You are on page 1of 14

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC MÁC 3

Câu 1. Phân tích các điều kiện khách quan và chủ quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Liên hệ Việt Nam.
Hiện theo C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai cấp vô sản là giai cấp những công
nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của
mình đế sống”.  Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng
với quá trình phát triển nền công nghiệp hiện đại với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có
tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình
công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản
xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và
phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, luôn luôn
vận động và phát triển. Trong lực lượng sản xuất ở bất kỳ xã hội nào, người lao động cũng là yếu
tố quan trọng nhất. Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, với nền sản xuất đại công
nghiệp ngày càng phát triển, thì “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân,
là người lao động”. Có thể thấy giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất,
là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người
bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân
loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư
bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao
động.

Địa vị kinh tế xã hội giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để và có khả
năng thực hiện sứ mệnh lịch sử, đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các
dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc.

* Điều kiện khách quan:


- Về địa vị kinh tế - xã hội:
+ Giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản.
Giai cấp công nhân là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi
giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến bộ của lịch sử, là người duy nhất có
khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.

+ Giai cấp công nhân do không có tư liệu sản xuất nên giai cấp công nhân phải bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản và bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, họ bị lệ thuộc hoàn
toàn trong quá trình phân phối các kết quả lao động của chính mình. Về mặt lợi ích giai cấp
công nhân là giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Xét về bản chất, họ là giai cấp cách
mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ nghĩa.

+ Giai cấp công nhân không ngừng tăng lên về số lượng để tr thành lực lượng đông đảo của xã hội.

+ Giai cấp công nhân hiện đại có xu hướng ngày càng được tri thức hóa do yêu cầu khách quan
của sự phát triển công nghiệp trong thời đại mà khoa học và công nghệ đã và đang trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp.

Có thể thấy địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân là yếu tố quan trọng nhất quy định nên
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bởi nếu không có địa vị về kinh tế là người đại diện cho
lực lượng sản xuất tiến bộ, không có địa vị về xã hội là bị giai cấp tư sản bóc lột thì sẽ không có
động lực về chính trị để thực hiện cuộc cách mạng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ
nghĩa xã hội.

- Về đặc điểm chính trị - xã hội:


+ Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất. Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất
công nghiệp hiện đại, được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp tiến bộ, đoàn kết và tổ
chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh.

+ Giai cấp công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến thể hiện ở nhiệm vụ xóa bỏ quan
hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thiết lập quan hệ sản xuất mới tiến bộ
hơn.

+ Giai cấp công nhân được trang bị lí luận của chủ nghĩa Mác Lenin  lí luận cách mạng khoa học
và tiến bộ. Để có thể tiếp thu và vận dụng lí luận này đòi hỏi giai cấp công nhân cần có trình độ lí
luận nhất định.

+ Giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Môi trường làm việc của giai cấp công nhân
là sản xuất tập trung cao và có trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, có cơ cấu tổ chức ngày
càng chặt chẽ, làm việc theo dây chuyền buộc giai cấp công nhân phải luôn tuân thủ nghiêm
ngặt kỷ luật lao động. Do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản là một
giai cấp có tiềm lực về kinh tế – kỹ thuật nên giai cấp công nhân phải đấu tranh bằng phẩm chất
kỷ luật của mình.

+ Ngoài ra giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để nhất vì cách mạng của giai cấp
công nhân hướng tới mục tiêu cuối là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con
người, thể hiện ở sự xóa bỏ mọi tình trạng áp bức bóc lột, nô dịch cả về vật chất lẫn tinh thần.
Giai cấp công nhân vừa phải giành chính quyền, vừa sử dụng chính quyền để thực hiện mục tiêu
đó.

+ Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế. Giai cấp công nhân ở tất cả các nước đều có chung
một mục đích là giải phóng mình đồng thời giải phóng xã hội khỏi áp bức bóc lột và họ đều có
chung một kẻ thù là giai cấp tư sản bóc lột và cũng do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, để
chống lại chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản khi mà chúng đã liên kết với nhau thành tập đoàn tư
bản, chủ nghĩa đế quốc, vì vậy mà giai cấp công nhân càng phải nêu cao tinh thần quốc tế của
giai cấp mình, cùng nhau thực hiện sứ mệnh lịch sử.

* Điều kiện chủ quan: Vai trò của Đảng Cộng sản:
- Tính tất yếu của sự hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công nhân.
+ Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quan trọng quyết định đến
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
+ Giai cấp công nhân thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp.
+ Đảng lãnh đạo bằng: con người của Đảng; cương lĩnh, nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng.
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân.
+ Đảng Cộng sản là 1 tổ chức chính trị cao nhất của GCCN, đại biểu cho lợi ích GCCN và NĐLĐ.
+ Phân biệt Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân: vừa thống nhất, vừa khác biệt.
 Thống nhất: lợi ích, mục đích của Đảng thống nhất với lợi ích, mục đích của giai cấp công
nhân.
 Khác biệt:
 Trong hàng ngũ ĐCS thì Đảng viên có thể xuất thân từ GCCN hoặc các tầng lớp khác
(nông dân, tri thức), nhưng tất cả đều phải đứng trên lập trường GCCN.

 Những người Cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất của GCCN, “họ hơn những bộ phận còn

lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong
trào vô sản”.

*** Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN VN như sau: Giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản
Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp và dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng: độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội và góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Trước mắt, trong những năm
tới, thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ công bằng xã hội; tăng
cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế; giữ vững ổn định chính trị- xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Trong nội dung tổng quát về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, nội dung kinh tế của
sứ mệnh được xác định là: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước trở thành nước công nghiệp; ưu tiên phát triển
lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởg kinh tế đi liền với phát triển văn hoá,
từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường quốc phòng- an
ninh”.
Nói một cách khái quát về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là: xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng thế giới.

Câu 2. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Lý giải tính tất yếu đó ở Việt Nam.

- Từ CNTB lên CNXH phải trải qua một thời kỳ cải biến cách mạng, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới - thời kỳ đó gọi là thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
+ Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất, dựa trên chế độ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa
về tư liệu sản xuất, dựa trên áp bức, bóc lột và bất công. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã hội như vậy
cần phải có thời kỳ lịch sử nhất định.
+ Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao. Quá
trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề vật chất - kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã
hội, nhưng muốn cho tiền đề vật chất - kỹ thuật đó phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần phải có thời
gian để tổ chức lại, sắp xếp lại.
+ Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản,
chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa, cần phải có thời gian nhất định
để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
+ Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó khăn phức tạp và đòi hỏi
phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.
*** Lý giải tính tất yếu ở Việt Nam:
Thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH cũng đều phải trải qua ngay cả
đối với những nước có nền kinh tế phát triển. Con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển rút
ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu khách quan, hợp quy luật theo
tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên của Cách mạng Việt Nam vì:
- Thứ nhất là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản
(CNTB) lên CNXH. CNTB lúc đó là xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay
bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa.
CNTB không phải là tương lai của loài người, nó không vượt qua những mâu thuẫn mà mâu thuẫn cơ bản
nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; mâu thuẫn này càng ngày càng phát triển
gay gắt và sâu sắc hơn; CNXH mà con người đang vươn tới là hình thái kinh tế xã hội cao hơn CNTB đó
là xã hội vì sự nghiệp giải phóng con người, sự phát triển tự do và toàn diện của loài người. Chúng ta quá
độ thẳng lên CNXH nghĩa là đi theo dòng chảy của thời đại nghĩa là đi theo quy luật tự nhiên của lịch sử.
- Thứ hai là do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng. Ngay khi ra đời Đảng ta đã xác định con
đường phát triển của dân tộc là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ. Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo đã thành công thì chúng ta đã cởi bỏ được hai vòng xích, đã thoát
khỏi cảnh một cổ hai tròng, Đảng và Nhà nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng,
quyết tâm đi theo Đảng. Thành quả của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần được giữ vững,
cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân phải được cải thiện, nâng cao nhiều so với những
năm chiến đấu hy sinh. Có hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách sau
khi Cách mạng dân tộc dân chủ thành công. Nhưng điều đó không ngăn cản việc tiến lên CNXH; hơn
nữa, việc giải quyết nó chỉ có thể bằng con đường xây dựng CNXH. Việc đưa miền Bắc tiến lên CNXH
có ý nghĩa rất lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong thời
đại ngày nay chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự
cho toàn thể nhân dân lao động.
Vì những lẽ đó, Đảng tất yếu lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến thẳng lên CNXH không trải qua
giai đoạn phát triển TBCN.

Câu 3. Phân tích các đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN. Những đặc trưng cơ bản của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

CNXH là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có sự khác nhau
về chất và nguyên tắc xây dựng so với Chủ nghĩa tư bản. Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta
có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:

- Đặc trưng thứ nhất: Cơ sở vật chất kỹ thuật là nền đại công nghiệp được phát triển lên tiền đề kinh
tế - kỹ thuật của nền đại TBCN.

+ Mỗi chế độ xã hội đều có 1 cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh trình độ phát triển
kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó.

+ CNXH nảy sinh với tư cách là một chế độ xã hội phủ định chế độ TBCN. Do vậy, cơ sở vật chất - kỹ
thuật của nó phải là nền sản xuất đại công.
- Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế
độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.

+ Theo C. Mác và Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng bước đoạt lấy tư liệu sản xuất từ giai cấp tư sản
rồi tập trung vào trong tay Nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội. Do vậy, đến xã hội XHCN thì quan hệ
sản xuất XHCN mới được xác lập.

+ TLSX tồn tại dưới 2 hình thưc là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.

- Đặc trưng thứ 3: Tạo ra một cách thức tổ chức lao động và kỹ luật lao động mới trên cơ sở tự
nguyện, tự giác vì GCCN và NDLĐ là người làm chủ quá trình sản xuất.

+ Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình
hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính bản
chất và mục đích đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản và quản lý thống nhất của Nhà nước XHCN phù hợp với địa vị làm chủ của người
lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.

+ CNXH được xây dựng trên cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền đại công nghiệp ở trình độ phát triển cao
nên đòi hỏi một kỷ luật lao động chặt chẽ theo những quy định chung của Luật pháp.

- Đặc trưng thứ 4: Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc phân phối cơ
bản nhất.

+ Trong XHCN, tuy sản xuất phát triển nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định, vì vậy thực hiện
nguyên tắc phân phối theo lao động là tất yếu.
+Chủ nghĩa xã hội bảo đảm cho mọi người có quyển bình đẳng trong lao động sáng tạo và
hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao theo nguyên tắc
“làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội
ở giai đoạn này. Vì thế, mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu
dung có giá trị tường đương với số lượng, chất lượng, hiệu quả lao động mà họ đã tạo ra cho xã hội,
sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp chung cho xã hội.

- Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới,
nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc;
thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.

+ Mang bản chất giai cấp công nhân: Vì Nhà nước XHCN là cơ quan quyền lực tập trung của GCCN và
NDLĐ; nhằm bảo vệ lợi ích của GCCN và NDLĐ.

+ Mang tính nhân dân rộng rãi: Đây là Nhà nước của nhân dân, do dân và vì dân.

+ Mang tính dân tộc sâu sắc: Nhà nước phải đoàn kết được các dân tộc, tạo sự bình đẳng trên cơ sở
pháp lý và thực tiễn cuộc sống, đấu tranh bảo vệ lợi ích của dân tộc, phát huy những giá trị tốt đẹp của
dân tộc, nâng dân tộc ta ngang tâm với yêu cầu của thời đại.
- Đặc trưng thứ sáu: Thực hiện được sự giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, thực hiện bình
đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.

+Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về kinh
tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân, hình thành và phát triển lối
sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, cùng với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, đã thực hiện việc xóa bỏ đối kháng giai cấp , xóa bỏ tình trạng
người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, con người có điều kiện phát triển,
đóng góp cho xã hội; thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội, trước hết là bình đẳng về địa vị xã hội của
con người.

Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội. Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng, ước mơ của toàn thể
nhân loại. Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội cần phải quan tâm đầy đủ tất cả các đặc trưng này.

2. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước và những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”, Đảng ta đã xác định những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở VIệt Nam mà chúng
ta sẽ xây dựng là:

- Do nhân dân lao động làm chủ.

- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
các tự liệu sản xuất chủ yếu.

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Những đặc trưng trên đều mang tính dự báo. Với sự phát triển về kinh tế và xã hội của đất
nước, thời đại, những đặc trưng sẽ được tiếp tục bổ sung, phát triển trong tiến trình phát triển
của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Câu 4. Nêu nội dung cơ bản trong “Cương lĩnh dân tộc” của V.I.Lênin? Theo anh chị, nội
dung nào là quan trọng nhất? và chính sách dân tộc của Đảng, nhà nước.

a) Nội dung:

* Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.

– Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc, là mục tiêu phấn
đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn
bình đẳng có nghĩa là: Các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả Bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt
trình độ cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ
đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ
quốc tế.

– Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật
bảo vệ như nhau; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân
tộc do lịch sử để lại.

– Trên phạm vi giữa các quốc gia – dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn
liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc đấu tranh xây dựng
một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với
các nước chậm phát triển về kinh tế.
– Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và
xây dựng mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc.

* Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.

- Đây là quyền cơ bản thiêng liêng của mọi dân tộc. Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của
mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình: quyền tự quyết định chế độ chính trị – xã hội và
con đường phát triển của dân tộc mình; quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành một quốc
gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc; quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác
trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ
vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia – dân
tộc.
– Khi giải quyết quyền tự quyết của các dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân ủng hộ các phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các
thế lực đế quốc, lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các
nước.

* Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
- Đây là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của
phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp. Những người cộng sản lấy đoàn kết công nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu phấn đấu cho sự
nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại. Nó đảm bảo cho phong trào
dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.

- Nó quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương pháp xem xét, cách giải quyết
quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời, nó là yếu tố sức mạnh bảo đảm cho
giai cấp công nhân và các đân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.

– Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động trong các dân tộc để đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung liên hiệp
công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả 3 nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.

--> Tóm lại: “Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác – Lênin (của Đảng Cộng sản) là một bộ
phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân
tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
b) Nội dung quan trọng:

- Theo em, nội dung thứ ba là quan trọng nhất vì:

+ Liên hiệp công nhân cảu tất cả các dân tộc phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản
ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giai cấp.

+ Đoàn kết giai cấp công nhân và các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Nó có vai trò quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự
quyết. Đồng thời, đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi, đảm bảo cho các
nội dung trên của cương lĩnh dân tộc có thể thực hiện đầy đủ.
B, Chính sách của Đảng và nhà nước ta:
- căn cứ vào tình hình của dân tộc VN . 
- căn cứ vào cương lĩnh dân tộc của Đảng cộng sản, CN Mác-Lênin. Đảng đã đề ra chính sách
dân tộc của mình giải quyết tốt vấn đề dân tộc. 
+ Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và
đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, đảm bảo cho tất cả các đồng bào dân tộc khai thác được thế
mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc...
+ Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của đồng | bào các
dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số ở vùng cao, hải đảo.
+ Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tran kiên cường của các dân tộc, chống tư
tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc.
+ Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời giáo dục tinh thần
đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc. 

Câu 5. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn giáo có
còn tồn tại không? Vì sao? Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.
Xuất phát từ bản chất mang cả hai phương diện xã hội và giai cấp , tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa xã hội vẫn sẽ tồn tại, bởi nó vẫn chưa mất hết
những giá trị tích cực cũng như vẫn còn có những nền tảng để tiếp tục tồn tại.

1. Nguyên nhân nhận thức


- Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trình độ nhận thức, trình độ dân trí của nhân dân đã có
những tiến bộ nhất định, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, vì thế, nhân dân chưa nhận thức được hoặc
nhận thức chưa đầy đủ các hiện tượng diễn ra trong tự nhiên và trong xã hội. Sự hạn chế đó làm cho
nhân dân dễ đến với tín ngưỡng tôn giáo. - Hiện nay, nhân loại đạt được những thành tựu lớn lao về
khoa học và công nghệ, nhất là những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới... đã giúp con người có thêm những khả năng để nâng nhận thức và vai trò làm
chủ tự nhiên, xã hội của mình lên một tầm cao mới. Song, hiện thực khách quan là vô cùng, vô tận,
tồn tại đa dạng và phong phú, còn đặt ra nhiều vấn đề mà hiện tại khoa học chưa thể làm rõ. Những
sức mạnh tự phát của tự nhiên, xã hội đôi khi rất nghiêm trọng vẫn tác động và chi phối đời sống con
người. Do đó, tâm lý sợ hãi, trông chờ, nhờ cậy và tin tưởng vào thánh, thần, Phật... vẫn còn tồn tại
trong ý thức của nhiều người.
2. . Nguyên nhân kinh tế
- Kinh tế là một vấn đề nhạy cảm, là xương sống của mỗi quốc gia. Sự phát triển hay tụt hậu của một
nền kinh tế theo bất kì xu hướng nào đều ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của con người. Trong xã hội
xã hội chủ nghĩa, nhất là giai đoạn đầu của thời kì quá độ vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế,
nhiều hình thức sở hữu. Con người luôn phải chịu sự chi phối của những qui luật kinh tế khách quan
đó. Đặc biệt trong thời kì này còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị tr¬ường với
những lợi ích khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp... vẫn là một thực tế; trong nền kinh tế đó, con
ng¬ười vẫn chịu sự tác động chiphối bởi các yếu tố tất nhiên, ngẫu nhiên, may rủi …Đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân chưa cao. Điều đó, làm cho con người vẫn tin vào lực lượng siêu nhiên, cầu xin
công việc làm ăn gặp nhiều may mắn.
3. Nguyên nhân tâm lý
- Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, ăn sâu vào tiềm thức của nhiều người dân. Tôn
giáo là một hình thái ý thức xã hội bảo thủnhất. Những niềm tin tôn giáo ảnh hưởng sâu đậm trong
nếp nghĩ, lối sống của mộtbộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đã trở thành một kiểu sinh hoạt văn
hoá tinh thần không thể thiếu được của cuộc sống. Vì thế, dù hiện nay nhân loại đã và đang có những
biến đổi lớn lao về kinh tế - xã hội nhưng tín ngưỡng, tôn giáo vẫn còn tồn tại bởi những lí do đó.
4. Nguyên nhân chính trị
- xã hội Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu củathời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang diễn
ra ở nước ta, xét về mọi phương diệnkinh tế, đạo đức, văn hóa, chính trị, tinh thần... vẫn còn mang
nặng dấu vết của xã hội cũ. Do đó vẫn còn cơ sở để tín ngưỡng, tôn giáo còn tồn tại. Trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa cái lạc hậu với
cái tiến bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn đang diễn ra rất gay go, quyết liệt, dưới
nhiều hình thức vô cùng phức tạp; trong đó, các thế lực phản động vẫn tìm mọi cách nuôi dưỡng và
lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị của chúng. Đây là điều kiện cho tôn giáo còn tồn
tại. Các tổ chức và chức sắc tôn giáo đang ra sức hoạt động tuyên truyền, tìm cách lôi kéo tín đồ để
duy trì sự tồn tại của tôn giáo. Tôn giáo đã tồn tại trong xã hội suốt hàng ngàn năm, và đã ăn sâu bám
chặt vào nếp sống, nếp nghĩ của con người. Bởi vậy không dễ dàng gì mà ngay trong thời gian ngắn có
thể loại bỏ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội. Ngày nay, chiến tranh hạt nhân hủy diệt có khả năng bị
đẩy lùi, nhưng những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, bạo
loạn... còn xảy ra ở nhiều nơi. Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo... cùng với những mối đe
dọa khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại. Những hạn chế, yếu kém của Đảng Cộng sản và
Nhà nước xã hội chủ nghĩa trongtổ chức, quản lý quá trình xây dựng xã hội mới; sự suy thoái về chính
trị, tư tưởng, đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng và cáchiện
tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội nảy sinh nhưng chậm được khắc phục; công bằng xã hội cũng như
quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm... làm cho niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, với chế
độ bị suy giảm. Chính điều này cũng là cơ sở để nhân dân dễ đến với tín ngưỡng, tôn giáo.
5. Nguyên nhân văn hóa
- Văn hóa dân tộc phát triển, gắn bó mật thiết với bề dày lịch sử của mỗi quốc gia. Đa số tín ngưỡng,
tôn giáo đều gắn với sinh hoạt văn hoácủa nhân dân. Do vậy, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc đòi hỏi phải bảo tồn tôn giáo ở những mức độ nhất định. Mỗi một loại hình tôn giáo đều
cónhững nét văn hóa đặc trưng như nhà thờ, chùa, đình,...tất cả đã góp phần làm cho văn hóa dân tộc
đặc sắc hơn. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một bộ phận dân
cư. Vì vậy, sự tồn tại của tôn giáo trong xã hội xã hội chủ nghĩa như là một hiện tượng khách quan.
Nói tóm lại, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, tôn
giáo vẫn sẽ tồn tại, bởi cả những nguyên nhân khách quan lẫnnhững nguyên nhân chủ quan. Sự tồn tại
này không có gì là vô lý bởi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng, tuy
phải chịu sự chi phối và quyết định của cơ sở hạ tầng, nhưng bản thân nó vẫn có sự độc lập tương
đối; do đó, dù đứng trước những biến đổi to lớn của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội...trong bước
nhảy vọt từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn không bị triệt tiêu ngay lập tức, mà chỉ
" dần mất đi ảnh hưởng của nó đối với ý thức xã hội ", và " chỉ trong xã hội cộng sản chủ nghĩa phát
triển thì tôn giáo mới có thể hoàn toàn biến mất và hoàn toàn bị xoá bỏ khỏi đời sống con người ".
2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.
- Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng thiêng liêng nào đó mà
họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó, tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc
quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Quyền này nói lên rằng việc theo đạo, đổi đạo, hay không theo
đạo là thuộc quyền tự do lựa chọn của mỗi người dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kể cả các
chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hội... được quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi cấm
đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đồi đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc người dân phải theo đạo đều
xâm phạm đến quyền tự do tư tưởng của họ.
- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trìnhcải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới
Nguyên tắc này để khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ hướng vào giải quyết những ảnh hưởng tiêu
cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân mà không chủtrương can thiệp vào công việc nội bộ của
các tôn giáo. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay
đổi bản thân tồn tại xãhội; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ
nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Điều cần thiết trước hết là phải xác lập được một thế giới hiện thực
không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học... cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Đó
là một quá trình lâu dài, và không thể thực hiện đượcnếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới.
- Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo
Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản ánh mâu thuẫn đối kháng về
lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự
nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động. Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niềm
tin, mức độ tin giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo và những người không theo tôn giáo, cũng
như những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, phản ánh mâu thuẫn không mang tính đối
kháng.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực chất làphân biệt tính
chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôngiáo và trong vấn đề tôn giáo.
Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng cực đoan trong quá trình quản lý,
ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
- Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.
Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vậnđộng và biến đổi
không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịchsử cụ thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử
hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển nhất định. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác
động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội,
giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan
điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và
đối với từng tôn giáo cụ thể.
-

You might also like