You are on page 1of 18

y9 CÂU HỎI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1. Anh chị hãy phân tích nội dung đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ?
Qua đó làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân việt nam .

1.1 Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
- Nội dung kinh tế:

Trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm công nghiệp ngày càng hiện đại - cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở kinh
tế cho tất cả các nước theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển ngày càng cao. Không có
giai cấp công nhân lớn mạnh, không một nước nào (kể cả các nước phát triển nhất hiện nay) có thể tồn tại
và phát triển trong thời đại hiện nay. Nội dung này là nội dung thường xuyên và thực hiện suốt trong các
giai đoạn cách mạng của giai cấp công nhân ở tất cả các nước.

- Nội dung chính trị - xã hội:

Thông qua Đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức để nhân dân lao động giành
chính quyền về tay mình, xoá bỏ chính quyền của các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, xoá bỏ giai cấp tư sản
(và mọi giai cấp áp bức bóc lột khác); giải tán chính quyền Nhà nước của các chế độ cũ, xây dựng chính
quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

+ Thông qua Đảng tiên phong của mình lãnh đạo, tổ chức nhân dân lao động xây dựng và bảo vệ
chính quyền, bảo vệ đất nước và đồng thời tổ chức xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, con người..., để từng bước hình thành xã hội xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên thực tiễn ở mỗi nước và trên toàn thế giới.

+ Đây là nội dung cơ bản quyết định cuối cùng của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cũng là
nội dung rất khó khăn, phức tạp vì nó rất mới mẻ và là quá trình cải biến cách mạng căn bản, toàn diện,
triệt để trên phạm vi quốc gia, quốc tế.

- Nội dung văn hóa, tư tưởng:

Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng.

+ Xây dựng hệ giá trị mới: lao động, công bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do.

1.2 Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh tế - xã hội của sản xuất mang tính
xã hội hóa với hai biểu hiện nổi bật là:

+ Thứ nhất: Xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất, thúc đẩy sự phát triển của xã
hội, thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sản xuất TBCN (tư bản chủ
nghĩa), sự xung đột giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là nội dung kinh tế vật chất của mâu thuẫn cơ bản đó trong chủ nghĩa tư bản.

+ Thứ hai: Quá trình sản xuất mang tính xã hội hóa đã sản sinh ra giai cấp công nhân và rèn luyện nó
thành chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử.
- Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng của chính bản thân giai cấp
công nhân và của quần chúng, mang lợi ích cho đa số.

A, Những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

a, Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

- Thứ I: Do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định, GCCN là con đẻ của nền sản xuất đại công
nghiệp, có những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng, là chủ thể của nền sản xuất
hiện đại, vì vậy GCCN đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, lực lượng sản xuất hiện đại.

- Thứ II: Do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định, GCCN có tính tổ chức, tính tự giác
và kỷ luật cao, là giai cấp bị áp bức bóc lột nặng nề nhất trong xã hội, là kẻ thù của GCTS.

b, Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử

- Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng.

- Đảng Cộng sản là nhân tố quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của
mình.

- Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác do giai cấp
công nhân lãnh đạo thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản.

1.3 Qua đó làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân việt nam .

- Giai Cấp Công Nhân ra đời trong điều kiện và hoàn cảnh xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, dân tộc VN mất độc lập & chủ quyền quốc gia, nhân dân VN chưa có dân chủ, lịch sử đặt ra nhiệm
vụ:

+ Đánh đổ đế quốc để giành độc lập cho dân tộc.


+ Đánh đổ phong kiến để đem lại ruộng đất cho nhân dân, thực hiện dân chủ cho nhân dân-> tiến lên
XHCN
-hTất cả giai cấp tiến hành chiến tranh chống đế quốc và chống phong kiến (gồm: giai cấp công nhân, nhân
dân, tri thức, tư sản dân tộc, tầng lớp yêu nước khác). Chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả
năng thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ lịch sử.

- Cương lĩnh của Đảng ta năm 1930 đã khẳng định :


+ Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân chủ tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lần đầu
thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam
+ Cuộc cách mạng trải qua 2 giai đoạn cơ bản : giai đoạn đầu là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
có nhiệm vụ đánh đổ đế quốc và phong kiến, giai đoạn sau là tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa tư bản => đây chính là Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

2. Anh chị hãy phân tích điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan quy định sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
2.1. Điều kiện khách quan
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, luôn luôn vận động và
phát triển. Trong lực lượng sản xuất ở bất kỳ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất.
a) Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, luôn luôn vận
động và phát triển. Trong lực lượng sản xuất ở bất kỳ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng
nhất. Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, với nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển,
thì "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động".

Trong nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân vừa là chủ thể trực tiếp nhất, vừa là sản phẩm
căn bản nhất của nền sản xuất đó. Khi sản xuất đại công nghiệp ngày càng mở rộng, ngày càng phát triển
thì "Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai
cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nên đại công nghiệp", giai cấp vô sản "được tuyển mộ trong tất cả
các giai cấp của dân cư".

Với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa "... giai cấp công nhân hiện đại... chỉ có thể sống với điều kiện là
kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản". Từ điều kiện
làm việc như vậy đã buộc giai cấp công nhân phải không ngừng học tập vươn lên sao cho đáp ứng được
yêu cầu của nền sản xuất ngày càng hiện đại. Ngày nay, trong các nuớc tư bản phát triển, tỷ lệ sản xuất tự
động hóa ngày càng gia tăng với "văn minh tin học", "kinh tế tri thức", do vậy đội ngũ công nhân được "tri
thức hóa" cũng ngày càng gia tăng.

Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân hoàn loàn không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất,
là người lao động làm thuê, "vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh mình, mọi sự lên xuống của thị
trường với mức độ khác nhau". Như vậy, trong chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân có lợi ích cơ
bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản muốn duy trì chế độ tư hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, duy trì chế độ áp bức bóc lột đối với giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động. Ngược lại, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dùng
chính quyền đó để tổ chức xây dựng xã hội mới, tiến tới một xã hội không còn tình trạng áp bức bóc lột.

Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp, có quy mô sản xuất ngày càng lớn, sự
phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình sản xuất ngày càng nhiều, họ lại thường sống ở những thành phố lớn,
những khu công nghiệp tập trung. Điều kiện làm việc, điều kiện sống của giai cấp công nhân đã tạo điều
kiện cho họ có thể đoàn kết chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Khả năng này
giai cấp nông dân, thợ thủ công không thể có được.

Giai cấp công nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân
lao động, do vậy tạo ra khả năng cho giai cấp này có thể đoàn kết với các giai cấp, tầng lớp lao động khác
trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội.
b) Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân

Địa vị kinh tế - xã hội đã tạo cho giai cấp công nhân có những đặc điểm chính trị - xã hội mà những
giai cấp khác không thể có được, đó là những đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.

Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến,
gắn liền với những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Đó là giai cấp đuợc trang bị bởi một lý luận
khoa học , cách mạng và luôn luôn đi đầu trong mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ
lạc hậu, xây dựng xã hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp khác vào
phong trào cách mạng.

Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời đại ngày nay.

Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong thời kỳ đấu tranh chống
chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính quyền thì họ quay trở lại bóc lột giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, những giai cấp đã từng kề vai sát cánh với giai cấp này trong cuộc cách mạng dân
chủ tư sản. Khác với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, có lợi ích cơ bản đối lập
trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống, điều kiện lao động trong chế độ tư bản chủ nghĩa
đã chỉ cho họ thấy: họ chỉ có thể được giải phóng bằng giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ
nghĩa.

Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Trong tất cả các giai cấp
hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thật sự cách mạng...

Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều
đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống còn của họ với tính cách là những tầng lớp trung đẳng.
Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ".

Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.

Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp với hệ thống sản xuất mang tính chất
dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn trương buộc giai cấp này phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động;
cùng với cuộc sống đô thị tập trung đã tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp công nhân.

Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường khi nó phát triển thành một lực lượng
chính trị lớn mạnh, có tổ chức: được sự giác ngộ bởi một lý luận khoa học, cách mạng và tổ chức ra được
chính đảng có nó - đảng cộng sản. Giai cấp công nhân không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể
giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và xây dựng chế độ xã hội mới.

Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế. Giai cấp tư sản không chỉ
bóc lột giai cấp công nhân ở chính nước họ mà còn bóc lột giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa. Ngày
nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sản xuất mang tính toàn cầu hóa. Tư bản của nước
này có thể đầu tư sang nước khác là một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải do một nước
sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều quốc gia. Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa phong
trào công nhân các nước, có như vậy, phong trào công nhân mới có thể giành được thắng lợi. V.I.Lenin chỉ
rõ: "... không có sự ủng hộ của cách mạng quốc tế của thế giới thì thắng lợi của cách mạng vô sản là không
thể có được", "Tư bản là một lực lượng quốc tế. Muốn thắng nó, cần phải có sự liên minh quốc tế".
2.2. Yếu tố chủ quan.
Bản thân giai cấp công nhân
Ngay từ khi mới hình thành trong xã hội tư bản chủ nghĩa, bản thân giai cấp công nhân đã không
ngừng hoạt động và trưởng thành từng bước về số lượng và chất lượng
Về số lượng chẳng những ngày càng tăng lên rất rõ rệt ở tất cả các nước, kể cả trong “kinh tế tri thức” hiện
nay, mà còn đa dạng hơn về cơ cấu các loại công nhân với nhiều ngành nghề ngày càng phong phú, phát
triển, tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao động Quốc tế thì: từ năm 1900, toàn thế giới có 80 triệu công nhân;
đến năm 1990, thế giới đã có hơn 600 triệu công nhân và đến 1998 đã có 800 triệu công nhân…
Về chất lượng, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học vấn, về khoa học công nghệ và tay
nghề; từ hoạt động kinh tế, đấu tranh kinh tế trước mắt, đã từng bước hoạt động chính trị, đấu tranh chính
trị, thông qua các tổ chức nghiệp đoàn, công đoàn, từng bước có ý thức giai cấp, giác ngộ giai cấp và cao
nhất là dẫn đến hình thành đảng tiên phong là đảng cộng sản. Khi đó, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp
công nhân đã từ chỗ là “giai cấp tự nó” (tức là chưa có ý thức giác ngộ giai cấp) đến chỗ là “giai cấp vì nó”
(tức giai cấp tự giác).
Vì thế, giai cấp công nhân trở thành cơ sở chính trị căn bản nhất của đảng cộng sản.
Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển đảng của giai cấp công nhân
Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt tới trình độ tự giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin thì phong trào cách mạng của nó mới thật sự là một phong trào chính trị.
Trình độ lý luận đó cho phép giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội,
nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường
và những biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng nhân loại.
Phải có chủ nghĩa Mác soi sáng, giai cấp công nhân mới đạt tới trình độ nhận thức lý luận về vai trò
lịch sử của mình. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính
đảng của giai cấp công nhân. V.I. Lênin chỉ ra rằng, đảng là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa
xã hội khoa học. Nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được thực hiện bằng
những còn đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian. ở nhiều nước thuộc địa, nửa thuộc
địa, chủ nghĩa Mác thường kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thành lập ra đảng
cộng sản.
Từ thực tiễn lịch sử ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào
đầu năm 1930.
Chỉ có đảng cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự
giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác và thực sự cách mạng. C. Mác đã nhấn mạnh
rằng, trong cuộc đấu tranh của mình chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai
cấp vô sản tự mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập của mình chống lại quyền lực liên hiệp của
các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào giai cấp vô sản tự mình tổ chức được thành một đảng độc lập với tất cả
mọi chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập ra thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được.
Mối quan hệ giữa đảng cộng sản với giai cấp công nhân
Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp. Đối
với giai cấp công nhân đó là đảng cộng sản, chẳng những đại biểu cho trí tuệ và lợi ích của giai cấp công
nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.
Cho nên phải có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có đường lối chiến lược và sách
lược đúng đắn thể hiện lợi ích của toàn giai cấp và toàn bộ phong trào để giai cấp công nhân có thể hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của đảng, đảng là
đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp, là biểu hiện tập trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm
chất, trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân tộc. Giữa đảng với giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu
cơ, không thể tách rời. Những đảng viên của đảng cộng sản có thể không phải là công nhân nhưng phải là
người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này.
Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng
với giai cấp là thống nhất, nhưng đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo cả giai cấp và
dân tộc; vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp. Đảng đem lại giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh
đoàn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lôi cuốn
tất cả các tầng lớp nhân dân lao động khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường lối của đảng
nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấo
công nhân cũng như mỗi người công nhân cần thường xuyên phấn đấu vươn, trưởng thành về các mặt: tư
tưởng, chính trị, lập trường giai cấp, văn hoá, khoa học kỹ thuật, tay nghề… Các tổ chức nghiệp đoàn,
công đoàn, thường xuyên phát triển vững mạnh… cùng với quá trình phát triển không ngừng của nền sản
xuất công nghiệp hiện đại, v.v..

3. Phân tích tính tất yếu và đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Liên hệ tới thời kỳ
quá độ của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
a. Bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều nhất định phải trải qua
một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ.
- Đó là thời kỳ còn có sự đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có
thể nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói chung theo tính tất yếu
phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội không là ngoại lệ lịch sử.
- Hơn nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất so với các
quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một
tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Nhất là đối với những nước còn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” này còn có thể rất dài với nhiều bước quanh co.
b. Sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định từ những nhân tố do xã
hội cũ tạo ra.
- Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế
thừa cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy
nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại công nghiệp nhưng đó là nền
sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó
nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ
nghĩa.
- Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá
độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng
tâm của nó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó
khăn, không thể “đốt cháy giai đoạn” được.
c. Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản,
chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề
cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, đo vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để
xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
d. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp.
- Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân lao động không thể ngay lập
tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần phải có thời gian nhất định.
2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố
của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
a. Trên lĩnh vực kinh tế:
+ Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh
tế quốc dân thống nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước
còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách
quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng,
đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân
phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
b. Trên lĩnh vực chính trị:
+ Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của
xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công
nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác
tùy theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với
nhau.
c. Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
+ Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên
cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo V.I.
Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản
cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường
xuyên đấu tranh với nhau.
- Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh
giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ
nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra
trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính
trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.

3. Liên hệ đến thời kỳ quá độ của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
3.1. Nội dung:
a. Khoảng thời gian diễn ra quá độ
- Trong tính tất yếu, nước ta xác định nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó trong khoảng thời gian chưa
thống nhất đất nước, thời kỳ quá độ được diễn ra trước tiên ở Miền Bắc. Thời kỳ này bắt đầu từ năm 1954
sau khi miền Bắc được giải phóng. Sau đó, các tính chất trong đấu tranh giải phóng và chi viện cho miền
Nam được thực hiện. Đến năm 1975, đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất hai miền Nam Bắc. Khi đó,
sự thống nhất trong vai trò lãnh đạo của Đảng đặt ra mục tiêu phát triển đất nước. Trước tiên là khôi phục
kinh tế, xã hội và đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Như vậy đến năm 1975, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Diễn ra với các chính sách cần thiết
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
b. Tính tất yếu:
- Đặt dưới nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta thấy được những lợi ích trong đổi mới kinh tế.
Bên cạnh các phát triển mọi mặt và nhu cầu hợp tác toàn cầu. Do đó tính dân chủ cần được phản ánh hiệu
quả thông qua quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bất cứ sự chuyển dịch tính chất xã hội nào cần được tiến hành
hết sức khéo léo. Thông qua lộ trình cùng với các tác động và điều chỉnh hợp lý. Đặt dưới tính chất phối
hợp của mọi thành phần kinh tế.
- Với một đất nước với tính chất thuộc địa như nước ta bấy giờ, các tính dân chủ không được phản ánh.
Khi đó, người dân không đảm bảo với quyền lợi đáng ra được hưởng. Bên cạnh các lỗ lực xây dựng kinh tế
cá nhân hay kinh tế đất nước. Chủ nghĩa xã hội sẽ mang đến các đảm bảo thông qua hệ thống pháp luật
được ban hành trên phạm vi cả nước.
- Đối với nước ta, thời kỳ đó phản ánh một nước nông nghiệp lạc hậu. Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa, các khó khăn rất lớn. Trong đó, với lý tưởng trong ứng dụng công nghệ, kỹ thuật và
khoa học hiện đại. Cùng với sự thúc đẩy đảm bảo cho chất lượng cuộc sống từng người. Với tinh thần đó,
sự chuyển dịch hay tác động diễn ra chậm mà chắc. Bên cạnh các lợi thế và năng lực thời đó còn kém. Bởi
vậy mà Việt Nam đã trải qua một thời kỳ quá độ tương đối dài.
c. Nhiệm vụ của thời kỳ này:
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử. Với:
“nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội,… tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên
tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền
kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử. Với:
“nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội,… tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên
tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền
kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
3.2. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử đối với nước
ta:
- Trong các giai đoạn xã hội thông thường, một quốc gia sẽ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa tư bản trước.
Đây được xem là giai đoạn với hướng đi và bước chuyển mình thông thường. Sau đó với những thành tựu
và điểm mạnh từ Chủ nghĩa tư bản để đi lên Xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Việt nam thực hiện bước chuyển
mình bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa. Đây là hình thái xã hội mà quốc tế hướng đến nếu muốn thay thế
bằng hình thức Cộng sản xã hội chủ nghĩa.
- Trong thời kỳ mà người dân phải gánh chịu chế độ thực dân, mất đi quyền tự do và dân chủ. Thì tính
chất thể hiện với Chủ nghĩa xã hội mới là những mong muốn được đặt ra. Chủ nghĩa tư bản với tính chất
quyền lực được thâu tóm không phải đích đến cuối cùng. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là
giải phóng con người. Khi những mong muốn chính đáng chưa được đáp ứng. Tiếng nói của dân tộc chưa
được phản ánh. Vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người. Đi theo
dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.
- Tính dân tộc và nhu cầu độc lập dân tộc luôn tồn tại trong mong muốn của dân tộc ta. Bên cạnh mong
muốn trong dân chủ. Quyền lực phải được phản ánh thông qua ý thức dân chủ. Đảng cộng sản mang những
phản ánh trong đảm bảo tính dân chủ ấy. Bởi sự quản lý và lãnh đạo của nhà nước chỉ mang tính chất đại
diện và thể hiện tiếng nói dân tộc. Mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Và những mục tiêu này chỉ được xây dựng với nhu cầu đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Tính tất yếu còn được thể hiện với mong muốn của dân tộc. Khi các kìm kẹp quá lâu trong nhu cầu hay
khả năng của họ. Các lợi ích cần được đảm bảo cho những người có khả năng tạo ra chúng. Góp phần
mang đến các giá trị xây dựng và đóng góp cho đất nước. Ngoài ra là tính chất trong nhu cầu tìm kiếm hợp
tác quốc tế. Mang đến những tiến bộ, mở mang và kinh nghiệm tích lũy được. Từ đó áp dụng linh hoạt và
sáng tạo trong nền kinh tế đất nước. Giúp cơ cấu kinh tế được chuyển dịch với xu hướng Công nghiệp hóa
- Hiện đại hóa. Ngoài ra cũng giúp nước ta đạt được nhiều thành tựu trong con đường đi lên quốc gia phát
triển.

4. Phân tích các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ? Liên hệ đến đặc trưng của mô hình
chủ nghĩa xã hội VN ?
1. Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin:
CNXH là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có sự khác nhau về chất
và nguyên tắc xây dựng so với Chủ nghĩa tư bản. Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những
đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:

- Đặc trưng thứ nhất: cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp
hiện đại.

Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày càng
nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về vật chất và văn hóa của nhân
dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền công nghiệp hiện đại đó được phát triển
dựa trên lực lượng sản xuất đã phát triển cao. Ở những nước thực hiện sự quá độ “bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó có Việt Nam thì đương nhiên phải có quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã
hội.
- Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ
công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc cải tạo
xã hội theo lập trường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, không phải xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung
mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng
bước thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Chế độ sở hữu này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm  thích ứng với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu
thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với nhau vì
những lợi ích căn bản.
- Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình hoạt
động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính bản chất và mục
đích đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao
động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.
- Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động – nguyên tắc
phân phối cơ bản nhất.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm cho mọi người có quyển bình đẳng trong lao động sáng tạo và hưởng
thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao theo nguyên tắc “làm theo
năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.
- Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, nhà
nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực hiện
quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh đạo toàn
xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình trên mọi mặt của xã
hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây là một “nhà nước nửa nhà nước”,
với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của
chính mình ngày càng rõ hơn.
- Đặc trưng thứ sáu: CNXH đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng,
bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh tế và
nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối sống xã hội
chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ
tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực hiện được sự công bằng,
bình đẳng xã hội.
Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu việt của chủ nghĩa
xã hội. Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của toàn thể nhân loại.
Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội cần phải quan tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này.
2. Đặc trưng mô hình CNXH ở VN:
- Đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng được Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng
định, là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Tiếp theo đó là xã hội “do nhân dân làm chủ”. “Nhân dân làm chủ xã hội” là đặc trưng quan
trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này không thể
tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp”. Kinh tế là lực lượng vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự
vững vàng và phát triển của xã hội.
- “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nếu như “nền kinh tế phát triển cao” là nội
lực, là sức mạnh vật chất cho phát triển xã hội thì văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát
triển xã hội. Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi vậy, nó là sức
mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại.
- “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Sự phát
triển toàn diện con người là ước mơ, khát vọng của con người tự do. Xã hội xã hội chủ nghĩa chính là
nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người... như
C.Mác đã nói.
- “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
phát triển”. Đoàn kết toàn dân, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc đã làm nên thành công của
cách mạng Việt Nam. Và giờ đây, tinh thần đó, phương châm đó đang là những nét đặc sắc của giá trị
xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo”. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân không thể nào khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng mang bản chất, lý tưởng,
nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
- “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp
tác chính là thể hiện bản chất hòa hảo, thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu
những thành quả phát triển của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn quá trình phát triển của mỗi
nước.

5. Phân tích bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, qua đó liên hệ đến nền dân
chủ xhcn Việt Nam.
- Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân
thông qua Đảng của nó đối với toàn xã hội, nhưng không chỉ thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai
cấp công nhân, mà chủ yếu là thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là
thực hiện quyền lực và lợi ích cho toàn thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng
rãi, tính dân tộc sâu sắc.
- Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản
xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao động là chủ yếu; đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân trong quá trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối.
- Bản chất tư tưởng- văn hóa- xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên hệ tư tưởng Mác-
Leenin, đồng thời kế thừa, phát huy tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc và những giá trị tư tưởng- văn
hóa nhân loại; đảm bảo nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa tinh thần, được nâng cao trình độ văn
hóa, có điều kiện phát triển cá nhân, có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích
toàn xã hội.
Liên hệ bản chất nền dân chủ Việt Nam:
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
- Dân chủ gắn liền với kỷ cương và phải thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật đảm bảo.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thực hiện thông qua các hình thức dân chủ gián tiếp và
dân chủ trực tiếp.
Thực tiễn xây dựng đất nước cho thấy, quá trình xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, dân chủ ngày càng được thể hiện trong các khía cạnh, cấp
độ, các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam diễn ra trong điều
kiện xuất phát từ một nền kinh tế kém phát triển, lại chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, vấn đề “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” hết sức phức tạp đang là trở ngại đối với quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta hiện
nay.
6. Sự ra đời bản chất chức năng của xã hội chủ nghĩa, liên hệ đến nhà nước pháp
quyền của xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Sự ra đời của nhà nước pháp quyền của xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ở Việt Nam, khái niệm Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị
lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (ngày 29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại
Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của
Đảng. Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển về chất trong nhận thức
về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

2. Bản chất, chức năng của chủ nghĩa, liên hệ đến nhà nước Pháp

a. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp:

- Hồ Chí Minh luôn chú trọng vấn đề xây dựng nền tảng pháp lý cho Nhà nước Việt Nam mới. Người
đã sớm thấy rõ tầm quan trọng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống chính trị - xã hội.

- Sau này, khi trở thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc
hơn việc bảo đảm cho Nhà nước được tổ chức và vận hành phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, đồng thời,
căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật để điều hành xã hội, làm cho tinh thần pháp quyền thấm sâu và điều
chỉnh mọi quan hệ và hoạt động trong Nhà nước và xã hội.

b. Nhà nước thượng tôn pháp luật:

- Hồ Chí Minh luôn chú trong xây dựng hệ thống luật pháp dân chủ, hiện đại.

- Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống, đảm bảo cho pháp luật được thi
hành và có cơ chế giám sát việc thi hành pháp luật.

- Hồ Chí Minh chỉ rõ sự cần thiết phải nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực sử dụng luật của người
dân, giáo dục ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật trong nhân dân.

- Hồ Chí Minh luôn nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật.

- Hồ Chí Minh luôn luôn khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Nhà nước, giám sát
quá trình Nhà nước thực thi pháp luật, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải
gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.

c. Pháp quyền nhân nghĩa:

- Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, chăm lo đến lợi ích của
mọi người.

- Pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện.

3. Nhà nước trong sạch, vững mạnh:

a. Kiểm soát quyền lực nhà nước:


- Kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu. Một khi đã nắm giữ quyền lực, cơ quan nhà nước hay cán
bộ nhà nước đều có thể trở nên lạm quyền.

- Về hình thức kiểm soát quyền lực Nhà nước, theo Hồ Chí Minh, trước hết, cần phát huy vai trò,
trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để kiểm soát có kết quả tốt, theo Hồ Chí Minh, cần có hai điều
kiện là việc kiểm soát phải có hệ thống và người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín. Người còn
nêu rõ hai cách kiểm soát là từ trên xuống và từ dưới lên. Người nhấn mạnh, phải “khéo kiểm soát”.

- Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước dựa trên cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và việc phân
công, phân nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước bước đầu cũng đã được Hồ Chí Minh đề
cập đến.

- Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, vì thế, nhân dân có quyền kiểm soát quyền lực
Nhà nước.

b. Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước:

- Hồ Chí Minh thường nói đến những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục:

+ Đặc quyền, đặc lợi.

+ Tham ô, lãng phí, quan liêu.

+ “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”.

- Những nguyên nhân nảy sinh tiêu cực được Hồ Chí Minh tiếp cận rất toàn diện. Trước hết là nguyên
nhân chủ quan, bắt nguồn từ căn “bệnh mẹ” là chủ nghĩa cá nhân, tự sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện của bản
thân cán bộ. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khách quan.

- Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước là nhiệm vụ hết sức khó khăn. Trong nhiều tác phẩm khác
nhau, ở nhiều thời điểm khác nhau, Hồ Chí Minh đã nêu lên nhiều biện pháp khác nhau. Khái quát lại, có
thể thấy nổi bật một hệ thống biện pháp cơ bản như sau:

+ Một là, nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân đó là giải pháp căn bản và có ý nghĩa lâu dài.

+ Hai là, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra phải thường
xuyên. Cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc và tự giác tuân thủ pháp luật, kỷ luật.

+ Ba là, phạt nghiêm minh, nghiêm khắc, đúng người đúng tội là cần thiết, song việc gì cũng xử phạt thì
lại không đúng. Cần coi trọng giáo dục, lấy giáo dục, cảm hóa làm chủ yếu.

+ Bốn là, cán bộ phải đi trước làm gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao, trách nhiệm nêu gương càng
lớn.

+ Năm là, phải huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc chiến chống lại tiêu cực trong con
người, trong xã hội và trong bộ máy Nhà nước.

7. Cơ sở lý luận và thực tiễn để Lê-nin đưa ra cương lĩnh dân tộc, nội dung cương
lĩnh dân tộc, qua đó làm rõ quan điểm chính sách dân tộc của nhà nước Việt Nam.
7.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn để Lê-nin đưa ra cương lĩnh dân tộc : 

- Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.

- Mối quan hệ giữa hai xu hướng của phong trào dân tộc trong thời đại của chủ nghĩa đế quốc.

- Thực tiễn phong trào giải phóng dân tộc đầu  thế kỷ XX

- Thực tiên phong trào cách mạng của nước Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

7.2 Nội dung cương lĩnh dân tộc cuar chủ nghĩa Mác - Lênin : 

Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: 

+ Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
được tôn trọng và đối xử như nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong quan hệ xã hội,
không dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, không dân tộc nào được
quyền đi áp bức, bóc lột đối với dân tộc khác. 

 + Quyền bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ sở pháp lý, nhưng quan trọng hơn nó phải
được thực hiện trên thực tế. 

+ Thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp, trên cơ sở đó xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh
chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc cực đoan. 

+ Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng môi
quan hệ hữu nghị , hợp tác giữa các dân tộc. 

 Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết:

 - Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự lựa chọn chế
độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình. 

 - Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập, đồng thời
có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng. 

 - Quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với “quyền” của các tộc người thiểu số trong một quốc
gia đa tộc người. 

Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:

   + Nội dung này phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; phản ánh
sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính. 

Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan trọng để các đảng cộng sản
vận dụng thực hiện chính sách dân tộc trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. 

7.3 Quan điểm chính sách dân tộc của nhà nước Việt Nam : 

Quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay: 

+ Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề
cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. 
+ Các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển. Kiên
quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.

 + Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng
dân tộc và miền núi. 

+ Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi. 

+ Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của các cấp, các ngành và toàn bộ hệ thống chính trị.

 - Nội dung chính sách của Nhà nước về vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay: 

+ Về chính trị, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc,
nâng cao tính tích cực và nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của vấn đề
dân tộc, đoàn kết các dân tộc, thống nhất tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dân giàu,
nước mạnh, mục dân chủ, công bằng, văn minh.

 + Về kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm phát
huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, giữa các dân
tộc. 

+ Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, mở
rộng giao lưu văn hóa với các quốc gia, các khu vực và trên thế giới. Đấu tranh chống tệ nạn xã hội,
chống “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng - văn hóa ở nước ta hiện nay

+ Về xã hội, thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội ở miền núi, vùng dân
tộc thiểu số. 

 + Về quốc phòng - an ninh, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn định
chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. 

8. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội và quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin trong giải quyết vấn đề tôn giáo, qua đó làm rõ quan điểm chính
sách của đảng và nhà nước VN trong vấn đề giải quyết tín ngưỡng, tôn giáo.

8.1. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội
1. Nguyên nhân nhận thức. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội
và của con người mà khoa học chưa thể lý giải được. Do đó trước những sức mạnh tự phát của giới tự
nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến một bộ phận nhân dân đi
tìm sự an ủi, che chở và lý giải từ sức mạnh của đấng siêu nhiên.
2. Nguyên nhân kinh tế. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, với sự tồn tại của nền kinh tế nhiều
thành phần với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội, với những sự bất bình đẳng nhất
định về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đã mang đến cho con người những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi,
làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
3. Nguyên nhân tâm lý. Tôn giáo là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất, đã in sâu vào
đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế
hệ. Vì vậy, dù có thể có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội thì tôn giáo cũng không thay đổi
ngay theo tiến độ của những biến đổi kinh tế-xã hội mà nó phản ánh.
4. Nguyên nhân chính trị-xã hội. Tôn giáo có những điểm còn phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường
lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Giá trị đạo đức, văn hoá của tôn giáo đáp ứng được nhu cầu
của một bộ phận nhân dân. Chính vì vậy, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo vẫn có sức thu hút
mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng.
5. Nguyên nhân văn hoá. Trong thực tế, sinh hoạt tôn giáo đã đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hoá
tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng,
phong cách, lối sống của cá nhân trong cộng đồng. Vì vậy, sinh hoạt tôn giáo đã lôi cuốn một bộ phận nhân
dân xuất phát từ nhu cầu văn hoá tinh thần, tình cảm của họ.
Từ những nguyên nhân trên đã dẫn đến sự tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Song cũng cần nhận thức được rằng tôn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự biến đổi của những điều
kiện kinh tế-xã hội của quá trình cải tạo và xây dựng xã hội mới.
8.2. Quan điểm chính sách của đảng và nhà nước VN trong vấn đề giải quyết tín ngưỡng, tôn giáo.
* Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước qua các kỳ Đại hội Đảng từ X - XIII:
Sau Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 (khóa IX), quan điểm, chính sách tôn giáo tiếp tục được thể
hiện trong văn kiện Đại hội Đảng X, XI, XII, XIII. Thực ra, xuyên suốt các kỳ Đại hội của Đảng cộng sản
Việt Nam từ đại hội VII đến Đại hội XIII đều có hai quan điểm không thay đổi đó là: tôn trọng và đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; chống việc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại
đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Các kỳ đại hội trên đều thể hiện quan điểm:
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi công dân. Mọi công dân dầu có quyền theo tôn
giáo, từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo của mình. Mọi hành vi xâm phạm quyền tự do ấy đều bị xử lý theo pháp
luật; không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng trong những hoạt động xã hội. Xóa bỏ mặc cảm, định kiến,
thường xuyên củng cố tình đoàn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào không có đạo, giữa tín đồ các tôn
giáo với nhau, "Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai tầng trong xã hội. Bảo đảm các dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, tôn trong, giúp nhau cùng phát triển. Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt
các chính sách tôn giáo; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc."; hướng các chức sắc
giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật, ủng hộ các xu hướng tiến bộ trong các tôn giáo, làm cho
các giáo ội ngày càng gắn bó với dân tộc và sự nghiệp cách mạng của toàn dân đồng thời "nghiêm trị mọi
âm mưu, lợi dụng tôn giao để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ, xâm
phạm an ninh quốc gia phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước".
* Về Quan điểm chỉ đạo:
Nghị quyết 25 đề ra 5 quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo, chính sách tôn giáo và
công tác tôn giáo:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nước ta hiện nay có khoảng 16 tôn giáo, với
trên 13,2 triệu tín đồ, chiếm khoảng 13,7% dân số và nhiều tổ chức tôn giáo; hơn 80 hiện tượng tôn giáo
mới; hơn 85% dân số có đời sống duy tâm. Tín ngưỡng tôn giáo hiện đang là đứa con tinh thần của một bộ
phận đông đảo nhân dân, sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc và cùng với chế độ xã hộ chủ nghĩa ở nước ta. Tuy
nhiên, tín ngưỡng tôn giáo đang có những thay đổi vô cùngmạnh mẽ trước biến động của thế giới và sự
phát triển đi lên của đất nước. Vì vậy, quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện: Chủ quan,
duy ý chí, phiến diện trong nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo.
Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc: Đồng bào các tôn
giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do vậy, thực hiện quan điểm này, một mặt phải
đoàn kết đồng bào theo những tôn giáo khác nhau; mặt khác, phải đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào không theo tôn giáo, giải quyết tốt mối quan hệ người có tín ngưỡng khác nhau với người theo chủ
nghĩa vô thần. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu hiện như phân biệt đối xử, đố kỵ, mặc cảm
vì lý do tín ngưỡng tôn giáo và kiên quyết chống ấm mưu, thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, chia rẽ,
phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng nhân dân. Đây là tư
tưởng chỉ đạo quan trọng nói lên bản chất của công tác tôn giáo gắn với mục tiêu là dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu trên chính là tiền đề để phát huy sự tương đồng, khắc phục
sự khác biệt của nhân dân có đạo. Đối tượng của công tác vận động quần chúng nhân dân bao gồm: tín đồ,
chức sắc, nhà tu hành và chức việc trong từng tôn giáo; đồng thời cũng phải vận độngquần chúng không có
tôn giáo thực hiện chính sách tôn giáo. Công tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo bao gồm:
Công tác giáo dục, tuyên truyền, tổ chức phong trào quần chúng, tổ chức các chương trình phát triển kinh
tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương, cơ sở. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các
biểu hiện: Hành chính, quan liêu, cửa quyền, xa rời quần chúng hoặc hữu khuynh theo đuôi quần chúng.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác tôn giáo liên quan đến tất
cả lĩnh vực, mọi mặt của đời sống xã hội, mọi ngành nghề mọi cấp bậc từ Trung ương đến cơ sở. Trong
công tác tôn giáo, Đảng là nhân tố lãnh đạo, quyết định toàn bộ hệ thống chính trị trong quá trình tiến hành
công tác; Nhà nước quản lý hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo theo quy định của Hiến pháp, pháp
luật; Mặt trận và các đoàn thể nhân dân quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng,
Nhà nước về vận động quần chúng thực hiện tốt chính sách tôn giáo. Quán triệt quan điểm này cần khắc
phục các biểu hiện: thiếu sự cộng tác, phối hợp chặt chẽ đồng bộ để phát huy sức mạnh tổng hợp hoặc
buông lỏng quản lý, lấn sân
lẫn nhau.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Đây cũng là một quan điểm quan trọng nhằm xác định rõ các
hoạt động tôn giáo (bao gồm: hành đạo, quản đạo và truyền đạo) đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước bảo hộ chính đạo, đồng thời bày trừ tà đạo. Quán triệt quan điểm này cần khắc phục các biểu
hiện như can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ tôn giáo; buông lỏng quản lý trước các hành vi vi phạm
các quy định của Hiến pháp, pháp luật trong hoạt động tôn giáo.
* Về nhiệm vụ của công tác tôn giáo: Nghị quyết nêu 6 nhiệm vụ là

(1) Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
(2) Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng chính sách
và pháp luật của nhà nước.
(3) Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống "Tốt đời, đẹp đạo" trong quần chúng tín
đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.
(4) Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu
của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ.
(5) Hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; đấu tranh làm thất
bại những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch bên ngoài đối với tình hình
tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta.
(6) Tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu
cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ
trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo.

9. Vị trí chức năng của gia đình trong chủ nghĩa xã hội.
Vị trí :
+ Gia đình là tế bào của xã hội
+ Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc sự hài hòa trong đời sống cá nhân mỗi thành viên
+ Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Chức năng :
+ Duy trì nòi giống
Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động – nguồn nhân cho xã hội. Chức năng này sẽ góp phần thay
thế những lớp người lao động cũ đã đến tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt, năng động,
sáng tạo. Việc thực hiện chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội vừa đáp ứng
được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Ở mỗi quốc gia khác nhau thì việc
thực hiện chức năng này là khác nhau
+, Kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Mỗi gia đình phải tự tổ chức đời sống vật chất của các thành viên trong gia đình, thỏa mãn những nhu cầu
vật chất và tinh thần của các thành viên đó. Trong điều kiện phúc lợi xã hội của quốc gia còn hạn chế thì
việc thực hiện chức năng kinh tế của gia đình rất có ý nghĩa trong việc đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của mỗi cá nhân.
+, Thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý: duy trì tình cảm gia đình, nhu cầu tình cảm ,nhu cầu văn hóa, nhu cầu
tinh thần cho các thành viên để đảm bảo tinh thần cho các thành viên cho gia đình cho xã hội, nơi chăm sóc
người già trẻ em người ốm và sự quan tâm chăm sóc gia đình bồi dưỡng các thành viên trong gia đình nơi
chỗ dựa cho các cá nhân trưởng thành.
+ Chức năng giáo dục:
Gia đình thực hiện chức năng giáo dục đối với các thế hệ kế tiếp bắt đầu từ khi mỗi thành viên được sinh ra
cho đến khi trưởng thành và thậm chí cho đến suốt đời. Giáo dục trong gia đình có vai trò quan trọng trong
việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, cần kết họp giữa giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và
giáo dục ngoài cộng đồng trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ.

You might also like