theo Điều 620 BLDS 2015. Và như vậy, người thừa kế đó sẽ
không có quyền sở hữu đối với di sản đó.
Như vậy, thời điểm một người thừa kế có quyền sở hữu đối với di sản do người
chết để lại là khi người đó nhận di sản đó. Trong thực tế, người thừa kế được coi là đã
nhận di sản đó từ thời điểm hoàn tất thủ tục khai nhận di sản tại cơ quan công chứng
(trong trường hợp không có tranh chấp) hoặc bản án có hiệu lực của Tòa án (trong trường
hợp có tranh chấp về thừa kế).
Câu 5: Trong Quyết định số 08, theo nội dung của bản án, ở thời điểm nào người
thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp? Vì sao?
Trả lời:
Trích bản án:
“Ông Hà chết ngày 12/5/2008 thì bà Lý Thị Ơn là vợ và các con ông Hà được thừa
kế và nhà đất này đã chuyển dịch quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở sang cho bà
Lý Thị Ơn; ngày 04/3/2011 bà Ơn đã đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất”.
Theo đó, ta thấy được, thời điểm mà người thừa kế của ông Hà (là bà Ơn) có
quyền sở hữu nhà ở và đất tranh chấp là sau khi ông Hà chết vào ngày 12/5/2008.
Việc Tòa xác định như vậy là hợp lý, bởi theo luật, kể từ thời điểm mở thừa kế,
những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại23.

23
Điều 614 BLDS 2015

23
Mục 3: THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI CHÚC

Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn
bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê?
Trả lời:
Phần Xét thấy của Hội đồng giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
cho thấy việc ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê
như sau: “Việc ông Lưu lập văn bản đề là “Di chúc” ngày 27-7-2002 là thể hiện ý chí của
ông Lưu để lại tài sản của ông cho bà Xê là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp
luật”.
Câu 2: Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?
Trả lời:
Trong trường hợp này, chỉ có bà Thẩm là người thuộc diện được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu, còn bà Xê và chị
Hương thì không thuộc vào diện này.
Theo luật, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít
hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.24
Ở đây, bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, nên việc bà là người thừa kế không
phụ thuộc nội dung di chúc là hoàn toàn tất nhiên.
Về phía chị Hương không phải là con chưa thành niên(chị sinh năm 1965, nghĩa là
đến ngày ông Lưu chết (năm 2003), chị đã là người thành niên), cũng không phải là
người thành niên mà không có khả năng lao động, nên chị không phải là người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Về phía bà Xê, thứ nhất, bà không phải là vợ hợp pháp, cũng không phải vợ thực
tế của ông Lưu. Theo nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 có quy định:
“Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công
bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền
Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà
việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người
vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là
người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ”25.
24
Điều 644 BLDS 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
25
Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990.

24
Như vậy, trong ba người là bà Xê, bà Thẩm và chị Hương thì chỉ có bà Thẩm là
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu.
Câu 3: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, vì sao bà Thẩm được hưởng thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào
của Quyết định cho câu trả lời?
Trả lời:
Trích từ phần Xét thấy của Quyết định:
“Tuy nhiên, do bà Thẩm đang là vợ hợp pháp của ông Lưu đã già yếu, không còn
khả năng lao động, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự thì bà Thẩm được thừa kế
tài sản của ông Lưu mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc của ông Lưu.
Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà Thẩm là
người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng thành,khi giải
quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị
khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu
cầu)”.
Như vậy, theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, bà Thẩm được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu là vì thứ nhất, bà là vợ
hợp pháp của ông, nay đã già yếu và không còn khả năng lao động; thứ hai, bà có công
chăm sóc nuôi con chung từu nhỏ đến khi trưởng thành của bà và ông Lưu khi ông vào
miền Nam công tác.
Câu 4: Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Vì sao?
Trả lời:
Nếu bà Thẩm khỏe mạnh, có khả năng lao động thì bà vẫn được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc đối với di sản của ông Lưu.
Theo luật, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít
hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.26
Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, nên theo điểm a điều luật nêu trên, bà hoàn
toàn có quyền được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, còn điều kiện
có khả năng lao động hay không không ảnh hưởng đến việc bà có quyền được hưởng
thừa kế từ di sản của ông Lưu.
Câu 5: Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
26
Điều 644 BLDS 2015 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

25
Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng
khoản tiền là 200 triệu đồng.
Do bà Thẩm là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Điều
644 BLDS 2015 nên bà Thẩm được hưởng 2/3 suất thừa kế của ông Lưu.
Người thừa kế của ông Lưu gồm bà Thẩm và bà Xê, do đó, một suất thừa kế sẽ là:
600 triệu : 2 = 300 triệu
Như vậy, 2/3 suất thừa kế sẽ là: 300 x 2/3 = 200 triệu.
Vậy bà Thẩm được hưởng khản tiền là 200 triệu đồng từ di sản sản của ông Lưu
có giá tị 600 triệu đồng.
Câu 6: Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà
Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?
Trả lời:
Nếu bà Thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm có
thể được chấp nhận, cũng có thể không.
Vì theo khoản 2 Điều 660 BLDS 2015, những người thừa kế có quyền yêu cầu
phân chia di sản bằng hiện vật. Theo đó, yêu cầu chia di sản bằng hiện vật của bà Thẩm
là có căn cứ hợp lý. Về vấn đề này, PGS. TS. Đỗ Văn Đại có nhận định: “Nếu cho nhận
bằng hiện vật thì sẽ tạo điều kiện để tài sản được giữ lại trong gia đình. Bởi lẽ, nếu không
cho hưởng bằng hiện vật (tức hưởng bằng giá trị), tài sản sẽ thuộc về người được hưởng
thừa kế theo di chúc mà người này có thể không phải là người thân thuộc trong gia đình,
trong khi đó người được hưởng thừa kế phụ tuộc vào nội dung di chúc là cha, mẹ, vợ,
chồng hay con của người lập di chúc” 27. Bà Xê ở đây chỉ là vợ hai của ông Lưu, sống ở
miền Nam không liên hệ đến bà Thẩm (vợ hợp pháp của ông Xê, sống ở miền Bắc) và
người thân của 2 ông bà, nên không thể coi là người thân trong gia đình. Vì vậy, yêu cầu
của bà Thẩm là hợp tình, vì theo trích dẫn nêu trên, bà Thẩm muốn một phần tài sản của
ông Lưu được giữ lại trong gia đính.
Trong thực tế khi có một người thừa kế yêu cầu và khi tài sản có thể phân chia
được thì Tòa án phải chia di sản bằng hiện vật. Đó là thông điệp trong vụ việc của Quyết
định số 353/2011/DS-GĐT ngày 18-5-2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao. Cụ
thể, theo Tòa dân sự: “Chị Minh (là con của ông Hùng là một trong các thừa kế thế vị di
sản của vợ chồng cụ Được, cụ Để) được các thừa kế nhường cho hưởng thừa kế 4/6 giá
trị di sản thừa kế, trong khi đó di sản thừa kế cụ Được, cụ Để để lại 4.966m 2 đất vườn, là
có thể chia được, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không chia cho chị
Minh được hưởng bằng hiện vật là không đúng, không đảm bảo quyền lợi chính đáng của
chị Minh”28.

27
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2019,
Bản án số 48-51, tr. 430.
28
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản rán và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, Bản án
số 157-160, tr. 582.

26
Tuy nhiên, khi việc phân chia thành nhiều phần không làm ảnh hưởng tới giá trị tài
sản thì sẽ chia di sản bằng hiện vật theo nguyên tắc đã nêu trên. Đây là thông điệp của
Tòa án nhân dân tối cao trong một vụ việc, theo đó: “nhà đất có diện tích lớn có thể chia
bằng hiện vật cho các đương sự mà vẫn đảm bảo giá trị tài sản. Nhưng Tòa án cấp sơ
thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm giao toàn bộ nhà đất cho bà Cam và chỉ chia cho những
người thừa kế khác bằng giá trị là không đảm bảo quyền lợi của các thừa kế” 29. Như vậy,
chừng nào chia di sản được bằng hiện vật thì chúng ta phải ưu tiên chia di sản bằng hiện
vật. Thực tế, chia di sản bằng hiện vật là chia di sản thành nhiều phần và việc phân chia
thành nhiều phần này có thể ảnh hưởng tới giá trị của tài sản. Do đó, nếu việc phân chia
thành nhiều phần làm cho tài sản mất đi giá trị thì không nên chia bằng hiện vật. Đối với
di sản là nhà, đất thì khi chia di sản, chúng ta có hệ quả là tài sản chung của những người
thừa kế chấm dứt và khối tài sản chung này được chia thành các phần để trở thành sở hữu
riêng lẽ của từng người thừa kế.
Do di sản tranh chấp ở đây là căn nhà có diện tích 116,64m2, nên việc chia căn nhà
ra là hết sức khó khăn. Bên cạnh đó, trong di chúc ông Lưu đã định đoạt căn nhà cho bà
Xê. Việc chia di sản bằng hiện vật cho bà Thẩm nữa là trái với ý chí của ông Lưu khi lập
di chúc. Ngoài ra, bà Thẩm hiện đang ở miền Bắc, bà đã già yếu không còn khả năng lao
động, còn căn nhà là ở miền Nam, nơi ông Lưu và bà Xê sống cùng với nhau, nên việc
chia căn nhà là chưa hợp lý vì bà Thẩm muốn di chuyển đến căn nhà Lý Thường Kiệt đó
là khó khăn cho bà nên không có ý nghĩa thực tiễn. Mặt khác, việc chia căn nhà ra làm
giảm đi giá trị của căn nhà.
Tuy nhiên, khi việc phân chia thành nhiều phần không làm ảnh hưởng tới giá trị tài sản
thì sẽ chia di sản bằng hiện vật theo nguyên tắc đã nêu trên. Đây là thông điệp của Tòa án
nhân dân tối cao trong một vụ việc, theo đó: “nhà đất có diện tích lớn có thể chia bằng
hiện vật cho các đương sự mà vẫn đảm bảo giá trị tài sản. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm giao toàn bộ nhà đất cho bà Cam và chỉ chia cho những người thừa
kế khác bằng giá trị là không đảm bảo quyền lợi của các thừa kế”30.
Do đó, yêu cầu chia di sản bằng hiện vật của bà Thẩm có thể sẽ không được chấp
nhận.
Câu 7: Trong Bản án số 2493 (sau đây viết gọn là Bản án), đoạn nào của bản án cho
thấy bà Khót, ông Tâm và ông Nhật là con của cụ Khánh?
Trả lời:
Trong phần Xét thấy của Bản án nêu rõ:
“Cụ Nguyễn Thị Khánh và cụ Anh Văn Lầm (chết năm 1938) có 2 con là bà
Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929, ông An Văn Tâm sinh năm 1932. Cụ Khánh và cụ
Nguyễn Tài Ngọt (chết năm 1973) có 01 con là ông Nguyễn Tài Nhật sinh năm 1930.
Năm 2002 cụ Khánh chết. Mặc dù các đương sự không xuất trình được giấy khai sinh
một cách đầy đủ nhưng đều thống nhất xác nhận các con của cụ Khánh là bà Khót, ông
Tâm, ông Nhật”.
29
Quyết định số 23/2009/DS-GĐT ngày 15-1-2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
30
Quyết định số 23/2009/DS-GĐT ngày 15-1-2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

27
Câu 8: Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
Trả lời:
Ông Nguyễn Tài Nhật là người được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản
có tranh chấp.
Trích từ phần Xét thấy của Bản án: “Ngày 30/5/1992 tại Phòng công chứng nhà
nước số 2, Thành phố Hồ Chí Minh cụ Khánh lập di chúc cho ông Nhật là người duy nhất
được quyền thừa kế căn nhà 83 Lương Định Của, phường An Khánh, quận 2” 31.
Câu 9: Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên
của cụ Khánh không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời:
Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm đã là con đã thành niên của cụ
Khánh.
Trích từ phần Xét thấy của bản án: “Tại thời điểm mở thừa kế bà Khót đã 71 tuổi,
ông Tâm 68 tuổi lại là thương binh 2/4, thấy tại Điều 140, 145 của Bộ luật lao động năm
1994 quy định độ tuổi lao động của người Việt Nam là từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam
và từ 15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ”.
Câu 10: Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời:
Bà Khót và ông Tâm không được Tòa án chấp nhận cho hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc.
Trích từ bản án: “Hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu
của bà Khót, ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc, cụ thể mỗi người được hưởng là 400.000.000 đồng”.
Tòa cũng giải thích rằng: “Bộ luật lao động còn có các quy định về chế độ đối với
người lao động từ 56 tuổi trở lên đối với nữ và từ 61 tuổi trở lên đối với nam. Như vậy,
pháp luật không đặt ra giới hạn tuổi tối đa được tham gia các quan hệ lao động mà việc
tham gia quan hệ lao động để được hưởng các chế dộ đãi ngộ chứ không phỉa là căn cứ
xác định một người không còn khả năng lao động. Các nguyên đơn cũng không xuất trình
được chứng minh tại thời điểm mở thừa kế họ là những người không có khả năng lao
động. Hơn nữa, từ trước đến nay, ông Tâm, bà Khót có đời sống kinh tế độc lập, không
pụ thuộc vào cụ Khánh. Bà Khót có gia đình, có tài sản riêng, bản thân bà hàng tháng còn
được hưởng chế dộ chính sách của nhà nước theo diện người có công với cách mạng
khoảng 400.000 đồng; còn ông Tâm tuy là thương binh 2/4, theo qui định thì ông bị suy
giảm khả năng lao động là 62% nhưng ông cũng đã được hưởng chính sách đãi ngộ của
nhà nước hàng tháng ông lãnh hơn 2.000.000 đồng”.
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Trả lời:

31
Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh.

28
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý.
Theo luật, những người sau đây được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Thứ nhất, ông Tâm và bà Khót đã là người thành niên, tại thời điểm mở thừa kế bà
Khót đã 71 tuổi, ông Tâm 68 tuổi.
Thứ hai, hai người không thuộc trường hợp không có khả năng lao động.
Bàn về vấn đề “không có khả năng lao động”, PGS. TS. Đỗ Văn Đại có nhận định
như sau: “Đối với khái niệm “không có khả năng lao động”, Bộ luật Dân sự không cho
biết đó là những trường hợp nào trong phần Thừa kế. Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự có đề
cập đến trường hợp “mất khả năng lao động”. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không định nghĩa nhưng đưa ra một số trường
hợp được coi là “mất khả năng lao động” 32. Đó là trường hợp sau điều trị, người bị thiệt
hại do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ
81% trở lên. Nếu một cá nhân thuộc những trường hợp nêu trên thì cũng thuộc trường
hợp “không có khả năng lao động””33.
Đồng ý với quan điểm trên, PGS. TS. Lê Minh Hùng có nhận định: “Con đã thành
niên phải là người không có khả năng lao động để tự nuôi sống mình, không phụ thuộc
vào việc người này có hoàn cảnh kinh tế như thế nào. Người không có khả năng lao động
để tự nuôi sống mình có thể được hiểu là cá nhân đã thành niên vào thời điểm mở thừa
kế, nhưng bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác dẫn đến mất khả năng nhận thức,
làm chủ hành vi của mình như bị các bệnh nan y (ung thư, suy thận mạn tính…); bị bệnh
nặng như bại liệt toàn thân, liệt cột sống, liệt đốt sống cổ, liệt từ hai chi trở lên, cụt mất từ
hai chi trở lên, mù mắt; bị mất sức lao động từ 81% trở lên. Việc xác định thuộc trường
hợp mất từ 81% sức lao động trở lên có thể cần phải có giấy y chứng của cơ sở y tế hoặc
cơ quan giám định pháp y có thẩm quyền”34.
Như vậy, ở đây, cả hai quan điểm trên đều đồng ý rằng, một trong những trường
hợp để một người được coi là không có khả năng lao động là phải bị mất sức lao động từ
81% trở lên. Bà Khót, ông Tâm mặc dù tuổi cao nhưng bà Khót không bị thương tật gì,
hoàn toàn khỏe mạnh, còn ông Tâm mặc dù là thương binh 2/4, theo quy định thì ông bị
suy giảm khả năng lao động là 62% nhưng vẫn chưa đủ 81% để được coi là người không

32
"1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên
chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần
nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn
từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.”
33
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2019,
Bản án số 48-51, tr. 412.
34
Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Nxb.
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2019, Chương VI, tr. 514

29
có khả năng lao động. Do đó, việc Tòa không chấp nhận yêu cầu của bà Khót, ông Tâm
về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là hợp lý.
Câu 12: Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao
động? Vì sao?
Trả lời:
Hướng giải quyết sẽ khác đi khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động.
Theo luật, những người sau đây được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Tại mục 1.4 Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hướng dẫn như sau:
"1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động
và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động
do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ
81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.”
Áp dụng tương tự điều này cho trường hợp “không có khả năng lao động” trong
lĩnh vực thừa kế. Vì ông Tâm đã mất 85% sức lao động do tai nạn, vượt qua 81% đề ra
của Nghị quyết nêu trên, nên ông được coi là người không có khả năng lao động. Theo
như nội dung Điều 644 BLDS 2015 về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc,
ông Tâm được hưởng 2/3 kỷ phần thừa kế.
Câu 13: Nêu những điểm giống và khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản.
Trả lời:
Điều 624. Di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết.
Điều 457. Hợp đồng tặng cho tài sản
Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao
tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền
bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.
1. Điểm giống nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản:
Thứ nhất, di chúc và tặng cho tài sản đều thể hiện được quyền định đoạt, quyết
định của chủ thể sở hữu tài sản.
Thứ hai, di chúc và tặng cho tài sản đều là cơ sở để phát sinh, chuyển giao quyền
sở hữu tài sản giữa các chủ thể.

30
2. Điểm khác nhau giữa di chúc và tặng cho tài sản:

Tiêu chí Di chúc Tặng cho tài sản

- Là sự thể hiện ý chí của cá nhân - Là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
nhằm chuyển tài sản của mình cho đó bên tặng cho giao tài sản của mình
1. Khái người khác sau khi chết. và chuyển quyền sở hữu cho bên được
niệm tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên
được tặng cho đồng ý nhận.
- CSPL: Điều 624 BLDS 2015 - CSPL: Điều 457 BLDS 2015

- Người lập di chúc có thể biểu hiện


- Người có tài sản muốn tặng cho thì
2. Hình ý chí của mình bằng một văn bản
phải công chứng, chúng thực, đăng ký
thức viết tay, có công chứng hoặc không
nếu đối tượng của tặng cho là bất động
có công chứng, có thể là di chúc
sản.
miệng đối với bất động sản.
- Đây là một giao dịch dân sự thể hiện
- Đây là một giao dịch dân sự thể sự thỏa thuận, thể hiện ý chí song
hiện ý chí đơn phương của một phương giữa người cho và người được
người định đoạt tài sản của cá nhân tặng cho và họ phải còn sống tại thời
người đó cho những người thừa kế. điểm cho - nhận tài sản. 
- Người thừa kế thường là người  - Người được tặng cho có thể là người
thân của người lập di chúc như: cha, thân thích hoặc bất kỳ ai.
mẹ, con cái…
- Người lập di chúc có thể tự ý sửa - Người tặng cho tài sản không thể tự ý
3. Đặc đổi, bổ sung, thay thế hay hủy bỏ di sửa đổi, bổ sung, thay thế hay hủy bỏ
điểm chúc bất cứ lúc nào, không cần đến hợp đồng tặng cho tài sản nếu không
sự đồng ý của (những) người thừa được sự đồng ý của bên được tặng cho
kế. tài sản.

- Khi người lập di chúc không để lại


di sản cho những người được hưởng - Khi tặng cho tài sản thì người tặng thì
thừa kế không phụ thuộc vào nội những người thừa kế không phụ thuộc
dung của di chúc thì họ vẫn được vào nội dung của di chúc không được
hưởng 2/3 suất của một người thừa phép đòi chia di sản đã được tặng cho.
kế theo pháp luật.
4. Đối Tài sản Tài sản
tượng (Là tài sản đang có, đang tồn tại (Phải là tài sản đang có, đang tồn tại
hoặc tài sản được hình thành trong chứ không phải tài sản hình thành

31
tương lai). trong tương lai).
5. Điều Người có tài sản không thể ủy
kiện có quyền cho người khác lập di chúc Người có tài sản có thể ủy quyền cho
hiệu lực thay mình người khác tặng cho tài sản.

- Nếu hợp đồng tặng cho là động sản:


Có hiệu lực kể từ thời điểm bên được
6. Thời - Phải được thể hiện rõ trong di
tặng cho nhận được tài sản;
điểm chúc;
nhận - Đối tượng của hợp đồng là bất động
- Người thừa kế chỉ được nhận di
được tài sản sau khi người lập di chúc chết. sản: Phải lập thành văn bản có công
sản chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký
và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.

- Người thừa kế không có bất kì nghĩa


7. Thực - Người thừa kế được quyền nhưng vụ tài sản nào do hơp đồng tặng cho tài
hiện đồng thời phải có trách nhiệm thực sản là hợp đồng không có đến bù nên
nghĩa vụ hiện nghĩa vụ tài sản do người chết người được tặng cho không phải hoàn
tài sản để lại. trả một lợi ích hay thực hiện một nghĩa
vụ tài sản nào do người chết để lại.

Câu 14: Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà,
trước khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu
thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không?
Trả lời:
Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc mà trước
khi chết, ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà Thẩm
không được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên.
Chúng ta thấy được rằng ngoài phần thừa kế theo di chúc, pháp luật hiện hành của
chúng ta không có quy định (thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc) tương tự đối
với các giao dịch khác. Điều đó có nghĩa là, nếu người có tài sản định đoạt tài sản của
mình cho người khác mà không theo cách thức của di chúc như tặng cho thì chưa có quy
định bảo vệ những người nêu trong phần trên. Chẳng hạn, nếu như ông Tiền không lập di
chúc mà trước khi chết lập hợp đồng tặng cho bà Liệu toàn bộ di sản thì không có cơ sở
để áp dụng chế định mà chúng ta đang nghiên cứu. Do đó, mẹ và con ông Tiền không
được pháp luật bảo vệ.35
Xét Điều 644 về chế định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc thì
quy định này áp dụng cho người thừa kế “trong trường hợp họ không được người lập di
chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó”. Tuy
35
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2019
(xuất bản lần thứ tư), Bản án số 48-51, tr. 432-433.

32
nhiên, việc này phụ thuộc vào di sản của người chết mà di sản phụ thuộc vào khối tài sản
có tại thời điểm mở thừa kế. Do đó, để tránh những quy định này, người có di sản chỉ cần
tặng cho người khác tài sản của mình trước khi chết.
Chính vì vậy, việc ông Lưu trước khi chết làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ
tài sản của ông Lưu đã khiến ông không còn tài sản khi chết, nghĩa là không có tài sản tại
thời điểm mở thừa kế. Như vậy, bà Thẩm sẽ không được hưởng gì vì ông Lưu đã không
còn tài sản. Việc làm hợp đồng tặng cho bà Xê đã có thể tránh đi điều luật bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của bà Thẩm, vợ ông Lưu.
Có thể thấy, đây là một bất cập trong bộ luật. Bởi vì quyền lợi của những người
mà Điều 644 BLDS 2015 bảo vệ (con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành
niên mà không có khả năng lao động) chưa được bảo vệ một cách triệt để. Thực chất,
những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là những người
thuộc diện yếu thế, cần có sự bảo vệ hơn những người bình thường.
Trong khi đó, một số luật pháp nước ngoài đã phòng hờ trường hợp này như Bỉ,
Pháp, Tây Ban Nha. Ở hệ thống này, lưu sản “được thể hiện như một giới hạn đối với tự
do định đoạt bằng di chúc hay tặng cho”. “Khi có người thừa kế bắt buộc, những tặng cho
và di chúc sẽ có hiệu lực khi việc bảo lưu được tôn trọng. Thừa kế bắt buộc có quyền
giảm những định đoạt được thực hiện khi người để lại di sản còn sống cũng như những
định đoạt trong di chúc nếu việc định đoạt vượt quá mức cho phép”. Tương tự như vậy
trong pháp luật Ba Lan, pháp luật Italia: Lưu sản (hay thừa kế bắt buộc) áp dụng cả tặng
cho (cần tập hợp tất cả tài sản thuộc sở hữu của người quá cố ở thời điểm mở thừa kế và
tài sản đã được tặng cho khi người quá cố còn sống)36.

36
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, 2019
(xuất bản lần thứ tư), Bản án số 48-51, tr. 434-435.

33
Mục 4: NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN

Câu 1: Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên thanh
toán?
Trả lời:
Việc thanh toán nghĩa vụ tài sản và chi phí liên quan đến thừa kế do người chết để
lại không thể được tiến hành một cách tùy tiện. Xuất phát từ việc những khoản tiền này
không chỉ liên quan đến người thừa kế mà còn ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của những người có quyền yêu cầu thanh toán (tức chủ nợ). Do vậy, Điều 658 BLDS quy
định về thứ tự ưu tiên thanh toán như sau:
Điều 658. Thứ tự ưu tiên thanh toán
Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán
theo thứ tự sau đây:
1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.
2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu.
3. Chi phí cho việc bảo quản di sản.
4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.
5. Tiền công lao động.
6. Tiền bồi thường thiệt hại.
7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.
8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.
9. Tiền phạt.
10. Các chi phí khác.
Các khoản này được liệt kê theo thứ tự từ 1 đến 10, cũng là thứ tự ưu tiên thanh
toán từ trên xuống dưới. Theo đó, những khoản quy định trước thì được ưu tiên thanh
toán trước và thanh toán hết, thì mới tiếp tục thanh toán đến khoản tiếp theo, và lần lượt
như vậy cho đến khi thanh toán hết nghĩa vụ, chi phí hoặc hết di sản (trường hợp nghĩa
vụ, chi phí lớn hơn di sản để lại). Có nghĩa, khi thanh toán đến thứ tự ưu tiên nào mà di
sản không còn thì các nghĩa vụ, chi phí còn lại sẽ không được thanh toán và người có
quyền trong trường hợp này đành gánh chịu rủi ro vì không lấy lại được khoản tiền từ
người chết37.
Câu 2: Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành không?
Trả lời:
Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành.
Nguyễn Ngọc Hồng Phượng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TP.
37

HCM, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, 2019, Chương VIII, tr. 617.

34
Khoản 2 Điều 69 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về nghĩa vụ và quyền của
cha mẹ như sau: “Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.
Cũng trong Luật Hôn nhân và Gia đình, khoản 1 Điều 71 quy định: “Cha, mẹ có
nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình”.
Ông Lưu và bà Thẩm là vợ chồng hợp pháp, chị Hương là con chung của hai
người trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, ông Lưu cùng bà Thẩm đều có trách nhiệm trong
việc nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành theo điều luật được
trích phía trên.
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi
còn nhỏ đến khi trưởng thành?
Trả lời:
Trích từ phần Xét thấy của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị
Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành:
“Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà Thẩm
là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng thành,khi giải
quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị
khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu
cầu)”.
Câu 4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải
trích cho bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi
dưỡng con chung không?
Trả lời:
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì phải trích cho
bà Thẩm từ di sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng con
chung.
Trích từ phần Xét thấy của Quyết định cho thấy điều này:
“Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền Nam công tác, bà Thẩm
là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến khi trưởng thành,khi giải
quyết lại cũng cần xem xét đến công sức nuôi con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị
khối tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu
cầu)”.
Câu 5: Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị
hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý.
Điều 658. Thứ tự ưu tiên thanh toán

35
Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán
theo thứ tự sau đây:
1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.
2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu.
3. Chi phí cho việc bảo quản di sản.
4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.
5. Tiền công lao động.
6. Tiền bồi thường thiệt hại.
7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.
8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.
9. Tiền phạt.
10. Các chi phí khác.
Khoản 2 Điều 69 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về nghĩa vụ và quyền của
cha mẹ như sau: “Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.
Cũng trong Luật Hôn nhân và Gia đình, khoản 1 Điều 71 quy định: “Cha, mẹ có
nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình”38.
Như vậy, ông Lưu và bà Thẩm đều có nghĩa vụ phải chăm sóc cho chị Hương. Tuy
nhiên, sau giải phóng, ông Lưu vào miền Nam công tác. Tại thời điểm này chị Hương
vẫn còn nhỏ. Người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng chị từ lúc đó cho đến khi chị trưởng
thành là bà Thẩm. Ông Lưu không thực hiện đúng nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương. Do
đó, sau khi ông chết đi, ông vẫn thiếu một phần tiền cấp dưỡng cho chị mà đáng ra ông
phải cung cấp khi còn sống. Do đó, theo khoản 2 Điều 658 về thứ tự ưu tiên thanh toán,
di sản của ông Lưu phải được trích ra 1 phần cho chị Hương.Và vì chị được bà Thẩm
nuôi dưỡng, nên phần tiền này thuộc về bà Thẩm.
Tuy nhiên, có lẽ vì nuôi con là trách nhiệm của mỗi ông bố bà mẹ, thuộc về vấn đề
tình cảm nhiều hơn là vật chất, nên Tòa án ở đây mới nói rằng trích cho bà Thẩm từ khối
tài sản của ông Lưu để bù đắp công sức nuôi con chung cho bà Thẩm trong trường hợp bà
Thẩm có yêu cầu. Nghĩa là không bắt buộc phải chia cho bà phần công nuôi dưỡng con
chung mà chỉ khi bà yêu cầu thì mới xét đến.

38
Luật Hôn nhân và Gia đình.

36
PHẦN 3

Câu 1: Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di
chúc (về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).
Trả lời:
Thứ nhất, về thời điểm thay đổi, hủy bỏ di chúc. Di chúc là hành vi pháp lý đơn
phương của người lập di chúc và chỉ có hiệu lực sau khi người lập di chúc chết nên trong
khi còn sống, người lập di chúc có thể thay đổi, hủy bỏ di chúc bất cứ lúc nào, căn cứ vào
khoản 1 Điều 640: “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc
vào bất cứ lúc nào”.
Thứ hai, về cách thức thay đổi, hủy bỏ di chúc, ta xét khoản 2 và khoản 3 Điều 640
BLDS 2015:
2. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần
bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ
sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc
trước bị huỷ bỏ.
Tuy nhiên, về cách thức hủy bỏ di chúc, BLDS chưa cho biết rõ di chúc được hủy
bỏ như thế nào. PGS. TS. Đỗ Văn Đại đã chia cách thức hủy bỏ này ra thành hai trường
hợp sau: minh thị (xé di chúc…) và ngầm định (lập di chúc khác, giao dịch khác di
chúc…).
Thứ ba, về hình thức thay đổi, hủy bỏ di chúc, ta xét khoản 5 Điều 643 BLDS 2015
và khoản 3 Điều 56 Luật Công chứng 2014 như sau:
Khoản 5 Điều 643 BLDS 2015:
5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau
cùng có hiệu lực.
Khoản 3 Điều 56 Luật Công chứng 2014:
3. Di chúc đã được công chứng nhưng sau đó người lập di chúc muốn sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ di chúc thì có thể yêu cầu bất kỳ công
chứng viên nào công chứng việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ đó. Trường hợp
di chúc trước đó đang được lưu giữ tại một tổ chức hành nghề công chứng thì người lập
di chúc phải thông báo cho tổ chức hành nghề công chứng đang lưu giữ di chúc biết việc
sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đó.
Câu 2: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định
(tức người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc) không?
Vì sao?
Trả lời:

37
Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể ngầm định (tức
người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc).
Theo PGS. TS. Đỗ Văn Đại, trong thực tế, người lập di chúc thường không hủy bỏ
di chúc một cách minh thị mà có hành vi cho phép suy luận rằng họ không muốn giữ di
chúc nữa. Chẳng hạn, người lập di chúc định đoạt lại tài sản của mình bằng di chúc khác
và thực tiễn xét xử theo hướng di chúc trước bị hủy bỏ (nên không có giá trị).
Trong vụ việc của Quyết định số 175/2010/DS-GĐT ngày 27-4-2010 của Tòa dân
sự Tòa án nhân dân tối cao, ngày 1-7-1990 cụ Tảng lập di chúc để lại tài sản cho các con.
Tuy nhiên, ngày 15-9-1992 cụ Tảng lại lập một di chúc khác. Về phía mình, Tòa giám
đốc thẩm đã xét rằng: “Trong trường hợp di chúc năm 1992 cụ Tảng tự nguyện lập, khi
minh mẫn và không bị lừa dối thì di chúc năm 1990 không có hiệu lực vì đã có di chúc
năm 1992”. Điều này cho thấy di chúc năm 1990 bị hủy bỏ bằng việc người lập di chúc
lập di chúc mới có nội dung khác liên quan đến tài sản trong di chúc năm 199039.
Tương tự như vậy với vụ việc trong Quyết định số 619/2011/DS-GĐT ngày 18-8-
2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao. Cụ Dương Văn Trượng lập “Tờ ủy quyền
để lại thay lời chúc ngôn” vào ngày 01-3-1979 (thực tế là năm 1997) để lại tài sản cho
con mình. Vào ngày 07-02-1999, cụ Trượng lại lập một di chúc khác.
Việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể được ngầm định bởi, không cần người lập
di chúc nói rõ thì hành động của họ cũng đủ để ta có thể hiểu được rằng họ đnag muốn
thay đổi hay hủy bỏ di chúc đó, và pháp luật cũng có điều luật quy định về những hành
động này.
Câu 3: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ
hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?
Trả lời:
Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc không cần phải tuân thủ
hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ.
Trong Bộ luật Dân sự quy định việc sửa đổi hượp đồng phải được tiến hành như
hình thức của hợp đồng bị sửa đổi. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 423 Bộ luật Dân sự năm
2005: “Trong trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản, được công chứng, chứng
thực, đăng ký hoặc cho phép đăng ký thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình
thức đó”. Khoản 3 Điều 421 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định tương tự với nội dung
“Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của hợp đồng ban đâu”. Trong phần di chúc,
Bộ luật Dân sự không có quy định tương tự với hủy bỏ di chúc. Điều này chứng minh
rằng không phải các nhà làm luật không dự liệu được điều này mà là vì các nhà làm luật
đồng ý việc di chúc sau có thể không cần có hình thức giống với di chúc đầu.
Trong vụ việc của Bản án số 61/2009/DS-ST ngày 9-1-2009 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh, vào ngày 9-11-1998 bà Nượu có lập di chúc tại Phòng công
chứng. Ngày 7-9-1999, bà Nượu lập di chúc tại Ủy ban nhân dân phường. Như vậy, di

Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, 2019,
39

Bản án số 77-80, tr. 647.

38
chúc sau không có hình thức như di chúc trước và Tòa án vẫn cho rằng “di chúc này thay
cho di chúc lập ngày 9-11-1998 tại Phòng công chứng”. Điều này có nghĩa là di chúc
trước có thể bị hủy bỏ bởi di chúc sau dù di chúc sau không có cùng hình thức với di
chúc trước40.
Trong vụ việc của Quyết định số 192/2012/DS-GĐT ngày 23-4-2012 của Tòa dân
sự Tòa án nhân dân tối cao, vào ngày 15/5/1998, cụ Giảng và cụ Môn lập di chúc có
chứng thực.Về phía cụ Môn, cụ Môn đã định đoạt phần tài sản của mình một lần nữa theo
“Biên bản cuộc họp gia đình cụ Bùi Hữu Môn” vào ngày 11/4/2000 và biên bản này hoàn
toàn hợp pháp. Tòa án tối cao không đồng ý với cách giải quyết của Tòa hai cấp là xác
định di chúc năm 1998 có hiệu lực vì như vậy là “gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp
của đương sự”. Như vậy, Tòa chấp nhận việc di chúc sau (Biên bản cuộc họp gia đình cụ
Bùi Hữu Môn) vẫn được công nhận dù không cùng hình thức với di chúc đầu (di chúc
ngày 15/5/1998).
Điều này cũng dễ hiểu, dễ chấp nhận được. Bởi theo Khoản 5 Điều 643 BLDS
2015: Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau
cùng có hiệu lực. Ở đây, bộ luật không nói di chúc này về hình thúc như thế nào, chỉ nói
là di chúc, nên có thể ngầm hiểu rằng, di chúc chỉ cần hợp pháp thì di chúc sau cùng là di
chúc được công nhận.
Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 03 quyết
định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.
Trả lời:
Đối với quyết định đầu tiên (Quyết định số 619/2011/DS-GĐT), hướng giải quyết
của Tòa án là hợp lý.
Tòa án yêu cầu xem xét bản “Di chúc thừa kế nhà ở” của bà Lan có tuân thủ các
quy định của pháp luật hay không là thích đáng. Ngoài ra, yêu cầu làm rõ bà Lan có biết
chữ hay không và thắc mắc về nội dung Đơn xin hủy di chúc có đúng ý chí của bà Lan
hay không của Tòa án cũng rất thỏa đáng. Theo quy định pháp luật, người lập di chúc có
quyền hủy bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, “Đơn xin hủy di chúc” lại không
phải do bà Lan viết mà lại do cháu Nguyệt Anh (con của chị Thu) viết hộ. Nếu bà Lan
biết chữ thì tại sao cháu Nguyệt Anh (con của chị Thu) viết hộ Đơn xin hủy di chúc thay
cho bà mà không phải tự bà viết. Việc viết hộ này có bảo đảm được hay không ý chí của
bà Lan.
Đối với quyết định thứ hai (Quyết định số 767/2011/DS-GĐT), hướng giải quyết
của Tòa án là hợp lý.
Ngày 01-3-1979 (thực tế là năm 1997), cụ Dương Văn Trượng lập “Tờ ủy quyền
để lại thay lời chúc ngôn” vào ngày để lại tài sản cho con mình. Vào ngày 07-02-1999, cụ
Trượng lại lập một di chúc khác. Mặc dù có “Tờ cam kết” là cam kết đối với di chúc đầu
là “Tờ ủy quyền để lại thay lời chúc ngôn” nhưng nhìn mắt thường thì thấy chữ ký của cụ
Trượng trong 3 văn bản nêu trên là khác nhau. Do vậy, việc Tòa án yêu cầu làm rõ tờ
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, 2019,
40

Bản án số 77-80, tr. 648-649.

39
cam kết có phải do cụ Trượng ký hay không là thỏa đáng, bảo đảm được ý chí của cụ
Trượng.
Đối với quyết định thứ ba (Quyết định số 194/2012/DS-GĐT), hướng giải quyết
của Tòa án là hợp lý.
Ngày 15/5/1998, cụ Giảng và cụ Môn lập di chúc có chứng thực tại UBND xã Đức
Thắng nhưng vì cụ Giảng tại thời điểm này không còn đủ tỉnh táo nên không ký tên, điểm
chỉ vào tờ di chúc được. Do đó, Tòa xác định cụ Giảng coi như không để lại di chúc là
hợp lý. Vì di chúc đã không đủ điều kiện về mặt hình thức theo Điều 633 BLDS 2015 về
di chúc không có người làm chứng. Về phía cụ Môn, Tòa chỉ ra được điểm thiếu sót của
Tòa án hai cấp về “Biên bản cuộc họp gia đình cụ Bùi Hữu Môn” ngày 11/4/2000 là rất
thích đáng. Theo đó, cụ Môn đã định đoạt phần tài sản của mình theo “Biên bản cuộc họp
gia đình cụ Bùi Hữu Môn” và biên bản này là hoàn hợp pháp theo Điều 662 BLDS (nay
là Điều 640 BLDS 2015). Do đó việc Tòa hai cấp xác định di chúc năm 1998 có hiệu lực
đối với phần tài sản của cụ Môn, đồng thời chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di
sản của cụ Giảng là gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của đương sự 41. Bởi lẽ, cho dù
hình thức của hai di chúc này như thế nào, thì di chúc trước (di chúc ngày 15/5/1998)
phải bị hủy bỏ và công nhận di chúc sau (Biên bản cuộc họp gia đình cụ Bùi Hữu Môn,
ngày 11/4/2000).
Như vậy, hướng giải quyết của cả 3 Tòa đều hợp lý, bảo đảm được quyền và lợi
ích của người lập di chúc về thời điểm, cách thức, hình thức việc thay đổi, hủy bỏ di
chúc.
Câu 5: Đoạn nào cho thấy, trong Quyết định số 363, Tòa án xác định di chúc là có
điều kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?
Trả lời:
Trích phần Xét thấy của Quyết định cho thấy Tòa án xác định di chúc là có điều
kiện:
“Như vậy, di chúc này thuộc loại di chúc có điều kiện, khi xem xét công nhận di
chúc hay không, phải xem xét những điều kiện được nêu trong di chúc có được bảo đảm
thực hiện hay không”.
Điều kiện của di chúc này là: thờ cúng ông bà tổ tiên; không được cầm cố hoặc
chuyển nhượng; phải nuôi dưỡng ông Nguyễn Văn Cu khi ông bị ốm đau, bệnh hoạn
hoặc tuổi già.
Trích từ Quyết định: “Theo văn bản này, cụ Nguyễn Văn Nhà cho bà Nguyễn Thị
Sáu và bà Nguyễn Thị Lên trọn quyền sử dụng phần đất này, đồng thời có trách nhiệm
thờ cúng ông bà tổ tiên nhưng không được cầm cố hoặc chuyển nhượng và phải nuôi
dưỡng ông Nguyễn Văn Cu khi bị ốm đau, bệnh hoạn hoặc tuổi già”.
Câu 6: Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở
Việt Nam?
Trả lời:
41
Quyết định số 194/2012/DS-GĐT của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.

40
Theo khoản 4 Điều 626 BLDS 2015 quy định về quyền của người lập di chúc,
theo đó, người lập di chúc có quyền: “giao nghĩa vụ cho người thừa kế”. Như vậy, “nghĩa
vụ” ở đây có thể hiểu là điều kiện của di chúc.
Hiện nay nhiều hệ thống pháp luật chấp nhận di chúc có điều kiện và có cơ chế
điều chỉnh khá chi tiết loại di chúc này. Tuy nhiên, trong nghiên cứu chuyên sâu về thừa
kế, một tác giả đã cho rằng “pháp luật thừa kế hiện hành của nước ta không có bất kỳ một
quy định nào về di chúc có điều kiện”42.
Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định về “Giao dịch dân sự có điều kiện” tại
khoản 1 Điều 125 (tương ứng với Điều 134 Bộ luật Dân sự năm 1995), theo đó: “Trong
trường hợp các bên có thỏa thuận về diều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì
khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ”. Quy định vừa nêu được
giữ lại tại khoản 1 Điều 120 Bộ luật Dân sự năm 2015. Ở đây, giao dịch dân dự là hợp
đồng hay hành vi pháp lý đơn phương 43 và di chúc là một hành vi pháp lý đơn phương
nên có thể cho rằng di chúc có điều kiện chịu sự điều chỉnh của quy định trên. Thực ra,
trong một số trường hợp, chế định giao dịch dân sự có điều kiện này không thể được áp
dụng cho di chúc có điều kiện. Bởi lẽ theo điều luật trên, điều kiện phải do “các bên thỏa
thuận” nhưng, đối với di chúc có điều kiện phải thực hiện một việc sau khi người lập di
chúc chết, thường thì không có việc “các bên thỏa thuận” mà chỉ là ý chí đơn phương của
người để lại di sản. Tuy nhiên, chúng ta cũng không loại trừ khả năng người lập di chúc
thụ hưởng đã “thống nhất” với nhau về điều kiện của di chúc. Khả năng này tồn tại đối
với di chúc có điều kiện phải thực hiện trước khi người lập di chcus chết: ở thời điểm
người lập di chúc còn sống, người thụ hưởng phải biết điều kiện để thực hiện và với việc
người thụ hưởng thực hiện các điều kiện để được nhận di sản sau này đã thể hiện người
thừa hưởng đồng ý với người để lại di chúc.
Bên cạnh đó, theo điểm c khoản 1 Điều 653 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Di chúc
phải (…) xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản”. Với
quy định như trên thì chúng ta có thể suy luận các nhà lập pháp đã “ngầm” chấp nhận di
chúc có điều kiện44.
Có thể thấy, di chúc có điều kiện rất phổ biến trong thực tế nhưng Bộ luật dân sự
thì đề cập rất ít và rất mong manh về vấn đề này.
Câu 7: Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng.
Trả lời:
Theo PGS. TS. Đỗ Văn Đại, về việc xử lý việc không thực hiện nghĩa vụ theo di
chúc, đầu tiên ta phải xác định xem người thụ hưởng có muốn tiếp tục thực hiện hay
không? Nếu người thụ hưởng muốn tiếp tục thực hiện thì có nên cho phép tiếp tục hay

42
Phùng Trung Tập: Luật Thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, 2008, tr. 218.
43
Theo Điều 121 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 116 Bộ luật dân sự năm 2015: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
44
Đỗ văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, 2019,
Bản án số 97-99, tr.83-84.

41
không? Ở đây, có những vụ không thể tiếp tục thực hiện, và trường hợp này, chúng ta
không thể cho phép tiếp tục.
Nếu nghĩa vụ vẫn có thể thực hiện được, cần ưu tiên giải pháp tiếp tục thực hiện vì
giải pháp này giúp ý chí của người đã khuất được triển khai trong thực tế (điều kiện được
đáp ứng và người thụ hưởng được hưởng di sản).
Trong trường hợp không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo di chúc hoặc khả
năng người thụ hưởng thực hiện nghĩa vụ không cao thì không nên theo hướng tiếp tục.
Do vậy, nếu điều kiện không được đáp ứng thì có thể suy luận rằng người thụ hưởng theo
di chúc không được hưởng di sản theo di chúc.
Như vậy, khi điều kiện không đối với di chúc không được đáp ứng thì hệ quả pháp
lý sẽ là người thụ hưởng sẽ không được nhận di sản theo di chúc.
Câu 8: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên
luật hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung nào?)
Trả lời:
Theo em, di chúc có điều kiện nên được luật hóa trong BLDS. Bởi vì nhu cầu về
di chúc có điều kiện cũng như giải quyết về vấn đề ngày ngày càng nhiều. Vậy nên cần
phải có những điều luật quy định rõ ràng về vấn đề này để dễ dàng giải quyết cũng như
áp dụng vào thực tiễn đời sống.
Để luật hóa di chúc có điều kiện, cần làm rõ được các vấn đề như: Thế nào là di
chúc có điều kiện? Điều kiện để lập di chúc có điều kiện là gì? Hệ quả pháp lý đối với di
chúc không được đáp ứng điều kiện? Quy định về các điều kiện? Thời hạn giải quyết các
điều kiện? Quyền lợi của các chủ thể không nằm trong di chúc có điều kiện?...
Tuy nhiên, di chúc có điều kiện cũng có một số bất lợi như hệ quả pháp lý đối với
di chúc không được đáp ứng điều kiện của câu phía trên. Khi người thụ hưởng không
được hưởng di sản theo di chúc nữa, thì phần di sản đó sẽ được đem đi chia thừa kế theo
pháp luật cho các người thừa kế. Như vậy, về mặt logic là hợp lý, nhưng xét theo góc độ
quyền lợi và ý chí của các đương sự, thì như vậy là không phù hợp. Thứ nhất, việc chia di
sản theo pháp luật như vậy là đi ngược lại với ý chí của người lập di chúc, không tôn
trọng ý chí của họ. Thứ hai, quyền lợi mà người được người lập di chúc bảo vệ thì bị mất
đi. Như vậy, nếu luật hóa vấn đề này, các nhà làm luật nên xem xét việc người thụ hưởng
đáp ứng điều kiện đến mức độ nào để từ đó làm căn cứ phân chia hợp lý di sản trong
trường hợp điều kiện chưa được đáp ứng. Tất nhiên thêm vào các trường hợp cá biệt
không cần tiếp tục đáp ứng điều kiện.
Bất cập thứ hai mà em nghĩ đến là việc người lập di chúc lạm dụng điều này gây
sức ép đến người thụ hưởng. Do đó, cần phải giới hạn lại điều kiện để làm di chúc có
điều kiện cũng như phạm vi, số lượng điều kiện đưa ra cho người thụ hưởng.

PHẦN 4

42
Câu 1: Trong án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân
chia di sản?
Trả lời:
Trong mục 2 phần Nhận định của Tòa án của Án lệ cho thấy đã có thỏa thuận phân
chia tài sản:
“Cụ V quay về nhà đất này và ở tại đây cho đến khi qua đời vào năm 1994. Sau
khi về, cụ đã họp các con và đứng ra phân chia toàn bộ thửa đất thành bốn phần riêng biệt
cho các con, không ai có ý kiến gì và đều thống nhất thực hiện việc phân chia này. Như
vậy, việc ông T, ông H3 đồng ý cùng với cụ V chia 464m 2 đất đã thể hiện việc ông T, ông
H3 chỉ là người đứng tên trong giấy tờ sổ sách giấy tờ về địa chính, nhà đất vẫn là của cụ
V, cụ H chưa chia”.
Câu 2: Trong Án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di
sản đã được Tòa án chấp nhận?
Trả lời:
Trong mục 4 phần Nhận định của Tòa án của Án lệ cho thấy thỏa thuận phân chia
di sản đã được Tòa án chấp nhận:
“Với các chứng cứ trên, đủ cơ sở xác định nhà đất của cụ V, cụ H đã được cụ V và
các thừa kế của cụ H thống nhất phân chia tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở
xác định phần đất 110m2 trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m 2. Việc phân chia
đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai; thỏa
thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, không ai tranh chấp nên
có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển
thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân”.
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản
trên? Anh/chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức và về
nội dung đối với thỏa thuận phân chia di sản.
Trả lời:
Việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản trên là hợp lý
Trích Điều 656 BLDS 2015 về họp mặt giữa những người thừa kế như sau:
Điều 656. Họp mặt những người thừa kế
1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những
người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây:
a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của
những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b) Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.
Đối với điều kiện về hình thức (lập thành văn bản), vụ việc trong Án lệ này khi
họp mặt thỏa thuận không có viết ra văn bản, như vậy là đã vi phạm điều kiện hình thức

43
theo khoản 2 Điều luật nêu trên. Tuy nhiên, về vấn đề này, PGS. TS. Đỗ Văn Đại có cái
nhìn hoàn toàn khác:
“Thỏa thuận phân chia di sản là một giao dịch dân sự và ngày nay BLDS năm
2015 quy định về Hình thức giao dịch dân sự với nội dung “trường hợp luật quy định
giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì
phải tuân theo quy định đó” (khoản 2 Điều 119). Ở quy định vừa nêu, chúng ta không
thấy đề cập tới hình thức “văn bản” mà chỉ nói đến “văn bản có công chứng, chứng
thực”. Thực ra, khi Luật áp đặt hình thức “văn bản” (không phải công chứng, chứng
thực), chúng ta có thể có hai khả năng: Đó có thể là điều kiện “có hiệu lực” hay đó chỉ là
điều kiện về chứng cứ. Xu hướng hiện nay đang coi yêu cầu này là yêu cầu về chứng cứ
(trừ khi Luật nêu rõ đó là điều kiện có hiệu lực). Trong vụ việc đang bình luận, chúng ta
có thể thấy có thỏa thuận phân chia di sản và thỏa thuận này không được thể hiện dưới
văn bản. Điều này cũng cố phần nào thêm quan điểm theo đó yêu cầu về hình thức nêu
trên không là yêu cầu với vai trò là điều kiện có hiệu lực mà là yêu cầu về chứng cứ” 45
Đối với điều kiện về nội dung (chủ thể tham gia), vụ việc trong Án lệ này đã thỏa
mãn.
Theo Điều 610 BLDS 2015, mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền hưởng di sản.
Bên cạnh đó, Điều 651 BLDS 2015 quy định “những người thừa kế cùng hàng được
hưởng phần di sản bằng nhau”. Đồng thời, Điều 659 BLDS 2015 còn quy định “nếu di
chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những
người được chỉ định trong di chúc”. Từ những quy định này, chúng ta có thể khẳng định
khi phân chia di sản thì những người thừa kế có quyền tham gia như nhau, tất cả những
người thừa kế phải tham gia thỏa thuận phân chia di sản (kể cả những người thừa kế thế
vị). Do đó, một số người thừa kế không thể tự phân chia di sản mà không có sự đồng ý
của những đồng thừa kế khác. 46
Trong vụ việc này, cụ V đã họp các con (đều đã trưởng thành) để phân chia di sản
và Tòa án nhân dân tối cao đã khẳng định “thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi
của bất cứ thừa kế nào” nên đáp ứng điều kiện về chủ thể.
Câu 4: Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản.
Trả lời:
Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản:
Thứ nhất, về chủ sở hữu, người sở hữu di sản là người đã chết, còn người sở hữu
tài sản là người còn sống.
Thứ hai, về nguyên nhân tranh chấp. Đối với tranh chấp di sản, thường phát sinh
khi một người thừa kế cảm thấy bị ảnh hưởng đến quyền lợi bởi một người thừa kế khác.
Còn đối với tranh chấp tài sản, nguyên nhân phát sinh thường chỉ do từ mong muốn có
được đối với tài sản đó mà quyền lợi không bị ảnh hưởng bởi người cùng tranh chấp.
45
Đỗ văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, 2019,
Bản án số 157-160, tr.552-553.
46
Đỗ văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, 2019,
Bản án số 157-160, tr.548-549.

44
Câu 5: Trong Án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa
thuận trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản?
Trả lời:
Trong Án lệ số 24/2018/Al, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa thuận trên
là tranh chấp về di sản lẫn tranh chấp về tài sản.
Vì tranh chấp đó là vào phần đất của vợ chồng cụ V và cụ H (việc ông T, ông H3
đồng ý cùng với cụ V chia 464m2 đất đã thể hiện việc ông T, ông H3 chỉ là người đứng
tên trong giấy tờ sổ sách giấy tờ về địa chính, nhà đất vẫn là của cụ V, cụ H chưa chia )
nên ta xét xem phần đất của cụ V và cụ T là di sản hay tài sản.
Về phần đất là di sản của cụ H, do cụ H đã chết, nên tất nhiên là tranh chấp về di
sản.
Về phần đất của cụ V, việc cụ V chia tài sản cho các con không phải là chia di sản
vì phần tài sản của cụ V chỉ được coi là di sản khi cụ V chết. Ở đây, cụ V chia cho các
con phần tài sản của mình vào năm 1991 và cụ V chỉ mất năm 1994 nên, ở thời điểm cụ
C chia cho các con, phần tài sản của cụ C không là di sản. Nói cách khác, việc tranh chấp
tài sản trong Án lệ 24 về phần của cụ V không là tranh chấp về di sản. Thực ra, việc cụ V
chia tài sản của mình cho các con khi cụ V còn sống là cụ V tặng cho các con tài sản của
mình và lúc này các quy định về tặng cho được áp dụng (không áp dụng các quy định về
thừa kế). Đây là tặng cho giữa cha mẹ đối với con.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Án lệ số 24/2018/AL
Trả lời:
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong Án lệ số 24/2018/AL là hợp
lý.
Việc ông H3 nói phần đất đang tranh chấp là của ông và vợ ông tự khai hoang là
không đúng. Bởi vì ủy ban nhân dân huyện Q xác nhận sổ sách địa chính lưu giữ tại Ủy
ban nhân dân cho thấy mảnh đất của các cụ được chia làm 2 thửa, một thửa mang số 210
diện tích 162m2 do ông H3 đứng tên và thửa 213 diện tích 300m 2 do ông T đứng tên. Tuy
nhiên, việc ông T, ông H3 đồng ý cùng với cụ V chia 464m 2 đất đã thể hiện việc ông T,
ông H3 chỉ là người đứng tên trong giấy tờ sổ sách giấy tờ về địa chính, nhà đất vẫn là
của cụ V, cụ H chưa chia. Ông H3 cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh
162m2 là tài sản riêng của ông.
Thực tế thời điểm cụ V chia đất, các con đều đã trưởng thành, một số có gia đình
riêng có nhu cầu về đất ở, riêng ông H3 đã có nhà đất; bà H, bà H1 và bà H2 đang ở Bình
Phước nên bốn người này chưa có nhu cầu xây dựng nhà ở. Ông T thừa nhận tất cả các
con đều đồng ý và ông T xác định phần đất 110m 2 do ông H3 quản lý là cụ V chia cho
ông H3 và bà H, bà H1 và bà H2. Do đó, có đủ cơ sở xác định cụ V có chia đất cho bà H,
bà H1 và bà H2 và phần đất này ông H3 quản lý.
Việc phân chia đã được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách
giấy tờ về đất đai; thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào,

45
không ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ V,
cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân. Vì vậy, việc
Tòa án xác định bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại 44,4m 2 đất thuộc
quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản thừa kế của cha mẹ
không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của cụ H, cụ V nữa là hợp
lý.

46
PHẦN 5

Câu 1: Trong Án lệ số 05/2016/AL Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ
phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:
Trong Án lệ số 05/2016/AL Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần
thừa kế cảu cụ Hưng là thuyết phục.
Vợ chồng cụ Nguyễn Văn Hưng (chết năm 1978), cụ Lê Thị Ngự (chết năm 1992)
có 06 người con gồm bà Nguyễn Thị Xê, ông Nguyễn Chí Trải, bà Nguyễn Thị Xuân, bà
Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Trinh và ông Nguyễn Chí Trai. Tại thời điểm khi cụ
Hưng chết đi thì vợ cụ là bà Ngự và sáu người con chưa ai chết. Do đó, theo điểm a
khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 về hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật: “Hàng thừa kế
thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người
chết” và khoản 2 điều này: “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản
bằng nhau”. Theo đó, ông Trai được hưởng suất thừa kế bằng với từng người trong 6
người thừa kế còn lại của cụ Hưng (cụ Ngự, bà Xê, bà Xuân, bà Thưởng, bà Trinh, và
ông Trai), nghĩa là 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng.
Câu 2: Trong Án lệ số 05/2016 AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục
không? Vì sao?
Trả lời:
Trong Án lệ số 05/2016 AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được hưởng
của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư là không thuyết phục.
Theo Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về tài sản chung của vợ chồng
như sau:

“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế
riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.”
Theo khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình về tài sản riêng của vợ chồng:
”Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được
thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ,
chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết

47
yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của
vợ, chồng”47.
Theo đó, mặc dù trong thời kỳ hôn nhân, nhưng đây là phần thừa kế của riêng ông
Trải, nên phần tài sản ông Trải được hưởng của cụ Hưng không thể là tài sản chung của
vợ chồng ông Trải, bà Tư được.
Câu 3: Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng
công sức quản lý di sản có thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:
Trong Án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức
quản lý di sản là chưa được thuyết phục.
Chị Phượng (sinh năm 1953) đã ở căn nhà tranh chấp từ nhỏ đến nay. Từ năm
1982 chị đã là chủ hộ khẩu tại căn nhà đất này, cụ Ngự sống nhưng ở nơi khác, bà
Thường chuyển hộ khẩu về năm 1979 nhưng không thường ở đây, nên chị Phượng đã
trực tiếp quản lý, sử dụng đất tranh chấp từ sau khi cụ Ngự chết đến nay. Từ nhỏ đến nay,
chị đã sửa chửa căn nhà nhiều lần như làm cửa nhôm, xây tường phần gác lửng, lát gạch
men sân thượng, xây tường phía sau nhà. Bên cạnh đó, cha mẹ chị và các con trong đó có
chị đã sống ổn định hơn 50 năm tại căn nhà, đã bảo quản căn nhà nên việc buộc mẹ con
chị Phượng giao lại căn nhà cho các nguyên đơn theo Tòa là chưa hợp lý, cần phải xem
xét thêm phần công sức cho chị Phượng.
Theo một số nhà bình luận, đây “bao gồm các khoản tiền mà người bảo quản di
sản đã cố định duy trì giá trị của di sản (như bảo dưỡng, tu sửa những hư hỏng tự nhiên)
và khoản tiền thù lao mà người đó được hưởng, nếu có”. Thực ra, chi phí bảo quản di sản
và thù lao cho việc quản lý di sản là những khoản buộc phải thanh toán cho người bỏ ra
chi phí này còn thù lao phụ thuộc vào chất lượng của việc bảo quản và yếu tố khác như
thỏa thuận với người thừa kế. Do đó, chi phí cho việc bảo quản di sản không bao gồm thù
lao48.
Trường hợp của chị Phượng, Tòa án nói công sức ở đây thôi là chưa đủ. Tòa cũng
xác định rằng yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là lớn hơn yêu cầu xem
xét về công sức là chưa được hợp lý. Vì việc chị Phượng bỏ tiền sửa chửa căn nhà nhiều
lần là chi phí bảo quản tài sản. Nên chị có quyền yêu cầu xác định quyền lợi của mình
theo khoản 3 Điều 658 BLDS 2015.

47
Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
48
Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, 2019, Bản
án số 143-146, tr. 468.

48
Danh mục tài liệu tham khảo

1. Bộ luật dân sự 2015;


2. Bộ luật dân sự 2005;
3. Hiến pháp 2013;
4. Luật Hôn nhân và Gia đình 2014;
5. Luật Doanh nghiệp 2014;
6. Luật Trọng tài thương mại 2010;
7. Luật Công chứng 2014;
8. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội
Luật gia Việt Nam, 2019 (xuất bản lần thứ tư);
9. Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam- Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-
Hội luật gia Việt Nam 2017 (xuất bản lần thứ 6);
10. Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang, Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh
chấp, Nxb. Tư pháp, 2017;
11. Phùng Trung Tập: Luật Thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, 2008;
12. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2019, Chương VI;
13. Nguyễn Ngọc Hồng Phượng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa
kế của Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức-Hội luật gia Việt Nam, 2019, Chương
VIII;
14. Nghị Quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990;
15. Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao;
16. Quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT ngày 15/3/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao;
17. Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT ngày 25/4/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhan dân tối cao;
18. Quyết định số 377/2008/DS-GĐT ngày 23/12/2008 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao;
19. Quyết định số 08/2013/DS-GĐT ngày 24/01/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao;
20. Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/9/2009 của Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh;
21. Quyết định số 194/2012/DS-GĐT của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao;
22. Quyết định số 23/2009/DS-GĐT ngày 15-1-2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao.
23. Án lệ số 24/2018/AL;
24. Án lệ số 05/2016/AL.

49

You might also like