You are on page 1of 39

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT HÌNH SỰ

BỘ MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

PHÂN TÍCH NỘI DUNG CỦA LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.

Giảng viên: TS. Nguyễn Thanh Hải

Nhóm 2
DANH SÁCH SINH VIÊN

STT MSSV Họ và tên

1 2053801013002 Đặng Tấn Quốc An

2 2053801013003 Đặng Thanh An

3 2053801013005 Nguyễn Thị Mỹ An

4 2053801013006 Thái Vương An

5 2053801013007 Trương Thị Phương An

6 2053801013008 Đinh Thị Trâm Anh

7 2053801013009 Đỗ Thị Lan Anh

8 2053801013010 Nguyễn Thị Bảo Anh

9 2053801013011 Nguyễn Thị Lan Anh

10 2053801013012 Nguyễn Trần Tuấn Anh

11 2053801013013 Phạm Lê Quế Anh

12 2053801013015 Lê Quốc Bảo

13 2053801013016 Nguyễn Thanh Bình

14 2053801013017 Võ Thanh Bình

15 2053801013020 Nguyễn Thành Công

16 2053801013021 Lê Mạnh Cường


17 2053801013023 Hồ Thị Cẩm Dân

18 2053801013024 Ngô Hải Đăng

19 2053801013025 Nguyễn Xuân Đào

20 2053801013026 Nguyễn Quang Đức

21 2053801013027 Trần Đình Đức

22 2053801013028 Dương Thị Thủy Dung

23 2053801013029 Nguyễn Khánh Dung

24 2053801013030 Nguyễn Văn Duy

25 2053801013031 Trần Minh Duy

26 2053801013032 Đặng Ngọc Thanh Giang

27 2053801013035 Nguyễn Ngọc Quỳnh Giao

28 2053801013036 Nguyễn Lê Ngọc Hà

29 2053801013037 Lê Thị Ngọc Hân

30 2053801013038 Trịnh Lê Kim Hân

31 2053801013039 Võ Gia Hân

32 2053801013040 Nguyễn Minh Hằng

33 2053801013041 Phùng Thị Thanh Hằng


34 2053801013042 Lê Thị Như Hảo

35 2053801013044 Hồ Thị Mỹ Hiền

36 2053801013045 Trần Mai Phúc Hiền

37 2053801013046 Thân Quang Hiếu

38 2053801013047 Bùi Quỳnh Hoa

39 2053801013048 Nguyễn Tuấn Hoa

40 2053801013049 Nguyễn Văn Huy Hoàng

41 2053801013050 Nông Huy Hoàng

42 2053801013051 Phạm Quốc Hùng

43 2053801013052 Châu Ngọc Thanh Hương

44 2053801013053 Đặng Huỳnh Quỳnh Hương

45 2053801013054 Nguyễn Thị Thu Hương

46 2053801013055 Phạm Thị Lan Hương

47 2053801013056 Cao Lương Gia Huy

48 1753801015129 Nguyễn Thị Ánh Minh


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

I. Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội....................................1
1.1. Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội...............................1
1.1.1.Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội – giai cấp..........................................................1
1.1.2.Vị trí của cơ cấu xã hội-giai cấp trong cơ cấu xã hội..........................................................2
1.2. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.................................................................................................................................3
1.2.1.Cơ cấu xã hội giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội................................................................................................................3
1.2.2. Cơ cấu xã hội-giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện các tầng lớp xã hội
mới...............................................................................................................................................4
1.2.3.Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa liên minh, từng
bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dần xích lại gần nhau.............................................................5
II. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.........................9
2.1.Góc độ chính trị....................................................................................................................9
2.2.Góc độ kinh tế.....................................................................................................................12
III. Tầng lớp, giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam....15
3.1. Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam............15
3.1.1. Sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến, vừa mang tính
đặc thù của xã hội Việt Nam.......................................................................................................15
3.1.2. Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp
xã hội ngày càng được khẳng định.............................................................................................16
3.2. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam...22
3.2.1. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam..................................................................................................................................22
3.2.2. Phương hướng cơ bản để xây dựng cơ cấu xã hội – giai cấp và tăng cường liên minh
giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU

Tập thể nhóm tác giả xin trình bày chủ đề Nội dung của liên minh giai cấp tầng lớp
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đây là một nội dung rất hay
nhưng khá khó trong việc tiếp cận nên nhóm tác giả làm bài tiểu luận này nhằm
cung cấp nội dung một cách dễ hiểu nhất cho mọi người.

Lý do nhóm chọn chủ đề này phù hợp với bối cảnh trong nước đang trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bối cảnh
nước ngoài đang diễn biến phức tạp: “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh
tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát
triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình
thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp,
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và
cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp” ( trích Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Với bối cảnh như thế
đã đặt ra cho đất nước ta nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức về
những sự biến đổi trong cơ cấu xã hội, giai cấp, tầng lớp.

Vì thế việc tìm hiểu chủ đề này giúp chúng ta nắm được những kiến thức nền tảng
về cơ cấu xã hội-giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giúp
chúng ta nhận diện sự biến đổi trong cơ cấu xã hội-giai cấp và nội dung liên minh
giai cấp, tầng lớp để từ đó giúp ta nhận thấy được tầm quan trọng, sự cần thiết góp
sức tăng cường xây dựng khối liên minh giai cấp, tầng lớp vững mạnh trong sự
nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
I. Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

1.1. Khái niệm và vị trí của cơ cấu xã hội – giai cấp trong cơ cấu xã hội

1.1.1.Khái niệm cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội – giai cấp

Cơ cấu xã hội là những cộng đồng người cùng toàn bộ những mối quan hệ xã hội do
sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên.1
Cơ cấu xã hội có nhiều loại, như: cơ cấu xã hội – dân cư, cơ cấu xã hội – nghề
nghiệp, cơ cấu xã hội – giai cấp, cơ cấu xã hội – dân tộc, cơ cấu xã hội – tôn giáo,
v.v... Dưới góc độ chính trị - xã hội, môn Chủ nghĩa xã hội khoa học tập trung
nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp vì đó là một trong những cơ sở để nghiên cứu
vấn đề liên minh giai cấp, tầng lớp trong một chế độ xã hội nhất định.
Cơ cấu xã hội – giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách quan
trong một chế độ xã hội nhất định, thông qua những mối quan hệ về sở hữu tư liệu
sản xuất, về tổ chức quản lý quá trình sản xuất, về địa vị chính trị - xã hội...giữa các
giai cấp và tầng lớp đó.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội – giai cấp là tổng thể các
giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội có mối quan hệ hợp tác và gắn bó chặt chẽ với
nhau. Yếu tố quyết định mối quan hệ đó là họ cùng chung sức cải tạo xã hội cũ và
xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các giai cấp, tầng lớp
xã hội và các nhóm xã hội cơ bản trong cơ cấu xã hội – giai cấp của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức, tầng lớp doanh nhân, tầng lớp tiểu chủ, tầng lớp thanh niên, phụ nữ v.v... Mỗi
giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội này có những vị trí và vai trò xác định song
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân cùng
hợp lực, tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện những mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế
hình thái kinh tế - xã hội cũ đã lỗi thời.
Đặc điểm của cơ cấu xã hội-giai cấp
- Cơ cấu xã hội-giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội tồn tại khách quan
trong một hệ thống xã hội nhất định mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
con người.
- Việc xác định cơ cấu xã hội-giai cấp thông qua những mối quan hệ về sở hữu tư liệu
sản xuất, về tổ chức quản lí quá trình sản xuất, về địa vị chính trị-xã hội,… giữa các
giai cấp tầng lớp đó. Đặc biệt là mối quan hệ về sở hữu tư liệu sản suất. Cụ thể đối
với xã hội Tư sản thì giai cấp tư sản là người nắm giữa tư liệu còn những người
không nắm giữ tư liệu sản xuất là giai cấp vô sản, đối với xã hội Xã hội chủ nghĩa
kế thừa từ xã hội Tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản đấu tranh giành thắng lợi thay
thế tư sản nắm giữ tư liệu sản xuất trở thành lực lượng lãnh đạo xã hội mới.

1
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hà Nội, 2019, tr.88.

1
1.1.2. Vị trí của cơ cấu xã hội-giai cấp trong cơ cấu xã hội

Trong hệ thống xã hội, mỗi loại hình cơ cấu xã hội đều có vị trí, vai trò xác định và
giữa chúng có mỗi quan hệ, phụ thuộc lẫn nhau. Song vị trí, vai trò của các loại cơ
cấu xã hội không ngang nhau, cơ cấu xã hội-giai cấp có vị trí quan trọng hàng đầu,
chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác. Điều này xuất phát từ một số nguyên
nhân như sau:
- Cơ cấu xã hội-giai cấp liên quan đến các đảng phái chính trị và nhà nước, quyền sở
hữu tư liệu sản xuất , quản lý tổ chức lao động, vấn đề phân phối thu nhập…
- Sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của các cơ
cấu xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã hội, ví dụ như:
nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cơ cấu xã hội-giai cấp có sự
biến đổi, Giai cấp công nhân lên nắm chính quyền, làm chủ tư liệu sản xuất từ đó
ảnh hưởng đến cơ cấu xã hội-nghề nghiệp có sự thay đổi khi số lượng công nhân
đang có xu hướng tăng mạnh, số lượng nông dân đang có xu hướng giảm và các
nhà tư bản từ một giai cấp nắm quyền tư liệu sản xuất dần trở thành các tư nhân,
doanh nghiệp,…(những tầng lớp xã hội mới).
Sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của các cơ
cấu xã hội khác và tác động đến sự biến đổi của toàn bộ cơ cấu xã hội. Lê-nin đã
từng viết rằng: “Kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến đổi, nếu không hiểu
những biến đổi này thì không thể tiến được một bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt
động nào.”, ví dụ như nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cơ
cấu xã hội-giai cấp có sự biến đổi, Giai cấp công nhân lên nắm chính quyền, làm
chủ tư liệu sản xuất từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu xã hội-nghề nghiệp có sự thay đổi
khi số lượng công nhân đang có xu hướng tăng mạnh, số lượng nông dân đang có
xu hướng giảm và các nhà tư bản từ một giai cấp nắm quyền tư liệu sản xuất dần
trở thành các tư nhân, doanh nghiệp,…(những tầng lớp xã hội mới).
Mặc dù cơ cấu xã hội-giai cấp giữ vị trí quan trong song cũng không vì thế mà tuyệt
đối hóa nó, xem nhẹ các loại hình cơ cấu xã hội khác, từ đó có thể dẫn đến sự tùy
tiện, muốn xóa bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội một cách đơn giản theo
ý muốn chủ quan.

1.2. Sự biến đổi có tính quy luật của cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội

Cơ cấu xã hội-giai cấp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thường xuyên có
những biến đổi mang tính quy luật sau đây:

1.2.1. Cơ cấu xã hội giai cấp biến đổi gắn liền và bị quy định bởi cơ cấu kinh tế
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Theo lý luận chủ nghĩa Mác, vật chất quyết định ý thức, thì trong xã hội kinh tế
quyết định chính trị, tức là cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Như vậy,

2
cơ cấu xã hội giai cấp nó sẽ phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế của xã hội. Nói cách khác,
cơ cấu kinh tế xã hội nó sẽ quyết định cơ cấu xã hội giai cấp.
Trong cơ cấu kinh tế của thời kỳ phong kiến, nó quyết định đến cơ cấu xã hội giai
cấp của thời kỳ phong kiến, đó là giai cấp địa chủ phong kiến là thống trị của giai
cấp nông dân và các tầng lớp bị trị khác.
Trong cơ cấu kinh tế của thời kỳ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản sẽ là giai cấp
thống trị bởi vì giai cấp tư sản là giai cấp nắm tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân
và những thành phần khác là giai cấp bị trị.
Ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội giai cấp cũng tuân theo quy
luật trên. Tức là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì cơ cấu hướng đến là sở hữu
công cộng, công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, phục vụ thiết thực lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động do Đảng cộng sản lãnh đạo. Điều đó dẫn
đến cơ cấu xã hội giai cấp lúc này là giai cấp công nhân, lực lượng đông đảo và to
lớn trong xã hội sẽ là giai cấp lãnh đạo, giai cấp thống trị. Giai cấp công nhân, do có
lợi ích phù hợp với dân tộc, đất nước, cho nên sự lãnh đạo, thống trị của giai cấp
công nhân sẽ phù hợp với lợi ích chung, mục đích chung của toàn xã hội và do đó là
thống nhất, tập hợp liên minh đông đảo những cái giai cấp, tầng lớp khác vào công
việc chung đó là tổ chức và xây dựng xã hội mới xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Ở nước ta, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “Trong thời kỳ quá độ,
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác
nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi
nhiều cùng với những biến đổi về kinh tế, xã hội”.2
Quá trình biến đổi trong cơ cấu kinh tế dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội
giai cấp, từ đó dẫn đến sự thay đổi các vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp, các
nhóm xã hội. Cụ thể là ở những nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
với xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế sẽ có những biến đổi đa dạng: từ một cơ cấu
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và công nghiệp còn ở trình độ sơ khai chuyển sang
cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông
nghiệp; chuyển từ cơ cấu vùng lãnh thổ còn chưa định hình sang hình thành các
vùng, các trung tâm kinh tế lớn; chuyển từ cơ cấu lực lượng sản xuất hiện đại nhưng
không cân đối, trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu hoặc trung bình chuyển
sang phát triển lực lượng sản xuất với trình độ công nghệ cao, tiên tiến theo xu
hướng ứng dụng những thành quả của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
của kinh tế tri thức, kinh tế số, cách mạng công nghiệp lần thứ tư…, từ đó hình
thành những cơ cấu kinh tế mới hiện đại hơn, với trình độ xã hội hóa cao và đồng
bộ hài hòa hơn giữa các vùng, các khu vực, giữa nông thôn và thành thị, đô
thị...Quá trình biến đổi trong cơ cấu kinh tế đó tất yếu dẫn đến những biến đổi trong
cơ cấu xã hội- giai cấp, cả trong cơ cấu tổng thể cũng như những biến đổi trong nội
bộ từng giai cấp, tầng lớp xã hội, nhóm xã hội. Từ đó, vị trí, vai trò của các giai cấp,
tầng lớp, các nhóm xã hội cũng thay đổi theo. Mặt khác, nền kinh tế thị trường phát
triển mạnh với tính cạnh tranh cao, cộng với xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng
khiến cho giai cấp, tầng lớp xã hội cơ bản trong thời kỳ này trở nên năng động, có
khả năng thích ứng nhanh, chủ động sáng tạo trong lao động sản xuất để tạo ra

2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H,
2001, tr.85.

3
những sản phẩm có giá trị, hiệu quả cao và chất lượng tốt đáp ứng của nhu cầu thị
trường trong bối cảnh mới.3

1.2.2. Cơ cấu xã hội-giai cấp biến đổi phức tạp, đa dạng, làm xuất hiện các tầng
lớp xã hội mới.

Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng, hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa đã
được “thai nghén” từ trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩam do vậy ở giai đoạn đầu
của nó vẫn còn những “dấu vết của xã hội cũ” được phản ánh “về mọi phương diện-
kinh tế,đạo đức, tinh thần”4. Song bên cạnh đó, cũng xuất hiện những yếu tố mới do
giai cấp công nhân và các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội bắt tay vào tổ chức
xây dựng, làm xuất hiện sự đan xen giữa yếu tố cũ và yếu tố mới. Đây là vấn đề
mang tính quy luật thể hiện rõ nét nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Về mặt kinh tế, còn tồn tại kết cấu kinh tế nhiều thành phần. Chính sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đưa đến sự biến đổi cơ cấu thành phần kinh
tế, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu hành chính, kinh tế, xã hội. Điều đó đưa tới cơ cấu xã
hội- giai cấp đa dạng phức tạp với những giai cấp tầng lớp khác nhau. Sự biến đổi
đó đưa tới một cơ cấu xã hội mới, tác động trực tiếp đến cơ cấu kinh tế tạo cho nó
định hướng xã hội chủ nghĩa. Biểu hiện của sự biến đổi đó là:

- Trong giai cấp nông dân đã hình thành những nông dân làm dịch vụ, mở xưởng cơ
khí, làm nghề phụ, buôn bán nhỏ...; có nông dân làm chủ trang trại, có nông dân làm
thuê, có nông dân sống và làm việc ở nông thôn nhưng cũng đã ly nông. Sự chuyển
dịch đó dẫn đến tính chất thuần nông trong giai cấp nông dân ngày một thuyên
giảm. Trong thời gian tới, thực hiện chủ trương chuyển mạnh cơ cấu lao động ở
nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng
lao động công nghiệp, dịch vụ, tạo điều kiện để nông dân có việc làm trong và ngoài
khu vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài sẽ làm cho giai cấp nông dân có sự chuyển
dịch mạnh về kết cấu và tính chất giai cấp.
- Trong giai cấp công nhân nước ta hiện nay hình thành một nhóm xã hội có vị trí
kinh tế, xã hội và dễ nhận thấy vai trò của họ trong sản xuất, kinh doanh như: chủ
trang trại. Tên gọi chủ trang trại chỉ mới phản ánh vị trí, vị thế trong sản xuất của họ
- với tính cách là những ông chủ sở hữu (sử dụng một số đất đai, ao hồ, ruộng vườn,
mở mạng sản xuất, thuê khoán nhân công, sản xuất ra nông lâm, hải sản), chứ chưa
phản ánh vị trí, vị thế xã hội. Trên thực tế, họ chưa có sự “liên hệ bên trong” để
hình thành một tầng lớp xã hội, tuy nhiên cho thấy rõ hơn sự phân hóa, tính phức
tạp trong kết cấu của giai cấp nông dân.Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều
chuyển dịch về ngành nghề, dẫn đến sự chuyển dịch về kết cấu trong nội bộ giai
cấp. Tính phức tạp trong giai cấp công nhân ngày càng tăng lên, công nhân làm thuê
đan xen với công nhân có cổ phần, thậm chí là chủ xưởng. Trong giai cấp công
nhân đã xuất hiện công nhân “cổ trắng” bên cạnh những công nhân “cổ xanh”
truyền thống. Điều này rất cần chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu để có thể đưa ra
những quyết sách thích hợp.

3
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Hà Nội, 2019, tr.90.
4
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 19, tr.33.

4
- Tầng lớp trí thức ngày càng đông đảo về mặt số lượng và cũng chứa đựng sự phức
tạp về kết cấu và sự biến động về tính chất của tầng lớp trong xã hội. Tầng lớp trí
thức Việt Nam là một tầng lớp hội đủ các thành phần xã hội: nông dân, công nhân,
tiểu thương, tiểu chủ với mọi lứa tuổi và dân tộc. Đây cũng là tầng lớp làm việc
trong tất cả các ngành nghề trong xã hội, họ gia nhập “không tự giác” vào các giai
cấp và tầng lớp xã hội khác. Có trí thức đã trở thành doanh nhân, có trí thức chỉ là
những người lao động bình thường trong các cơ sở sản xuất kinh doanh...5

1.2.3. Cơ cấu xã hội – giai cấp biến đổi trong mối quan hệ vừa đấu tranh, vừa liên
minh, từng bước xóa bỏ bất bình đẳng xã hội dần xích lại gần nhau

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn xuất hiện những mâu thuẫn, sự
đấu tranh giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tàn dư của chế độ cũ liên tục
không ngừng chống phá đòi hỏi cần phải chú ý và có những biện pháp để giải quyết
mâu thuẫn đấu tranh đó trong thời kỳ nhảy cảm mà được ví như “những cơn đau đẻ
kéo dài”.6
Bên cạnh nhưng mâu thuẫn đấu tranh thì các giai cấp trong xã hội còn có mối quan
hệ liên minh gắn kết giữa giai cấp công nhân, nông dân, và tầng lớp tri thức. Sự liên
minh gắn kết này xuất phát từ việc giai cấp công nhân và nông dân có những đặc
điểm giống nhau. Họ đều là giai cấp bị trị, bị bóc lột, có số lượng đông đảo trong xã
hội, đặc biệt giai cấp công nhân ở Việt Nam còn có nguồn gốc xuất thân từ nông
dân, còn đối với tầng lớp trí thức họ là người nắm giữ tri thức tiếp cận nhanh với
luồng tư tưởng mới, nhạy bén với thời cuộc, và họ cũng bị bóc lột một cách gián
tiếp. Chính điều đó đã tạo cơ sở để hình thành một liên minh giai cấp giữa giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức … Mức độ liên minh, xích lại gần
nhau giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội
của đất nước trong từng giai đoạn của thời kỳ quá độ. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ
quá độ sự phân chia giai cấp thống trị và bị trị rất rõ ràng khi giai cấp tư sản nắm
giữ tư liệu sản xuất và tiến hành bóc lột giai cấp bị trị cụ thể giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức, cho đến khi giai cấp công nhân nhận thức
được vai trò và sứ mệnh lịch sử của tiến hành cách mạng cùng với giai cấp khác
giành chiến quyền và tiến lên chủ nghĩa xã hội và từ lúc đó mối quan hệ giữa giai
cấp công nhân giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức ngày càng gắn bó, liên kết với
nhau.
Sự gắn kết này phù hợp với quy luật phổ biến. Trong một chế độ xã hội nhất định,
chính cuộc đấu tranh giai cấp của các giai cấp có lợi ích đối lập nhau đều đặt ra nhu
cầu tất yếu khách quan mỗi giai cấp đứng ở vị trí trung tâm đều phải tìm cách liên
minh với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác có những lợi ích phù hợp với mình để
tập hợp lực lượng thực hiện những nhu cầu và lợi ích chung.
Tính đa dạng và tính độc lập tương đối của các giai cấp, tầng lớp sẽ diễn ra trong
việc hòa nhập, chuyển đổi bộ phận giữa các nhóm xã hội và có xu hướng tiến tới
từng bước xóa bỏ dần tình trạng bóc lột giai cấp trong xã hội, vươn tới những giá trị
công bằng bình đẳng. Số lượng giai cấp công nhân hiện nay có nhiều số lượng
tương đối khác biệt do tiêu chí, quy mô và cách đánh giá của mỗi chủ thể nghiên
5
Bàn luận về giai tầng xã hội, cơ cấu xã hội - giai tầng xã hội, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 9/2007,
tr.51-tr.53.
6
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.47.

5
cứu. Năm 2012, Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, thế giới đã có 1.000 triệu công
nhân. Một nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 2014 khẳng định,
trên thế giới hiện có 1.540 triệu “công nhân làm công ăn lương” (salaried workers)
trong tổng số gần 3.300 triệu người lao động của thế giới hiện nay. Cũng theo ILO,
dự báo về số lượng nhóm này, năm 2018 sẽ là 1.702 triệu người 7. Cũng có một phân
tích khác đưa ra số liệu tương đương: “Khi C. Mác viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản, năm 1848, trên thế giới chỉ có khoảng 10 - 20 triệu công nhân, tương đương
chiếm 2% - 3% số dân toàn cầu và chỉ trong vài lĩnh vực có máy móc. Đến đầu thế
kỷ XX, toàn thế giới có 80 triệu công nhân. Năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử có
đa số cư dân tham gia vào lực lượng lao động và là người lao động ăn lương. Hiện
nay có khoảng 1,6 tỷ người lao động ăn lương, tăng thêm 600 triệu kể từ giữa
những năm 1990, hơn 1 tỷ trong số đó là công nhân” 8. Số liệu về số lượng công
nhân có thể khác nhau đôi chút, nhưng nhận thức chung là sự tăng lên mạnh mẽ của
lao động công nghiệp trên thế giới trong vài thập niên gần đây. Tỷ lệ lao động bằng
phương thức công nghiệp hiện nay chiếm trên 60% số lao động toàn cầu. Quá trình
công nghiệp hóa, nhu cầu phát triển văn minh (toàn cầu hóa, đô thị hóa, hiện đại
hóa cuộc sống...) là những nguyên nhân của hiện tượng này.
Cơ cấu nghề nghiệp của công nhân hiện nay vô cùng đa dạng và chưa ngừng lại ở
những nghề hiện có. Năm 1893, Ph.  Ăngghen quan niệm: “Khi tôi nói “công
nhân”, tôi có ý nói người lao động của tất cả mọi giai cấp. Người tiểu thương bị các
hãng buôn lớn lấn gạt, viên chức văn phòng, thợ thủ công, công nhân thành thị và
công nhân nông nghiệp bắt đầu cảm thấy ách áp bức của chế độ tư bản chủ nghĩa
hiện nay ở nước chúng tôi”.9
Như vậy, quan niệm “giai cấp công nhân” đã được lý luận mở rộng rất nhiều, không
chỉ có những người trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành công cụ lao động có tính chất
công nghiệp nữa, mà còn là tất cả những người lao động trong chế độ tư bản.
Cơ cấu công nhân theo lĩnh vực hoạt động. Giai cấp công nhân hiện nay lao động
trên ba lĩnh vực cơ bản là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù đang có sự
dịch chuyển lao động giữa các lĩnh vực nhưng xu hướng chung là nhóm lao động ở
lĩnh vực dịch vụ tăng mạnh, số lượng lao động trong lĩnh vực công nghiệp và nông
nghiệp giảm nhẹ. Số liệu của ILO về so sánh tỷ trọng lao động trong các ngành sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế
kỷ XXI cho thấy rõ điều đó.
Cơ cấu của giai cấp công nhân xét theo trình độ công nghệ hiện nay được nhìn nhận
là đa dạng và không đồng đều. Các nghiên cứu về trình độ công nghệ của công nhân
thường xét theo khả năng tiếp cận các cuộc cách mạng công nghiệp, cách tính toán
thường là công nghiệp 2.0; 3.0 hoặc tiệm cận 4.0. Cũng có những đánh giá trình độ
công nghệ của công nhân theo đặc tính của kỹ thuật của từng ngành công nghiệp mà
họ đang hoạt động. Nhìn chung, công nghệ mà công nhân trên thế giới hiện đang sử
dụng là một “dải khá rộng” được mô tả bằng “cây phả hệ công nghệ đa tầng”, hàm

7
Website ILO, Báo cáo Xu hướng việc làm toàn cầu 2014: Bộ dữ liệu hỗ trợ: Việc làm theo ngành và giới
tính của toàn cầu, khu vực và từng nước. Hiện nay chưa có số liệu nào mới hơn và đáng tin cậy hơn.
8
Báo Công nhân xã hội chủ nghĩa (Socialist Worker) của Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Anh, số ra ngày
11-8-2015.
9
C. Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.22, tr. 809.

6
ý là ở nhiều trình độ, phát triển vốn theo quy luật không đều và sự phát triển của
giai cấp công nhân hiện nay cũng vẫn tuân theo quy luật đó.
Cơ cấu giai cấp công nhân dựa theo trình độ phát triển kinh tế thường được giới
nghiên cứu phân tích theo hai nhóm nước là nước phát triển và nước đang phát
triển. Trình độ phát triển kinh tế, trình độ công nghệ thường tỷ lệ thuận với năng
suất lao động đạt được. Công nhân của các nước phát triển có năng suất lao động
cao hơn so với các nước đang phát triển.
Cơ cấu giai cấp công nhân theo chế độ xã hội là cách tiếp cận theo chế độ chính trị.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, có mối quan hệ biện chứng giữa công nhân,
công nghiệp và chủ nghĩa xã hội (chế độ chính trị). Chế độ chính trị cũng có thể tác
động đến sự phát triển của công nhân và công nghiệp. Lịch sử cận đại, hiện đại xác
định điều đó. Thống kê về giai cấp công nhân các nước xã hội chủ nghĩa năm 2019
cho thấy: Việt Nam có khoảng 15 triệu; Lào có khoảng gần 0,8 triệu; Cu-ba có gần
3 triệu, Trung Quốc có khoảng 300 triệu công nhân và 270 triệu “nông dân - công”
(nhóm xã hội tham gia 2 phương thức và 2 lĩnh vực lao động, có 2 nơi cư trú; là
trung giới của quá trình chuyển biến từ nông dân sang công nhân, nhưng chưa hoàn
toàn sống bằng thu nhập từ lao động công nghiệp).
Trình độ của giai cấp công nhân còn được tính theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin là trình độ giác ngộ chính trị, ý thức về sứ mệnh lịch sử của mình. Cách tiếp
cận này khá phổ biến trong nhiều nghiên cứu của các nước phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhận thức chung là, giác ngộ chính trị của công
nhân không đồng đều, có biểu hiện bất cập so với yêu cầu của sứ mệnh lịch sử mà
họ phải đảm trách. Điều đáng quan tâm là hiện tượng suy giảm tính tích cực chính
trị của một bộ phận công nhân trong cơ chế kinh tế thị trường hiện đại đang diễn ra
ở nhiều quốc gia. Có thể thấy sự đa dạng của các giai cấp, tầng lớp đặc biệt là giai
cấp công nhân với sự tăng lên không ngừng cả số lượng và chất lượng trên các mặt
kinh tế, chính trị, xã hội. Họ nhận thức được vai trò của mình và biết mình cần phải
làm gì, với sự đa dạng đó các giai cấp tầng lớp có thể dễ dàng liên kết với nhau hơn
và sự liên kết đó diễn ra trong hòa hợp từng bước có thể loại bỏ mâu thuẫn để tiến
lại gần nhau hơn.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin trong các tác phẩm kinh điển đã dành sự quan
tâm đặc biệt đến vấn đề dân tộc và độc lập dân tộc; chỉ rõ con đường đấu tranh để
giải phóng dân tộc. V.I.Lênin đã phát triển luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
"vô sản toàn thế giới liên hiệp lại" thành "vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp
bức đoàn kết lại", trở thành khẩu hiệu của phong trào đấu tranh giành độc lập dân
tộc của các nước bị áp bức trên toàn thế giới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
hai chặng đường nối tiếp nhau của một tiến trình cách mạng. Trong đó, độc lập dân
tộc là mục tiêu của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện người cày có
ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng dân tộc, dân chủ, làm tiền đề để thực hiện các mục tiêu khác, như quyền lực
chính trị, dân chủ, vấn đề ruộng đất, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, nâng
cao trình độ dân trí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối liên hệ biện chứng giữa
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này là cơ sở
quá độ từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chính cách mạng xã hội chủ nghĩa đã kế thừa, khẳng định và bảo đảm vững chắc
thành quả của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sự phát triển này là quy
luật tất yếu của lịch sử. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh

7
đạo từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã từng bước hồi sinh
đất nước về mọi mặt. Trước những bối cảnh mới của tình hình, Đảng ta luôn xác
định phải giương cao ngọn cờ “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Công cuộc
đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn,
phù hợp với quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo điều
kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới,
Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mối liên
hệ gắn kết biện chứng. Học thuyết C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về chủ nghĩa
xã hội luôn đề cao các giá trị của độc lập dân tộc, khẳng định chủ nghĩa xã hội là
mục tiêu của độc lập dân tộc.
Từ những điều nêu trên có thể thấy đây là một quá trình lâu dài thông qua những cải
biến cách mạng toàn diện của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là xu hướng
tất yếu và là biện chứng của sự vận động, phát triển cơ cấu xã hội – giai cấp trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

II. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh giai cấp. Từ những cuộc đấu tranh
thất bại vì giai cấp công nhân đơn độc đấu tranh, điển hình là Công xã Paris, và đi
đến kết luận rằng những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu được những thắng
lợi nếu giai cấp công nhân có được sự ủng hộ, liên minh của các giai cấp khác. Đó
là những nguyên tắc mang tính sống còn, nếu không thì cách mạng của giai cấp vô
sản sẽ trở thành “bài đơn ca ai điếu”.10 Ở trong bài tiểu luận này, nhóm tác giả sẽ
phân tích liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội về
hai khía cạnh là chính trị và kinh tế.

2.1. Góc độ chính trị

Trong một chế độ xã hội, các cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp có lợi ích đối
lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan mỗi giai cấp đứng ở vị trí trung tâm phải
liên minh với các tầng lớp, giai cấp khác có lợi ích phù hợp với mình để tập hợp lực
lượng thực hiện những nhu cầu và lợi ích chung – đó là quy luật mang tính phổ biến
và là động lực to lớn cho sự phát triển của các xã hội có giai cấp. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa phải
liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác để tạo sức
mạnh tổng hợp đảm bảo cho thắng lợi của cuộc cách mạng trong giai đoạn giành
chính quyền và giai đoạn xây dựng chế độ xã hội mới.
Sự cần thiết của liên minh công - nông không chỉ từ phía giai cấp công nhân, mà
còn từ phía giai cấp nông dân. Bên cạnh mâu thuẫn giai cấp phổ biến giữa công
nhân với tư sản, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng
10
C. Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1993, tập 8, tr.762.

8
không thể thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, không thể được giải
phóng một cách thực sự và triệt để nếu không liên minh với giai cấp công nhân,
không trở thành người bạn đồng minh của giai cấp công nhân. C.Mác khẳng định:
“Đứng trước giai cấp tư sản phản cách mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên là những
phần tử đã được cách mạng hóa của giai cấp tiểu tư sản và của nông dân, phải liên
minh với người đại biểu chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô
sản cách mạng”. Vì “...người nông dân thấy rằng giai cấp vô sản thành thị, giai cấp
có sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản là người bạn đồng minh, người lãnh đạo tự nhiên
của mình”11. Tuy vậy, để có thể liên minh được với giai cấp nông dân, cần phải thấy
rõ đặc điểm, vai trò của giai cấp nông dân trong tiến trình cách mạng. Nông dân
kinh tế gần như tự túc, văn hóa tư tưởng còn rất hạn hẹp, không có lý tưởng chính
trị, những đặc điểm trên đã quy định vị trí, vai trò của giai cấp nông dân trong xã
hội tư bản là tầng lớp trung gian. Tính tự phát tiểu tư sản cũng được nảy sinh trên
cơ sở tư hữu của người nông dân, do tập quán và điều kiện sản xuất. Mặc dù đã xoá
bỏ tư hữu ruộng đất, nhưng do nông dân vẫn còn chút quyền tư hữu về công cụ sản
xuất hay gia súc, vẫn tự do buôn bán nên tính tự phát của họ vẫn tồn tại. Về thái độ
đối với nông dân và tư tưởng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo,
trong tác phẩm “Những người bạn dân” là thế nào và họ đấu tranh chống những
người dân chủ - xã hội ra sao?”, V.I.Lênin cho rằng, do quan niệm không đúng, nên
Plêkhanốp đã đoạn tuyệt với nông dân, V.I.Lênin đã luận chứng vai trò của nông
dân, đưa ra tư tưởng liên minh công - nông và yêu cầu cần phải ủng hộ yêu sách của
họ. Người chỉ rõ: Phải có thái độ đúng với nông dân, tuyên truyền giác ngộ họ, cần
phải đoạn tuyệt với tư tưởng nông dân, nhưng không đoạn tuyệt với nông dân, mà
phải có sách lược với họ. Và cho rằng, những người dân chủ - xã hội có nhiệm vụ
thành lập một đảng công nhân mácxít và đề ra tư tưởng liên minh cách mạng giữa
giai cấp công nhân và nông dân, coi đó là phương sách chủ yếu để lật đổ chế độ
Nga hoàng, bọn địa chủ và giai cấp tư sản Do đó nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng
vô sản là phải không ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa
tư bản đang còn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi,
tuyệt đối chắc chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất
quy mô nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Để liên minh, cần phải cho giai cấp nông
dân biết giai cấp công nhân mới là có lợi ích chung phù hợp với mình.
Xét ở mọi phương diện đều có sự phát triển của tính tự phát tiểu tư sản, là thời kỳ
chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hoà giữa tính kỷ luật của giai cấp vô sản và
tính vô kỷ luật, vô chính phủ của tầng lớp tiểu tư sản. Lênin đã từng nói: “Và đằng
sau bọn tư bản bóc lột là quảng đại quần chúng tiểu tư sản, tầng lớp mà hàng chục
năm kinh nghiệm lịch sử ở tất cả các nước đã chứng tỏ rằng họ ngập ngừng và dao
động, hôm nay thì đi theo giải cấp vô sản và ngày mai, vì sợ những khó khăn của
cách mạng và khi thấy công nhân hơi thất bại hoặc thất bại một nửa, thì đã sinh ra
hoảng sợ, hoang mang, cuống cuồng, khóc lóc, chạy hết phe này sang phe khác”.12
Vì vậy nhiệm vụ kêu gọi tầng lớp tiểu tư sản, trí thức vào liên minh cũng rất quan
trọng. Họ có trình độ nhận thức cao nhưng do mang lợi ích trung gian giữa tư sản
với vô sản nên khó gắn bó với cách mạng. Cần phải cho tầng lớp tiểu tư sản thấy
rằng nếu để tư bản nắm quyền, thì tầng lớp tiểu tư sản với địa vị thấp sớm muộn gì

11
C.Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 269.
12
V.I Lênin: Sđd, t.37, tr. 320-tr.321.

9
cũng bị tư sản chèn ép, cần cho họ thấy giai cấp công nhân và nông dân là những
người đảm bảo được lợi ích cho họ.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, V.I.Lênin khẳng định “Nếu không liên minh với nông dân thì không thể
có được chính quyền của giai cấp vô sản, càng không thể nghĩ đến việc duy trì
chính quyền đó… Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh
giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được và duy trì lãnh
đạo chính quyền nhà nước”.13 Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là một
điển hình về sự chuẩn bị lực lượng: tập hợp sức mạnh từ quần chúng nhân dân, xây
dựng lực lượng vũ trang, xây dựng kế hoạch khởi nghĩa vũ trang với những nguyên
tắc cơ bản như phải dựa vào quần chúng nhân dân mà nòng cốt là liên minh giai cấp
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.VI.Lênin đã khẳng
định: “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội
tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể
thực hiện được”14. Một nguyên tắc trong liên minh giai cấp, tầng lớp theo quan điểm
của V.I.Lênin đó là vấn đề thỏa hiệp cả với giai cấp tư sản. Trong tác phẩm “Bệnh
ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I.Lênin đã phê phán: “Những
người cộng sản Đức đã gạt bỏ việc tham gia nghị viện phản động tư sản và việc
tham gia các công đoàn phản động”. V.I.Lênin còn khẳng định: Đấu tranh cách
mạng có lúc phải thoả hiệp. Bởi vì, tiến hành cách mạng không phải hoàn toàn
thuận lợi và dễ dàng, mà còn có những lúc cách mạng gặp khó khăn. Trong những
hoàn cảnh khó khăn phức tạp đòi hỏi người cách mạng phải biết lựa chiều, liên
minh, thoả hiệp để tránh tổn thất cho cách mạng. Cách mạng không phải chỉ biết có
tiến công, khoa học tiến công phải được bổ sung bằng khoa học rút lui khi cần thiết,
rút lui là để chuẩn bị tiến công những thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, V.I.Lênin đòi hỏi
những người cộng sản có nhiệm vụ phải tìm kiếm và tìm ra một hình thức thoả hiệp
thích đáng để có thể, một mặt làm dễ dàng và xúc tiến việc thống nhất hoàn toàn và
cần thiết với cách ấy, mặt khác, không làm trở ngại gì đến cuộc đấu tranh tư tưởng
và chính trị của những người cộng sản. Người nhấn mạnh nguyên tắc: “Không bao
giờ được thoả hiệp, không bao giờ được lựa chiều chỉ làm hại cho sự mở rộng ảnh
hưởng của giai cấp vô sản” Thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười Nga cho thấy sự
cần thiết phải xây dựng được khối liên minh công nhân – nông dân – trí thức vững
mạnh nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị chung, sự cần thiết của việc thỏa hiệp
với kẻ thù tư sản ở thời điểm phù hợp nhằm giúp cách mạng tiến lên. Cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc dẫn đến sự ra đời của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, hay Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam cũng là những minh
chứng lịch sử về việc liên minh giai cấp đoàn kết sẽ tạo sức mạnh và cả sự thỏa hiệp
cần thiết có thể mang đế thành công.
Trên thực tế, V.I.Lênin luôn chủ trương mở rộng khối liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác. Trong suốt thời kỳ quá độ, các
giai cấp bóc lột vẫn thường xuyên nuôi hy vọng phục hồi chính quyền tư sản. Từ hy
vọng chúng sẽ biến nó thành hành động. Và có nguy cơ tầng lớp tiểu tư sản-những
người hoang mang dao động sẽ tiếp tay cho chúng. V.I Lênin viết: "Sau khi bị thất
bại nặng nề lần đầu tiên, bọn bóc lột bị lật đổ vốn không ngờ mình sẽ bị quật xuống,
không tin tình hình sẽ như thế và không thừa nhận ý nghĩ về việc đó, thì nay lao
13
V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978 tập 44, tr.57.
14
V.I.Lênin: Toàn tâ ̣p, t. 39, NXB Tiến bô ̣, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 251.

10
mình vào cuộc chiến với một nghị lực tăng gấp mười lần, với một sự cuồng nhiệt và
lòng hận thù gấp trăm lần, để chiếm lại cái "thiên đường" đã mất.15 V.I.Lênin chỉ rõ:
“Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp
vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao
động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v…), hoặc với
phần lớn những tầng lớp đó, liên minh nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật
đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những
mưu toan khôi phục của giai cấp ấy, nhẳm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa
xã hội”.16 Điều này có thể được chứng minh qua cuộc chiến bảo vệ nước Nga Xô
viết của nhân dân Nga chống lại Bạch Vệ, Chiến tranh Vệ quốc, toàn thể tầng lớp,
giai cấp, nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Stalin đã đoàn kết bảo vệ Tổ quốc
và tiêu diệt phát xít Đức, hay ở Việt Nam là các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân giai đoạn 1945- 1975. Nội dung chính trị liên minh giai cấp không chỉ là
tạo nên, mà còn là duy trì củng cố chính quyền của giai cấp vô sản.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tính tất yếu của liên minh giai cấp tầng
lớp được phản ánh trong nhiệm vụ chính trị - xã hội mà giai cấp công nhân phải tiến
hành. Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp lao động khác vừa là lực
lượng sản xuất cơ bản, vừa là lực lượng chính trị xã hội to lớn. Khi cơ cấu xã hội
-giai cấp diễn biến rất phức tạp trong thời kỳ quá độ, giai cấp công nhân, thông qua
đội tiên phong là Đảng Cộng sản, chỉ có thể xây dựng, kiểm soát và sử dụng chính
quyền Nhà nước của mình khi có đường lối, chính sách liên minh đúng đắn với giai
cấp, tầng lớp lao động khác, trong đó có đội ngũ trí thức. V.I.Lênin đã chỉ rõ:
“Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật,
không một thế lực đen tối nào đứng vững được”.17

2.2. Góc độ kinh tế

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh tính tất yếu của chính trị xã
hội, nổi lên là tất yếu kinh tế của liên minh với tư cách là nhân tố quyết định nhất
cho sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội, liên minh về kinh tế là liên minh
cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác . Liên
minh này được hình thành xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền sản xuất nhỏ
nông nghiệp là chính sang sản xuất hàng hóa lớn, phát triển công nghiệp, dịch vụ và
khoa học – công nghệ....xây dựng nền tảng vật chất – kỹ thuật cần thiết cho chủ
nghĩa xã hội. Mỗi lĩnh vực của nền kinh tế chỉ phát triển được khi gắn bó chặt chẽ,
hỗ trợ cho nhau để cùng hướng tới phục vụ phát triển sản xuất và tạo thành nền cơ
cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Sau khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, Lênin
thừa nhận có 5 thành phần kinh tế tồn tại trong thời kỳ quá độ. Lênin đã xếp thứ tự
5 thành phần kinh tế như sau: Kinh tế tư gia trưởng, kinh tế hàng hoá nhỏ, kinh tế tư
bản; kinh tế nhà nước tư bản chủ nghĩa, kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hiện tại ở các
nước xã hội chủ nghĩa cũng phát triển kinh tế nhiều thành phần như Lênin đã nói. Ở
thời kỳ kinh tế hội nhập, liên minh công nhân, nông dân, tri thức ngày càng được
15
V.I Lênin: Sđd, t.37, tr.320-tr.321.
16
V.I.Lênin: Toàn tâ ̣p, t.38, NXB Tiến bô ̣, Mát-xcơ-va, 1977, tr.452.
17
V.I.Lênin: Toàn tâ ̣p, t.39, NXB Tiến bô ̣, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 251.

11
tăng cường khi mà nông nghiệp, công nghiệp, khoa học-công nghệ ngày càng liên
hệ chặt chẽ với nhau. Chính những biến đổi trong cơ cấu kinh tế này đã và đang
từng bước tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp trong xã hội khác.
Trong giai cấp nông dân, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nông. Về kinh tế, mỗi gia
đình nông dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, cho thấy tính liên kết
giữa họ rất ít. C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì liên
minh về kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên, lâu dài, là cơ sở cho liên minh
trên các lĩnh vực khác.Theo Ph.Ăngghen, nhiệm vụ chủ yếu của chính đảng vô sản
là phải không ngừng giải thích cho nông dân thấy rằng, chừng nào chủ nghĩa tư bản
đang còn nắm chính quyền thì tình cảnh của họ vẫn là tuyệt vọng mà thôi, tuyệt đối
chắc chắn là nền sản xuất tư bản chủ nghĩa quy mô lớn sẽ đè bẹp sản xuất quy mô
nhỏ, bất lực và lỗi thời của họ. Chỉ cần cho nông dân thấy lợi ích chân chính của họ
là phải chuyển ruộng đất của họ thành tài sản của hợp tác xã, tức là đưa nông dân đi
vào sản xuất hợp tác: “Dù sao thì điều chủ yếu cũng là phải làm cho nông dân hiểu
rằng chúng ta chỉ có thể cứu vãn và bảo tồn được tài sản của họ bằng cách biến tài
sản đó thành tài sản hợp tác xã và thành những doanh nghiệp hợp tác xã” 18.
Ph.Ăngghen cũng cho rằng, đó là khâu trung gian trong việc chuyển nền sản xuất cá
thể của nông dân quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua phát triển tư bản chủ
nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ nguyên tắc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với nông nghiệp và nông dân. Nguyên tắc thứ nhất là, không được dùng bạo lực đối
với nông dân, “... mà là bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội”.
Nguyên tắc thứ hai là, tự nguyện, không được gò ép, bắt buộc đối với nông dân:
“Chúng ta kiên quyết đứng về phía người tiểu nông... để cho họ có thời gian suy
nghĩ với tư cách là người sở hữu mảnh đất của họ nếu họ chưa có thể quyết định
như thế”19. Nguyên tắc thứ ba là, tiến dần từ thấp đến cao: phải phát triển các hợp
tác xã từ bậc thấp đến bậc cao, từ quy mô từng xã đến quy mô liên xã. Các ông cho
rằng, để nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội một cách thuận lợi, nhà nước phải có
nhiệm vụ giúp đỡ nông dân trong cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong sách lược
đối với nông dân, theo Ph.Ăngghen, trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản không thể
coi nông dân là một khối thống nhất, vì họ không ngừng phân hóa, do đó, sách lược
của các đảng xã hội chủ nghĩa cần phải khác nhau đối với các thành phần nông dân
khác nhau.
V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn
“chuyên chính vô sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế,
liên minh muốn được phát huy và củng cố hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất
phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước nông nghiệp lạc hậu
đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, phải gắn công nghiệp với nông nghiệp và khoa học
công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: “Nếu không có kinh
tế nông nghiệp làm cơ sở, thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền
công nghiệp”.20

18
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.22, tr.737 – tr.738.
19
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Sđd, t.22, tr.738.
20
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.38, tr.452.

12
Khi nước Nga Xô viết ra đời, bắt đầu thực thi “Sắc lệnh ruộng đất”. Nông dân đã
nhận được miễn phí hơn 150 triệu ha ruộng đất từ giai cấp địa chủ, được xóa tiền
nợ. Một vấn đề quan trọng nhằm cải thiện đời sống nhân dân lao động là cần phải
nâng cao năng suất lao động. Như V.I.Lenin nhận định: “Công nhân tự nguyện tự
giác, liên hợp với nhau, sử dụng kỹ thuật hiện đại thì mới có thể tạo ra năng suất lao
động cao hơn”. Joseph Stalin, người kế tục sự nghiệp của V.I.Lenin từng chỉ rõ:
“Biến nước Nga từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp có thể tự
lực sản xuất thiết bị cần thiết, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu thiết bị thành một
nước chế tạo được các thiết bị ấy. Đó là điều bảo đảm sự độc lập kinh tế của nước ta
và không phụ thuộc vào các nước tư bản chủ nghĩa”. Từ tinh thần đó, Liên Xô quyết
tâm trở thành một quốc gia tự cường. Sau chiến tranh Vệ quốc, dưới sự chỉ đạo của
quyết định “Về những biện pháp cấp bách khôi phục kinh tế ở các vùng được giải
phóng khỏi sự chiếm đóng của phát-xít” của Joseph Stalin, đến cuối năm 1945, Liên
Xô đã khôi phục được 7.500 nhà máy và xí nghiệp, hàng nghìn nông trường quốc
doanh và hợp tác xã. Thời kỳ 1945 - 1953 là giai đoạn mà niềm phấn khởi, tự hào
của người dân Liên Xô dâng cao khi nền kinh tế đã được hồi phục và phát triển
nhanh chóng. Thu nhập quốc dân từ năm 1940 đến năm 1950 tăng 64%. Năm 1954,
Liên Xô là quốc gia đầu tiên có nhà máy điện nguyên tử. Hai sự kiện này đặt dấu
chấm hết cho sự độc quyền về vũ khí hạt nhân của Mỹ. Thủ tướng Anh Winston
Churchill cũng phải đành thừa nhận: “Stalin đã tiếp nhận một nước Nga đi giày cỏ
và để lại một nước Nga với vũ khí hạt nhân”. Hay từ sau công cuộc Đổi mới 1986
Việt Nam lọt top các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất,Từ đó thấy
được ý nghĩa của liên minh giai cấp trên lĩnh vực kinh tế.
Như vậy, theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là do sự gắn bó thống nhất giữa sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp với khoa học kỹ thuật. Nếu không có sự liên minh chặt
chẽ của cả 3 lực lượng này thì các ngành kinh tế sẽ khó phát triển. Và như vậy, liên
minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự liên kết, hợp
tác, hỗ trợ nhau... giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm thực hiện nhau cầu và lợi
ích của các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực thực hiện thắng lợi
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện liên minh giai cấp cũng đem lại những thuận lợi và khó
khăn riêng:

Thuận lợi:

Giai cấp công nhân phần lớn xuất phát từ giai cấp nông dân nên giữa họ có nhiều sự
tương đồng,có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Họ cũng đều là những người
bị bóc lột việc họ đoàn kết đấu tranh là điều tất yếu.
Nhu cầu lợi ích của giai cấp công nhân là hài hòa với lợi ích của dân tộc, với lợi ích
của đa số nhân dân. Quan hệ hợp tác chặt chẽ trong cả đấu tranh giai cấp và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân liên minh
chặt chẽ hơn với giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác.
Về cơ bản thì giai cấp công nhân, nông dân, tri thức đều có chung lập trường chính
trị là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hóa, tầng lớp tri thức
có điều kiện để gắn bó nhiều hơn đối với hoạt động sản xuất công nghiệp của công

13
nhân và hoạt động sản xuất nông nghiệp của nông dân. Từ đó quan hệ liên minh
giữa các giai cấp tầng lớp được tăng cường.

Khó khăn

Giai cấp nông dân vẫn còn thiếu điều kiện để phát triển, nhất là ở các vùng nông
thôn khó khăn. Đời sống của nhiều nông dân còn khó khăn, trình độ, học vấn,nhận
thức chính trị của họ còn thấp. Điều đó không chỉ ảnh hưởng đến khả nằn phát triển
của nông dân, mà còn ảnh hưởng đến khả năng liên minh giữa nông dân với công
nhân và tri thức.
Vấn đề thất nghiệp trong giai cấp công nhân và tri thức cũng là khó khăn lớn trong
thực hiện liên minh giai cấp, nhất là trong thời điểm dân số ngày càng gia tăng.
Trong xu thế toàn cầu hóa, gia tăng khả năng bị bóc lột của các doanh nghiệp trong
và ngoài nước đối với công nhân. Thu nhập không đồng đều giữa các công nhân
trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước, rồi cả
xu hướng “trung lưu hóa”. Điều này gây ra sự mất đoàn kết trong nội bộ giai cấp
công nhân và cả liên minh giai cấp.
Vẫn còn tồn tại một số điểm khác biệt về lập trường chính trị giữa công nhân, nông
dân, tri thức, tạo nên một số mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp này với nhau,
thêm vào đó là sự chống phá của các thế lực thù địch khiến mâu thuẫn nặng nề hơn.

Cách giải quyết khó khăn

Nhà nước, công nhân, tri thức cần quan tâm đến nông dân, giúp đỡ phát triển nông
thôn, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nông dân. Hướng dẫn giai cấp nông
dân chủ động phát triển và liên minh với công nhân và nông dân. Nhằm phát huy
tiềm năng của nông dân và tăng cường khối liên minh giai cấp.
Cần phải giải quyết vấn đề việc làm cho công nhân và tri thức. Không chỉ giúp cải
thiện đời sống của họ, phát triển kinh tế đất nước, mà còn tăng cường sự gắn bó
trong liên minh giai cấp.
Nhà nước phải có biện pháp để hạn chế sự bóc lột của các doanh nghiệp đối với
công nhân. Bên cạnh đó cũng cần giải quyết vấn đề mâu thuẫn về vấn đề chênh lệch
thu nhập và khác biệt lập trường chính trị trong liên minh giai cấp. Có biện pháp
chống hoạt động chia rẽ của các thế lực thù địch.

III. Tầng lớp, giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam

3.1. Cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam

3.1.1. Sự biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp vừa đảm bảo tính qui luật phổ biến, vừa
mang tính đặc thù của xã hội Việt Nam

- Sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta biến đổi theo đúng quy luật.
Sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta biến đổi theo đúng quy luật đó là sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai
14
cấp bị chi phối bởi những biến đổi trong cơ cấu kinh tế. Sự biến đổi của cơ cấu xã
hội-giai cấp gắn liền và được quy định bởi biến động cơ cấu kinh tế, thành phần
kinh tế, cơ cấu hành chính kinh tế-xã hội. Kể từ Ðại hội IX của Ðảng tháng 4-2001,
Ðảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa là mô hình
kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và kể từ
đó đến nay vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ
nghĩa được đặt ra cấp bách trong các Ðại hội X, XI, XII, XIII của Ðảng. Ðại hội
XIII khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 21
Khác với những nước tư bản phát triển, khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, họ trực tiếp
thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản, Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ
chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sự chuyển đổi trong cơ cấu kinh tế
đã dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp với việc hình thành một cơ
cấu xã hội - giai cấp đa dạng. Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế 22 tất yếu dẫn
đến cơ cấu xã hội- giai cấp đa dạng và phức tạp với việc hình thành một cơ cấu giai
cấp- xã hội đa dạng thay thế cho xã hội- giai cấp đơn giản bao gồm giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức của thời kì trước được đổi mới một cách
rõ rệt. Tính đa dạng thể hiện ở sự tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội: giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, bộ phần tư sản và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Tính đa dạng còn thể hiện trong cơ cấu nội bộ của mỗi giai
tầng, thậm chí có sự chuyển hóa qua lại lẫn nhau giữa các giai cấp tầng lớp xã hội
và cũng đồng thời xuất hiện những tầng lớp xã hội mới. Chính những biến đổi mới
này cũng là một trong những yếu tố có tác động trở lại làm cho nền kinh tế đất nước
phát triển trở nên năng động, đa dạng hơn và trở thành động lực to lớn, quan trọng
của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn
minh, định hướng xã hội chủ nghĩa.23 Cơ cấu giai cấp biến đổi nhanh chóng và có
yếu tố mang tính tự phát trong khuôn khổ của xã hội mới. Nhiều mối quan hệ giai
cấp được hình thành hoặc đã tồn tại từ trước đó song sự thay đổi của cơ cấu kinh tế
– xã hội các quan hệ lại biến đổi nhanh chóng. Cơ cấu giai cấp ở nước ta hiện nay
bao gồm: công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, tư sản, tiểu tư sản, tiểu chủ, thợ
thủ công, tiểu thương...
Sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta mang những đặc trưng của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam
vừa mang tính chất định hướng lâu dài, vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể
cần đạt tới trong từng bước đi, từng giai đoạn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.

3.1.2. Trong sự biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp, vị trí, vai trò của các giai
cấp, tầng lớp xã hội ngày càng được khẳng định

- Giai cấp công nhân


21
Báo Nhân dân điện tử, Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
22
Văn kiện XII của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân trở thành một trong những
động lực quan trọng của sự phát triển”.
23
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội khoa học, Hà Nội, 2019.

15
Giai cấp công nhân là lực lượng đi đầu của quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã
hội làm biến đổi nhanh cả về số lượng, chất lượng và có sự thay đổi đa dạng
về cơ cấu. Trước đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế khép kín, vận hành
theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, giai cấp công nhân nước ta ít về số
lượng, tương đối thuần nhất. Trong quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập
quốc tế, chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần đã tạo bước chuyển
quan trọng đối với cơ cấu nền kinh tế. Bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước
và thành phần kinh tế tập thể, đã hình thành và phát triển nhanh thành phần
kinh tế tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó đã
tạo ra sự chuyển biến trong cơ cấu lực lượng lao động xã hội, làm cho lực
lượng công nhân- lao động công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu: “công nhân nước ta đang tiếp tục tăng nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu theo ngành nghề và thành phần kinh tế. Trong đó,
số công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài tăng mạnh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn” 24. Sự đa dạng của
giai cấp công nhân không chỉ phát triển theo thành phần kinh tế mà còn phát
triển theo ngành nghề. Bộ phận “công nhân hiện đại”, “công nhân tri thức” sẽ
ngày càng lớn mạnh. Quá trình hội nhập quốc tế đã tiếp nhận những thành
tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất, làm cho nền kinh
tế nước ta đang chuyển biến nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Điều đó tạo động lực để giai cấp công nhân nước ta ngày càng phát triển
cao về trình độ chuyên môn nghề nghiệp. Trình độ công nhân ngày càng
được nâng cao, góp phần nâng cao chất lượng, bảo đảm sứ mệnh của giai cấp
công nhân Việt Nam trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trình độ
chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật lao động,
tác phong công nghiệp của công nhân cũng ngày càng được được nâng lên
nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
kinh tế tri thức và cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang có xu hướng
phát triển mạnh. Bên cạnh đó, sự phân hoá giàu nghèo trong giai cấp công
nhân ngày càng rõ rệt. Trong quá trình hội nhập kinh tế, dưới sự tác động của
kinh tế thị trường, dẫn đến sự chênh lệch mức thu nhập giữa các công nhân.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, việc áp dụng khoa
học kỹ thuật với sản xuất ngày càng đẩy mạnh, dẫn đến sự phân tầng giai cấp
về mức thu nhập giữa công nhân lao động phức tạp và công nhân lao động
đơn giản, ảnh hưởng sâu sắc đến sự thống nhất, đoàn kết của giai cấp công
nhân. Một số bộ phân công nhân thu nhập thấp, giác ngộ lập trường giai cấp,
ý thức chính trị giai cấp chưa cao. Hiện nay, mặt trái của hội nhập quốc tế
đang làm cho công nhân nước ta không đồng đều về nhận thức xã hội, giác
ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật lao động. Không ít
công nhân còn chưa nhận thức đầy đủ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình;
ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên phong gương mẫu của một
bộ phận công nhân giảm sút. Chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, cơ hội có điều
kiện phát triển nhanh chóng. Một bộ phận công nhân trẻ còn bị ảnh hưởng
bởi các tệ nạn xã hội, sống buông thả, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo
đức, lối sống, xa rời bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân. Gây ảnh hưởng

24
Tạp chí của Ban Tuyên giáo trung ương, Sự biến đổi giai cấp công nhân Việt Nam dưới tác động của hội
nhập quốc tế.

16
đến doanh nghiệp và hình ảnh người công nhân Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò quan trọng đặc biệt, là giai cấp lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến; giữ vai trò tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và là lực
lượng nòng cốt trong liên minh giai câos công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ tri thức.25
- Giai cấp nông dân
Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động sản xuất trong nông nghiệp
(bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp), trực tiếp sử dụng một tư liệu sản xuất cơ
bản và đặc thù gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất ra sản phẩm nông
nghiệp.
Giai cấp nông dân cùng với nông nghiệp, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng
nông thôn mới, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giai cấp nông dân là cơ sở
và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế- xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
và bảo vệ môi trường sinh thái; là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông
thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo
hướng quy hoạch; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp...26
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp nông dân cũng có sự biến đổi đa
dạng về cơ cấu giai cấp; có xu hướng giảm dần về số lượng và tỉ lệ trong cơ cấu xã
hội- giai cấp. Một bộ phận nông dân chuyển sang lao động trong các khu công
nghiệp, hoặc dịch vụ có tính chất công nghiệp và trở thành công nhân. Trong giai
cấp nông dân xuất hiện những chủ trang trại lớn, đồng thời vẫn còn những nông dân
mất ruộng đất, nông dân đi làm thuê... và sự phân hóa giàu nghèo trong nội bộ nông
dân cũng ngày càng rõ.
Những đặc điểm trên đã cho thấy rằng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân
và giai cấp tư sản, nông dân là tầng lớp trung gian đông đảo, không có khả năng tự
giải phóng mình khỏi các chế độ tư hữu, áp bức bóc lột, càng không thể là giai cấp
lãnh đạo xã hội trong các cuộc giải phóng đó. Giai cấp nông dân chỉ có thể là liên
minh với giai cấp công nhân, chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua
ĐCS, cả trong giành chính quyền cũng như trong quá trình cải tạo và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội, thì mới phát huy được vai trò của mình và được giải phóng.
- Đội ngũ trí thức
Trí thức là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu rộng về một hoặc một số
lĩnh vực khoa học – công nghệ, văn hóa – nghệ thuật, quản lý kinh tế -xã hội,
thường xuyên vận dụng những hiểu biết đó để phát hiện và giải quyết những vấn đề
lý luận và thực tiễn nảy sinh trong lĩnh vực hoạt động của mình vì lợi ích chung của
cộng đồng và nhu cầu nhận thức của bản thân.

25
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính
trị quốc gia, H.2008, tr.43-tr.44.
26
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb.Chính
trị quốc gia, H. 2008.

17
Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình
đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng
kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
là lực lượng trong khối liên minh.27
Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân
và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều
nguồn đào tạo cả trong và ngoài nước. Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu
nước, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng
do Đảng lãnh đạo. Bằng hoạt động sáng tạo, trí thức nước ta đã có đóng góp to lớn
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trí thức không có phương thức sản xuất riêng và địa vị kinh tế, xã hội độc lập nên
trí thức cũng không có hệ tư tưởng độc lập. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp
thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.
Tri thức tuy có tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột nhưng lại thiếu kiên quyết,
triệt để. Vì vậy, trí thức muốn được giải phóng phải chịu sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân và tham gia vào khối liên minh.
Trí thức phục vụ cho giai cấp nào thì mang ý thức của hệ giai cấp đó. Trí thức chủ
nghĩa xã hội mang ý thức hệ của giai cấp công nhân. Ngày nay, cách mạng khoa
học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
thì trí thức ngày càng có vai trong quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội và hội nhập khu vực, quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhiều lần khẳng
định rằng: “Kiến thiết cần có nhân tài”, “cách mạng cần có lực lượng của trí thức”;
“trong xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ
vang”. Vai trò quan trọng và vẻ vang của trí thức nghĩa là vừa có lập trường chính
trị vững vàng, vừa giỏi về chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ ở các lĩnh vực được
giao, đồng thời coi phẩm chất hàng đầu của người trí thức là phải “chính tâm” và
trách nhiệm người trí thức của nhân dân là phải “vì nhân dân”, phải “đoàn kết chặt
chẽ, để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Trí thức đóng vai trò quan trọng
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Lenin đã từng khẳng định: “Không có trí thức không thể có chủ nghĩa xã
hội” vì trí thức là những người có công lao chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, phát
triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước; tham gia xây dựng đường lối của
Đảng, chính sách của nhà nước, đưa nó vào trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt là
trong thời đại ngày nay, khi khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại phát triển thì
vai trò động lực phát triển xã hội của trí thức lại càng cao. 28
So với yêu cầu phát triển của đất nước, sự phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam
còn gặp nhiều hạn chế. Việt Nam vẫn đang thiếu các nhà lãnh đạo, các chuyên gia
giỏi, các nhà khoa học thực sự tâm huyết với nghề, các công chức trong bộ máy
chính quyền các cấp tinh thông nghề nghiệp và đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về
đạo đức công vụ. Cơ chế, chính sách đãi ngộ dành cho đội ngũ trí thức còn dàn trải,
chưa đúng trọng tâm, trọng điểm, mức lương và phụ cấp thấp, chưa thật sự đáp ứng
yêu cầu của cuộc sống hiện đại. Cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ và thu hút nhân tài của

27
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà xuất bản Hà Nội, tr.95.
28
GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, “Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trong bối
cảnh chuyển đổi số”, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-
story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tri-thuc-viet-nam-voi-su-nghiep-doi-moi-va-phat-trien-dat-
nuoc-trong-boi-canh-chuyen-doi-so, truy cập ngày 18/08/2021.

18
Việt Nam còn nhiều hạn chế và bất cập. Các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với đội ngũ trí thức còn thiếu, chưa đồng bộ hoặc chưa đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn.
Trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, khi thế giới đang tiến hành cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đội ngũ
trí thức nói chung, trong đó có các nhà trí thức đóng vai trò động lực, đi đầu trong
việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học, tiếp nhận và chuyển giao công
nghệ ở nhiều lĩnh vực. Để tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ này, phục vụ sự
nghiệp đổi mới, trước hết là góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
tới đây với tầm nhìn đến năm 2030, 2045 vì một Việt Nam hùng cường, thịnh
vượng.

- Đội ngũ doanh nhân

Doanh nhân là người giải quyết các vấn đề cho người khác để kiếm lợi nhuận 29.
Doanh nhân Việt Nam là đội ngũ những người làm nghề kinh doanh ,trước hết là
những người chủ sở hữu ,lãnh đạo ,quản lý, hoạt động nghiệp vụ kinh doanh (có
mục tiêu vị lợi) của các hộ gia đình và doanh nghiệp30.
Đội ngũ doanh nhân là lực lượng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có năng lực,
trình độ và phẩm chất, uy tín cao sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững vào bảo đảm độc lập, tự chủ của
nền kinh tế. Hay nói cách khác thúc đẩy kinh tế phát triển và tạo nên vị thế của Việt
Nam trên bản đồ kinh tế thế giới là sứ mệnh, trọng trách của đội ngũ doanh nhân,
cộng đồng doanh nghiệp31. Doanh nhân Việt Nam gồm 5 nhóm chính: Những người
điều hành, quản lý hoặc sở hữu các doanh nghiệp vừa và nhỏ; những người quản lý,
điều hành, làm nghiệp vụ kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước; những
người quản lý, điều hành, làm nghiệp vụ kinh doanh cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài; những người làm chủ trong các trang trại, hợp tác xã, cơ sở kinh
tế phi nông nghiệp và các hộ gia đình nông dân hoạt động sản xuất kinh doanh có
đăng ký thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; những doanh nhân gốc
Việt (mang quốc tịch Việt Nam hoặc quốc tịch nước sở tại) điều hành, quản lý, sở
hữu hoặc làm nghiệp vụ kinh doanh ở nước ngoài32.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách
khuyến khích phát triển doanh nghiệp, phát huy vai trò của doanh nhân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhờ đó nhận thức về vai trò của đội ngũ
doanh nhân có những chuyển biến tích cực, nhiều cấp Uỷ Đảng, chính quyền
thường xuyên quan tâm đến hoạt động và sự phát triển của doanh nhân, đội ngũ
doanh nhân. Đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, có khát vọng vươn lên làm
29
Bí mật tư duy triệu phú (Secret of Millionaire Mind),T.Harv Eker, Nhà xuất bản trẻ,Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2011, trang 114.
30
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị số 11-2017.Đỗ Minh Cương: “Bàn về khái niệm doanh nhân Việt
Nam”, Tạp chí Khoa họcĐại học quốc gia Hà Nội, chuyên san Kinh tế và Kinh doanh 25, 2009
31
Tapchitaichinh.vn
32
TS Nguyễn Anh Tuấn- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh -Vai trò của đội ngũ doanh nhân trong
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.

19
giàu chính đáng, không ngừng nâng cao năng lực kinh doanh và quản trị doanh
nghiệp. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đạo đức, văn hóa kinh doanh của
doanh nhân dần được nâng lên33. Doanh nhân đóng vai trò quyết định trong việc
huy động các nguồn lực tạo ra sản phẩm và dịch vụ cho xã hội, đóng góp tích cực
vào việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo, tạo
công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết các vấn đề an sinh xã hội
của đất nước34. Sự phát triển đã đem lại vai trò quan trọng của đội ngũ doanh nhân
Việt Nam những năm qua được thể hiện qua những mặt chủ yếu sau: Doanh nhân là
lực lượng xã hội đóng vai trò quan trọng trong giải phóng lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Trong thời kì đổi mới, doanh nhân là lực lượng
chủ yếu huy động nguồn lực sản xuất tạo ra nhiều hàng hóa, sản phẩm cho xã hội
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; doanh nhân Việt Nam đã góp phần quan trọng
trong hình thành cơ cấu xã hội và quan hệ xã hội mới; đội ngũ doanh nhân nước ta
đã hình thành một tầng lớp xã hội mới. Theo đó, đội ngũ doanh nhân nước ta tham
gia ngày càng đông đảo vào các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội và có vị
thế ngày càng quan trọng hơn trong hệ thống chính trị - xã hội35.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đội ngũ doanh nhân
Việt Nam còn đứng trước nhiều khó khăn. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu
kém trước hết là do những sơ hở, lỏng lẻo và yếu kém của hệ thống các quy định
pháp luật và công tác quản lý nhà nước; đội ngũ doanh nhân nước ta mới hình thành
và phát triển, chưa có tích lũy nhiều về vốn, tri thức, công nghệ và kinh nghiệm,
truyền thống kinh doanh, đa số doanh nhân Việt Nam thành lập doanh nghiệp xuất
phát từ yêu cầu thực tế của cuộc sống và khát vọng làm giàu cho bản thân, gia đình
và xã hội. Vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân còn bất cập; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các hiệp hội ngành nghề chưa thực sự hiệu
quả, chậm đổi mới theo yêu cầu thực tiễn; chưa làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp, người lao động và người sử dụng
lao động36.
Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có năng lực, trình độ và phẩm chất, uy tín
cao sẽ góp phần tích cực nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển
nhanh, bền vững và bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Góp phần đưa đất
nước không ngừng phát triển, phấn đấu hoàn thành mục tiêu có nhiều doanh nhân,
doanh nghiệp có thương hiệu đạt tầm cỡ khu vực Đông - Nam Á.

33
Nghị quyết 10-NQ/TW 2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
34
TS Nguyễn Anh Tuấn- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh -Vai trò của đội ngũ doanh nhân trong
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
35
Tapchitaichinh- Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
36
Nghị quyết 10-NQ/TW 2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

20
3.2. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam

3.2.1. Nội dung của liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.

- Nội dung kinh tế của liên minh

Đây là nội dung cơ bản quyết định nhất, là cơ sở vật chất- kĩ thuật của liên minh
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, V.I.Lênin chỉ rõ nội dung cơ bản nhất của thời kỳ này là: chính trị đã
chuyển trọng tâm sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, đấu tranh giai cấp mang
những nội dung và hình thức mới.37 Tổng kết 10 năm đầu đổi mới, Đại hội VIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam(tháng 6-1996) đã rút ra một số bài học chủ yếu, trong đó
có bài học: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”.38
Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức ở nước ta chính là sự hợp tác giữa họ, đồng thời mở rộng liên kết hợp tác
với các lực lượng khác, đặc biệt là đội ngũ doanh nhân... để xây dựng nền kinh tế
mới xã hội chủ nghĩa hiện đại. Nội dung kinh tế xuyên suốt của thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là: “Phát triển kinh tế nhanh và bền vững:… giữ vững
ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng
cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, các lĩnh vực; nâng cao năng suất,
hiệu quả , sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tham
gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Tiếp tục hoàn thiện thể
chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...”.39
Ở góc độ kinh tế, chúng ta phải xác định thực trạng, tiềm năng kinh tế, nhu cầu kinh
tế của cả nước ta. Từ đó, xây dựng kế hoạch đầu tư và tổ chức triển khai các hoạt
động kinh tế đúng trên tinh thần đảm bảo lợi ích của các bên và tránh sự đầu tư
không hiệu quả, lãng phí. Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới
nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu,…trong sản xuất, lưu thông, phân phối
giữa công nhân, nông dân, trí thức, giữa các lĩnh vực công nghiệp- nông nghiệp-
khoa học công nghệ và các dịch vụ khác, giữa các địa bàn, vùng miền, dân cư trong
cả nước, giữa nước ta với các nước khác để phát triển kinh doanh và nâng cao đời
sống xã hội. Chuyển giao và ứng dụng công khoa học- kĩ thuật và công nghệ hiện
đại, nhất là công nghệ cao vào quá trình sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, công
nghiêp và dịch vụ nhằm gắn kết chặt chẽ các lĩnh vực kinh tế cơ bản của quốc gia
qua đó gắn bó chặt chẽ các lực lượng công nhân, nông dân và trí thức.
Bên cạnh đó, cần chú trọng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
37
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tập 36, tr.214.
38
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H, 1996, tr.71.
39
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.77.

21
doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều
là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp
và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.
Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây
dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính
định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của
người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh
tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối bảo
đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp
vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và
lực lượng vật chất. 40
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế;
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng
cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển
hài hoà giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm,
đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Ở nước ta, với mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thì vấn đề quan trọng nhất
là tìm phương thức thể chế hóa chế độ sở hữu, hình thức sở hữu trong nền kinh tế
thị trường sao cho tăng trưởng, phát triển tối ưu; đất nước phát triển bền vững, sáng
tạo, bao trùm; nhân dân thực sự là chủ nhân của đất nước, vì vậy, trong nền kinh tế
quá độ chế độ sở hữu bao hàm, đan xen cùng tồn tại, cùng phát triển của cả những
hình thức sở hữu thuộc chế độ công hữu, của cả những hình thức sở hữu thuộc chế
độ tư hữu và hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong thời kỳ quá độ này, mỗi hình thức sở
hữu đều thể hiện vai trò nhất định trong việc thúc đẩy quá trình giải phóng, huy
động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội. Đó là một tất yếu khách quan. Tất
yếu kinh tế này được quy định bởi chính trình độ phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất và điều kiện lịch sử - cụ thể của nước ta trong thời kỳ quá độ quy định.
Không thể duy ý chí bằng mệnh lệnh hành chính xóa bỏ chế độ sở hữu cũ, hình thức
sở hữu cũ và thúc đẩy hình thành chế độ sở hữu mới, các hình thức sở hữu mới vượt
40
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vấn đề con người -
tiếp cận từ mục tiêu và động lực của sự phát triển, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 19-11-2020

22
quá lực lượng sản xuất tương ứng. Không thể xóa bỏ ngay chế độ tư hữu một cách
chủ quan, duy ý chí vì “không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay
lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên…sẽ chỉ
có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào đã tạo nên được một
khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được
chế độ tư hữu”. “Một chế độ xã hội không bao giờ mất đi trước khi tất cả những lực
lượng sản xuất mà chế độ xã hội đó tạo địa bàn cho phát triển chưa được phát triển,
những quan hệ sản xuất mới, - cao hơn, không bao giờ xuất hiện trước khi những
điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân
xã hội cũ”41. Ở nước ta, trình độ phát triển lực lượng sản xuất không đồng đều trong
các ngành, các vùng, vì vậy, tất yếu còn tồn tại nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình
thức sở hữu khác nhau.
Trong nền kinh tế quá độ ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà còn tồn
tại khách quan cả chế độ tư hữu với nhiều hình thức, cả chế độ công hữu với nhiều
hình thức và cả hình thức sở hữu hỗn hợp (như công ty (doanh nghiệp) cổ phần,
công ty TNHH, hình thức hợp tác công tư (PPP)...) .
Giải quyết vấn đề sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
do lực lượng sản xuất đòi hỏi, chứ không thể duy ý chí, chủ quan, nóng vội. Ph.
Ănghen viết: “…Bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết
quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với
các quan hệ sở hữu cũ nữa”.42
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì sự tồn tại, phát
triển của nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là
một tất yếu khách quan. Các thành phần kinh tế, các bộ phận hợp thành nền kinh tế
quốc dân đều có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế;
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh; sử dụng các công cụ,
chính sách, nguồn lực của Nhà nước để định hướng, điều tiết nền kinh tế… Nhà
nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân, được Nhân dân ủy quyền, thay mặt
Nhân dân quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tài sản thuộc
sở hữu toàn dân tạo các điều kiện nền tảng, định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy các thành
phần kinh tế phát triển theo mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội đất nước
nhanh, bền vững, toàn diện, sáng tạo, bao trùm, để đất nước vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Với vai trò "nhạc trưởng", "bà đỡ" như vậy, Nhà nước giữ vị trí, vai
trò quyết định, vai trò chủ đạo trong hệ thống kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế quá độ của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng khác
nhau, trong đó thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh
tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế công cùng với kinh
tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp
luật, cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp vào
41
 C. Mác: Góp phần phê phán Chính trị kinh tế học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.8.
42
C. Mác- Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 467.

23
sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

- Nội dung chính trị của liên minh

Khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức
cần thực hiện nhằm tạo cơ sở chính trị-xã hội vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn
dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi khó khăn thử thách và đập tan mọi
âm mưu chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, nội dung chính trị của liên minh thể hiện ở việc giữ vững lập trường
chính trị- tư tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với khối liên minh và đối với toàn xã hội để xây dựng
và bảo vệ vững chắc chế độ chính trị, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện được những yêu cầu trên chúng ta cần: thứ nhất, không ngừng nâng
cao vai trò, năng lực và uy tín của lãnh đạo Đảng. Thứ hai, là hiệu lực của Nhà
nước,... đó là những yêu cầu khách quan, cần thiết. Vì chỉ có như vậy, xét về mặt
chính trị - tư tưởng Đang mới có thể từng bước chăm lo cho việc tuyên truyền, giáo
dục giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho giai cấp công nhân, đặc biệt là đối với giai cấp
nông dân. Để cho họ có điều kiện nhận thức và thực hiện đúng đắn đường lối cách
mạng của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước trên mọi hoạt động của xã
hội.
Khối liên minh công-nông-tri thức cần thực hiện nhằm tạo cơ sở chính trị - xã hội
vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp vượt qua
mọi khó khăn thử thách và đập tan âm mưu chống phá sự nghiệp xây dựng xã hội
chủ nghĩa, đồng thời bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Để làm được những điều trên trước hết chúng ta cần phải đổi mới nhận thức bởi lẽ
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại những hệ tư tưởng cũ,
phong tục tập quá lạc hậu; các thế lực thù địch bủa vây nhằm chống phá, lật đổ
chính quyền. Vì vậy “phải hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền
làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội...” 43, thế nên trước hết chúng ta phải tổ
chức và phương thức hoạt động của các cấp bộ đảng ở nông thôn. Từng cấp bộ đảng
đến mỗi đảng viên ở nông thôn phải thể hiện trước nông dân như những đại biểu
tiên tiến của giai cấp công nhân, hoạt động trực tiếp ở nông thôn, góp phần lãnh đạo
nông dân, nông thôn từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì không ít cấp bộ đảng
ở nông thôn (chi bộ, đảng bộ xã, thôn) vẫn còn tình trạng thể hiện ra như là tổ chức
có tính chất tiểu nông của làng, xã, thân tộc, không chú ý đến tiêu chuẩn cấp uỷ
viên, chất lượng đảng viên. Vì vậy, việc thường xuyên kiểm tra, đánh giá, đổi mới
đội ngũ cấp uỷ viên, đảng viên ở nông thôn, đi đôi với quá trình giáo dục, bồi
dưỡng, đào tạo những cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá là nhiệm
vụ rất cấp thiết.44
43
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia,
H.2016, tr.79.
44
Ths. Phạm Văn Bích, “Xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá theo
tư tưởng Hồ Chí Minh”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 9/10/2015.

24
Còn đối với tổ chức xã hội, các đoàn thể ở nông thôn cần tổ chức gọn nhẹ, khắc
phục bệnh hình thức, hành chính hoá cồng kềnh, ít hiệu quả... Cần đổi mới nội dung
và hình thức hoạt động, đúng với vai trò và chức nǎng cụ thể của mỗi loại tổ chức,
thu hút và tổ chức nông dân hoạt động có kết quả thiết thực. Đặc biệt là làm cho hội
nông dân các cấp trở thành tổ chức quần chúng rộng rãi và vững mạnh của nông
dân, có khả nǎng tham gia vào công việc của chính quyền, của các hợp tác xã, giáo
dục nông dân đoàn kết, giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống, tham gia giải quyết
nhiều vấn đề kinh tế, xã hội, bảo vệ lợi ích chính đáng của nông dân, đấu tranh
chống mọi biểu hiện tiêu cực ở nông thôn.
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải chú trọng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đảm bảo lợi ích chính trị, các
quyền dân chủ, quyền công dân, quyền làm chủ, quyền con người của công dân,
nông dân, tri thức và của cả nhân dân lao động. Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền
lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban
hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra nội dung chính trị của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân thể hiện trước hết ở chỗ, hai giai cấp đoàn kết, gắn bó chặt chẽ, trở thành lực
lượng cách mạng chủ yếu nhất để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, bảo
vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, một công cụ chủ yếu để nhân dân lao động từng bước thực sự làm chủ xã hội.

- Nội dung về văn hóa - xã hội của liên minh

Đảng ta luôn coi phát triển kinh tế là cơ sở vật chất để thực hiện các chính sách xã
hội, nhưng mục tiêu xã hội là mục tiêu của hoạt động kinh tế và ngược lại, việc thực
hiện các chính sách xã hội chính là động lực để phát triển kinh tế. Vì thế, phát triển
kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái, nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân. Đại hội XII của Đảng ta
đã khẳng định: “Phát triển bền vững văn hóa, xã hội; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân”.
Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh, giai cấp, tầng lớp đòi hỏi phải đảm bảo
“gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển nền văn hóa, phát triển, xây dựng con người
và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”.45Nội dung mang ý nghĩa kinh tế và chính
trị cấp thiết của liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các
giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo cho công nhân, nông dân và trí
thức. Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã
hội trong công nhân, nông dân, trí thức, giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống…
cho toàn xã hội và thế hệ mai sau.

45
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia,
H.2016, tr.124.

25
Nâng cao dân trí, trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xóa mù chữ, trước
hết là đối với nông dân, nhất là ở miền núi, như Đại hội XII của Đảng đã nhấn
mạnh: “Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp
nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuâ ̣n lợi để nông dân
chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao động trong nông
nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước
sạch, y tế, giáo dục, thông tin,... cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông
thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích
làm giàu hợp pháp”.
Nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực như tham
nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch phát triển
nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng
thuận lợi và hiện đại. Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công
trình phúc lợi công cộng một cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc
biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Nhờ sự quan tâm coi trọng văn hóa, phát triển xã hội mà chúng ta đã đạt được
những thành tựu lớn trong xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người lao
động, thực hiện các chính sách xã hội với người có công với cách mạng, nâng cao
dân trí phổ cập giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục. Gắn phát triển công nghiệp
và khoa học kĩ thuật với phát triển nông thôn, đô thị hóa, đồng thời nâng cao trình
độ cho nhân dân. Xây dựng các cơ sở y tế, văn hoá, các công trình phúc lợi công
cộng. Các chính sách xã hội đó đã tạo được sự gắn kết và đồng thuận giữa các giai
tầng trong xã hội. Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu
của định hướng xã hội chủ nghĩa và mới làm cho công- nông- trí thức cũng như các
vùng, miền, dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế.

3.2.2. Phương hướng cơ bản để xây dựng cơ cấu xã hội – giai cấp và tăng cường
liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội tạo môi trường và điều kiện
thúc đẩy biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp theo hướng tích cực.
Sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện đại, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế từ nông nghiệp sang phát triển công nghiệp và dịch vụ; đầy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức là cơ sở tăng trưởng và phát triển kinh tế
nhanh, bền vững. Từ một nền kinh tế tăng trưởng gắn với phát triển văn hóa, tiến
bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường là cơ sở cho những biến đổi tích cực của
cơ cấu xã hội (nhất là cơ cấu xã hội-giai cấp).
Nhìn nhận công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề cơ bản của việc phát triển mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xem xét công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách toàn diện hơn: công nghiệp hóa gắn
hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức, tức là
phù hợp xu thế phát triển của nhân loại; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với bảo
vệ tài nguyên, môi trường là phù hợp thực tế Việt Nam và kinh nghiệm của các
nước đi trước đã thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa,

26
hiện đại hóa nói chung với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là
phù hợp thực tế Việt Nam.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải tập trung phát triển văn hóa, đảm bảo tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường là cơ sở và điều kiện thuận lợi
cho những biến đổi tích cực của cơ cấu xã hội, hạn chế được những tác động tiêu
cực đến biến đổi cơ cấu xã hội, nhất là cơ cấu xã hội- giai cấp.
Hai là, xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách xã hội tổng thể nhằm tác động
tạo sự biến đổi tích cực cơ cấu xã hội, nhất là các chính sách liên quan đến cơ cấu
xã hội - giai cấp.
Đối với giai cấp công nhân, ta cần quan tâm giáo dục, đào tạo, phát triển cả về số
lượng lẫn chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ
năng, kỉ luật, tác phong công nghiệp; bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải
thiện điều kiện sống của công nhân nhằm bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của công nhân nước ta.
Đối với giai cấp nông dân, cần phát huy vai trò chủ thể trong phát triển nông
nghiệp, xây dưng nông thôn mới; hỗ trợ khuyến khích nông dân tiếp nhận và ứng
dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang
làm công nghiệp, dịch vụ; chú trọng chất lượng cung ứng điện nước, y tế, thông tin
nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống nông thôn, xóa đói giảm nghèo, khuyến khích
làm giàu hợp pháp.
Đối với đội ngũ trí thức, cần phát huy các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo; trọng
dụng tri thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực, cống hiến; bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ tôn vinh xứng đáng, chính sách đặc biệt thu hút nhân
tài để xây dựng đội ngũ ngày càng lớn mạnh, chất lượng cao.
Đối với đội ngũ doanh nhân, chúng ta phải tạo cơ chế, môi trường thuận lợi cho
doanh nhân; có chính sách đảm bảo quyền lợi của đội ngũ doanh nhân, tôn vinh
những doanh nhân có đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước. Từ đó, doanh
nhân mới có thể phát triển cả về số lượng, chất lượng, có trình độ quản lí, kinh
doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao.
Đối với phụ nữ, ta cần chú trọng thực hiện bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ
phát triển toàn diện, thực hiện tốt vai trò; hoàn thiện chính sách với lao động nữ;
tăng tỉ lệ để phụ nữ tham gia vào bộ máy quản lí các cấp; đấu tranh chống các tệ
nạn xã hội và xử lí nghiêm minh các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại phụ nữ. Từ
đó giúp nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ.
Đối với thế hệ trẻ, đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi
dưỡng lí tưởng cách mạng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh,
chấp hành Hiến pháp và pháp luật; tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để học tập,
nghiên cứu, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực; khuyến khích nuôi dưỡng
ước mơ, sáng tạo, làm chủ khoa học-công nghệ hiện đại. Từ đó, nâng cao vai trò
của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là những chủ nhân
tương lai của đất nước.
Các chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 cần sớm được cụ thể hóa và tổ chức
thực hiện thông qua các nghị quyết chuyên đề, các nghị quyết phát triển kinh tế - xã
hội hàng năm và các chương trình mục tiêu quốc gia theo đúng tinh thần Nghị quyết
Đại hội XI của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.46

46
Nghị quyết lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI về một số chinh sách xã hội giai đoạn
2012-2020 của Ban Chấp Hành Trung Ương.

27
Ba là, tạo sự đồng thuận và phát huy tinh thần đoàn kết thống nhất giữa các lực
lượng trong khối liên minh và toàn xã hội.
Xây dựng chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với từng đối tượng để tạo động
và tạo sự đồng thuận xã hội nhằm nâng cao tầm quan trọng của khối liên minh:
“Xây dựng khối liên minh công - nông - trí không có nghĩa chỉ là xây dựng các tổ
chức đơn lẻ đó mà là có sự phối hợp chung. Điều này cần có đường lối, chủ trương
và chính sách chung. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
vai trò quản lý của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
vì dân có nghĩa là để xây dựng thắng lợi khối liên minh công - nông - trí, điều có ý
nghĩa cốt tử để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân”.47
Giải quyết triệt để những mâu thuẫn và phát huy sự thống nhất giữa cái giai cấp,
tầng lớp xã hội nhằm tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước.
ta có thể thực hiện thông qua phương pháp sau đây: “Giám sát và phản biện xã hội
đã được pháp luật hóa, cơ chế được cụ thể hóa, đòi hỏi vai trò và những đóng góp
của MTTQ các cấp phải cao hơn, nhiều hình thức sáng tạo, để tổng hợp ý kiến,
thông tin nhanh nhất đến các tổ chức Đảng, chính quyền, các cơ quan hữu quan,
xem xét, xử lý và trả lời công dân. Khi làm tốt vai trò cầu nối này sẽ tạo môi trường
thuận lợi cho nhân dân, nhất là những người có học vấn cao, có kiến thức chuyên
môn, tham gia ý kiến xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nói
một cách đơn giản, để thu hút trí tuệ, tạo sự đồng thuận xã hội cần tạo mọi điều kiện
để có sự gặp nhau giữa người nói và người nghe, vì lợi ích chung nhất của đất nước,
của cộng đồng.
Làm tốt công tác giám sát và phản biện xã hội chính là góp phần tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với Dân; xây dựng bộ máy Nhà nước thật sự trong
sạch, vững mạnh, với đội ngũ cán bộ có đức, có tài, tận tụy, tâm huyết, thường
xuyên lắng nghe, học hỏi, có trách nhiệm với dân”.48
Giải quyết được mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội chính là cơ sở tăng
cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế
lực thù địch, phản động.
Bốn là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm bảo
đảm hài hoà lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp; tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới
đất nước là phương thức căn bản và quan trọng để tăng cường liên minh giai cấp,
tầng lớp.
Phải xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhằm đảm
bảo hài hòa lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp; thực hiện công bằng xã hội: “Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sớm yêu cầu phải gắn kết phát triển kinh tế với bảo đảm công
bằng xã hội, xem đó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực cho tăng trưởng kinh
tế. Người nói: “Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải
luôn nhớ: Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân
không yên”49. Vấn đề này cũng được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Văn kiện Đại hội
VII của Đảng xác định: “Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn
47
PGS, TS Mạch Quang Thắng, Củng cố khối liên minh Công - Nông - Trí theo tư tưởng Hồ Chí Minh một
điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, Tạp chí Lịch sử Đảng số 5/2000.
48
Hải Hà, Giám sát và phản biện xã hội, https://nhandan.com.vn/doi-song-xa-hoi/giam-sat-va-phan-bien-xa-
hoi-214767/?fbclid=IwAR1JIBaHOoyZr_n00dOZ5OUEgtU9fsPx2sdBXLIOwNcORR2Oto1ZJfRBNnQ)
49
Sđd, t.12, tr.185.

28
hóa, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội...”. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng
nêu rõ: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Văn kiện Đại hội IX của
Đảng khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng
xã hội trong từng bước phát triển”. Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Phải
gắn tăng trưởng kinh tế, với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực
hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội”. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng
định quan điểm nhất quán: “Phải coi trọng, việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Như vậy, tư tưởng tăng trưởng
kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện rõ ngay
trong từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và từng chính sách phát triển của
Đảng.”50
Đẩy mạnh nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng thành tựu mới của cách mạng công
nghiệp lần thứ 4 trong tất cả các ngành, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ... làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển của nền KT
vững chắc: “Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban
hành Nghị quyết về “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế” (Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1/11/2012). Nghị quyết nêu rõ:
“Phát triển khoa học và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế- xã hội và bảo vệ Tổ
quốc”. Đồng thời “ưu tiên và tập trung mọi nguồn nhân lực quốc gia cho phát triển
khoa học và công nghệ”.51
Năm là, đổi mới hoạt động của đảng nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm
tăng cường khối liên minh giai cấp,tầng lớp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Nâng cao vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với liên minh giai cấp,tầng lớp
và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân,phát triển bền vững đất nước.
Nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước theo hướng tinh giản, hiệu quả.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của mặt trận Tổ quốc với việc
tăng cường khối liên minh giai cấp,tầng lớp và khối đại đoàn kết toàn dân.
Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân
cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân
trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi
tiềm năng và sức sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài
cho đất nước. Xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý
giỏi, có trách nhiệm xã hội, tâm huyết với đất nước và dân tộc. Quan tâm đào tạo,
bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Thực hiện bình đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Quan tâm thích
50
PGS, TS Vũ Văn Phúc, Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta: Quan niệm, thực trạng và giải pháp,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/giai-quyet-moi-
quan-he-giua-tang-truong-kinh-te-va-phat-trien-van-hoa-thuc-.
51
Lê Phương, Khoa Học Công Nghệ - Nền Tảng, Động Lực Cho Phát
Triển,https://dangcongsan.vn/multimedia/mega-story/khoa-hoc-cong-nghe-nen-tang-dong-luc-cho-phat-trien-
563485.html.

29
đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng lớp dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào
định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt
pháp luật nước sở tại, hướng về quê hương, tích cực góp phần xây dựng đất nước.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân
tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát
triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá,
ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ
dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và
các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với
mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

30
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nhà
xuất bản Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb.Chính trị quốc gia.
6. Nghị quyết lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XI về một số
chinh sách xã hội giai đoạn 2012-2020 của Ban Chấp Hành Trung Ương.
7. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và
phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
8. Nghị quyết 10-NQ/TW 2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động
lực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
9. Nghị quyết 12/NQ/TW 2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước.
10. C. Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
t.22.
11. C. Mác: Góp phần phê phán Chính trị kinh tế học, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1971.
12. C. Mác- Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
13. C. Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1993, tập 8.
14. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tập 36.
15. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.38.
16. V.I.Lênin: Toàn tâ ̣p, t.39, NXB Tiến bô ̣, Mát-xcơ-va.
17. V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ,1978, tập 44, tr.57.
18. Lê Phương, Khoa Học Công Nghệ - Nền Tảng, Động Lực Cho Phát
Triển,https://dangcongsan.vn/multimedia/mega-story/khoa-hoc-cong-nghe-
nen-tang-dong-luc-cho-phat-trien-563485.html.
19. Hoàng Nam, Khoa Học Và Công Nghệ góp phần đưa đất nước phát triển
nhanh, bền vững, https://daihoidang.vn/khoa-hoc-va-cong-nghe-gop-phan-
dua-dat-nuoc-phat-trien-nhanh-ben-vung/1232.vnp
20. PGS, TS Vũ Văn Phúc, Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta: Quan
niệm, thực trạng và giải pháp, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-
kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/giai-quyet-moi-quan-he-giua-
tang-truong-kinh-te-va-phat-trien-van-hoa-thuc-.
21. PGS, TS Mạch Quang Thắng, Củng cố khối liên minh Công - Nông - Trí
theo tư tưởng Hồ Chí Minh một điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn
liền chủ nghĩa xã hội, Tạp chí Lịch sử Đảng số 5/2000.
22. Hải Hà, Giám sát và phản biện xã hội, https://nhandan.com.vn/doi-song-xa-
hoi/giam-sat-va-phan-bien-xa-hoi-214767/?
fbclid=IwAR1JIBaHOoyZr_n00dOZ5OUEgtU9fsPx2sdBXLIOwNcORR2O
to1ZJfRBNnQ)
23. Ths. Phạm Văn Bích, “Xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức trong
thời kỳ công nghiệp hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Báo điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam, 9/10/2015.
24. GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và vấn đề con người - tiếp cận từ mục tiêu và động lực của sự phát
triển, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 19-11-2020
25. TS Nguyễn Anh Tuấn- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh -Vai trò
của đội ngũ doanh nhân trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
26. Đỗ Minh Cương, “Bàn về khái niệm doanh nhân Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học Đại học quốc gia Hà Nội.
27. Bàn luận về giai tầng xã hội, cơ cấu xã hội - giai tầng xã hội, Tạp chí Thông
tin Khoa học xã hội, số 9/2007.
28. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: Vai trò của doanh nhân trong
phát triển kinh tế, 2011.
29. Tapchitaichinh- Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
hội nhập kinh tế quốc tế.
30. Bí mật tư duy triệu phú (Secret of Millionaire Mind),T.Harv Eker, Nhà xuất
bản trẻ,Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011, trang 114.
31. Tapchitaichinh.vn
32. Tạp chí của Ban Tuyên giáo trung ương, Sự biến đổi giai cấp công nhân Việt
Nam dưới tác động của hội nhập quốc tế.
33. Báo Nhân dân điện tử, Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
34. Website ILO, Báo cáo Xu hướng việc làm toàn cầu 2014: Bộ dữ liệu hỗ trợ:
Việc làm theo ngành và giới tính của toàn cầu, khu vực và từng nước. Hiện
nay chưa có số liệu nào mới hơn và đáng tin cậy hơn.
35. Báo Công nhân xã hội chủ nghĩa (Socialist Worker) của Đảng Công nhân xã
hội chủ nghĩa Anh, số ra ngày 11-8-2015.
36. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Vấn đề sỡ hữu nền kinh tế quá độ lên
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, https://dangcongsan.vn/kinh-te/van-de-so-huu-
trong-nen-kinh-te-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567463.html, truy
cập ngày 28/10/2020.
37. Bài Nghiên cứu-Trao đổi “Về phương hướng cơ bản của qua trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội” của trang thông tin điện tử Hội Đồng Lý Luận Trung
Ương.
38. https://dangcongsan.vn/kinh-te/van-de-so-huu-trong-nen-kinh-te-qua-do-len-
chu-nghia-xa-hoi-o-nuoc-ta-567463.html
39. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-
chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/xay-dung-khoi-lien-minh-cong-nong-
tri-thuc-trong-thoi-ky-cong-nghiep-hoa-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-2017

You might also like