You are on page 1of 106

HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU

TIÊN CỦA ĐẢNG

🌕 Chủ đề 1: Hội nghị thành lập Đảng và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (nội dung hội nghị, nội
dung cương lĩnh và phân tích nội dung cương lĩnh tháng 2, bối cảnh lịch sử quốc tế + nội địa và con
đường cứu quốc của NAQ).
* Cương lĩnh là gì?
* Điểm sáng tạo của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Ứng dụng điều đó vào điều kiện cụ thể hiện nay.
I. LÝ DO RA ĐỜI 3 TỔ CHỨC CỘNG SẢN:

*Hoàn cảnh lịch sử:

- Đến cuối năm 1929 phong trào dân tộc dân chủ ở nước ta đặc biệt là phong trào công
nhân theo đường lối vô sản ngày càng phát triển mạnh mẽ , đặt ra yêu cầu cần phải có
chính Đảng lãnh đạo
- Những yêu cầu mới đó đã vượt quá khả năng lãnh đạo của Hội Việt Nam Cách Mạng
Thanh Niên, cần phải thành lập một Đảng cộng sản để tổ chức và lãnh đạo giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân cùng các lực lượng yêu nước đấu tranh chống đế quốc,
phong kiến, tay sai giành độc lập dân tộc.
- Tháng 3/1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ở
Bắc kỳ đã họp ở số nhà 5D Hàm Long (Hà Nội) và lập ra chi bộ Cộng sản đầu tiên ở
Việt Nam gồm 7 người, mở đầu cho quá trình thành lập Đảng cộng sản thay thế cho
Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên. Họ hoạt động tích cực để thành lập 1 Đảng
cộng sản thay thế.
- Vì thế, Đông Dương cộng sản Đảng được thành lập vào tháng 6/1929, An Nam cộng
sản Đảng (7/1929) và Tân Việt cũng tự cải tổ thành Đông Dương cộng sản liên đoàn
(9/1929).

- *Quá trình thành lập của 3 tổ chức Cộng sản Đảng:

Đông dương Cộng Sản Đảng:

- Tháng 5/1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách Mạng
Thanh Niên (ở Hương Cảng – Trung Quốc), đoàn đại biểu Bắc kỳ đã đưa ra đề nghị
thành lập Đảng cộng sản, nhưng không được chấp nhận nên họ đã rút khỏi Hội nghị

1
về nước và tiến hành vận động công nhân, nông dân, các tầng lớp nhân dân cách
mạng nước ta ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng sản.
- Ngày 17/6/1929, đại biểu các tổ chức cơ sở của Hội VNCMTN ở miền Bắc đã họp và
quyết định thành lập Đông Dương Cộng Sản Đảng, thông qua tuyên ngôn, điều lệ
Đảng và ra báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận.
- Đông Dương cộng sản Đảng ra đời đáp ứng yêu cầu bức thiết của quần chúng nên
được nhiệt liệt hưởng ứng, uy tín và tổ chức của Đảng phát triển mạnh, nhất là ở Bắc
Kỳ và Trung Kỳ.

An Nam Cộng Sản Đảng:

- Sự thành lập của Đông Dương cộng sản Đảng đã tạo đà trực tiếp với sự ra đời các tổ
chức cộng sản tiếp theo.
- Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng Sản Đảng, tháng 8/1929, các hội
viên tiên tiến của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ở Trung Quốc và Nam kỳ
cũng đã quyết định thành lập An Nam Cộng Sản Đảng.
- An Nam cộng sản Đảng ra tờ “báo đỏ” ở Hương Cảng – Trung QUốc để tuyên truyền
về trong nước.
- Tháng 11/1929 An Nam cộng sản Đảng đã họp đại hội thông qua đường lối chính trị,
bầu Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.

Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn:

- Cũng từ đó xu hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng lôi cuốn những đảng viên tiên tiến
trong Tân Việt cách mạng Đảng.
- Tháng 9/1929, nhóm theo chủ nghĩa Mác trong Tân Việt Cách mạng Đảng đã tách ra,
thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
- Đây cũng là một bước phát triển mới của tổ chức này từ một đảng Tiểu tư sản chịu
ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên có xu hướng vô sản nay đã phân
hóa chuyển thành Đảng cộng sản.

* Ý nghĩa của việc thành lập 3 tổ chức Đảng:

- Đó là xu thế khách quan của cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam theo xu hướng
cách mạng vô sản.

2
- Sự ra đời đó đã khẳng định bước phát triển nhảy vọt của cách mạng nước ta. Từ đây cách
mạng Việt Nam đã xuất hiện những tổ chức chính trị của giai cấp vô sản, đó là các tổ chức
cộng sản.

- Đồng thời, sự ra đời của ba tổ chức cộng sản đã chứng tỏ hệ tư tưởng vô sản đã giành được
ưu thế trong phong trào dân tộc dân chủ ở nước ta.

- Đây là bước chuẩn bị trực tiếp cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

* Hạn chế của Ba tổ chức cộng sản Đảng:

Trong quá trình tuyên truyền vận động quần chúng, các tổ chức này hoạt động riêng rẽ, đã
tranh giành, công kích lẫn nhau, gây nên tình trạng thiếu thống nhất, đẩy phong trào cách
mạng Việt Nam đứng trước nguy cơ bị chia rẽ.

II. NỘI DUNG HỘI NGHỊ:

1. Nội dung hội nghị:


- Nguyễn Ái Quốc phê phán những quan điểm sai lầm của các tổ chức cộng sản hoạt động
riêng rẽ
- Hội nghị thảo luận và nhất trí việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất
lấy tên là Đảng CSVN, thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Đảng do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam
- Ban Chấp hành trung ương lâm thời của Đảng được thành lập, gồm 7 ủy viên
- Ngày 24/2/1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, tổ chức này gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam
- Hội nghị thống nhất Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản có giá trị lịch sử

III. CƯƠNG LĨNH THÁNG 2:

1. Khái niệm cương lĩnh:

Theo từ điển tiếng Việt, cương lĩnh là tổng thể những điểm chủ yếu về mục đích,
đường lối, nhiệm vụ cơ bản của một tổ chức chính trị, một chính đảng trong một giai đoạn
lịch sử.

Theo V.I.Lênin, cương lĩnh là bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất
cả những điều mà Đảng muốn đạt được và mục đích đấu tranh mà Đảng hướng tới.

3
Theo quan niệm của Đảng ta, cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày những nội
dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai
đoạn nhất định.

Như vậy, cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày những nội dung cơ bản về mục
tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn lịch sử nhất định
của một chính đảng hoặc một tổ chức chính trị.

2. Nội dung Cương lĩnh tháng 2 và phân tích


1.1. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:

Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”

Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:

● Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt
Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công
nông.
● Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bổ sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng,…) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính
phủ công nông binh quản lí; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm
của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công
nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
● Về văn hóa – xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền...; phổ thông
giáo dục theo công nông hóa
● Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và
phong kiến; phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã)
khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với
tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản
giai cấp. Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào
đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến…) thì phải đánh đổ.
● Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; trong khi liên lạc với

4
các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào con đường thoả hiệp.
● Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân
tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.

1.2. Phân tích nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Về phương hướng chiến lược “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản” cho thấy cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiến lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là con đường cứu nước mới, khác với những chủ trương, những
con đường cứu nước của những nhà yêu nước đương thời đã đi vào bế tắc và thất bại. Như
vậy, ngay từ đầu, Đảng ta đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo lí luận Marx – Lenin vào hoàn
cảnh cụ thể của đất nước. Đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam được phản ánh trong
Cương lĩnh đã thể hiện tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việc xác định
đúng đắn phương hướng, con đường của cách mạng là cơ sở để giải quyết đúng đắn các vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.

Về nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, Cương lĩnh đã thể
hiện được rằng là sự nghiệp giải phóng được thực hiện thì phải đoàn kết với tất cả các giai
cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước. Điều đó thể hiện quan điểm: cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, nhân dân là người làm nên lịch sử. Đồng thời, cương lĩnh cũng chỉ ra lực
lượng chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là công nhân và nông dân.
Đây là sự thể hiện tính nguyên tắc trong chính sách đại đoàn kết dân tộc và sự sắp xếp, tổ
chức lực lượng của Đảng ta. Và mục đích chính của cách mạng thời bấy giờ là : Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập
chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông dựa vào lực lượng công nhân, nông
dân đồng thời đánh vào mặt kinh tế do Pháp nắm giữ ở Việt Nam, thực hiện các chính sách
hỗ trợ cho công nhân, nông dân nghèo để tạo động lực, tạo niềm tin cho lực lượng này đứng
lên chiến đấu. Bên cạnh đó, phổ cập giáo dục, chăm lo cho đời sống văn hoá của người dân
cũng được Đảng nhắc đến trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên này.

Như vậy, đây là một cương lĩnh đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với cách mạng Việt Nam
lúc bấy giờ; giúp Đảng ta trở thành ngọn cờ lãnh đạo cách mạng, tập hợp, đoàn kết toàn dân.

5
Là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại mới, mang đậm tính giai cấp và thấm đượm tinh thần vì độc lập, tự do.

IV. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC:

1. Hoàn cảnh lịch sử nội địa


- Pháp thực hiện chính sách thống trị tàn bạo đối với Việt Nam
+ Thực hiện chính sách chuyên chế về chính trị, chia Việt Nam thành ba kỳ, sát nhập với Ai
Lao, Cao Miên thành 5 xứ Đông Dương thuộc Pháp
+ Thực hiện chính sách độc quyền kinh tế, làm cho nền kinh tế Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc
vào Pháp, Pháp tiến hành hai lần khai thác thuộc địa
+ Thực hiện chính sách nô dịch, ngu dân về văn hóa, nhằm mục đích làm suy yếu dân tộc
Việt Nam để Pháp dễ bề cai trị
- Ngoài ra, Việt Nam cũng có những biến đổi xã hội sâu sắc:
+ Về tính chất xã hội: xã hội Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến
+ Về mâu thuẫn cơ bản: xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn: một là mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược (mâu thuẫn dân tộc); hai là mâu thuẫn giữa
nông dân Việt Nam với địa chủ phong kiến (mâu thuẫn giai cấp)
- Cuối năm 1929, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời, hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh
hưởng của nhau, công kích lẫn nhau, làm phong trào cách mạng trong nước có nguy cơ chia
rẽ lớn
=> Trong tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm trở về Hương Cảng, Quảng Châu, Trung
Quốc để triệu tập hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản.
2. Hoàn cảnh lịch sử quốc tế:
- Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền (chủ nghĩa đế
quốc). Các nước đế quốc đua nhau đi xâm chiếm thuộc địa, hình thành hệ thống thuộc địa
trên thế giới, làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc ngày càng
gay gắt. Trong thời đại này, cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi hoàn
toàn phải phát triển theo con đường cách mạng vô sản.
- Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, đã mở ra một thời đại mới, thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nguyễn Ái Quốc
đã khẳng định trong thời đại bấy giờ, Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để
nhất. Từ đó, người chọn con đường cho cách mạng Việt Nam là đi theo con đường của cách
mạng vô sản Nga.

6
- Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập, ảnh hưởng đến phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế
=> Những sự kiện này tạo tiền đề cho phép Đảng ra đời. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là đáp ứng yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam.
3. Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (năm 1917) đã thức tỉnh các dân tộc thuộc
địa trên thế giới, thức tỉnh những người nô lệ trên khắp năm châu. Từ sự cổ vũ và thôi thúc
của Cách mạng Tháng Mười Nga, Quốc tế Cộng sản - Quốc tế III do V.I. Lê-nin sáng lập ra
đời. Một trong những sự kiện quyết định đến sự lựa chọn dứt khoát con đường của cách mạng
Việt Nam là khi Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin đăng trên báo Nhân đạo (tháng 7-
1920). Luận cương của V.I. Lê-nin đã cho Nguyễn Ái Quốc thấy rõ con đường giành độc lập
dân tộc cho đất nước và tự do cho đồng bào. Người khẳng định: “Luận cương của Lê-nin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Trong bài viết “Con
đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho biết thêm rằng: “Lúc bấy
giờ, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm
quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lê-nin vì Lê-nin là một người yêu nước vĩ đại đã giải
phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lê-nin viết… Còn
như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tôi chưa
hiểu... Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi
tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên
cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
V. TÍNH SÁNG TẠO VÀ ỨNG DỤNG CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN:

- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã chỉ ra phương hướng cơ bản của cách mạng Việt
Nam, đặt nền móng cho việc xác định lý luận, đường lối, phương pháp cách mạng và những
nguyên tắc chủ yếu để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm dân tộc và giai
cấp, thấm đượm tính dân tộc và thời đại với những luận điểm nổi bật sau:
+ Một là, cách mạng Việt Nam phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng để tiến lên xã hội cộng sản.

7
+ Hai là, trong cách mạng tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế
quốc và chống phong kiến.
+ Ba là, xác định lực lượng cách mạng, bao gồm : giai cấp công - nông là gốc, những
người yêu nước trong các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.
+ Bốn là, lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của giai
cấp là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Năm là, về phương pháp cách mạng, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng
bạo lực cách mạng.
+ Sáu là, cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa trên
thế giới để chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới.
- Đảng ta vừa vận dụng đúng đắn Chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp
ứng chính xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Sáng tạo trong
vấn đề dân tộc, xác định thái độ với các giai cấp, liên minh giai cấp và đoàn kết toàn dân tộc.
- Sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc:
+ Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, xác định rõ chủ
trương "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản"
+ Xác định độc lập dân tộc là mục tiêu cốt tử, trực tiếp trước mắt, là tiền đề, điều kiện
để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu của tiến trình cách mạng Việt Nam là cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
+ Quan niệm lực lượng cách mạng ở nước ta là toàn thể nhân dân, nêu ra tư tưởng cần
xây dựng liên minh Công-Nông-Trí dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nòng cốt cho lực
lượng cách mạng Việt Nam bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng.

● Ứng dụng:
- Luôn giữ ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều
vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa
xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.”
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sứ mệnh của mọi dân tộc và là phương hướng chiến lược
của cách mạng Việt Nam.
- Thực hiện đường lối chiến lược đã được hoạch định trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng, Việt Nam đã đi vào con đường chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến
trở thành một nước độc lập, tự do và phát triển.
● Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn thấp và thiếu bền vững.

8
🌖 Chủ đề 2: Làm rõ giai đoạn lịch sử Đảng tháng 10/1930 - 1939 (mốc luận cương tháng
10/1930) - Tại sao có luận cương, so sánh + phân tích luận cương tháng 10 & cương lĩnh chính
trị đầu tiên.
6 vấn đề tương đồng
2 vấn đề khác nhau
* Những vấn đề xảy ra sau luận cương? (dựa trên chủ trương đường lối của Đảng) Phân tích giai đoạn
phân kỳ từ năm 1930 - 1935, 1936 - 1939 (mốc trước chiến tranh TG), 1939 - 1945 (chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược có sự thay đổi rõ qua các cuộc họp trung ương).
I. Giai đoạn 1930-1935
1. Luận cương chính trị tháng 10/1930
Nội dung của Luận cương về dân tộc và dân chủ:
- Những đặc điểm về tình hình Đông Dương: Luận cương xác định mâu thuẫn gay gắt
nhất của xã hội Đông Dương là mâu thuẫn giai cấp.
o Về mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương, Luận cương chỉ rõ: “Một bên là thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên là địa chủ phong kiến, tư bổn
và đế quốc chủ nghĩa”.
o Về tính chất cách mạng Đông Dương, Luận cương xác định thời kỳ đầu cách
mạng Đông Dương “là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền”, “có tánh chất
thổ địa và phản đế.”
o Về nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: phải tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến.
o Về lực lượng cách mạng: Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai
cấp và nông dân là hai động lực chánh. Nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo
thì cách mạng mới thắng lợi được.
o Về phương pháp đấu tranh và hình thức đấu tranh: Phải sử dụng bạo lực cách
mạng để đánh đổ ách áp bức của thực dân, phong kiến.
o Về con đường phát triển của cách mạng Đông Dương: Làm cách mạng tư sản
dân quyền thắng lợi, bỏ qua thời kỳ tư bản, tranh đấu thẳng lên con đường xã
hội chủ nghĩa.
o Về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: Muốn
giành được thắng lợi, Đảng phải liên hệ mật thiết với cách mạng vô sản thế
giới, nhất là vô sản Pháp và cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa và
nửa thuộc địa.
o Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Cách mạng Đông Dương muốn giành được
thắng lợi “phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ
luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà
trưởng thành…”

Ý nghĩa của Luận cương:


- Luận cương thể hiện:
o Khả năng nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn của
Đảng
o Xác định được những vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong đó có
nhiều vấn đề đến ngày hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.

Những thiếu sót của Luận cương:

9
- Nhận thức chưa đúng những giá trị sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong cách thức hợp
nhất các tổ chức Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hội nghị cũng không nhận thức chính xác về mâu thuẫn chủ yếu và nhiệm vụ chủ yếu của
cách mạng ở thuộc địa. Còn nặng về đấu tranh giai cấp, chưa thấy rõ mâu thuẫn cơ bản
của một dân tộc thuộc địa là nhiệm vụ GPDT 
- Không nhận thức đúng về khả năng của tầng lớp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc và
một bộ phận địa chủ trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; chưa xác định đúng tầm
quan trọng và sức mạnh lòng yêu nước của khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp
cách mạng của nhân dân Việt Nam.
- Nguyên nhân: 
o Hội nghị chưa phân tích đúng đặc điểm của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc
địa - nửa phong kiến.
o Đảng vừa mới ra đời, hoạt động bí mật, bị thực dân phong kiến đàn áp, chống
phá ác liệt, chưa có điều kiện kiểm nghiệm, tổng kết thực tiễn.
o Bị chi phối bởi những quan điểm “tả khuynh” trong Đại hội VI của Quốc tế
Cộng sản cuối năm 1928.

So sánh Cương lĩnh chính trị (2/1930) và Luận cương chính trị (10/1930)
Giống nhau:
⁃ Đường lối chiến lược: CM tư sản dân quyền và thổ địa CM —> sau khi hoàn thành sẽ
tiến lên XHCN, bỏ qua thời kì TBCN (giải thích thêm từ “thổ địa”: từ Hán Việt để
chỉ CM ruộng đất, lấy ruộng đất công chia lại cho dân nghèo)
⁃ Nhiệm vụ CM: chống Đế quốc Pháp và phong kiến
⁃ Lãnh đạo: Đảng Cộng sản Việt Nam; lấy CN Mác-Lênin làm nền tảng
⁃ Phương pháp đấu tranh: Bạo lực CM
⁃ Lực lượng CM: công nhân và nông dân là chủ yếu
⁃ Mối quan hệ của CMVN và CMTG: CM VN là một bộ phân khăng khít với CM thế
giới
Khác nhau:

CLCT (2/1930) LCCT (10/1930)


Vị trí ưu tiên giải quyết hai Mâu thuẫn cơ bản nhất là Mâu thuẫn cơ bản nhất là
nhiệm vụ chiến lược mâu thuẫn dân tộc: đánh đuổi mâu thuẫn giai cấp: chống
ĐQ giải phóng dân tộc 🡪 phong kiến 🡪 đánh đổ ĐQ
chống phong kiến giải phóng dân tộc
Lực lượng CM Toàn bộ nhân dân VN yêu Công nhân và nông dân
nước, gồm: công nhân, nông
dân, tiểu tư sản trí thức; còn
trung tiểu địa chủ và tư sản
thì lợi dụng hoặc trung lập

2. Phong trào 1930 - 1931


Nguyên nhân ra đời cách mạng 1930 – 1931
- Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933:
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) đã tác động mạnh mẽ đến Việt Nam với
chính sách vơ vét bóc lột (tăng thuế),khủng bố dã man của thực dân Pháp, Làm cho nền kinh
tế Việt Nam tiêu điều, sơ xác, làm trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân
dân lao động. Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào đấu tranh của nhân dân

10
chống thực dân Pháp đều diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt nhưng thất bại vì chưa có giai cấp lãnh
đạo với đường lối đúng đắn, sáng tạo. 

- Mâu thuẫn xã hội gay gắt (dân tộc Việt Nam > < thực dân Pháp, nông dân > < địa chủ
phong kiến).
Trong những năm 1930 mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam ngày càng sâu sắc trong đó có hai mâu
thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông
dân với đại chủ phong kiến. Sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái của dân ta kết thúc, thực dân
Pháp đã tiến hành chính sách “khủng bố trắng” cùng các chính sách dã man đối những người
dân yêu nước hòng dập tắt phong trào cách mạng. => Do đó, mâu thuẫn xã hội giữa nhân dân
ta với bọn đế quốc phong kiến càng trở nên quyết liệt và gay gắt hơn, nung nấu lòng căm thù,
nâng cao tinh thần cách mạng của nhân dân ta. 

- Đảng ra đời kịp thời lãnh đạo


Trong thời điểm đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam vừa mới ra đời (3/2/1930) đã nhanh chóng
nhận thấy và nắm bắt được tình hình và kịp thời lãnh đạo giai cấp công – nông cùng các tầng
lớp lao động vùng lên đấu tranh để chống lại bọn đế quốc Pháp và phong kiến tay sai đang
hoành hành, giành độc lập tự do. 
Mở rộng: Đây là nguyên nhân chính và cơ bản nhất, quyết định đến làn sóng cách mạng 1930
– 1931. Bởi lẽ, nếu như không có sự lãnh đạo của Đảng thì mâu thuẫn lúc đó dù gay gắt và
căng thẳng tột cùng cũng chỉ dẫn đến những đấu tranh tự phát, nhỏ lẻ và không thể trở thành
cao trào.

Diễn biến phong trào 1930-1931

Vào tháng 2/1930, sự kiện gây được nhiều chú ý đó là cuộc bãi công đòi tăng lương giảm giờ
làm của 3000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng (thuộc Nam Bộ).

Vào tháng 4/1930: tiếp tục diễn ra cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định và
nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thủy và cùng với đó là của công nhân nhà máy xi măng Hải
Phòng.
Trong vòng nửa đầu năm 1930, phong trào nông dân cũng bắt đầu diễn ra mạnh mẽ cùng với
phong trào công nhân ở nhiều địa phương thuộc một số tỉnh như Thái Bình, Hà Nam, Nghệ
An hay Hà Tĩnh. Tuy nhiên, những phong trào này có nhiều điểm mới đó là xuất hiện truyền
đơn và sự xuất hiện của lá cờ đỏ búa liềm vàng của Đảng ở nhiều địa phương.

Sự kiện đáng chú ý ở giai đoạn đầu phong trào cách mạng 1930 – 1931 đó chính là vào ngày
Quốc tế lao động 1/5/1930. Lần đầu tiên công nhân Việt Nam biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế
lao động, đấu tranh đòi quyền lợi cho nhân dân lao động trong nước, thể hiện tình đoàn kết
cách mạng với nhân dân lao động thế giới. Họ kêu gọi dương cao lá cờ đỏ búa liềm cũng như
đòi thay đổi chính sách lao động, tăng lương giảm giờ làm cho công nhân.

Tiếp đó, ngày 1/8/1930 (ngày quốc tế chống chiến tranh), phong trào cách mạng 1930 – 1931
lại có sự phát triển lên một bước mới. Công nhân khu công nghiệp Vinh – Bến Thủy thực
hiện cuộc tổng bãi công đánh dấu một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh kịch liệt đã đến. Hòa
nhịp với phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ - Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc
biểu tình có vũ trang tự vệ kéo đến các huyện đường Can Lộc (ngày 4/8), Nam Đàn (ngày 6/8
và 30/8), Thanh Chương (ngày 12/8), Nghi Lộc (ngày 29/8) và lan rộng ra hầu khắp các
huyện trong 2 tỉnh.
Đỉnh cao là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh

11
Tuy nhiên phải sang đến tháng 9 phong trào đấu tranh mới lên đến đỉnh cao. Ngày 1/9,
20.000 nông dân huyện Thanh Chương biểu tình đòi bỏ thuế, thả tù chính trị. Trong cuộc
biểu tình này, thực dân Pháp đã đàn áp dã man khiến 217 người chết và 125 người bị thương
nhưng những người biểu tình vẫn tiến vào huyện đường, phá nhà giam, thả tù nhân, đốt hồ
sơ, sổ sách và dinh trị huyện.
Ngày 5/9 nông dân huyện Anh Sơn biểu tình ủng hộ nhân dân huyện Thanh Chương với các
khẩu hiệu “bãi bỏ thuế thân”, “chia lại ruộng đất”, “thả tù chính trị”. Tiếp đó, trong 2 ngày
(5/9 và 7/9) nông dân 2 huyện Diễn Châu, Can Lộc đốt phá nhà giam. Từ ngày 8 đến ngày
11/9 khí thế đấu tranh càng sục sôi khi hàng chục nghìn nông dân huyện Nam Đàn, Thanh
Chương, Diễn Châu, Can Lộc,…nổi dậy.
Phong trào được đẩy lên đỉnh cao đó là cuộc đấu tranh của 8.000 nông dân huyện Hưng
Nguyên ngày 12/9 với  khẩu hiện như “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc! đả đảo phong kiến”. Đoàn
biểu tình xếp thành hàng dài kéo về thành phố Vinh. Thực dân Pháp đã cho máy bay ném
bom xả súng liên thanh vào đoàn biểu tình, làm chết 217 người, bị thương 125 người, đốt
cháy 177 nóc nhà. Hai làng Lộc Châu và Lộc Hải bị thiêu rụi hoàn toàn. Song điều đó cũng
không ngăn cản được phong trào đấu tranh của nông dân, mà càng làm cho cuộc đấu tranh
thêm sục sôi khiến cho chính quyền thực dân hết sức lo sợ.

Những chiến sĩ cách mạng tiêu biểu


Lý Tự Trọng

● Sinh ngày 20/10/1914, tại tỉnh Hà Tĩnh


● Tên thật là Nguyễn Hữu Trọng
● 1929: Tham gia công tác vận động thanh niên để tiến tới thành lập Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh
● 1931: Lợi dụng lúc bà con đi xem bóng đá ở sân vận động sài gòn, các chiến sĩ cách
mạng đã tổ chức một cuộc mít tinh, kêu gọi quần chúng đánh đổ thực dân Pháp. Bị
bao vây, Lý Tự Trọng bị bắt và bị kết án tử hình.
Nguyễn Đức Cảnh

● Sinh ngày 2/2/1908 tại tỉnh Thái Bình


● Ban đầu gia nhập tổ chức Quốc dân đảng nhưng sau khi dự lớp học chính trị, Nguyễn
Đức Cảnh tự nguyện gia nhập Hội VN thanh niên cách mạng, chuyển từ lập trường
Quốc dân đảng sang lập trường Cộng sản.
● Nguyễn Đức Cảnh hoà mình vào cuộc sống thợ thuyền, thực hiện chủ trương “vô sản
hoá" và trở thành lãnh đạo tiên phong của công nhân Việt Nam. Ngoài ra, Nguyễn
Đức Cảnh còn tham gia sáng lập Công đoàn Việt Nam và Chi bộ Cộng sản đầu tiên và
Đảng Cộng sản Việt Nam
● Cuối tháng 7/1932, Nguyễn Đức Cảnh bị kẻ địch xử chém tại Hải Phòng.

Nguyễn Thị Minh Khai

● Sinh năm 1910 tại tỉnh Nghệ An


● Tên thật là Nguyễn Thị Vịnh
● 1924: Nguyễn Thị Vịnh được Trần Phú trực tiếp giảng dạy tại trường Tiểu học Cao
Xuân Dục
● 1927: Nguyễn Thị Vịnh kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng đảng và đổi tên thành
Nguyễn Thị Minh Khai. Chị được giao nhiệm vụ phụ trách công tác vận động phụ nữ,
huấn luyện đảng viên mới ở khu vực Vinh – Bến Thủy và hai huyện Nghi Lộc, Thanh

12
Chương. Nhờ vậy, số lượng chị em tham gia phong trào cách mạng ngày một gia
tăng, phong trào đấu tranh của nữ công nhân Vinh - Bến Thủy ngày càng sôi nổi hơn.
● Tháng 4/1931, Nguyễn Thị Minh Khai bắt và mất 3 năm trong tù cho đến khi được
cứu bởi Hội cứu tế đỏ. Chị vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng sau đó cho đến khi hi
sinh vào năm 31 tuổi.

Ý nghĩa phong trào


- Là cuộc tổng diễn tập đầu tiên, chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945
- Khẳng định quyền lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam
- Xây dựng khối liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân
- Chuẩn bị lực lượng cho giai đoạn sau thông qua giáo dục tư tưởng, giác ngộ cách mạng,
rèn luyện tinh thần đấu tranh cho đảng viên và quần chúng
- Khẳng định tinh thần quốc tế vô sản của Đảng và giai cấp công nhân Việt Nam đối với sự
nghiệp của giai cấp vô sản thế giới
- Để lại kinh nghiệm lãnh đạo quý báu cho Đảng, nhờ đó, Đảng có sự trưởng thành về lý
luận và tích lũy thêm tri thức cách mạng

Sự khôi phục của phong trào 1932 – 1935


- Sau phong trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh, thực dân Pháp đàn áp dã man phong trào cách mạng
nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản. Trước tình hình này, vào ngày 15/6/1932, Trung ương
Lâm thời Chấp ủy của Đảng đã công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản
Đông Dương.
- Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương : chương trình hành động đề ra
những nhiệm vụ cụ thể trong tình hình mới để bảo vệ, khôi phục hệ thống tổ chức Đảng
và phong trào cách mạng.
- Chương trình hành động đề ra 4 yêu cầu chung:
1. Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước và ra nước ngoài
2. Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ
ngay chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình
Để tập trung đàn áp phong trào cách mạng nước ta, thực dân Pháp đã xây dựng Hội đồng
Đề hình với chức năng chính là xét xử các nhà yêu nước.
0. Bỏ thuế thân, thuế cho người dân từ 18 đến 60 tuổi, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý
khác
Thuế thân là thuế đánh theo mức cố định trên đầu người và đã tồn tại từ thời phong kiến. Khi
thực dân Pháp đặt ách thống trị, mức thuế tăng vọt cộng thêm rất nhiều thuế mới được đặt
ra. Thuế thân trở thành gánh nặng đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng.
1. Bỏ các độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối
Độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối là gì?
Muối là một trong những thứ nhu yếu phẩm của người Việt Nam, được sử dụng trong việc dự
trữ thực phẩm, chế biến hầu hết món ăn và nấu ăn. Nước ta lại không có mỏ muối, muối
được sản xuất thông qua phương pháp gạn lọc nước biển, vì vậy mà khan hiếm. Qua việc
nắm độc quyền phân phối muối (thu thuế muối cao cho mỗi tạ muối sản xuất được, mua rẻ
bán cao), thực dân Pháp có thể thu được một khoản tiền khổng lồ. Ngoài ra, chúng còn.
Rượu được coi khá quan trọng trong nếp sống văn hoá của bất kỳ xã hội nào. Rượu là sản
phẩm thông dụng, không bao giờ khan hiếm. Thực dân Pháp, qua đó, thu lợi nhuận hàng
năm và đầu độc nhân dân (bắt buộc phải mua đủ rượu theo quy định, cấm nấu rượu lậu mà
phải uống rượu do nhà nước cung cấp).
Tương tự, từ khi thực dân Pháp xâm lược, thuốc phiện được chủ động nhập, chế biến, buôn
bán và phân phối.

13
Dựa theo chương trình hành động này, các tổ chức cơ sở của Đảng đã lợi dụng các hình thức
tổ chức hợp pháp (các hội cày cấy, gặt hái, đá bóng, đọc sách báo…) để tập hợp quần chúng
và mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong nhân dân ta. Nhờ vậy, dù trong hoàn cảnh cách mạng
gặp nhiều khó khăn, phong trào cách mạng của quần chúng và hệ thống tổ chức của Đảng
từng bước được khôi phục.

3. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng 3/1935

Bối cảnh
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Đông Dương diễn ra khi lực lượng cộng sản
trong nước hoàn toàn bị tiêu diệt sau đợt khủng bố trắng của pháp sau Xô –Viết Nghệ Tĩnh .

Nội dung
- Xây dựng và phát triển Đảng
o Phát triển cơ sở Đảng tại các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ, tại các thành thị...
o Kết nạp thêm đảng viên ưu tú trong hàng ngũ giai cấp công nhân
o Đẩy mạnh việc phê và tự phê trong Đảng
- Thâu phục quảng đại quần chúng
o Phát triển hội phụ nữ, các dân tộc thiểu số...
o Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất
- Đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc 
o Các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ
nữ.
o Các nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số.
o Các nghị quyết về đội Tự vệ đỏ và đội Cứu tế đỏ.

Ý nghĩa 
- Đại hội đánh dấu sự khôi phục và phát triển của tổ chức Đảng.
- Là sự chuẩn bị cho thắng lợi của các phong trào tiếp theo.

II. Giai đoạn 1936-1939


1. Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới:
- Tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi. Chủ nghĩa phát xít lên cầm quyền ở
một số nước: Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản cùng với tay sai ở một số nước (Pháp, Tây Ban
Nha...) trở thành mối nguy cơ dẫn tới một cuộc chiến tranh mới.
- Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản triệu tập Đại hội lần thứ VII tại Moskva, Liên Xô
với sự có mặt của 65 đoàn đại biểu. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê
Hồng Phong dẫn đầu, lần đầu tham dự Đại hội. (đồng chí Lê Hồng Phong Trong phiên
họp thứ chín của Đại hội ngày 28-7-1935 đọc bản tham luận quan trọng nói về phong trào
cách mạng Đông Dương thời kỳ 1930-1935, đồng chí  Hoàng Văn Nọn Trong phiên họp
thứ 31 ngày 11-8-1935 đọc tham luận, khẳng định những đóng góp to lớn của các dân tộc
thiểu số ở Đông Dương, đồng chí  Nguyễn Thị Minh Khai Trong phiên họp thứ 40, ngày
16-8-1935 đọc bản tham luận khẳng định vai trò và thành tích của phụ nữ Đông Dương.)
- Tháng 7/1935, Đại hội lần VII - Quốc tế Cộng sản xác định những vấn đề quan trọng sau
đây:
o Xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít.
o Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là đấu tranh chống chủ nghĩa phát
xít, bảo vệ hòa bình, giành tự do, dân chủ.

14
o Xây dựng mặt trận thống nhất, đoàn kết rộng rãi.
- Các Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Tây Ban Nha, Đảng Cộng sản Trung Quốc làm
nòng cốt trong việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, nhằm đoàn kết mọi lực lượng
chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, đòi dân chủ, tự do.
- Mặt trận Nhân dân Pháp được thành lập năm 1936 do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt
đã thắng cử lên cầm quyền. Trước sức ép của Đảng Cộng sản Pháp và phong trào cánh tả
Pháp, nhà cầm quyền Pháp đã phải thi hành một số thay đổi về chính sách. Với các nước
thuộc địa, chính quyền Pháp đã có 3 quyết định rất quan trọng: Trả lại tự do cho tù chính
trị, thành lập ủy ban điều tra tình hình các thuộc địa, và thi hành một số cải cách xã hội. 

Tình hình trong nước


- Ở Việt Nam, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế (1929 – 1933) vẫn tiếp diễn. Đời
sống chính trị và kinh tế rất căng thẳng. Yêu cầu của của mọi tầng lớp xã hội là các quyền
tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Cụ thể như sau:
a. Chính trị
o Đối với Đông Dương, Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình, cử Toàn
quyền mới, ân xá tù chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí… tạo thuận lợi cho
cách mạng Việt Nam.
o Có nhiều đảng phái chính trị hoạt động: đảng cách mạng, đảng theo xu hướng
cải lương, đảng phản động…, nhưng ĐCS Đông Dương là Đảng mạnh nhất,
có tổ chức chặt chẽ, chủ trương rõ ràng.
b. Kinh tế: sau khủng hoảng kinh tế thế giới, Pháp tập trung đầu tư, khai thác thuộc địa
để bù đắp sự thiếu hụt cho kinh tế Pháp.
o Nông nghiệp: tư bản Pháp chiếm đoạt ruộng đất, độc canh cây lúa, trồng cao
su, đay, gai, bông …
o Công nghiệp: đẩy mạnh khai mỏ. Sản lượng ngành dệt, xi măng, chế cất rượu
tăng. Các ngành ít phát triển là điện, nước, cơ khí, đường, giấy, diêm...
o Thương nghiệp: thực dân độc quyền bán thuốc phiện, rượu, muối và xuất nhập
khẩu, thu lợi nhuận rất cao, nhập máy móc và hàng tiêu dùng, xuất khoáng sản
và nông sản.
o Những năm 1936 -1939 là thời kỳ phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam
nhưng kinh tế Việt Nam vẫn lạc hậu và lệ thuộc kinh tế Pháp.
c. Xã hội: đời sống nhân dân khó khăn do chính sách tăng thuế của Pháp
o Công nhân: thất nghiệp, lương giảm.
o Nông dân: không đủ ruộng cày, chịu mức địa tô cao và bóc lột của địa chủ,
cường hào…
o Tư sản dân tộc: ít vốn, chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép.
o Tiểu tư sản trí thức: thất nghiệp, lương thấp.
o Các tầng lớp lao động khác: chịu thuế khóa nặng nề, sinh hoạt đắt đỏ.
⇒ Đời sống đa số nhân dân khó khăn nên hăng hái tham gia đấu tranh đòi tự do, cơm áo dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

2. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng  


Chủ trương mới của Đảng
- Tháng 7/1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị
lần thứ II ở Thượng Hải (Trung Quốc), đề ra chủ trương mới bao gồm: mục tiêu, nhiệm
vụ trước mắt của cách mạng, xây dựng lực  lượng, cũng như phương pháp tổ chức và đấu
tranh trong tình hình  mới.
- Hội nghị khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền là:

15
o Chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày
là không thay đổi
o Nhưng để phù hợp với tình hình mới, Hội nghị của Đảng xác định mục tiêu
trực tiếp trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát
xít và chiến tranh đế quốc, đòi dân chủ, dân sinh, hòa bình.  
- Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương, chủ
trương chuyển các hình thức tổ chức và  phương pháp đấu tranh của quần chúng từ hình
thức bí mật, bất hợp  pháp là chủ yếu sang hình thức công khai, hợp pháp và nửa hợp
pháp; chú trọng công tác xây dựng Đảng. 
- Những chủ trương mới của Đảng tại Hội nghị Trung ương tháng 7/1936 đã thể hiện bước
phát triển mới trong nhận thức của Đảng về chỉ đạo chiến lược và sách lược, giải quyết
đúng đắn mối  quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách
mạng Đông Dương.

Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ 
- Trong thời kỳ 1936-1939, Đảng triển khai nhiều hình thức đấu tranh mới: đấu tranh nghị
trường, đấu tranh dân chủ, đấu tranh đòi sử  dụng báo chí công khai,… làm vũ khí đấu
tranh cách mạng, tuyên  truyền đường lối, chủ trương của Đảng, vạch trần chính sách áp
bức,  bóc lột của thực dân và tay sai, tập hợp, hướng dẫn, phản ánh những  nguyện vọng
đấu tranh của quần chúng. Thời kỳ vận động dân chủ chấm dứt khi Chiến tranh thế giới
thứ hai nổ ra vào tháng 9/1939. 
- Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh:
o Kẻ thù của CM: Bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng
o Nhiệm vụ trước mắt: Chống phát xít, chiến tranh đế quốc, phản động thuộc địa
và tay sai đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình
o Đoàn kết quốc tế: Đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản
Pháp; Ủng hộ chính phủ mặt trận nhân dân Pháp
o Hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Chuyển từ bí mật không hợp pháp
sang công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp
- Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ: 
o Phù hợp với tinh thần trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và khắc
phục những hạn chế của Luận cương chính trị 10-1930
o Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể
trước mắt
o Giải quyết các mối liên hệ giữa liên minh công-nông và mặt trận đoàn kết dân
tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
o Đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, thích hợp
Ý nghĩa của cao trào cách mạng 1936-1939 
- Cao trào vận động dân chủ 1936-1939 là một phong trào cách  mạng mang tính quần
chúng rộng rãi, diễn ra trên nhiều lĩnh vực kinh  tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, thu hút
đông đảo quần chúng tham gia  từ thành thị đến nông thôn trên phạm vi cả nước với
nhiều hình thức  đấu tranh phong phú, linh hoạt. 
- Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ từ năm 1936 đến năm  1939 có ý nghĩa to lớn
về nhiều mặt đối với sự lãnh đạo của Đảng. Phong  trào cơ bản vẫn bao hàm cả hai nội
dung dân tộc và dân chủ, theo định  hướng chiến lược mà Đảng đã xác định; từ thực tiễn
đấu tranh, đội quân  chính trị đông đảo được hình thành, tập hợp trong một hình thức mặt
trận  mới, bao gồm hàng triệu quần chúng thuộc các giai cấp, tầng lớp khác  nhau dưới
những khẩu hiệu đấu tranh thống nhất; tạo ra thế và lực mới  cho phong trào cách mạng
tiếp theo; uy tín của Đảng lan rộng và thấm  sâu vào các tầng lớp quần chúng nhân dân.

16
Đảng thống nhất về tư tưởng  và hành động; hệ thống tổ chức Đảng được tăng cường; đội
ngũ đảng  viên có bước phát triển về chất lượng và số lượng; để lại những kinh  nghiệm
quý cho Đảng trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng. 

🌗 Chủ đề 3: Phân tích nghệ thuật nắm bắt thời cơ, tiến tới nắm quyền tổng khởi nghĩa. (1939 -
1945) 
* Nghệ thuật nắm bắt thời cơ đọ sức, trí, tài bằng cách so sánh các cuộc chiến trước đây, cuộc khởi
nghĩa này nằm ở những cuộc chuẩn bị, cuộc họp xuyên suốt 15 năm, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu
nước.
I. CÁC CHUYỂN HƯỚNG CỦA ĐẢNG TỪ 1939-1945
1. Hoàn cảnh lịch sử giai đoạn 1939-1945
Hoàn cảnh quốc tế 
Ngày 01/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, châm ngòi cho Chiến tranh thế giới thứ II
bùng nổ. Ngày 03/9/1939, chính phủ Anh, 29 Pháp tuyên chiến với Đức. Cuộc chiến tranh
thế giới ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến tình hình mọi mặt của Đông Dương
Tháng 6/1940, Đức tấn công nước Pháp và chính phủ Pháp đầu hàng. Nhật Bản mở rộng
chiến tranh xuống Đông Nam Á. 
Chính phủ phản động Pháp chủ trương thi hành chính sách phát xít, giải tán đảng cộng sản
pháp và các nước thuộc địa thủ tiêu các quyền tự do dân chủ
Tình hình quốc tế  đã tác động mạnh mẽ đến Đông Dương, làm cho nhân dân Đông Dương
rơi vài tinnhf trạng khó khăn, bị ảnh hưởng nghiệm trọng từ chiến tranh thế giới thứ 2.
Hoàn cảnh trong nước
+ Pháp điên cuồng chống phá cộng sản, Pháp thực hiện chính sách thời chiến, tiến hành bắt
người cướp của, khủng bố, tổng động viên, thực hiện chính sách kinh tế chỉ huy nhằm vơ vét
sức người sức của
    + 22/9/1940, Nhật tiến vào lạng sơn và đổ bộ  vào hải phòng, Sau đó Pháp - Nhật thỏa
thuận cùng thống trị Đông Dương, Hà nội kí hiệp định đầu hàng Nhật,  Việt Nam chịu sự
thônngs trị của Nhật- Pháp, rơi vào tình trạng một cổ hai tròng.
  mâu thuẫn của nhân dân với thực dân Pháp ngày  càng gay gắt hơn bao giờ hết 
2. Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo của đảng giai đoạn 1939-1945
  A, Các nội dung dung chuyển hướng chỉ đạo được thông  qua qua các hội nghị trung ương
Đảng đặc biệt trong hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6, 7, 8.
Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 6(11/1939)
+ Tổ chức tại Bà Điểm(Hooc Môn) do đồng chí nguyễn văn cừ chủ trì  
+ hội nghị xác nhiệm vụ:  đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu vàcáp bách của cách
mạng Đông Dươnng. Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đấtchủ trương tịch thu ruộng  đất
của đế quốc chia cho dân cày, đánh đổ thực dân dành chính quyền.
+ hình thức đấu trannh: thay  công khai hợp pháp thành bí mất và bất hợp pháp. 
+ thành lập mặt trận thốngnhất phản đế Đông Dương thay cho  thống nhất dân chủ Đôg
Dươnng.. 

17
Hội nghị đânhs dấu sự chuyển hướng chiến lược của Đảng, chiến lược đúng đắn, Đảng ta
dương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đoàn kết toàn Đông dương chống lại kẻ thù chung.
Hội nghị trung ương đảng lần thứ 7(11/1940)
+ tổ chức tại Đình  Đảng,  Bắc Ninh,  do đồng chí Hoàng Văn Thụ, Phan Đăng Lưu, Trần
Đăng Ningvà một số đồng chí khác cũng tham gia.
+ hội nghị nhận cách mạng sẽ nổi dậy , Đảng phải chuẩn bị sứ mệnh cao clà chỉ đạo cách
mạng giành chính quyền
+ Đảng xác định kẻ thù chính của cách mạng Đông Dương lúc bấy giừo là phát xiít Nhật-
Pháp, tiếp tục duy trì khởinghĩa Bắc Sơn, đinnhf chỉ khởi nghĩa Nam Kì
+ Hội nghị bầu ra BCH trung ương Đảng lâm thời do đồng chí Trường Chinnh làm tổng  bí
thư ban chấp hành Trung Ương đảng cộng sản Đông Dương
Hội nghị trung ươnng Đảng lần thứ 8 ( 5/1941)
+  hội nghị  do Nguyễn Ái Quốc chủ trì tại PacPó Cao Bằng , có các đồng chí Trương Chinh,
Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt….
+ hội nghị chủ chương không giữ khẩu hiệu thành llập chính phủ công  hòa liên bang như
trước mà giải quyết các vấn đề dân ttọn trong khuôn khổ từng nước 
+ thành lập nnhà nước Việt Nam Dân chủ cộng  hòa
+ chỉ rõ  nhiệm vụ trọng tâm của Đảng là chuẩn bị khởi nghĩa vũ  trang giành chính quyền 
+ Đảng quuyết định thành lập mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh hây cong gọi là mặt trận
Việt Minh. 
+ giải quyết những vấn đề quan trọng trong tư tưởng chỉ đạo chiến lược như: mối quan hệ
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp,sách lược tập hợp lực lượng cách mạng, giải
quyếtvẫn đề dân tộc theo từng nnước…
B,  Nội dung cụ thể của chuyển hướng chiến lược giai đoạn 1939-1945
Các hội nghị trên đây đã hoạch định chủ trương và nhiệm vụ cách mạng mới với những nội
dung chính như sau:
+    Một là: Đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đảng khẳng
định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không thực hiện
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu
mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được”1 . 
+     Hai là: Đoàn kết rộng rãi lực lượng toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống
nhất. Đảng chủ trương: “thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế
quốc Pháp” 
 +    Ba là: Giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước. Đảng nhấn mạnh: “Sự
tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”3 .
 +    Bốn là: Đặt công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang làm nhiệm vụ trung tâm của
cách mạng Đông Dương. Đảng xác định: cuộc đấu tranh giành độc lập “phải kết liễu bằng
một cuộc khởi nghĩa võ trang”4 . 

18
+      Năm là: Coi trọng nhiệm vụ xây dựng Đảng. Đảng khẳng định: sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, phải
chú trọng xây dựng Đảng “đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn
thắng”5 .
C, Lí do chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Lý do chuyển hướng mục tiêu đấu tranh từ đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ hằng ngày
lên mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc là vì:
Sau khi phân tích rõ mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt nhất ở Đông Dương lúc này là mâu thuẫn
giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương, Đảng khẳng định vấn đề sống còn của các dân tộc
Đông Dương lúc này là phải tập trung lực lượng đánh đổ đế quốc và tay sai phản động, giải
phóng dân tộc. "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường
nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da
trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập". Hội nghị Trung ương Đảng họp ở Bà
Điểm (Hóc Môn-Gia Định) do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì cũng đã chỉ rõ:
“Cách mạng phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền…Cái
nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn
khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc”. 
Hội nghị Trung ương 8 họp tại Pác Bó (Cao Bằng) do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì phân
tích kỹ lưỡng tình hình chiến tranh thế giới, khẳng định: “nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần
trước đã đẻ ra Liên Xô - một nước xã hội chủ nghĩa - thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ
đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. Hội nghị
chỉ rõ: Nhân dân Đông Dương phải chịu những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh thế
giới, vì vậy thái độ chính trị của các giai cấp có thay đổi khá lớn. Mâu thuẫn chủ yếu phải
được giải quyết cấp bách lúc này là mâu thuẫn giữa các dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc
phát xít Pháp - Nhật. “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập dân tộc, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia
dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi lại được” 
Trong các Hội nghị Trung ương, Đảng chỉ rõ tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất. Cách
nêu lên như vậy không đồng nghĩa với việc Đảng từ bỏ cách mạng ruộng đất, mà vẫn thực
hiện đồng thời. Sự sáng tạo của Đảng trong chuyển hướng chỉ đạo là thực hiện nhiệm vụ
chống phong kiến và nhiệm vụ dân chủ khác rải ra làm từng bước, phục tùng và phục vụ cho
nhiệm vụ hàng đầu là chống đế quốc giải phóng dân tộc. Đây là bước phát triển tư duy lý
luận của Đảng so với thời kỳ trước. Sự chuyển hướng nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng là nội
dung quan trọng nhất trong chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng thời kỳ
1939-1945. Xét về thực chất, chủ trương này của Đảng nhằm giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và dân chủ trên lập trường giai cấp công nhân.
Chủ trương ra đời không chỉ có giá trị trong phân hóa cô lập kẻ thù, tập trung lực lượng
chống kẻ thù chính, mà còn trực tiếp định hướng thống nhất mọi hoạt động của các lực lượng
cách mạng tập trung vào thực hiện thắng lợi mục tiêu hàng đầu của cách mạng: giải phóng
dân tộc.
Lý do dẫn đến việc thành lập mặt trận dân tộc thống nhất riêng trong từng nước, lấy
liên minh công - nông làm nòng cốt, dưới sự lãnh đạo của Đảng là vì:
Trước khi diễn ra Hội nghị Trung ương 6,7,8, vấn đề thành lập, xây dựng phát triển lực lượng
cách mạng luôn được Đảng coi trọng, bởi không có lực lượng cách mạng thì không thể làm
cách mạng. Theo đó, Đảng từng bước lãnh đạo, chỉ đạo xúc tiến thành lập Mặt trận dân chủ

19
Đông Dương - mặt trận chung cho cả 3 dân tộc. Từ khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ,
xuất hiện tình thế cách mạng, Đảng phân tích kỹ lưỡng và cho rằng tuy dân tộc Việt Nam,
Lào, Campuchia cùng trên bán đảo Đông Dương, song mỗi dân tộc lại có những đặc điểm,
yêu cầu riêng trong tập hợp lực lượng cách mạng. Vận dụng lý luận Mác - Lênin về “quyền
dân tộc tự quyết”, Đảng chủ trương mỗi nước thành lập một mặt trận dân tộc thống nhất
riêng. Tháng 5-1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập ở Việt Nam. Chủ trương này
của Đảng vừa tạo điều kiện để các lực lượng cách mạng trong từng nước tận dụng những thế
mạnh trong xây dựng phát huy kịp thời sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời khắc phục những
biểu hiện thiếu tính chủ động, ỷ lại. Đảng cũng chỉ rõ việc thành lập mặt trận dân tộc thống
nhất riêng ở mỗi nước không có nghĩa tách biệt giữa các mặt trận, mà các mặt trận phải liên
minh chặt chẽ với nhau, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Đông
Dương. Phải tích cực xây dựng, phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất mỗi nước trở thành tổ
chức tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, trên nền tảng lấy liên minh công - nông làm
nòng cốt.
Lý do dẫn đến sự chuyển hướng phương pháp đấu tranh cách mạng là: 
Chủ trương và phương pháp đấu tranh cách mạng luôn được Đảng coi là vấn đề mấu chốt của
chiến lược cách mạng. Thắng lợi của cách mạng chỉ có thể giành được trên cơ sở chủ trương
và phương pháp cách mạng đúng đắn. Thiếu phương pháp cách mạng đúng đắn thì dù chủ
trương có đúng đến bao nhiêu cũng không đem lại thắng lợi cho cách mạng. Trong thời kỳ
1936-1939, chủ trương của Đảng là tranh thủ điều kiện thuận lợi, sử dụng nhiều phương pháp
đấu tranh công khai đòi dân sinh, dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh phát xít. Đến khi chiến
tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra, bộ máy chính quyền thực dân đế quốc ở Đông Dương chuyển
mạnh sang “phát xít hóa”: chúng tăng cường đưa quân đội khủng bố, đàn áp, giết hại đồng
bào, tìm phá các tổ chức, đoàn thể cách mạng. Các Hội nghị Trung ương 6,7,8 của Đảng đều
phân tích, thống nhất rằng phương pháp cách mạng ở thời kỳ trước cần có sự điều chỉnh cho
phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn cách mạng. Theo tinh thần đó, Trung ương Đảng quyết định
chuyển phương pháp đấu tranh cách mạng sang thời kỳ mới: kết hợp đấu tranh bí mật, bất
hợp pháp với tranh thủ triệt để mọi điều kiện để xây dựng phát triển lực lượng; sử dụng kết
hợp lực lượng, hình thức đấu tranh chính trị với lực lượng, hình thức đấu tranh quân sự làm
phương pháp đấu tranh chủ yếu để giành chính quyền.
Đến Hội nghị Trung ương 8, Đảng chỉ rõ phương thức (hình thái) đấu tranh giành chính
quyền đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Sự khẳng định như vậy của Đảng
thể hiện tính sáng tạo, xuất phát từ sự phân tích khoa học của Đảng về tính chất mâu thuẫn và
sự chín muồi không đều về thời cơ khởi nghĩa. Việc xác lập hình thái đấu tranh mang tính
“giai đoạn” - khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa cho phép lực lượng cách mạng
trong từng nước, từng địa phương chủ động tận dụng tối đa mọi điều kiện, khả năng trong
xây dựng, phát huy sức mạnh lực lượng cách mạng khi thời cơ khởi nghĩa vũ trang xuất hiện.
Chủ trương này phản ánh tư duy sắc sảo của Đảng trong vận dụng sáng tạo tư tưởng của
V.I.Lênin về quy luật “thắng từng bước” vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở Việt Nam.
Lý do dẫn đến sự chuyển hướng công tác xây dựng Đảng là vì: 
Kể từ khi ra đời, công tác xây dựng Đảng luôn được Đảng coi là nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng vô sản ở Việt Nam. Trong thời kỳ 1939-1945, Đảng nhận định sẽ xuất hiện thời
cơ cho cuộc “cách mạng chính quyền”, do đó cần chuẩn bị đầy đủ các yếu tố, trong đó công
tác xây dựng Đảng đóng vai trò then chốt. Xét về nội hàm, cả ba Hội nghị Trung ương của
Đảng đều phân tích, chỉ rõ vấn đề gay cấn đang đặt ra đối với Đảng và cách mạng là thực
trạng: đội ngũ cán bộ, đảng viên còn thiếu nhiều, thành phần công nhân trong đảng còn ít; hệ
thống tổ chức của Đảng tuy đã phát triển nhưng chưa vững chắc, hoạt động thiếu tính thống

20
nhất, bí mật, trong khi chính quyền đế quốc phát xít và tay sai tìm mọi cách tìm diệt cán bộ,
đảng viên, phá tan tổ chức của Đảng, Nếu không kịp thời chỉ đạo chuyển hướng công tác xây
dựng Đảng theo đòi hỏi của tình hình, thì chẳng những sức mạnh, năng lực lãnh đạo của
Đảng bị ngưng trệ, mà phong trào cách mạng khó có thể phát triển giành thắng lợi. Chiến
lược nhất quán trong công tác xây dựng Đảng từ khi Đảng ra đời là xây dựng vững mạnh,
trong sạch cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức. Do yêu cầu cấp bách trong thực hiện mục
tiêu giải phóng dân tộc, các Hội nghị Trung ương 6,7,8 của Đảng đều nhấn mạnh là: gấp rút
đào tạo cán bộ, tăng thành phần công nhân trong Đảng, kiện toàn, củng cố vững chắc hệ
thống tổ chức của Đảng, nhất là ở Lào và Campuchia.
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng thời kỳ 1939-1945 xuất
phát từ đòi hỏi khách quan của thực tiễn cách mạng Đông Dương đặt ra. Đó là chủ trương
đúng đắn, khoa học của Đảng trong giải quyết mối quan hệ giữa chiến lược và chỉ đạo chiến
lược trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trên thực tế, chủ trương đó đã được Đảng
và Hồ Chí Minh hiện thực hóa trong thực tiễn. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng
sản Đông Dương, chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng được lực lượng
cách mạng ở 3 nước quán triệt, thực hiện khẩn trương: thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất
trong từng nước; chủ động xây dựng phát triển lực lượng chính trị quần chúng, lực lượng vũ
trang; củng cố, phát triển tổ chức và đoàn thể cách mạng; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng
phát triển lực lượng với tổ chức quần chúng tranh đấu giành độc lập dân tộc.
D, ý  nghĩa sự chuyển hướng chỉđạochiến lược
Giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc
Giươngcao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt lên hàng đầu
Đẩy nhanh việc phát triển lực lượng chính trị và phongtrào của  quần chúng nhân dân
Chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ ttrang sắp búng lên và phát triển sôi nổi.
Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần:
Phát động cao trào kháng Nhật:
Đầu năm 1945, phe phát xít bị thất bại dồn dập, phát xít Đức bên bờ diệt vong, phát
xít Nhật lâm vào tình thế khốn cùng tại chiến trường châu Á - Thái Bình Dương. Chiến tranh
thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc
Ở Đông Dương, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, từ cuối năm 1944
đến đầu năm 1945, lực lượng cách mạng của 33 quần chúng bao gồm lực lượng chính trị và
lực lượng vũ trang đều phát triển mạnh mẽ, rộng rãi. Lúc này, mâu thuẫn Nhật - Pháp ở Đông
Dương đã lên đến đỉnh điểm. Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông
Dương. Mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với bọn phát xít ngày càng sâu sắc. Nhân
dân không còn con đường nào khác con đường vùng dậy đấu tranh giành lại quyền sống dưới
ngọn cờ lãnh đạo của Đảng.
Ngay trong đêm 09/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp mở rộng tại Từ
Sơn (Bắc Ninh), phân tích tình hình và quyết định phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước
làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Tinh thần Hội nghị được thể hiện trong Chỉ thị Nhật - Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta (ngày 12/3/1945) với những nội dung chính như sau:
Bản Chỉ thị phân tích rõ nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đảo chính Nhật - Pháp ở
Đông Dương:
“1- Hai con chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo như Đông Dương.

21
2- Tàu Mỹ sắp đánh vào Đông Dương. Nhật phải hạ Pháp để trừ cái hoạ bị Pháp đánh sau
lưng khi quân Đồng minh đổ bộ.
3- Sống chết Nhật phải giữ lấy cái cầu trên con đường bộ nối liền các thuộc địa miền Nam
Dương với Nhật; vì sau khi Phi Luật Tân bị Mỹ chiếm, đường thủy của Nhật đã bị cắt đứt".
Bản Chỉ thị nhận định: cuộc đảo chính đã tạo ra ở Đông Dương "một cuộc khủng hoảng
chính trị sâu sắc", làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa Đông Dương chưa chín muồi
đang đi tới chín muồi nhanh chóng. Ba cơ hội tốt giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau
chóng chín muồi là:
a) Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng)
b) Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước).
c) Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật)".
Bản Chỉ thị chỉ rõ: sau cuộc đảo chính "đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể
trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương". Do đó phải thay đổi khẩu hiệu "Đánh đuổi
Nhật, Pháp" bằng khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật", thực hiện khẩu hiệu "Thành lập chính
quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”.
Bản Chỉ thị yêu cầu các cấp bộ Đảng phải "Thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động tổ
chức và tranh đấu cho hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa”, phải cổ động quần chúng mạnh dạn
ra đường đấu tranh, phá kho thóc của bọn đế quốc để giải quyết nạn đói, nhằm "Phát động
một cao trào Kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao
trào ấy có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị, phá phách cho đến những
hình thức cao như biểu tình thị uy võ trang, du kích" và "Sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng
khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện".
Bản Chỉ thị nêu trường hợp thuận lợi cho tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh đổ bộ vào
Đông Dương đánh Nhật. Bản Chỉ thị dự kiến khi quân Đồng minh “bám chắc" và "tiến
mạnh" trên đất ta, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau tương đối
sơ hở, lúc đó ta có thể phát động tổng khởi nghĩa.
Bản Chỉ thị cũng nêu cao tinh thần chủ động dựa vào sức mình của chính nhân dân ta: "dù
sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho
cuộc tổng khởi nghĩa của ta; vì như thế là ỷ lại vào người và tự bó tay trong khi tình thế biến
chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ, và chính quyền cách mạng của nhân dân
Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940, và quân đội viễn chinh của
Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân Đồng minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta
vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi".
Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kịp
thời của Trung ương Đảng với tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Chỉ thị là "phải hành động
ngay hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo". Bản Chỉ thị là kim
chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh trong cao trào chống Nhật,
cứu nước, và có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám.
(- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000,
t. 7, tr. 364-373.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-1992.)
Cao trào kháng Nhật, cứu nước

22
Theo tinh thần của Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, từ giữa
tháng 3/1945, cao trào kháng Nhật, cứu nước đã diễn ra sôi nổi với nhiều hình thức đấu tranh
phong phú, kết hợp chặt chẽ, linh hoạt đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nhanh
chóng phát triển lực lượng mọi mặt chuẩn bị chớp thời cơ giành chính quyền trong cả nước.
Cả dân tộc Việt Nam đã chuẩn bị đầy đủ với khí thế sẵn sàng, chờ đón thời cơ tổng khởi
nghĩa.
Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận
Dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng, đến đầu năm 1945, trên thực tế, lực lượng vũ
trang ba thứ quân đã hình thành và đóng vai trò nòng cốt trong các cuộc đấu tranh của nhân
dân ta, nhất là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tuy nhiên, các lực lượng vũ trang chưa được thống
nhất trong chỉ đạo. Để phát triển lực lượng vũ trang lên một bước, Hội nghị quân sự cách
mạng Bắc Kỳ (tháng 4-1945) quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang của Đảng như
Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân... thành Việt Nam Giải phóng quân.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị, ngày 15-5-1945: Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
và Cứu quốc quân gặp nhau tại địa điểm sau đình làng Quặng, xã Định Biên, huyện Định
Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Cùng ngày, tại đình làng Quặng, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố
thống nhất các tổ chức vũ trang cách mạng trong cả nước thành Việt Nam Giải phóng quân.
Lực lượng ban đầu của Việt Nam giải phóng quân gồm 13 đại đội (thống nhất từ các Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân, Trung đội Cứu quốc quân) và các đội vũ trang tập trung ở
các tỉnh, huyện.
Sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân đánh dấu sự trưởng thành mới của tư duy và chỉ đạo
công tác quân sự của Đảng ta.
Phong trào phá kho thóc cứu đói
Phong trào đấu tranh của nhân dân các tỉnh Miền Bắc Việt Nam vào đầu 1945, dưới
sự hướng dẫn của Việt Minh, nhằm giải quyết nạn đói và tập hợp quần chúng đứng lên đánh
đuổi phát xít Nhật và tay sai. Phong trào diễn ra khắp các tỉnh, thành Miền Bắc. Tiêu biểu là
các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Ninh Bình, Thái Bình, Hưng Yên, Hải
Dương, Hà Đông, Sơn Tây, Thanh Hoá... Hàng nghìn kho thóc của Nhật bị phá, có kho chứa
tới 5.000 tấn. Hàng triệu người đói được chia thóc. Nạn đói được giải quyết. Uy tín của Đảng
Cộng sản Đông Dương và Việt Minh lên cao. Cao trào chống Nhật càng mạnh mẽ, lan rộng,
đưa đông đảo quần chúng lên trận tuyến đấu tranh đánh đổ ách thống trị của phát xít Nhật và
tay sai. Sự phát triển Ptrào Phá kho thóc cứu đói đã thể hiện rõ Đảng ta đề ra khẩu hiệu: “Phá
kho thóc giải quyết nạn đói” trong thời kì tiền khởi nghĩa là đúng đắn, sáng tạo. Khẩu hiệu đó
đã “đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của quần chúng, do đó đã thổi bùng ngọn lửa căm
thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng đứng dậy với khí thế cách mạng hừng
hực tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền” (Lê Duẩn).
Tham khảo:
Tháng 3/1945, nạn đói lên đến đỉnh điểm. Lũ lượt người ngược, kẻ xuôi chạy đói đến các
thành phố lớn, họ bán cơ nghiệp để lấy tiền đi đường. Người dân Hà Nội khi ấy đã phát động
Ngày cứu đói, lập trại tế bần phát cháo. Người sắp chết thì được đưa về trại Giáp Bát, còn
người chết đói thì xác chất đầy xe bò đem đi "hất xuống hố như hất rác" tại nghĩa trang Hợp
Thiện (Hai Bà Trưng).
Phát triến chiến tranh du kích

23
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 11-1939) về chuẩn bị cho
khởi nghĩa vũ trang, tháng 3-1940, Xứ ủy Nam Kỳ tổ chức hội nghị thông qua “Đề cương
cách mạng Nam Kỳ”, thực chất là đề cương khởi nghĩa vũ trang, trong đó xác định việc xây
dựng LLVT với hình thành tổ chức ban đầu là các đội du kích, tự vệ chiến đấu làm nòng cốt
cho nhân dân khởi nghĩa khi có thời cơ.
Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ và chi bộ các địa phương, quá trình xây dựng lực lượng
du kích, tự vệ chiến đấu ở các tỉnh xúc tiến chậm và có những biểu hiện lệch lạc. Trước tình
hình đó, Xứ ủy Nam Kỳ tổ chức hội nghị mở rộng (tháng 7-1940), đề ra nhiệm vụ cấp thiết,
trong đó xác định xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa việc xây dựng lực lượng du kích, tự vệ, luyện
tập quân sự. Quán triệt nghị quyết hội nghị, quá trình xây dựng lực lượng, phát triển các đội
du kích, tự vệ ở các tỉnh Nam Kỳ chuyển biến mạnh mẽ. Tùy theo điều kiện từng địa phương,
việc xây dựng lực lượng khác nhau về quy mô tổ chức, quân số, trang bị vũ khí, cách huấn
luyện và trình độ chiến đấu. Tại các tỉnh, thành phố như Sài Gòn-Chợ Lớn, Gia Định, Tân
An, Mỹ Tho, Vĩnh Long... đều tổ chức tự vệ, tổ, tiểu đội du kích. Ở vùng nông thôn, phần lớn
các xã tổ chức được từ 1 tiểu đội đến 1 trung đội. Trên địa bàn các tỉnh còn lại ở Nam Kỳ,
quá trình xây dựng lực lượng gặp khó khăn do cơ sở cách mạng bị địch tàn phá. Ở một số địa
phương, ta chỉ xây dựng được đội du kích làng xã, hoặc có nơi ta chỉ tổ chức được một số đội
du kích ở vùng ven tỉnh lỵ, quận lỵ. Đến tháng 11-1940, 18 trong số 21 tỉnh, thành phố của
Nam Kỳ, ta đã tổ chức được các đội du kích, tự vệ, quân số có đội lên tới 100 người. Các đội
du kích, tự vệ trang bị vũ khí thô sơ, khẩn trương huấn luyện quân sự, sẵn sàng làm nòng cốt
cho nhân dân đứng lên đánh đổ ách thống trị tàn bạo của thực dân, phong kiến giành độc lập,
tự do.
Chủ trương phát động tổng khởi nghĩa
Thời cơ cách mạng đến gần
Sự đầu hàng của Đế quốc Nhật được Thiên hoàng Hirohito tuyên bố vào ngày 15
tháng 8 và được ký chính thức vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã kết thúc chiến tranh Thế giới
thứ hai. Tính đến cuối tháng bảy 1945, Hải quân Đế quốc Nhật Bản không còn khả năng thực
hiện các chiến dịch và một cuộc xâm lược của Đồng Minh vào Nhật Bản sắp sửa diễn ra.
Trong khi công khai tuyên bố sẽ chiến đấu cho đến khi kết thúc cay đắng, giới lãnh đạo Nhật
Bản (tức Hội đồng Chiến tranh Tối cao) đã bí mật cầu khẩn Liên Xô (đã ký hiệp ước trung
lập với Nhật) làm trung gian hòa giải để cho Nhật được hưởng những điều kiện có lợi cho
mình. Tuy nhiên, Liên Xô khi đó đang muốn tấn công Nhật Bản để thực hiện lời hứa của họ
với Mỹ và Anh như đã tuyên bố trong Hội nghị Tehran và Yalta.
Ngày 6 tháng 8 năm 1945, Hoa Kỳ đã ném một quả bom nguyên tử xuống thành phố
Hiroshima. Vào tối muộn ngày 8 tháng 8 năm 1945, căn cứ theo thỏa thuận Yalta nhưng vi
phạm Hiệp ước Trung lập Nhật-Xô, Liên Xô đã tuyên chiến với Nhật Bản và ngay sau lúc
nửa đêm vào ngày 9 tháng 8 năm 1945 Liên Xô đã tấn công chính quyền bù nhìn của Nhật ở
Mãn Châu. Sau đó vào cùng ngày, Hoa Kỳ ném quả bom nguyên tử thứ hai, lần này là xuống
thành phố Nagasaki. Cú sốc cộng hưởng của những sự kiện này đã khiến Nhật hoàng
Hirohito phải can thiệp và ra lệnh cho Hội đồng Chiến tranh Tối cao chấp nhận những điều
kiện kết thúc chiến tranh mà Khối Đồng Minh đã soạn thảo trong Tuyên bố Potsdam. Thêm
vài ngày nữa với những cuộc đàm phán ở hậu trường và một cuộc đảo chính thất bại, Nhật
hoàng Hirohito đã đọc bài diễn văn Gyokuon-hōsō trên đài phát thanh vào ngày 15 tháng 8 để
tuyên bố Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh. Bài diễn văn được phát đi trên khắp Đế quốc.
Ngày 28 tháng 8, chỉ huy Tối cao Lực lượng Đồng Minh bắt đầu chiếm đóng Nhật Bản. Nghi
lễ đầu hàng đã được thực hiện trên chiến hạm USS Missouri (BB-63) của Hải quân Hoa Kỳ
ngày 2 tháng 9, tại đó các quan chức của chính phủ Nhật Bản đã ký văn kiện Nhật Bản đầu

24
hàng, theo đó kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhân dân cũng như quân nhân các nước
Đồng Minh đã hân hoan kỷ niệm Ngày Chiến thắng Nhật Bản (V-J Day), đánh dấu sự chấm
dứt chiến sự.

Hội nghị toàn quốc của Đảng (15/8/1945):


Ngày 14-8, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang).
Dự Hội nghị có đại biểu các đảng bộ địa phương trong nước, một số đại biểu hoạt động ở
nước ngoài, đại biểu của Khu Giải phóng và các chiến khu. Bắt nhịp đúng sự nóng hổi của
tình hình, sau khi thảo luận, Hội nghị khẳng định: "Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông
Dương như đã chín muồi", "quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần; bọn Việt gian thân Nhật
hoảng sợ", "Toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa, giành quyền độc lập”.
Trên cơ sở phân tích chính xác tình hình, Hội nghị nhất trí: Đảng phải kịp thời phát động và
lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành quyền độc lập hoàn toàn.
Hội nghị đề ra ba nguyên tắc để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa thắng
lợi.
"a) Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính.
b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự chính trị, hành động và chỉ huy.
c) Kịp thời - kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội.
Hội nghị đề ra phương châm hành động là: “Đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không
kể thành phố hay thôn quê", "quân sự và chính trị phải phối hợp", "làm tan rã tinh thần quân
địch và dụ chúng hàng trước khi đánh", “chớp lấy những căn cứ chính (cả các đô thị) trước
khi quân Đồng minh vào", “thành lập những Uỷ ban Nhân dân ở những nơi ta làm chủ”.
Hội nghị đề ra ba khẩu hiệu đấu tranh lớn là:
“Phản đối xâm lược!
Hoàn toàn độc lập
Chính quyền nhân dân!".
Ngoài việc quyết định nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách, trước mắt là lãnh đạo Tổng khởi nghĩa
giành chính quyến, Hội nghị còn đề ra các công tác đối nội, đối ngoại cần được thi hành sau
khi giành được chính quyền thắng lợi.
Về đối nội: Hội nghị thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh. coi đó là những
chính sách cơ bản, trước mắt trong toàn bộ những hoạt động của toàn Đảng, toàn dân ta. Hội
nghị cũng nhấn mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức quần chúng, trước hết là tuyên
truyền, giáo dục các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh; chú trọng đến nhiệm vụ kinh tế, nhất
là sản xuất nông nghiệp.
Về mặt đối ngoại: Hội nghị nêu rõ chủ trương triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp, Anh,
Mỹ, Tưởng; hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong cùng một
lúc; tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô và Đồng minh để chống lại mưu mô hồi phục
lại địa vị cũ ở Đông Dương của đế quốc Pháp và âm mưu xâm chiếm nước ta của quân phiệt
Tưởng. Trong khi đề cao việc tranh thủ Đồng minh, Hội nghị nhấn mạnh khâu mấu chốt
giành thắng lợi trên mặt trận đối ngoại là dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định được
sự thắng lợi giữa ta và Đồng minh".

25
Để bảo đảm lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi, Hội nghị nhấn mạnh công tác đào tạo,
sử dụng phân phối cán bộ, kết nạp đảng viên; bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Chí Thanh,
Hoàng Văn Hoan7, Chu Văn Tấn, Vũ Anh (Uỷ viên chính thức), Võ Nguyên Giáp (Uỷ viên
dự khuyết). Ngày 15-8, Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc, các đại biểu khẩn trương trở về
các địa phương, mang theo chủ trương của Đảng, kịp thời phát động và lãnh đạo nhân dân
vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền.
Đại hội quốc dân Tân Trào
Trong quá trình chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 10/1944, trước
chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới có lợi cho cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu
quốc dân để thành lập một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí
của toàn thể quốc dân ta, tạo nên sức mạnh dân tộc bên trong và tranh thủ ngoại viện của
quốc tế nhằm chớp thời cơ thuận lợi thực hiện cho được mục tiêu độc lập, tự do. Vì vậy, giữa
tháng 8/1945, khi chủ nghĩa phát xít tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh không điều kiện
và lực lượng cách mạng Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong cả nước, Hội nghị toàn quốc
của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 - 15/8/1945
để quyết định phát động Tổng khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào (Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt
Minh (Việt Nam độc lập Đồng minh hội) đã khai mạc Đại hội đại biểu quốc dân (còn gọi là
Quốc dân Đại hội Tân Trào). Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc
- Trung - Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các
đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào để bàn kế hoạch Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền về Nhân dân. Đại hội đại biểu quốc dân đã thông qua ba quyết định lớn:
Thứ nhất, nhất trí tán thành chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông
Dương và Tổng bộ Việt Minh.
Thứ hai, thông qua 10 chính sách của Việt Minh và hiệu triệu đồng bào tích cực phấn đấu
thực hiện, trong đó điểm mấu chốt đầu tiên là giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập.
Thứ ba, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Đại hội đã quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa, Quốc ca là bài “Tiến
quân ca”. Ngày 17/8/1945, Đại hội bế mạc trong không khí sôi nổi của Tổng khởi nghĩa; thay
mặt Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ:
“Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Uỷ ban dân tộc giải phóng để
lãnh đạo cuộc cách mạng của Nhân dân. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi
nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc
lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước”.

Quốc dân Đại hội Tân Trào là mốc son trong lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam, là
tiền thân của Quốc hội Việt Nam, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Việt Nam
quốc dân đại biểu Đại hội cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam để lãnh đạo toàn quốc
nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập. Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch
sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay. Đó là một điều khiến cho đồng
bào ta phấn khởi và riêng tôi hết sức vui mừng
Tổng khởi nghĩa toàn quốc:

26
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt
vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc
tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền
Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng
Nam... Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa
thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình
Định, Gia Lai, Bạc Liêu... Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum,
Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà
tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn
toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Vua Bảo Đại thoái vị
Ngày 15-8-1945, giữa cao trào của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám, Nhật đầu hàng Đồng
minh (Anh, Pháp, Mỹ). Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế bắt đầu phát động khởi nghĩa
giành chính quyền. Nhiệm vụ vận động vua Bảo Đại thoái vị được giao cho Tổng lý Ngự tiền
văn phòng Phạm Khắc Hòe đảm trách.
Ngày 17-8, Bảo Đại ban hành dụ số 105 chấp nhận bàn giao chính quyền cho Việt Minh,
song vẫn hy vọng có thể giữ được ngôi báu bằng cách mời các các lãnh tụ Việt Minh về Huế
thiết lập nội các mới. Chiều ngày 22-8-1945, Bảo Đại nhận được một bức điện tín từ Ủy ban
Dân tộc Giải phóng với nội dung: “Trước ý chí đồng nhứt của toàn thể dân chúng Việt Nam,
sẵn sàng hy sinh tất cả để cứu vãn nền dộc lập quốc gia, chúng tôi thành kính xin đức Hoàng
đế hãy làm một cử chỉ lịch sử để từ bỏ ngai vàng”.
Như vậy, trước cao trào của cuộc cách mạng, nhân dân đã chọn cho mình con đường đi theo
cách mạng. Bảo Đại phải chọn cho mình con đường hòa hợp với chính số mệnh của toàn thể
nhân dân. Nếu như tháng 3-1945, sự tồn vong của lịch sử đất nước đòi hỏi Bảo Đại ở ngôi thì
tháng 8-1945, cũng vì sự tồn vong của đất nước, Bảo Đại phải đi theo nhân dân. Vị vua cuối
cùng của triều Nguyễn quyết định thoái vị, như nhân dân đã đòi hỏi. Là hoàng đế, Bảo Đại đã
dấn thân cho nền độc lập và thống nhất của tổ quốc, cho nên không thể đi ngược lại con
đường đã mở ra cho đất nước. Bảo Đại gửi điện tín cho Ủy ban Dân tộc Giải phóng, sẵn sàng
hy sinh mọi quyền lợi vì sự nghệp chung và yêu cầu người của Ủy ban sớm đến Huế để nhận
bàn giao. Tối ngày 22-8-1945, đài phát thanh Huế vang lên lời tuyên bố thoái vị của nhà vua:
“Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Trẫm chắc rằng toàn thể
quốc dân cũng một lòng hy sinh như Trẫm”.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một
triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản
Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh
của nước ta.
Kết quả, 
- Đập tan ách thống trị của đế quốc và phong kiến, lập ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hũa. 
- Nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập tự do, nhân dân từ thân phận một
kẻ nô lệ thành người làm chủ đất nước, Đảng ta trở thành Đảng hợp pháp nắm chính quyền. 
- Nó đánh dâu bước nhảy vọt trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam, mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH

27
. * Nguyên nhân thắng lợi 
+ Nguyên nhân khách quan: 
- Do kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và các thế lực dân chủ thế
giới đánh bại. 
- Bọn Nhật ở Đông Dương và tay sai đã tan rã Đảng đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân
nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng. 
+ Nguyên nhân chủ quan: 
- Cách mạng tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh của dân tộc ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng đó được rèn luyện qua ba cao trào: 1930-1931; 1936-1939; 1939-1945. 
- Cách mạng tháng Tám thành công là do Đảng ta đó chuẩn bị được lực lượng vĩ đại của toàn
dân đoàn kết trong mặt trận Việt minh, dựa trên cơ sở liên minh công – nông dưới sự lónh
đạo của Đảng. - Đảng ta là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng tháng Tám thàng công, vì
Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, nắm đúng thời cơ
và chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo tạo nên sức mạnh tổng hợp áp đảo kẻ thù.
. Ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Một là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã làm nên một sự kiện “long trời, lở đất”,
chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, chấm dứt sự tồn tại của chế
độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Cách mạng Tháng Tám đã mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách
mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước,
làm chủ vận mệnh của mình. Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Đánh giá về ý nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã
đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền
tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay
đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta” [5]. Tiếp tục nhấn mạnh ý nghĩa to lớn đó,
trong Bài phát biểu tại khóa họp Xô viết Tối cao Liên Xô nhân kỷ niệm 40 năm Cách mạng
Tháng Mười, ngày 6/11/1957, Người tự hào khẳng định: “Năm 1945, nhân dân Việt Nam đã
làm Cách mạng Tháng Tám, đánh đuổi bọn thực dân ra khỏi đất nước và xây dựng chính
quyền nhân dân. Đó là một bước ngoặt trong lịch sử của dân tộc chúng tôi” [6]. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng tám mở kỷ nguyên độc lập với sự kiện lần đầu tiên tên nước Việt Nam có
tên bản đồ thế giới. Cũng từ đó, dân tộc ta đã mở ra mối quan hệ ngoại giao với các nước trên
thế giới với tư cách và vị thế của một quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền.
Hai là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một mặt, đã góp phần đánh
bại tàn dư của chế độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít ở Việt Nam. Cách
mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực
dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng
dân tộc trên thế giới. Về vấn đề này, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp Kỷ niệm
Cách mạng Tháng Tám, ngày 19/8/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mạng Tháng
Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân”
[4]. Mặt khác, đối với công cuộc xây dựng một chế độ xã hội mới, kết quả mà Cách mạng
Tháng Tám mang lại thể hiện sự khác hẳn về chất so với chế độ cũ (phong kiến, thực dân và

28
đế quốc), như Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta
cái nền tảng Dân chủ Cộng hòa và thống nhất độc lập” [4].
Ba là, Cách mạng Tháng Tám khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Ngay từ khi ra đời, ngày 03/02/1930, Đảng ta đã đề ra đường lối đúng đắn với mục tiêu
xuyên suốt của sự nghiệp cách mạng là giải phóng dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,
góp phần tích cực vào phong trào cách mạng thế giới. Vì thế, trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng
tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 15 năm (1930 - 1945), Đảng ta đã lãnh đạo
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: cao trào cách mạng 1930
- 1931, với đỉnh cao là phong trào Xôviết - Nghệ Tĩnh; cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân
chủ (1936 - 1939) và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945). Tháng 8/1945,
với nghệ thuật lãnh đạo tài tình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chớp thời cơ thuận lợi nhất,
lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành tổng khởi nghĩa, đánh đổ đế quốc phong kiến,
thành lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là
một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần
đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã đưa Đảng
ta từ chỗ phải hoạt động bí mật, không hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động
công khai. Trong bài viết Cách mạng tháng Mười Nga mở đường giải phóng cho các dân tộc
trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực tiễn ở Việt Nam đã chứng tỏ rằng
nhờ có sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin mà cách mạng đã thu được thắng lợi vẻ vang trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội” [7].
Bốn là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về chất
trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ
nguyên độc lập tự do hướng tới chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã
tạo bước ngoặt cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội;
là một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với dân tộc Việt Nam, hiện hữu đầy đủ bản chất
dân chủ, nhân văn vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, bất
khuất tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát triển để “có được cơ đồ,
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [2].
Năm là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin
được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, là sự thể nghiệm
thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác - Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Thắng của Cách
mạng Tháng Tám đã chứng minh tính cách mạng, khoa học của học thuyết Mác - Lênin về
vấn đề dân tộc và thuộc địa; là sự tiếp nối và là thắng lợi tất yếu sau thắng lợi của Cách mạng
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại năm 1917. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh sự đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về
vấn đề dân tộc thuộc địa, đã chứng minh sự đúng đắn của con đường của Cách mạng xã hội
chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại đã vạch ra” [6]. Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám còn là
minh chứng hùng hồn về sự thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh khi vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh rằng, cách mạng giải phóng dân
tộc do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước
thuộc địa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã
hội. Cuộc cách mạng đó quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở “chính quốc”, nhưng
không lệ thuộc vào cách mạng ở “chính quốc”. Trái lại, nó có thể giành được thắng lợi trước
khi giai cấp công nhân “chính quốc” lên nắm chính quyền.

29
Sáu là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cổ vũ phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Cách mạng
Tháng Tám là tấm gương, là nguồn cổ vũ cho các quốc gia - dân tộc đang mất độc lập, tự do
ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, nhất là các nước láng giềng noi theo. Khẳng định vị thế,
giá trị thời đại của  thắng lợi này, Chủ tich Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng Tám thắng
lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới. Cách mạng
Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào. Cách mạng
Tháng Tám thành công, nhân dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc
lập” [5]. Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ
của nhân loại. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cùng với Liên Xô, các lực lượng tiến bộ
trên thế giới và quân đồng minh đánh đổ chủ nghĩa thực phát xít, giữ vững hòa bình cho khu
vực và trên thế giới. Do đó, chiến thắng của Cách mạng Tháng Tám cũng là chiến thắng
chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Về vấn
đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lại đánh giá của Báo Nhân dân Inđônêxia: “Chúng ta chỉ
có thể bày tỏ sự kính trọng và lòng khâm phục cao nhất đối với nhân dân Việt Nam anh
hùng... Với sự chiến đấu anh dũng của họ, nhân dân Việt Nam đã tự đặt mình lên vị trí vẻ
vang nhất trên thế giới...” [8]. Khái quát đầy đủ ý nghĩa thắng lịch sử của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân
dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác
cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính
quyền toàn quốc”.
Bài  học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, làm phong phú thêm hệ thống lý luận của cách mạng
Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến. Con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Cương lĩnh
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết
là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách
mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống
phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu
sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời
nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục
tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước để chĩa mũi nhọn của cách mạng
vào đế quốc phát xít và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của
cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của
đường lối gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến.
Hai là, thực hiện khởi nghĩa toàn dân trên nền tảng khối liên minh công - nông. Hồ
Chí Minh cho rằng: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng
thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết” [3], vì thế “công nông là gốc cách
mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ
bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” [3]. Thực tiễn đã
chứng minh chân lý đó. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là kết quả cuộc đấu tranh của hơn

30
20 triệu người Việt Nam yêu nước là lực lượng cách mạng, trong đó động lực cách mạng là
giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Liên minh công - nông
được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng, đến đỉnh cao là Tổng khởi nghĩa thì liên
minh công - nông đã lớn mạnh vượt bậc. Dựa trên nền tảng của khối liên minh này, Đảng xây
dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi. Mặt
khác, trên cơ sở nhắm đúng mục tiêu chiến lược hàng đầu của cách mạng và khối đại đoàn
kết toàn dân, Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế
quốc phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến,
mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù
chính là bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần
tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.

Ba là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một
cách thích hợp. Nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin: “bạo
lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới, bạo lực là công cụ mà sự
vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị cứng
đờ và chết” [1], Đảng ta đã kiên trì xây dựng lực lượng cách mạng, biết cách sử dụng linh
hoạt các hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh phù hợp với từng hoàn cảnh, từng giai đoạn
lịch sử, tập dượt đấu tranh từ thấp đến cao. Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách
mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy
của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị,
trong đó, vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng
Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp
pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước,
từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Khi thời cơ đến, Đảng đã biết sử dụng tối
đa sức mạnh cách mạng theo nguyên tắc “tập trung, thống nhất, kịp thời” đập tan bộ máy nhà
nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.
Bốn là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, chọn đúng thời cơ. Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế
giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở nước ta để lãnh đạo, chỉ đạo
Cách mạng Tháng Tám. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm
1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nghệ thuật
chỉ đạo tài tình của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định
Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng
tháng 03/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của
Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi vào đêm 13/8/1945. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi
chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang
mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước
được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ
trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân
dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa
thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.(Đây là phần nghệ thuật nắm bắt thời
cơ, có thể nói ở đây hoặc nói sơ qua để phân tích sâu hơn ở phần sau)
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám được một đảng tiên phong thật sự cách mạng
lãnh đạo. Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước, ngay từ đầu Đảng đã xác định đúng đường lối chiến lược và

31
sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược
đó. Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của
Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những
khuynh hướng lệch lạc. Đảng có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn bó với
nhân dân. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý
chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đảng
biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt
trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Đảng biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ
chức, sử dụng lực lượng đúng lúc; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
dẫn dắt quần chúng tiến lên giành và giữ chính quyền. Với những yếu tố như trên, nên tuy chỉ
mới được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh và mặc dù chỉ có 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh
đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và mang tầm vóc
thời đại. Thực tiễn lãnh đạo của Đảng đã khẳng định rằng, một đảng cách mạng chân chính
có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu,
tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì đảng có sức mạnh vô địch,
không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên.
Nghệ Thuật nắm bắt thời cơ 
Từ kết quả và kết quả ý nghĩa nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cuộc
cách mạng tháng tám ta thấy được nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Đảng ta trong cách mạng
Tháng Tám. 
Cách đây 76 năm - tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền của nhân
dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nổ ra trên toàn quốc và giành được thắng lợi
mau lẹ, ít tổn thất, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên của độc lập, tự
do và hạnh phúc. Đó không phải là một thắng lợi “ăn may” trong bối cảnh “khoảng trống
quyền lực” như một số ý kiến sai lầm, hoặc cố ý xuyên tạc lịch sử, mà là một quá trình chuẩn
bị công phu, lâu dài và khoa học của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong đó, việc nắm bắt và giải quyết hết sức đúng đắn bài toán thời cơ cách mạng đã
trở thành một bài học mẫu mực, một nghệ thuật tài tình của Trung ương Đảng, đứng đầu là
lãnh tụ Hồ Chí Minh. Người đã dự đoán khoa học và nhận định chính xác về thời cơ; theo dõi
chặt chẽ, tích cực chuẩn bị sẵn sàng chờ thời cơ; thúc đẩy cho thời cơ phát triển nhanh chóng
và chớp thời cơ tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đã chín muồi. Đó chẳng
những là sự quán triệt, kế thừa lý luận Mác-Lênin về khởi nghĩa giành chính quyền, mà còn
là sự vận dụng sáng tạo vào bối cảnh cụ thể của Việt Nam, góp phần tạo dựng nên phương
pháp cách mạng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn hết sức coi trọng
yếu tố thời cơ cách mạng. Người đã đúc kết:
“Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời, một tốt cũng thành công”.
Nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Hồ Chí Minh trong Cách mạng tháng Tám được thể hiện
trước hết ở việc Người xác định chính xác những dấu hiệu của thời cơ và dự đoán chính xác
thời điểm xuất hiện thời cơ. 
Tháng 5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Tám do Hồ Chí Minh chủ
trì đã phân tích tình hình thế giới đang bị tác động sâu sắc bởi cuộc Chiến tranh thế giới thứ
hai và dự báo: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội

32
chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó
mà cách mạng nhiều nước thành công”.
Riêng đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chủ trương “phải
thay đổi chiến lược” và đặt lên trên hết, trước hết nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tập trung tất
cả mọi lực lượng yêu nước trong dân tộc nhằm vào một mục tiêu duy nhất là đánh đuổi phát
xít Nhật - Pháp giành lại độc lập cho Tổ quốc.
Hội nghị xác định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi
nghĩa võ trang” và nêu rõ những điều kiện phát động khởi nghĩa thành công - các dấu hiệu
của thời cơ: 
1) Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc. 
2) Nhân dân không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, mà đã sẵn sàng hy
sinh bước vào con đường khởi nghĩa.
3) Phe thống trị Đông Dương đã bước vào cuộc khủng hoảng phổ thông đến cực điểm vừa về
kinh tế, chính trị lẫn quân sự.
4) Những điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa Đông Dương như quân Tàu đại
thắng quân Nhật, Cách mạng Pháp hay Cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở
Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi và nhất là
quân Tàu hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương. 
Tháng 2/1942, trong tác phẩm Lịch sử nước ta, Hồ Chí Minh đã đưa ra dự báo thiên
tài: “1945 - Việt Nam độc lập!”. Tháng 10/1944, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, Người
nêu rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự
thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi
nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”.
Những dự báo về thời cơ cách mạng của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng được tiếp
nối và bổ sung với Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Thường vụ
Trung ương Đảng vào tháng 3/1945, khi quân Nhật tiến hành đảo chính hất cẳng quân Pháp ở
Đông Dương.
Điểm đáng chú ý thể hiện năng lực dự báo thời cơ cách mạng hết sức tài tình của Hồ
Chí Minh là Người không dừng ở việc đánh giá, nhận định thời cơ tại thời điểm hiện tại, mà
luôn luôn nhìn nhận, phân tích thời cơ đó trong sự vận động, phát triển của tình hình thế giới
và trong nước, theo đúng tinh thần phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều đó lý
giải vì sao Người luôn đưa ra các dự báo chính xác về thời cơ cách mạng mỗi khi tình hình
thế giới và trong nước có những biến chuyển.
Nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Hồ Chí Minh trong Cách mạng tháng Tám còn được
thể hiện ở sự chỉ đạo tích cực, chủ động để chờ đón thời cơ và thúc đẩy thời cơ nhanh chín
muồi.
Trên cơ sở thấm nhuần phương pháp biện chứng duy vật, với tinh thần độc lập, sáng
tạo cao độ, Hồ Chí Minh cho rằng, không thể trông chờ thời cơ một cách bị động, mà phải
trong tư thế chủ động, tích cực. Thậm chí, trong một chừng mực nhất định, có thể và cần phải
tìm ra những cách thức để tác động, thúc đẩy thời cơ chóng chín muồi, tạo thành bước phát
triển nhảy vọt của cách mạng.

33
Ngay từ năm 1921, khi dự báo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam sẽ
bùng nổ mạnh mẽ khi thời cơ đến, Hồ Chí Minh cũng đồng thời chỉ ra nhiệm vụ của lực
lượng lãnh đạo: “Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến”. 
Trên thực tế có hai phương thức để tác động, thúc đẩy thời cơ. Thứ nhất, là bằng cách
tác động vào các mâu thuẫn làm phát sinh thời cơ. Đây là cách của các lực lượng cách mạng
đang có ưu thế mạnh hơn so với lực lượng kẻ thù, có thể trực tiếp làm suy yếu thế lực kẻ thù,
khiến cho kẻ thù bị đẩy vào thế phạm sai lầm. Thứ hai, là phải nỗ lực tích lũy, tăng cường
thực lực cách mạng, biết tìm ra những hình thức tổ chức và đấu tranh thích hợp khi thời kỳ
hoà bình phát triển cách mạng đã qua nhưng thời kỳ tổng khởi nghĩa chưa tới để khi thời cơ
tới, cách mạng đủ sức tận dụng thời cơ. Đây là cách tác động, thúc đẩy thời cơ của các lực
lượng cách mạng vốn chưa mạnh, phải đợi thời, nhưng theo tinh thần chủ động, tiến công.
Chính với tinh thần chủ động như trên, Hồ Chí Minh đã tích cực tổ chức xây dựng lực
lượng cách mạng Việt Nam cả về lực lượng lãnh đạo (Đảng) và lực lượng tham gia (lực
lượng chính trị: Mặt trận dân tộc thống nhất quy tụ lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc, với
các giai cấp, tầng lớp, tổ chức đoàn thể, cá nhân yêu nước; lực lượng vũ trang nhân dân).
Theo sáng kiến của Hồ Chí Minh, ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh ra đời, nhằm tập hợp, quy tụ các lực lượng, cá nhân yêu
nước trên toàn quốc cùng thực hiện mục tiêu chung là giành lại độc lập dân tộc, thực hiện tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Hồ Chí
Minh, phong trào xây dựng các đoàn thể cứu quốc thành viên của Mặt trận Việt Minh, như
Hội Nông dân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Công nhân
cứu quốc, Hội Văn hóa cứu quốc... diễn ra sôi nổi ở cả nông thôn và thành thị. Cùng với đó,
việc tổ chức lực lượng vũ trang xây dựng các căn cứ địa cũng được Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Người, khu giải phóng Việt Bắc - căn cứ địa chính của cả
nước, hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới trong những ngày tiền khởi nghĩa ra đời. Hồ
Chí Minh cũng chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền
giải phóng quân vào ngày 22/12/1944. Cùng với các đội Cứu quốc quân, Đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đến giữa năm 1945,
lực lượng cách mạng trên toàn quốc đã phát triển vượt bậc, sẵn sàng chờ thời cơ đến.
Bài học thời cơ trong Cách mạng tháng Tám còn được thể hiện ở năng lực của Hồ Chí
Minh nhạy bén phát hiện thời cơ và chỉ đạo lực lượng cách mạng nhanh chóng chớp thời cơ
khi thời cơ đến.
Sau khi tiêu diệt phát xít Đức, thực hiện cam kết với các nước Đồng minh, ngày
9/8/1945, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật và chỉ trong vòng một tuần lễ đã
tiêu diệt đạo quân Quan Đông tinh nhuệ bậc nhất của quân đội Nhật, giải phóng vùng Đông
Bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Trước đó, nhằm gây sức ép với Chính phủ Nhật và phô
trương sức mạnh vũ khí hạt nhân, trong hai ngày 6 và 9/8/1945, Mỹ đã ném hai quả bom
nguyên tử xuống hai thành phố của Nhật là Hirôsima và Nagazaki làm hàng chục vạn người
chết và để lại những hậu quả nặng nề kéo dài.
Trước tình hình trên, ngày 9/8/1945, Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật Bản đã
họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pốtxđam của phe Đồng minh. 12 giờ ngày
15/8/1945, Đài phát thanh Tôkyô của Nhật Bản phát đi lời tuyên bố của Nhật hoàng “chấp
nhận bản Tuyên bố chung của các cường quốc”. Nước Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng. Quân
đội Nhật đang đồn trú tại các quốc gia khác ở nguyên vị trí chờ quân Đồng minh đến giải
giáp. Thông tin từ nước Nhật, khiến quân đội Nhật đang đóng ở Việt Nam hoang mang, rệu
rã; Chính phủ thân Nhật bị lung lay cực điểm.

34
Trong khi đó, tinh thần cách mạng của nhân dân Việt Nam được đẩy lên cao độ để
giành quyền sống sau khi khoảng hai triệu người từ Bắc Trung Bộ trở ra bị chết trong nạn đói
năm 1945.
Qua sóng rađiô, từ ngày 12/8, Hồ Chí Minh đã nắm bắt được thông tin về khả năng
quân Nhật đầu hàng Đồng minh và cũng nắm rõ tinh thần cách mạng sục sôi của quần chúng
nhân dân. Kẻ thống trị không còn có thể thống trị như trước nữa và quần chúng nhân dân
cũng không còn chịu đựng được ách thống trị như trước nữa. Hồ Chí Minh nhận rõ thời cơ
tổng khởi nghĩa đã chính thức xuất hiện và thời cơ này chỉ tồn tại trong khoảng thời gian
ngắn (trên thực tế thời cơ thuận lợi cho tổng khởi nghĩa chỉ trong khoảng 20 ngày, từ ngày
15/8/1945 - khi Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng minh, đến ngày 5/9/1945 -
khi quân Đồng minh kéo vào nước ta để giải giáp quân Nhật). Người chỉ đạo khẩn trương tổ
chức Hội nghị toàn quốc của Đảng (ngày 14/8/ - 15/8) và Đại hội quốc dân (ngày 16/8 - 17/8)
tại Tân Trào, thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam.
Ngày 18/8/1945, Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi đồng bào cả nước: 
“Hỡi đồng bào yêu quý! 
Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức
ta mà tự giải phóng cho ta”.
Đáp lời kêu gọi của Người, chỉ trong khoảng hai tuần, cả dân tộc vùng lên, làm cuộc tổng
khởi nghĩa trong toàn quốc thành công rực rỡ.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta nhiều lần khẳng định đất nước đang
đứng trước cả những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, nguy cơ, thách thức đan xen, đòi hỏi
toàn Đảng phải nâng cao quyết tâm chính trị, dự báo chính xác tình hình và có những quyết
sách phù hợp. Do đó, bài học về nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Hồ Chí Minh trong Cách
mạng tháng Tám vẫn mang ý nghĩa thời sự hết sức sâu sắc.

35
🌘 Chủ đề 4: Hoàn cảnh Việt Nam sau CMT8. Chủ trương xây dựng, bảo vệ chính quyền của
Đảng.
* Làm rõ bối cảnh lịch sử Việt Nam: khó khăn gì? (nạn đói năm 1945; dịch tả). Phân tích đường lối
kháng chiến kiến quốc trong giai đoạn này.

dễ nhầm: đường lối kháng chiến chống Pháp >< đường lối xây dựng & bảo vệ chính quyền.

bảo vệ quần đảo HS + TS

BÀI 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CUỘC ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG


DÂN TỘC (1945 – 1975)
1) Tình hình trong nước
a) Thuận lợi:
Cách mạng Tháng Tám 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc:
kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã tạo thế và lực mới cho cách mạng
Việt Nam. Đứng đầu Đảng và Nhà nước cách mạng là Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị
lãnh tụ thiên tài, có uy tín tuyệt đối trong toàn dân. Người là tấm gương sáng
cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Cuộc đời hoạt động
cách mạng phong phú cùng với uy tín rộng lớn của Người là ngọn cờ tập hợp
các tầng lớp nhân dân xung quanh Đảng và Chính phủ. 
Nhân dân Việt Nam từ tầng lớp nô lệ, chịu áp bức giờ đây trở thành người làm
chủ đất nước, của chế độ mới, bước đầu được hưởng những quyền lợi do cách
mạng đem lại. Toàn dân luôn tin tưởng, quyết tâm đoàn kết chiến đấu hy sinh để
bảo vệ tổ quốc. Có thể nói đây chính là một nguồn sức mạnh vô tận giúp Nhà
nước cách mạng có thể chống chọi lại với những khó khăn, thử thách. 
Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo. Đảng ta ngày
càng trưởng thành, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân và thêm dày dạn
kinh nghiệm lãnh đạo. Sau khi giành được độc lập, Đảng ta đã kịp thời mở rộng
đội ngũ, đạo tạo cán bộ, tăng cường và phát huy sự lãnh đạo trên mọi mặt hoạt
động để chuẩn bị tổ chức cho toàn dân bước vào cuộc đấu tranh mới. Đặc biệt,
chính quyền cách mạng được xây dựng từ cấp Trung ương tới cơ sở, ra sức
phục vụ nhân dân, đất nước, nhận được sự ủng hộ và tín nhiệm từ nhân dân cả
nước. Các Hội Cứu quốc trong công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ được tổ
chức thống nhất trong cả nước. Nhiều Hội Cứu quốc mới ra đời, tập hợp thêm
những tầng lớp yêu nước còn đứng ngoài Mặt trận, như Công thương Cứu quốc,

36
Phật giáo Cứu quốc, Đoàn Hướng đạo Cứu quốc, Đoàn sinh viên Cứu quốc...
Mặt trận Việt Minh thực sự trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân rộng rãi, giữ
vai trò rất quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền dân chủ nhân
dân. 

Thực hiện chủ trương vũ trang toàn dân, nhân dân ta tích cực xây dựng lực
lượng. Chỉ trong thời gian ngắn, lực lượng vũ trang bao gồm các đơn vị Giải
phóng quân và các đội tự vệ chiến đấu phát triển nhanh chóng. Dù trang bị vũ
khí còn rất thô sơ và thiếu thốn, lại chưa có nhiều kinh nghiệm tác chiến, nhưng
cán bộ và chiến sĩ trong các đơn vị vũ trang đều có tinh thần chiến đấu dũng
cảm. Quân đội thường trực và các lực lượng vũ trang là công cụ đắc lực để bảo
vệ thành quả cách mạng. Bên cạnh đó khối đại đoàn kết toàn dân dựa trên nền
tảng vững chắc là liên minh công - nông cũng ngày càng được củng cố, sẵn
sàng dấn thân vào cuộc đấu tranh cách mạng mới.
b) Khó khăn:
Chính quyền cách mạng mới được thiết lập chưa có nhiều kinh nghiệm quản lí.
Nhân dân và chính quyền non trẻ phải đối măt với rất nhiều khó khăn, thách
thức. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời cũng chưa được một nước
nào trên thế giới công nhận. 
Lực lượng vũ trang cách mạng chưa phải là đội quân chính quy, vẫn còn trong
quá trình xây dựng và hoàn thiện, chưa được huấn luyện nhiều. Phần lớn cán bộ
chỉ huy chưa có hiểu biết về quân sự và kinh nghiệm chiến đấu. Trang bị còn
thô sơ, thiếu thốn, chủ yếu là giáo mác, dao găm, mã tấu, một ít súng trường,
súng máy. 
Về kinh tế, nước ta cũng đứng trước một tình thế hết sức hiểm nghèo. Nền kinh
tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp với trình độ lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá rất
nặng nề, thiên tai thường xuyên xảy ra. Trận lụt lớn hồi tháng 8 - 1945 làm vỡ
đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ, khiến 1/3 diện tích canh tác bị hư hại nặng. Sự thiệt hại do
trận lụt này gây ra ước tính khoảng 2.000 triệu đồng, tương đương khoảng 3
triệu tạ gạo (theo giá lúc đó). Sau đó lại xảy xa hạn hán kéo dài làm cho 50%
diện tích ruộng đất ở Bắc Bộ không cày cấy được. Các ngành kinh tế bị đình
đốn nghiêm trọng. Nhiều cơ sở công nghiệp chưa đi vào hoạt động. Hàng vạn
công nhân thất nghiệp. Việc buôn bán với nước ngoài hầu như bị đình trệ. Hàng
hoá trên thị trường khan hiếm. Nguy cơ nạn đói mới xuất hiện trong khi hậu quả
nạn đói lớn do Nhật - Pháp gây ra từ cuối năm 1944 đầu năm 1945 vẫn chưa

37
được khắc phục. Đời sống nhân dân bị đe dọa nghiêm trọng. Nền tài chính của
Nhà nước cách mạng trong buổi đấu hết sức kiệt quệ. Ngân sách quốc gia lúc đó
chỉ có 1.230.000 đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Các khoản thu từ thuế
giảm sút. Thuế quan là một nguồn thu chính, chiếm 3/4 ngân sách Đông Dương,
giờ đây sụt hẳn xuống. Một số chính sách thuế mới do Chính phủ ban hành
nhằm giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân (bãi bỏ thuế thân, thuế môn bài, thuế
xe tay, xe đạp, miễn thuế điền thổ cho những vùng bị ngập lụt và giảm 20%
trong toàn quốc...) cũng làm cho nguồn thu ngân sách giảm xuống rất nhiều.
Trong khi nguồn thu quá ít ỏi không thể đáp ứng được nhu cầu chi lớn thì Nhà
nước lại chưa nắm được Ngân hàng Đông Dương. Bên cạnh đó, khi kéo vào
nước ta, quân Tưởng lại tung ra trên thị trường giấy bạc "Quan kim" và "Quốc
tệ" đã mất giá trị, càng làm cho tình hình tài chính và thương mại thêm phức
tạp.
Bên cạnh đó, đời sống nhân dân cũng gặp không ít khó khăn. Thực dân Pháp
xây nhà tù nhiều hơn trường học, khiến hơn 90% người dân thất học, không biết
chữ. Trong khi đó, các tàn dư là hậu quả do chế độ cũ để lại đều rất nặng nề, các
tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút,... xảy ra rất nghiêm trọng. Bệnh dịch
hoành hành nhiều nơi. 
Các thế lực phản động trong nước tìm mọi cách cấu kết, bao vây hòng thủ tiêu
mọi thành quả cách mạng của nhân dân, đe dọa nguy hiểm đến sự tồn vong đối
với Nhà nước cách mạng. Do đó, mặt trận dân tộc thống nhất vẫn chưa được
củng cố vững chắc. Vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo vẫn còn mang
tính cấp thiết để tránh khỏi sự lợi dụng gây chia rẽ của kẻ thù.
=> Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của nước ta lúc bấy giờ chính là các thế lực
thù địch bên ngoài. Ở phía Bắc vĩ tuyến 16, hơn 20 vạn quân Tưởng đã ồ ạt kéo
vào nước ta. Núp dưới danh nghĩa đại diện lực lượng Đồng minh vào làm nhiệm
vụ giải giáp quân đội Nhật, quân Tưởng nuôi dã tâm: tiêu diệt Đảng Cộng sản
Đông Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh và dựng lên
một chính quyền tay sai. Bởi vậy, khi vào nước ta, quân Tưởng kéo theo các tổ
chức phản cách mạng như Việt Nam Quốc Dân đảng (Việt Quốc) do Nguyễn
Tường Tam, Vũ Hồng Khanh cầm đầu và Việt Nam cách mạng đồng minh hội
(Việt Cách) do Nguyễn Hải Thần cầm đầu. Quân Tưởng buộc Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà thực hiện chế độ trưng thu lương thực để mỗi tháng
phải cung cấp cho chúng 10.000 tấn gạo, trong khi nhân dân Bắc Bộ đang phải
chịu hậu quả nạn đói khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử đất nước. Dựa vào
quân Tưởng, các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách ra sức chống phá chính quyền

38
cách mạng. Chúng tiến hành nhiều hoạt động vu cáo, nói xấu Việt Minh, ngang
nhiên đòi gạt các bộ trưởng là đảng viên cộng sản ra khỏi Chính phủ. Chúng
còn gây ra các vụ giết người, cướp của, bắt cóc cán bộ, cướp chính quyền ở một
số địa phương (Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng Cái...).

Ở phía Nam vĩ tuyến 16, tình hình còn nghiêm trọng hơn do thực dân Pháp ngày
càng lộ rõ ý đồ trở lại Việt Nam để xâm lược. Ngày 17-8-1945, Pháp quyết
định thành lập lực lượng viễn chinh Pháp ở Viễn Đông (sau đổi là đạo quân
viễn chinh Pháp ở Viễn Đông) đưa sang Đông Dương. Thực hiện chủ trương
của Trung ương Đảng và Chính phủ, Mặt trận Việt Minh cùng chính quyền các
cấp lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ trang đề cao cảnh giác, tích cực đánh
địch, bảo vệ quê hương khiến âm mưu của thực dân Pháp muốn nhanh chóng
thiết lập lại nền thống trị ở Đông Dương thất bại.
Sau đó Pháp lại dựa vào quân Anh gấp rút chiếm Nam Bộ, làm bàn đạp đánh
chiếm phần còn lại của Đông Dương, lập chính phủ "Nam Kì tự trị", thành lập
Liên bang Đông Dương. Chúng vừa ráo riết chuẩn bị lực lượng, vừa khiêu
khích ta để tạo cớ cho quân Đồng minh can thiệp. Với danh nghĩa đại diện cho
lực lượng Đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật ở phía Nam vĩ tuyến
16, quân Anh đã dọn đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Vào
thời điểm này, trên đất nước ta đã có hơn 30 vạn quân các nước Anh, Pháp,
Tưởng, Nhật cùng nhiều đảng phái phản động lăm le lật đổ Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. 
Lợi dụng tình hình trên, các thế lực phản động ở trong nước bắt đầu nổi dậy
hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Các phần tử tay sai của thực dân
Pháp như Nguyễn Văn Xuân, Lê Văn Hoạch,...  âm mưu phục tùng Pháp trở lại.
Tên mật thám cũ là Nguyễn Tấn Cường đứng ra lập "Đảng Nam Kì"; Nguyễn
Văn Tị lập "Đảng Đông Dương tự trị", thực hiện âm mưu của thực dân Pháp
chia cắt Nam Bộ ra khỏi nước Việt Nam thống nhất, thành lập "Nam Kì quốc".
Các tổ chức chính trị phản động thân Nhật, như Đại Việt cách mạng đảng, Đại
Việt quốc dân đảng, Đại Việt duy dân đảng cũng ráo riết hoạt động. Một số
phần tử phản động trong các đạo Thiên Chúa, Cao Đài, Hoà Hảo... lợi dụng thần
quyền và lòng sùng đạo của tín đồ để hoạt động chia rẽ, chống phá cách mạng.
Bọn phản động cũng tung ra những khẩu hiệu quá khích như: đòi tăng lương
ngay cho công nhân; đòi tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân; đòi
đánh đổ tất cả các đế quốc cùng một lúc... Chúng hô hào liên kết thợ thuyền và

39
dân cày, đấu tranh chống tư sản và địa chủ, nhằm phá hoại mặt trận đoàn kết
dân tộc v.v…

Tất cả những khó khăn đó đã trực tiếp đe dọa đến sự tồn tại của Nhà nước cộng
hòa non trẻ. Vận mệnh Tổ quốc lúc bấy giờ như ngàn cân treo sợi tóc. Hoàn
cảnh ấy cũng đặt ra cho nhân dân ta một nhiệm vụ vô cùng cấp bách đó chính là
phải xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền cách mạng.
2) Tình hình thế giới sau CMT8
a) Thuận lợi:
- Ba dòng thác cách mạng phát triển mạnh mẽ: 
● Hệ thống xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành.  (Liên Xô, Cộng hòa
Dân chủ Đức, Bungari, Ba Lan, Hungary, Rumani, Tiệp Khắc, Albania,
Mông cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Cuba.) 
● Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ làm lung lay hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. (có ảnh hưởng trực tiếp và rất to lớn đến
cách mạng ở hai nước Miên và Lào.)
● Phong trào đấu tranh của nhân dân lao động, nòng cốt là giai cấp công
nhân đòi dân chủ, dân sinh và tiến bộ xã hội ở các nước tư bản, đế quốc
chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. 
=> Sự phát triển của ba dòng thác cách mạng buộc chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu
là Mỹ, phải phân tán lực lượng ra nhiều nơi trên thế giới để đối phó, do đó cách
mạng thế giới nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng có nhiều thuận lợi. 
b)Khó khăn:
Mặt khác, tình hình khu vực và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp: 
● Các nước Đồng minh dần thỏa hiệp, phân liệt và dẫn đến thù địch.
● Thế giới bắt đầu thời kỳ “tiền chiến tranh lạnh” mà tập trung là mâu
thuẫn Xô - Mỹ. 
● Các nước tư bản, thực dân lớn như Mỹ, Anh tạo điều kiện cho thực dân
Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam với những toan tính riêng. Cách
mạng Việt Nam bị bao vây, chống phá bởi các thế lực thù địch.
3) Đảng chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, bảo vệ thành quả
Cách mạng tháng Tám năm 1945

40
a) Sơ lược chủ trương
 Ngày 25/11/1945 Ban chấp hành trung ương Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến
quốc" vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
 Về chỉ đạo chiến lược: 
● Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc
giải phóng
● Khẩu hiệu lúc này là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", nhưng không
phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập. 
Về xác định kẻ thù: Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương,
Ban chấp hành trung ương nêu rõ: Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp
xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Vì vậy phải lập mặt trận
dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược; mở rộng mặt trận Việt Minh
nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, thống nhất mặt trận Việt - Minh - Lào
chống Pháp xâm lược; kiên quyết giành độc lập tự do - hạnh phúc dân tộc. 
Về phương hướng nhiệm vụ: Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách
cần khẩn trương thực hiện là: 
● Củng cố chính quyền cách mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp, bài
trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. 
● Chủ trương đối phó với từng loại đối tượng, từng kẻ thù trong nước,
ngoài nước với phương châm: “Tổ quốc trên hết, Dân tộc trên hết” 
● Thực hiện chính sách ngoại giao hòa hoãn có nguyên tắc nhằm thêm bạn
bớt thù
● Tranh thủ thời gian hòa hoãn xây dựng thực lực mọi mặt, chống “giặc
đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm, chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
=> Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Ban thường vụ Trung ương Đảng đã
giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược và sách lược cách mạng trong thời kỳ mới giành được chính quyền, đưa
đất nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Kháng chiến và kiến quốc là
tư tưởng chiến lược của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm phát huy sức
mạnh của đoàn kết dân tộc, quyết tâm đẩy mạnh chiến đấu chống thực dân
Pháp, bảo vệ và xây dựng chế độ mới.
b) Xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở

41
Khẩn trương thành lập Chính phủ lâm thời bằng việc cải tổ Ủy ban dân tộc giải
phóng, Chính phủ ra mắt quốc dân vào ngày 02/9/1945. 
Ngày 06/01/1946, tiến hành tổng tuyển cử bầu Quốc hội trong cả nước.Xây
dựng chính quyền nhân dân từ Trung ương đến cơ sở. 
=> Ý nghĩa: Cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra trên cả nước, với khoảng 90% tổng
số cử tri đi bỏ phiếu, cả nước bầu được 333 đại biểu đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của toàn dân. Tổng tuyển cử được tiến hành sâu rộng trong cả
nước, trở thành một cuộc vận động, giáo dục quần chúng nhân dân rộng lớn đi
bầu cử, không chỉ đề người dân hiểu về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của
Tổng tuyển cử, các quy định về tổng tuyển cử, động viên nhân dân đi bầu cử,
mà còn để cho các ứng viên được tuyên truyền, vận động, cổ động cho mình. Vì
lẽ đó, Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là dân chủ, đoàn kết.
Cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 là sự kiện lịch sử trọng đại, mở đầu cho
quá trình xây dựng chế độ dân chủ mới; là sự khởi đầu và phát triển của Quốc
hội, một thiết chế dân chủ, trụ cột trong Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Qua 75 năm hình thành và phát triển, Quốc hội Việt
Nam đã không ngừng lớn mạnh, ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các quyền lập hiến, quyền
lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối
với hoạt động của Nhà nước.
Ngày 6-1-1946, vượt qua mọi hành động chống phá của kẻ thù, hơn 90% cử tri
trong cả nước đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại biểu khắp Bắc - Trung - Nam vào
Quốc hội, tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân tộc. Đây là lần đầu tiên trong
lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện quyền công dân, bầu những đại biểu
chân chính của mình vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước) 
Ngày 2-3-1946, tại kỳ họp đầu tiên ở Hà Nội, Quốc hội xác nhận thành tích của
Chính Phủ lâm thời trong những ngày đầu xây dựng chế độ mới, thông qua
danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu
và lập ra Ban Dự Thảo Hiến Pháp) 
=> Mở rộng: Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Quốc hội khóa I được bầu thông qua
tổng tuyển cử tự do ngày 6 tháng 1 năm 1946 họp phiên đầu tiên tại Hà Nội đã
thông qua danh sách 70 đại biểu của Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam
Cách Mệnh Đồng Minh hội tham gia Quốc hội. Quốc hội còn chỉ định ông Hồ
Chí Minh đứng ra thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến với 15 thành viên

42
đến từ các đảng phái khác nhau như Mặt trận Việt Minh, Việt Nam Quốc dân
Đảng, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, hay không đảng phái.
c) Về đối nội:
● Các đảng phái phải đoàn kết chặt chẽ, ngôn luận, hành động phải nhất trí
để phụng sự quốc gia.
● Sinh mệnh và tài sản của tất cả công dân Việt Nam và kiều dân ngoại
quốc được hoàn toàn bảo đảm.
● Hành chính và quân đội phải thống nhất, tài chính kinh tế tập trung.
● Mọi lực lượng của quốc dân được huy động để dùng trong việc kháng
chiến kiến quốc và toàn thể nhân dân, nhất là những người làm việc công
phải tuân theo kỷ luật.
d) Về ngoại giao
● Đối với các nước Đồng minh, nước Việt Nam bao giờ cũng chủ trương
thân thiện, nhất là đối với Trung Hoa.
● Đối với các nước nhược tiểu đang đấu tranh giành độc lập thì dân tộc
Việt Nam rất đồng tình.
● Đối với nhân dân Pháp, dân tộc Việt Nam không thù hằn, song cực lực
phản đối chế độ thực dân và cương quyết giữ quyền độc lập. Chính phủ
Việt Nam chỉ nhận điều đình với Chính phủ Pháp theo nguyên tắc "Dân
tộc tự quyết" của Hiến chương Đại Tây Dương.
Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành
Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc
dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt
động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại:
"Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu
khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng
tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn,
lính Trung Quốc bắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị
an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được
gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông Nguyễn Duy
Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: "Không có Trung
Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được
với những người Cộng sản"[4]

43
Ngày 09/11/1946, kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I đã thông qua bản Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xác định quyền làm chủ
đất nước và các quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam.
e) Tiến hành kháng chiến ở Nam Bộ từ ngày 23/9/1945
Chỉ 21 ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai
sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dân Nam Bộ chưa kịp hưởng
niềm vui thanh bình thì phải tiếp tục cầm súng đứng lên chiến đấu để giữ vững
nền độc lập vừa giành được. Kháng chiến ở Nam Bộ là khởi đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên, tiến ra mặt trận
quyết chiến với quân xâm lược, mở ra Ngày Nam Bộ kháng chiến - Trang sử
oanh liệt hào hùng. Trước tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện
nhiều chính sách để gìn giữ hòa bình, tránh “cuộc chiến tranh đổ máu vô nghĩa”.
Nhưng chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước
ta lần nữa. Kháng chiến kết thúc đã để lại nhiều kinh nghiệm đánh địch trong
thành phố, phát động chiến tranh nhân dân rộng khắp, xây dựng tổ chức lực
lượng vũ trang, kinh nghiệm vừa đánh vừa đàm, kết hợp quân sự và ngoại giao.
Cuộc chiến đấu ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã làm thất bại một bước âm mưu
đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
 Sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ được phát huy đầy đủ khi có sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Nếu không có nhân dân
thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân
không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một
khối". Có được sự thống nhất giữa Đảng, chính quyền cách mạng và nhân dân
thành một khối vững vàng là do Đảng và Chính phủ đã có đường lối, chính sách
đúng đắn, quan tâm đến những vấn đề dân sinh, dân chủ, dân trí, vì cuộc sống,
vì lợi ích thiết thực của toàn dân. Đảng và chính quyền đã biết tổ chức, động
viên quần chúng đội ngũ cán bộ, đảng viên được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh giáo dục và rèn luyện đã thu phục được lòng dân bằng tâm đức của mình,
do vậy, mọi việc đều trở nên tốt đẹp, mọi khó khăn đều nhanh chóng vượt qua.
Trong điều kiện nền kinh tế khó khăn và tài chính kiệt quệ, chính quyền mới
thành lập chưa có thời gian và điều kiện thực hiện được nhiều việc thiết yếu của
đời sống nhân dân, song nhờ nêu cao quyết tâm đấu tranh cho độc lập tự do và
thống nhất đất nước là lợi ích chung lớn nhất lúc này mà toàn dân hăng hái tham

44
gia nhiệm vụ cách mạng và ủng hộ chính quyền. Đảng và Chính phủ dựa vào
dân để tăng cường thực lực. Khắc phục khó khăn về tài chính, Chính phủ phát
động Tuần lễ vàng (từ 17 đến 24/9/1945), lập “Quỹ Độc lập”. Phát động các
phong trào diệt “giặc đói”, diệt “giặc dốt”, tăng gia sản xuất, lập “Hũ gạo tiết
kiệm”,... đã đem lại những kết quả to lớn. Không chỉ tháo gỡ những khó khăn
về kinh tế, xã hội mà còn phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong quá trình phá
thế bao vây, chống phá của các thế lực thù trong, giặc ngoài. Chủ trương mở
rộng khối đại đoàn kết dân tộc bằng những hình thức tập hợp đa dạng, mà tập
trung là Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, các đảng phái,
đoàn thể quần chúng cách mạng, đã tạo thành sức mạnh to lớn làm hậu thuẫn
cho chính quyền cách mạng.
=> Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ
thành quả cách mạng
f) Đảng chủ trương ngoại giao thêm bạn bớt thù, tranh thủ thời gian xây
dựng lực lượng chuẩn bị kháng chiến kiến quốc
● Chính sách “hòa hoãn có nguyên tắc” (Tháng 9/1945-3/1946) -> Hòa
hoãn với quân Tưởng trước 
● Pháp ký với Tưởng “Hiệp ước Hoa - Pháp” ngày 28/02/1946 -> Chính
phủ ta kí với Pháp hiệp định sơ bộ (06/03/1946): "Pháp công nhận nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có ngoại giao, quân
đội, tài chính và nghị viện riêng,... nằm trong Liên bang Đông Dương và
Khối Liên hiệp Pháp; Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý để
15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Trung Hoa Dân quốc làm
tiếp nhiệm vụ, tước vũ khí và hồi hương quân Nhật; hai bên đình chỉ
xung đột, mở tiếp các cuộc điều đình để tìm một giải pháp hòa bình cho
cuộc xung đột Pháp - Việt."
● Ngày 09/3/1946, Ban thường vụ trung ương họp ra chỉ thị mới “Hòa để
tiến”
● Hội nghị Trù bị ở Đà Lạt (từ 19/4 đến 11/5/1946); tại Phông-ten-nơ-blô
tại Pháp (từ 06/7 đến 10/9/1946)
g) Hoạt động bảo vệ chủ quyền biển đảo tại Hoàng Sa, Trường Sa sau
CMT8
● Pháp đại điện VN trong việc bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa theo “Hiệp
định sơ bộ”

45
● 7-9-1951, Hội nghị Francisco về việc xác nhận chủ quyền biển đảo tại
VN
● Hiệp định Giơ-ne-vơ (20-7-1954) về việc xác lập vĩ tuyến 17 giữa 2 miền
Nam Bắc
4) Bài học kinh nghiệm rút ra từ các chủ trương xây dựng và bảo vệ chính
quyền của Đảng
a) Điểm sáng tạo:
● Đảng đã sớm đề ra và từng bước hoàn chỉnh đường lối kháng  chiến, kiến
quốc đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc kháng
chiến trong những ngày đầu. Ngay sau khi giành được chính quyền, nhận
thức đúng sự biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, Đảng đã sớm
hoạch định đường lối cơ bản là “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, kiên
định quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, kiên trì bảo vệ sự thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ, tuyệt đối không lúc nào nao núng, run sợ trước sức
mạnh và mọi uy hiếp của kẻ thù giai cấp và dân tộc. Khi phải cùng lúc
phải đương đầu với nhiều kẻ thù nguy hiểm, Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh bình tĩnh, sáng suốt, đánh giá đúng tình hình, chỉ rõ đúng đối tượng
và đề ra biện pháp đúng đắn. Vận dụng sáng tạo sách lược lợi dụng mâu
thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, thực hiện hòa hoãn, nhân nhượng có
nguyên tắc với từng kẻ thù, để phân hóa và từng bước loại bỏ chúng.
(Đối với tàu, chủ trương Hoa- Việt thân thiện. Đối với Pháp “độc lập về
chính trị nhân nhượng về kinh tế” Lễ kí kết hiệp định sơ bộ
6.3.1946.jpg). Đường lối đó có tính thực tiễn rất cao, có ý nghĩa quyết
định  đảm bảo thắng lợi của cuộc kháng chiến và là kim chỉ nam cho
hành  động của Đảng. 
● Khẳng định quyết tâm sắt đá bảo vệ độc lập, tự do, giải phóng  dân tộc,
Đảng lãnh đạo quân dân cả nước vừa kháng chiến vừa kiến  quốc, vừa
chiến đấu vừa xây dựng chế độ mới. Tiến hành cuộc kháng chiến toàn
diện trên các mặt trận, các lĩnh vực nhằm thúc đẩy xây dựng, củng cố chế
độ dân chủ nhân dân, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân, đồng thời đẩy nhanh cuộc kháng chiến mau đến thắng
lợi.
● Đảng sớm hoạch định đường lối kháng chiến và kiến quốc đúng đắn,
sáng tạo, phù hợp với đặc thù của cuộc kháng chiến trong từng giai đoạn.
Đó là đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa

46
vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Nhờ đó mà đã
khơi dậy và phát huy đầy đủ sức mạnh toàn dân tộc.
● Đảng chú trọng xác lập quan hệ ngoại giao với các nước, tranh  thủ sự
đồng tình, ủng hộ về cả tinh thần và vật chất của nhân dân thế  giới đối
với cuộc kháng chiến. Đặc biệt là xây dựng liên minh chiến  đấu với các
dân tộc Lào, Campuchia chống kẻ thù chung trên bán đảo  Đông Dương.
(Cuối năm 1947 , Đảng và chính phủ VN đã cử một số cán bộ chiến sĩ
sang giúp lực lượng kháng chiến Lào. Ở Campuchia, cán bộ Việt Kiều đã
giúp lực lượng yêu nước thành lập ủy ban dân tộc giải phóng Khơ
meLiên quân Lào-Việt trong kháng chiến chống Pháp năm 1950.)
● Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo và  năng lực
chiến đấu của Đảng trong cuộc kháng chiến. Xây dựng, bồi đắp hình ảnh,
uy tín của Chính Phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh bằng các hành động thực
tế, bằng sự nêu gương mẫu mực, vai trò tiên phong của các tổ chức Đảng
và đội ngũ cán bộ đảng viên trong quá trình tổ chức cuộc kháng chiến.
Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên mọi tầng lớp nhân
dân tích cực tham gia công cuộc kháng chiến, đề ra và thực hiện các chủ
trương chính sách nhằm động viên cao nhất, nhiều nhất sức dân, củng cố
vững chắc lòng tin của nhân dân.
b) Điểm thiếu sót:
● Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến, sự chỉ đạo chiến lược của
Đảng trong một số trường hợp có biểu hiện tư tưởng chủ quan, nôn nóng:
● Tổng động viên, huy động sự đóng góp của nhân dân có lúc, có nơi vượt
quá sức dân.
●  Chưa giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa huy động, động viên với bồi
dưỡng sức dân nên có phần làm giảm sút, gây ảnh hưởng không có lợi
tới tinh thần hăng hái, phấn khởi của nhân dân.
●  Trong một số lĩnh vực và mặt công tác, khi học tập và vận dụng kinh
nghiệm của cách mạng bên ngoài có biểu hiện rập khuôn, máy móc,
phạm khuyết điểm mang tính chất giáo điều.
● Trong quan hệ liên minh chiến đấu với hai nước Lào, Campuchia có lúc,
có nơi chưa nắm vững đường lối, chính sách của bạn; có lúc còn bị động
với bối cảnh quốc tế, chưa kiên quyết đấu tranh cho lợi ích chung của cả
ba nước. 

47
🌑 Chủ đề 5: Nguyên nhân bùng nổ toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến chống
Pháp xâm lược giai đoạn 1946 - 1954. Đưa ra bài học kinh nghiệm.
* Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

I. Nguyên nhân bùng nổ toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1946-1954)
⮚ Sau Hiệp định Sơ bộ 6-3–1946 và bản Tạm ước 14–9–1946, thái độ hiếu chiến và dã tâm
xâm lược nước ta của thực dân Pháp ngày càng lộ rõ. Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân
dân Việt Nam tiếp tục kiềm chế, kiên trì thực hiện chủ trương hòa hoãn và bày tỏ thiện
chí hòa bình, thái độ nhân nhượng với thực dân Pháp.
⮚ Bất chấp những thiện chí hòa bình của Việt Nam, thực dân Pháp tăng cường khiêu khích
và lấn chiếm.
● Từ cuối tháng 11 -1946, thực dân Pháp chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải
Dương, tấn công vào các vùng tự do của ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Đặc
biệt, ngày 20–11–1946, Pháp tấn công đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn.
● Ngày 7-12-1946, J. Sainteny đại diện chính phủ Pháp tuyên bố: “Đã đến lúc giải
quyết thời cuộc bằng quân sự, quân đội Pháp sẵn sàng hành động.”
● Ngày 13-12-1946, Quyền Thủ tướng Pháp Bidault yêu cầu D’Argenlieu trở lại
Đông Dương trực tiếp đôn đốc, mở lại chiến tranh. 
● Ngày 16-12-1946, Cao ủy Pháp D’Argenlieu tuyên bố: “Khôi phục các điều ước
do triều đình nhà Nguyễn kí với Pháp, coi Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng… là
lãnh thổ của nước Pháp.”
● Trong các ngày 16 và 17-12-1946, quân đội Pháp ở Hà Nội gây hấn, tấn công
đánh chiếm trụ sở Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính.
● Ngày 17-12, chúng bắn đại bác gây ra thảm sát ở phố Yên Ninh và Hàng Bún.
● Ngày 18–12–1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi chúng ta phải đầu hàng.
● Đến ngày 19-12-1946, Pháp thẳng thừng chối bỏ và cự tuyệt những hoạt động
ngoại giao, thiện chí hòa bình, thể hiện lập trường xâm lược bằng vũ lực quân
sự. 
⮚ Trước tình hình đó, ngày 18-12-1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp
tại làng Vạn Phúc, Hà Đô.
⮚ Ngày 19 – 12 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến.

48
II. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM
LƯỢC VÀ XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ NHÂN DÂN (1946 - 1954)
1. Nội dung đường lối:
- 3 văn kiện chính: 
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946)
+ Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của trung ương Đảng (22/12/1946)
+ "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Trường Chinh (9/1947). 

a. Mục đích kháng chiến:


- Tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám.

b. Tính chất kháng chiến:


- Dân tộc giải phóng và dân chủ kiểu mới.

c. Chính sách kháng chiến: 


- Liên kết các dân tộc và đoàn kết chặt chẽ toàn dân.

d. Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến:


- Đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập, thống nhất cho dân tộc
- Cải cách dân chủ, tiến hành từng bước chính sách ruộng đất
- Bảo vệ hoà bình thế giới.

e. Phương châm tiến hành kháng chiến:


- Kháng chiến toàn dân: toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng ba thứ quân làm nòng cốt
- Kháng chiến toàn diện:  Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại
giao
■ Văn hóa giáo dục: đề ra chủ trương cải cách giáo dục, tổ chức Bình dân học vụ
■ Ngoại giao: đã đặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ
nhân dân.
Đây vừa là kháng chiến vừa là kiến quốc
- Kháng chiến lâu dài: chống âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của địch, có thời gian củng cố
lực lượng -> chuyển hóa tương quan.
- Dựa vào sức mạnh là chính: vận mệnh dân tộc là do nhân dân ta quyết định, phải dựa vào
chính sức của mình. Tuy nhiên chúng ta có thể tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. 

f. Triển vọng kháng chiến:


- Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi
=> Đường lối kháng chiến của Đảng đúng đắn, sáng tạo, mang tính kế thừa, phù hợp
với hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ.

    2. Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2 - 1951):
- Hoàn cảnh: đầu 1951, trước tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển
biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan
trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp
vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử đó đã đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn
chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
- Thời gian: 11-19/2/1951.
- Địa điểm: Chiêm Hóa - Tuyên Quang

49
a. Nội dung của đại hội:
- Thành lập Đảng riêng ở Việt Nam, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
- Đảng tuyên bố ra hoạt động công khai.
- Thông qua chính cương của Đảng lao động Việt Nam

b. Nội dung của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam:
⮚ Tính chất xã hội Việt Nam:
Xã hội Việt Nam lúc bấy giờ bao gồm 3 tính chất dưới đây:
- Tính chất dân chủ nhân dân: tiêu biểu cho sức tiến bộ của xã hội VN.
- Tính chất một phần thuộc địa: tiêu biểu cho sức thoái bộ đang muốn kéo xã hội VN thụt lùi
trở lại.
- Tính chất nửa phong kiến: tiêu biểu cho sức đình trệ của xã hội VN cũ.
→ Chứa các mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc VN với bọn đế quốc xâm lược, mâu
thuẫn giữa số đông nhân dân với một phần giai cấp địa chủ, mâu thuẫn giữa công nhân với tư
sản trong nước,... Trong đó, mâu thuẫn giữa dân tộc VN và đế quốc xâm lược cùng bọn bù
nhìn tay sai là chính. Nó đang diễn ra dưới hình thức quyết liệt là chiến tranh. 

⮚ Đối tượng cách mạng


2 đối tượng:
- Đối tượng chính: Chủ nghĩa đế quốc xâm lược: thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ. (Nó bắn
giết nhân dân VN, cướp bóc, phá hoại và kìm hãm kinh tế Việt Nam; nó duy trì những hình
thức phong kiến, nửa phong kiến nhằm bóc lột áp bức nhân dân VN nặng nề thêm; nó định
thủ tiêu chế độ dân chủ nhân dân VN, mở rộng chế độ thuộc địa và kéo xã hội VN trở lại thời
kỳ thuộc địa như cũ).
- Đối tượng phụ: Bọn phong kiến phản động. (Nó cấu kết với đế quốc trong việc áp bức bóc
lột nhân dân VN, ủng hộ chiến tranh xâm lược của đế quốc, ngăn cản kinh tế VN phát triển,
làm cho xã hội VN đình trệ).

⮚ Nhiệm vụ cách mạng


- Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.
- Xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho “người cày có ruộng”.
- Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
→ Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải
phóng dân tộc (nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến).

⮚ Động lực cách mạng: 


- Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc
- Ngoài ra còn có những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ.  
→  Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà nền tảng là công nông,
lao động trí óc. Trong đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.

⮚ Sắp xếp loại hình cách mạng: 


Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của Lênin (cách mạng giải phóng dân tộc, cách
mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô sản) gọi cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc,
dân chủ, nhân dân. Đồng chí Trường Chinh giải thích:
- Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập dân tộc.
- Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng đất cho
nông dân.
- Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy.

50
→ Đây là sự bổ sung và phát triển lý luận cách mạng của Đảng ta vào học thuyết Mác- Lênin
mà công lao to lớn thuộc về đồng chí Trường Chinh.

⮚ Phương hướng tiến lên


- Nhất định sẽ đưa VN tiến tới CNXH
- Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân
kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn, lãnh đạo
toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội”. 

⮚ Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng


- Giai cấp công nhân. 
- Phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ XHCN.

⮚ Chính sách của Đảng


Chính cương nêu rõ 15 chính sách lớn của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và
đặt cơ sở kiến thiết quốc gia.
◆ Kháng chiến
Nhân dân Việt Nam kiên quyết kháng chiến đến cùng chống thực dân Pháp và bọn can thiệp
Mỹ để giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.
Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh nhân dân: toàn dân, toàn diện, trường kỳ.

◆ Chính quyền nhân dân


Chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính quyền dân chủ của nhân dân
nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và
các thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ.
Chính quyền đó dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân, nông dân và
lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo.

◆ Mặt trận dân tộc thống nhất


Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đoàn kết tất cả mọi đảng phái, mọi đoàn thể và mọi
thân sĩ yêu nước, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, nam nữ để cùng nhau kháng
chiến kiến quốc.
Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh công nông và lao động trí thức làm nòng cốt và do
giai cấp công nhân lãnh đạo.

◆ Quân đội
Quân đội Việt Nam là quân đội nhân dân, do nhân dân tổ chức và vì nhân dân mà chiến đấu.
Nó có tính chất: dân tộc, dân chủ và hiện đại.

◆ Kinh tế tài chính


Đảm bảo quyền lợi của công và tư, của tư bản và lao động, tǎng gia sản xuất mọi mặt để cung
cấp cho nhu cầu kháng chiến và cải thiện dân sinh, đặc biệt là cải thiện đời sống của nhân dân
lao động.

◆ Cải cách ruộng đất


Nhằm cải thiện đời sống nông dân, đồng thời xúc tiến tǎng gia sản xuất, bảo đảm cung cấp và
đoàn kết toàn dân để kháng chiến.

◆ Vǎn hoá giáo dục

51
Phải bài trừ những di tích vǎn hoá giáo dục thực dân và phong kiến, phát triển nền vǎn hoá
giáo dục có tính chất: về hình thức thì dân tộc, về nội dung thì khoa học, về đối tượng thì đại
chúng.

◆ Đối với tôn giáo


Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng. Đồng thời nghiêm trị những kẻ lợi dụng tôn
giáo mà phản quốc.

◆ Chính sách dân tộc


Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết giúp đỡ
nhau để kháng chiến và kiến quốc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bài trừ mọi hành động
gây hằn thù, chia rẽ giữa các dân tộc.

◆ Đối với vùng tạm bị chiếm


Đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố chính quyền
cách mạng, phá nguỵ quyền, nguỵ quân, phối hợp đấu tranh với vùng tự do.

◆ Ngoại giao
Nước ta và các nước tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia của
nhau và cùng nhau bảo vệ hoà bình dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến.

◆ Đối với Miên, Lào


Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với hai dân tộc Miên, Lào và hết sức giúp đỡ hai dân tộc
ấy cùng nhau kháng chiến chống đế quốc xâm lược, giải phóng cho tất cả các dân tộc Đông
Dương.

◆ Đối với ngoại kiều


Tất cả mọi ngoại kiều tôn trọng pháp luật nước Việt Nam đều được quyền cư trú, được bảo
đảm sinh mệnh, tài sản và được làm ǎn tự do trên đất nước Việt Nam.

◆ Đấu tranh cho hoà bình và dân chủ thế giới


- Đấu tranh cho hoà bình thế giới là nhiệm vụ quốc tế của nhân dân Việt Nam. Kháng chiến
chống đế quốc xâm lược là một phương pháp triệt để nhất của dân ta để làm nhiệm vụ ấy.

◆ Thi đua ái quốc


- Thi đua ái quốc là một điệu làm việc mới. Phong trào thi đua là một phong trào quần chúng.
Thi đua là thực hiện kế hoạch đã định.
- Nhằm giết giặc ngoại xâm, tǎng gia sản xuất và diệt giặc dốt.
-> Phát triển chế độ, gây mầm móng cho CNXH, đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.

⮚ Quan hệ quốc tế
- Thực hiện đoàn kết Việt-Trung-Xô và Việt-Miên-Lào.
- Đại hội quyết định sẽ thành lập những tổ chức cách mạng phù hợp hoàn cảnh Lào và
Campuchia. Đảng Lao động Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ các tổ chức cách mạng Lào và
Campuchia lãnh đạo kháng chiến của hai dân tộc ấy giành thắng lợi cuối cùng, thành lập Mặt
trận thống nhất Việt - Lào - Campuchia, đoàn kết quốc tế.
- Ngoài ra, Chính cương khẳng định nguyên tắc "tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ, thống
nhất quốc gia của nhau và cùng nhau bảo vệ hòa bình, dân chủ thế giới, chống bọn gây
chiến"; mở rộng ngoại giao nhân dân, giao thiệp thân thiện với Chính phủ nước nào tôn trọng

52
chủ quyền của Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo nguyên tắc tự do, bình
đẳng và có lợi cho cả hai bên, đấu tranh cho hòa bình thế giới.

   3.  Đường lối, chính sách của Đảng ta đã được bổ sung, phát triển qua các hội
nghị trung ương tiếp theo:

a. Hội nghị trung ương lần thứ nhất (3 - 1951)

+ Năm 1951, với sự hỗ trợ của Mỹ, Pháp đã tấn công ồ ạt vào nước ta và đồng thời thực hiện
càn quét chiến trường Nam Bộ, củng cố phòng tuyến Bắc Bộ. Trước tình hình nguy cấp như
thế, Đảng và nhà nước đã nhanh chóng thực hiện Hội Nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 3 năm 1951, nhằm triển khai các nhiệm vụ
quân sự để có chiến lược tốt nhất chống giặc ngoại xâm. Tại Hội nghị, Đảng đã xem xét kĩ
tình hình trong nước và ngoài nước, từ đó thấy rằng Mỹ đang ra sức chống phá các nước dân
chủ nhân dân, đặc biệt là Liên Xô, trong khi đó Pháp lại cố gắng tấn công Nam Bộ với nhiều
biện pháp và kế hoạch như tăng cường lực lượng, củng cố chính trị,... Bên cạnh việc xem xét
tình hình chiến tranh, Hội nghị còn nêu lên những chiến thắng nổi bật của nhân dân ta và
đồng thời cũng nhấn mạnh rằng muốn giành được độc lập, nhân dân phải kiên cường, quyết
tâm và đoàn kết trong cuộc chiến trường kì, gian khổ này. Cụ thể Hội nghị đã đưa ra các
nhiệm vụ chính bao gồm:

- Hiểu rõ và nắm vững chiến lược quân sự của chúng ta.

- Tăng cường các hoạt động thức đẩy kinh tế tài chính nước ta.

- Nhân dân cần tích cực tham gia các phong trào  bảo vệ hòa bình.

- Thi hành Nghị quyết của Đại hội Đảng và Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt toàn
quốc.

Về mặt quân sự, Đảng ta chủ trương tăng cường chỉ đạo chiến tranh, đặc biệt các chiến
trường cần đẩy nhanh chiến tranh du kích phối hợp với chiến trường chính.

Về mặt kinh tế, chính sách của Đảng là tích cực tăng gia sản xuất, sửa đổi các chế độ thuế
khóa. Đặc biệt Hội nghị nhấn mạnh muốn thắng lợi trên mặt trận quân sự, chúng ta cần nhanh
chóng cải thiện và phát triển tình hình kinh tế.

Từ đó, có thể thấy Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng giúp nhân dân nâng
cao ý thức chống giặc và hun đúc tinh thần yêu nước, giành độc lập, đồng thời, vạch ra các
chiến lược quan trọng và phù hợp với tình hình lúc bấy giờ.

b. Nghị quyết HNTƯ lần thứ hai (họp từ 27/9/1951 đến ngày 5/10/1951)

+ Từ ngày 27-9 đến ngày 5-10-1951, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng
được tổ chức tại Việt Bắc nhằm xem xét tình hình chiến tranh trên thế giới cũng như tại Việt
Nam, từ đó Hội nghị có thể đưa ra những nhiệm vụ mới cũng như chiến lược cho Cách mạng
Việt Nam.

53
Về tình hình trên thế giới, phong trào bảo vệ hòa bình ngày càng phát triển mạnh mẽ dưới sự
lãnh đạo của Liên Xô, trong khi đó đế quốc Mỹ đang ráo riết chuẩn bị chiến tranh, tuy nhiên
nội bộ của chúng lại xảy ra mâu thuẫn và Mỹ cũng vừa bị Triều Tiên đánh bại.

Về tình hình trong nước, Hội nghị đã đưa ra những nhận định rằng cuộc xâm lược của Pháp
và sự can thiệp của Mỹ đã thất bại nặng nề trên đất nước ta, vì vậy chúng đang cố gắng thực
hiện nhiều chính sách hơn như là “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, lấy người Việt đánh
người Việt”, bên cạnh đó, chúng cũng tập trung thực hiện “cuộc chiến tranh tổng lực” nhằm
càn quét và “bình định” nước ta. Tuy nhiên, cuối cùng Hội nghị đưa ra nhận xét rằng những
chính sách và kế hoạch này của chúng sẽ thất bại tuy rằng nó cũng đem lại nhiều khó khăn
cho chúng ta.

Không chỉ thế, Đảng cũng đưa ra những nhận xét cho việc thực hiện các Nghị quyết Hội nghị
lần thứ nhất Trung ương Đảng:

Về chính trị, nhân dân và Đảng nhiệt liệt hoan nghênh Tuyên ngôn và Chính cương của
Đảng, thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành một mặt trận Liên Việt, cuối cùng là việc
thành lập Ủy ban liên lạc Mặt trận Việt-Miên-Lào. Bên cạnh những thành tích lớn thì Đảng
cũng kiểm điểm những mặt cần khắc phục như là nhiều đảng viên chưa gương mẫu, Mặt trận
thống nhất Liên Việt chưa được phát triển và có kế hoạch hoàn thiện, việc tuyên truyền Uỷ
ban liên lạc còn yếu.

Về ngoại giao, chúng ta phát triển mối quan hệ hòa bình và hợp tác với nhiều nước xã hội chủ
nghĩa và dân chủ mới, đặc biệt là Trung Quốc.

Về quân sự, chúng ta chuẩn bị chuyển sang tổng phản công, tuy chúng ta giành được thế chủ
động trên chiến trường chính nhưng chúng ta vẫn chưa giành được ưu thế quân sự và vẫn còn
gặp nhiều khó khăn trong việc giành thế chủ động trên nhiều phương diện.

Về kinh tế tài chính, chúng ta đã đạt một số thành tựu nhờ vào sự cố gắng mặc dù vẫn còn
nhiều khó khăn, việc thu thuế nông nghiệp cũng đạt kết quả khá.

Căn cứ vào tình hình trước mắt, Hội nghị đã đưa ra ba nhiệm vụ lớn nhằm giải quyết các vấn
đề quân sự, kinh tế tài chính, văn hóa,...

- Để có thể giành ưu thế quân sự, chúng ta cần ra sức và cố gắng tiêu diệt sinh lực địch.

- Ra sức phá âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”.

- Củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc ta, nâng cao ý thức nhân dân về cuộc chiến
chống giặc trường kỳ, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi, củng cố hậu phương.

Hội nghị còn nhắc nhở đảng viên luôn săn sóc nhân dân, kêu gọi nhân dân kháng chiến, ra
sức công tác nghiên cứu và kiểm tra tình hình nhân dân để đưa ra những chính sách kịp thời
và đúng đắn, luôn kết hợp học tập và thực tiễn công tác và luôn trung thực.

c. Tại HNTƯ lần thứ tư (tháng 1 - 1953) 

+ Từ ngày 25 đến ngày 30-1-1953, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
được tổ chức nhằm thực hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất và đẩy mạnh kháng chiến đến
thắng lợi.

54
Đối với chính sách ruộng đất từ kháng chiến đến đầu năm 1953, Đảng nhận thấy rằng: chúng
ta chưa thật sự nắm vững nhiệm vụ mà Đảng đề ra là chống đế quốc và lật đổ chính quyền
phong kiến trong khi đó lực lượng nông dân là lực lượng to lớn góp phần vào thắng lợi của
kháng chiến, tuy nhiên chúng ta chưa biết dựa vào lực lượng này để chiến đấu cho cuộc chiến
trường kì gian khổ này, ngoài ra, chính sách ruộng đất của Đảng cũng chưa thật sự hoàn thiện
vì nó không thể đáp ứng được một cách linh hoạt vào từng hoàn cảnh. Vì thế, những điều này
đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác xây dựng Đảng, quân đội, mặt trận, chính quyền về
mặt tư tưởng và tổ chức.

Căn cứ vào những nhiệm vụ mà Đảng đề ra và yêu cầu cấp bách từ cuộc kháng chiến, Hội
nghị quyết định cần phải thực hiện gấp chính sách ruộng đất bằng cách xóa bỏ chế độ phong
kiến sở hữu ruộng đất và tiêu diệt chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân Pháp và bọn đế quốc,
cuối cùng là thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất cho nông dân. Cụ thể là trong năm 1953,
chúng ta giảm tô, giảm tức và chia lại ruộng đất cho nông dân, đặc biệt là ruộng đất của thực
dân Pháp và Việt gian, chấn chỉnh chính quyền và mặt trận. Về mặt tư tưởng và tổ chức,
nhanh chóng giành lại quyền lợi cho nông dân từ bọn địa chủ phong kiến.

Đặc biệt, Hội nghị nhấn mạnh cần tiến hành công tác đánh thông tư tưởng cho các Đảng viên
và cán bộ, tích cực tuyên truyền cho nhân dân. Hơn thế nữa, Hội nghị cũng nêu rõ phương
châm chiến lược của chúng ta là tránh đánh chỗ mạnh mà tập trung vào đánh chỗ yếu để mở
rộng vùng tự do. Để có thể thực hiện chiến lược này, chúng ta cần tăng cường lực lượng quân
đội về mọi mặt.

Để có thể đạt được những thành tựu và thắng lợi, Hội nghị đề ra một số nhiệm vụ quan trọng
trong năm 1953:

- Tập trung phát động quần chúng.

- Tăng cường sự chỉ đạo chiến tranh của Đảng.

- Về kinh tế tài chính, tăng gia sản xuất, tăng cường công tác mậu dịch, đấu tranh kinh tế và
chống tham ô.

- Về công tác sau lưng địch, tăng cường chiến đấu theo lối du kích, phá âm mưu phá hoại,
ngụy quyền, ngụy quân của địch.

- Về chỉnh Đảng, chỉnh đốn chi bộ xã, chỉnh huấn cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng.

d. HNTƯ lần thứ năm (11 - 1953)

+ Từ ngày 14 đến 23-11-1953, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng được
tổ chức với gần 200 đại biểu.

Hội nghị có sự tham luận của đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Văn Lương
cùng với báo cáo của đồng chí Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh xoay quanh về tình
hình và những cải cách ruộng đất.

Trong báo cáo, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, đế quốc Mỹ và các đế quốc phụ thuộc Mỹ đang suy
yếu và thất bại nhiều nơi, mâu thuẫn nội bộ, trong khi lực lượng xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
đứng đầu ngày càng lớn mạnh.

55
Về thực dân Pháp, chúng ngày càng suy yếu và gặp nhiều khó khăn về nhiều mặt, đồng thời
chúng cũng phụ thuộc nhiều vào Mỹ khiến Mỹ cũng ngày càng can thiệp nhiều vào cuộc
kháng chiến Đông Dương. Về phía ta, chúng ta đang ở thế chủ động trên chiến trường chính,
chiến tranh du kích ngày càng lớn mạnh, Mặt trận Liên Việt ngày càng phát triển và khối đại
đoàn kết ba nước Đông Dương cũng ngày càng vững mạnh. Tóm lại, chúng ta ngày càng
mạnh còn địch ngày càng yếu.

Để bồi dưỡng lực lượng và kháng chiến thắng lợi, chúng ta cần thực hiện cải cách sản xuất,
giải phóng nông dân khỏi ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến, giải quyết vấn đề lạc hậu
của nông dân đồng thời tăng gia sản xuất.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ chính trong năm 1953 là tiêu diệt sinh lực địch,
phá hoại âm mưu của địch và tích cực thực hiện cải cách ruộng đất.

III. Kết quả và ý nghĩa thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-
1954:
1. Kết quả:
*Về chính trị:
Đảng ra hoạt động công khai, đã có điều kiện hoàn hảo để tổ chức và tăng cường sự lãnh
đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền được củng cố, mặt trận liên hiệp quốc
gia Việt Nam được thành lập, khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước mới.
*Về quân sự:
Lực lượng quân đội phát triển mạnh, thắng các chiến dịch lớn, diệt nhiều sinh lực địch và
giải phóng một vùng rộng lớn. Đặc biệt, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã đi vào lịch
sử dân tộc và thế giới như một chiến công hiểm hách.
*Về ngoại giao:
Buộc Pháp phải kí hiệp định Geneve về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông
Dương, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam kết thúc thắng lợi.

2. Ý nghĩa lịch sử:


- Đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp dù chúng được Đế Quốc Mỹ
viện trợ một lượng khổng lồ về vũ khí và tiền bạc, và buộc thực dân Pháp phải công nhận
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
- Làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của Đế Quốc Mỹ, kết thúc chiến
tranh lập lại hòa bình ở toàn bộ bán đảo Đông Dương.

56
- Đã giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện thuận lợi để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội và trở thành một căn cứ địa cách mạng vững chắc nhằm hậu thuẫn cho cuộc chiến ở
miền Nam.
- Nâng cao niềm tự hào dân tộc và tăng uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

3. Nguyên nhân thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-1954:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kết quả tổng hợp
của nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là:
-Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo;
toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động
sản xuất.
- Truyền thống yêu nước của nhân dân ta, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta
được phát huy mạnh mẽ, góp phần vào chiến thắng vang dội của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp.
- Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược giành được thắng lợi
cũng là nhờ có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, mặt trận dân tộc
thống nhất được củng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang ba thứ quân sớm được xây dựng và
không ngừng lớn mạnh. Hậu phương được củng cố và phát triển vững chắc trên tất cả mọi
mặt, góp phần quan trọng vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
- Cuộc kháng chiến của nhân dân ta có sự liên minh đoàn kết với cuộc kháng chiến của nhân
dân hai nước bạn Lào và Campuchia cùng chống một kẻ thù chung là đế quốc thực dân Pháp
xâm lược.
- Một nguyên nhân quan trọng nữa, trong cuộc kháng chiến, có sự đồng tình ủng hộ của
phong trào cách mạng trong đó có Trung Quốc, Liên xô và các lực lượng dân chủ hòa bình,
trên thế giới, của nhân dân Pháp tiến bộ là loài người tiến bộ.

4. Bài học kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-1954:
- Đảng và Nhà nước nhận ra được sự thiết yếu cuả việc kết hợp giữa hai nhiệm vụ cấp bách
lúc bấy giờ đó là chống phong kiến và chống đế quốc. Nếu tách rời một trong hai, thì nguy
cơ các thế lực phản động hoặc bọn đế quốc sẽ dễ dàng có cơ hội để đánh thắng ta, vì vậy ta
không thể để lơ là dù chỉ là 1 giây hay 1 phút nào cả. Chống phong kiến là một nhiệm vụ hết
sức cần thiết, cần phải lập một kế hoạch cụ thể, lâu dài, từng bước một để xóa bỏ những quy

57
định, điều lệ bất hợp lý của xã hội và cải thiện, phát huy những điều lệ, tập tục phù hợp với
xã hội mới. Từ đó có thể vừa phát triển lực lượng cách mạng, vừa giữ vững khối đoàn kết
dân tộc.
- Bí quyết mang đến sự thắng lợi toàn diện cho cuộc kháng chiến toàn dân đó chính là “toàn
dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”. Cuộc kháng chiến với sự tham gia của
toàn dân tộc bất kể là đàn ông, đàn bà, người già, trẻ em,..ai cũng đều phải có trách nhiệm
tham gia kháng chiến bảo vệ dân tộc. Tham gia ở đây không nhất thiết là phải cầm vũ khí ra
chiến trường, mà có thể ở phía sau làm các nhiệm vụ hậu phương. Toàn diện ở đây tức là
phải chiến đâu. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã từng nói: “Bất kỳ
đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng
súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải
ra sức chống thực dân Pháp cứu nước…”. Toàn diện ở đây tức có nghĩa là chiến đấu trên tất
cả các lĩnh vực, chứ không riêng gì quân sự, mà kể cả ngoại giao, kinh tế, chính trị, tình
báo,..Sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc ta là một vũ khí tuyệt đối mà không có bất cứ quốc
gia hay kẻ thù nào có thể phủ nhận. Ta sử dụng cả sức mạnh về vũ lực và sức mạnh về mưu
trí trong cuộc chiến tranh.
- Trong quá trình kháng chiến chống đế quốc cần phải đi đôi với quá trình xây dựng chế độ
mới và xây dựng hậu phương vững chắc để phục vụ cuộc kháng chiến. Trong lịch sử dài đấu
tranh hàng nghìn năm qua, dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống quân xâm lược,
“dựng nước phải đi đôi với giữ nước” được đánh giá như là một phương châm, một quy luật
tất yếu. Xây dựng đất nước là một nhiệm vụ phải được thực hiện xuyên suốt dù trong mọi
hoàn cảnh nhất là trong quá trình chiến tranh. Nhà nước phải có chính sách miễn thuế cho
dân, đào thải những thành phần phản động trong bộ máy nhà nước để người dân có niềm tin
vào bộ máy nhà nước mà kháng chiến. Tuy hậu phương chỉ là lực lượng hổ trợ ở phía sau,
song nó cũng có vai trò không kém so với tiền tuyến, hổ trợ cả về lương thực, thuốc men, vũ
khí và còn cả về tinh thần.
- Quyết tâm đẩy mạnh quá trình chiến tranh một cách lâu dài, vững mạnh, đi từ chiến tranh
du kích lên chiến tranh chính quy. Phối hớp chắc chẽ giữa hai hình thức chiến tranh: chiến
tranh chính quy và chiến tranh du kích, hai hình thức chiến tranh đều có ưu và nhược điểm
riêng, nhưng nếu biết kết hợp một cách hợp lí sẽ tạo nên một hình thức chiến tranh toàn
diện.
- Xây dựng Đảng vững mạnh và đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn và toàn diện của Đảng ta.
Đảng là một tổ chức đại diên cho các giai cấp nên cần phải đưa ra các đường lối, chủ trương

58
đúng đắn, việc có tạo nên chiến thắng lịch sử hay không cũng phụ thuộc ít nhiều vào đường
lối, ý chí quyết thắng kẻ thù của Đảng. Sàng lọc đội ngủ Đảng viên, giữ lại những Đảng viên
đáng tin cậy, kiên cường, loại bỏ những kẻ có ý định phản động.

IV. Nhận định, dự báo tương lai, và Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
- Nhận định:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi của đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; thắng lợi của sức mạnh toàn dân tộc
với tinh thần đấu tranh quật cường “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”. Kế thừa truyền thống, kinh nghiệm chống giặc ngoại xâm
của dân tộc, nắm vũng và vận dụng đáng quy luật chiến tranh trong điều kiện “lấy nhỏ đánh
lớn, lấy ít địch nhiều”. Cuộc kháng chiến đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc đối với
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc (BVTQ); trong đó, bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc có ý
nghĩa quan trọng, thiết thực đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD)
hiện nay.

- Dự đoán:
65 năm đã trôi qua, nhưng bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược vẫn còn nguyên giá trị. Trước yêu cầu ngày càng cao của
nhiệm vụ BVTQ, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng bài học kinh nghiệm đó trong
xây dựng nền QPTD, nhằm không ngừng tăng cường sức mạnh quốc phòng, đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh; đồng thời, để sẵn sàng đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công
nghệ cao của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Nền QPTD mà chúng ta
đang xây dựng là nền quốc phòng có tính chất: toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường và ngày càng hiện đại; đó là nền quốc phòng do toàn dân thực hiện dưới sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước. Để xây dựng nền QPTD đạt
được mục tiêu, yêu cầu đề ra, điều quan trọng trước hết là phải tiếp tục quán triệt sâu sắc
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả
hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới,
vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN;…”
Vận dụng bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong xây dựng nền QPTD hiện nay,
chúng ta cần tập trung xây dựng và phát huy mọi tiềm lực của đất nước; đó là các tiềm lực:
chính trị – tinh thần, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học – công nghệ (KH-CN),... Để xây
dựng tiềm lực chính trị – tinh thần, trước hết cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị các
cấp trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực, bản lĩnh, trí tuệ để triển khai thực hiện đúng đắn,
sáng tạo mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trong
đó, vấn đề then chốt là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính
trị các cấp; đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội
(KT-XH) và thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong công tác giáo dục quốc phòng – an ninh (QP-AN), cần tập trung quán triệt, tuyên
truyền quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời,
nâng cao nhận thức cho nhân dân về âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược "Diễn biến hoà bình"
của các thế lực thù địch. Thông qua đó, bồi đắp tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, củng
cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN, xây dựng “thế trận lòng
dân” vững chắc, tạo sự đồng thuận của toàn dân đối với sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng.

59
Hiện nay, công cuộc xây dựng CNXH của chúng ta đã tạo ra những tiền đề mới về cơ sở vật
chất của nền QPTD. Tuy nhiên, chúng ta phải biết tận dụng và phát huy một cách hiệu quả
nhất, biến tiềm lực thành thực lực quốc phòng, quân sự khi cần thiết. Đó vừa là đòi hỏi khách
quan của sự nghiệp BVTQ trong tình hình mới, vừa là sự kế thừa những bài học kinh nghiệm
sâu sắc trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp,
mặc dù còn “trăm bề” khó khăn, phải tập trung sức người, sức của cho kháng chiến, nhưng
Đảng ta vẫn đề ra nhiều chính sách đẩy mạnh sản xuất, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”,
chăm lo cải thiện đời sống nhân dân. Bài học đó cho thấy, để xây dựng và phát huy tiềm lực
kinh tế trong sự nghiệp BVTQ, trước hết, từng địa phương phải tập trung phát triển kinh tế,
cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời, thực hiện tốt yêu cầu kết hợp chặt chẽ giữa phát triển
kinh tế với tăng cường QP-AN; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước tăng cường
tiềm lực QP-AN. Sự kết hợp đó phải được thực hiện ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát
triển KT-XH, việc phân bố dân cư và xây dựng kết cấu hạ tầng trên các địa bàn, nhất là ở các
địa bàn chiến lược trọng điểm về QP-AN. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN với sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế đang đặt ra những vấn đề mới,
nhất là trong huy động nhân lực và vật lực. Vì vậy, chúng ta cần coi trọng việc tiếp tục
nghiên cứu, xây dựng các chế tài quy phạm pháp luật, các chính sách, phương thức, các biện
pháp phù hợp để quản lý, huy động các nguồn lực này cho công tác quốc phòng, quân sự khi
cần thiết.
Sức mạnh của nền QPTD là sức mạnh tổng hợp của đất nước. Tuy nhiên, sức mạnh đó tập
trung trước hết ở tiềm lực quân sự, mà sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang (LLVT) có
ý nghĩa quan trọng, quyết định. Vì vậy, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng với xây
dựng lực lượng và phát triển chiến tranh du kích, tạo thành thế trận rộng khắp, Đảng ta luôn
coi trọng xây dựng các đại đoàn chủ lực cơ động có sức chiến đấu cao để tiến hành các chiến
dịch, các trận đánh quyết định.

- Dự báo tương lai:


Ngày nay, nhiệm vụ BVTQ, nhất là bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đặt ra những yêu cầu ngày
càng cao, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại”, có trình độ và khả năng chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu cao. Cùng với đó, các
địa phương, đơn vị còn phải tập trung thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây
dựng lực lượng dự bị động viên “hùng hậu”; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ "vững mạnh,
rộng khắp", có chất lượng ngày càng cao.
Cùng với đó, cần coi trọng xây dựng tiềm lực văn hoá, KH-CN,… Trong đó, tập trung xây
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ
đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc. Cần coi trọng giáo dục các thế hệ
con người Việt Nam biết trân trọng các giá trị văn hoá truyền thống, giàu tính nhân văn “lấy
đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”...; đồng thời, nâng cao chất lượng
giáo dục – đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây
dựng và BVTQ. Mặt khác, cần tập trung xây dựng tiềm lực KH-CN theo hướng tự chủ, hiện
đại, đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH; đồng thời, đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật –
công nghệ quân sự theo hướng phục vụ kịp thời và có hiệu quả những yêu cầu về bảo đảm vũ
khí, trang bị kỹ thuật cho LLVT. Đặc biệt là, phải đẩy mạnh phát triển nền công nghiệp quốc
phòng, để có thể sản xuất, chế tạo nhiều loại vũ khí, trang bị hiện đại, trực tiếp góp phần xây
dựng Quân đội: chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến đánh bại kẻ thù có
vũ khí công nghệ cao.
Xây dựng nền QPTD là quan điểm cơ bản của Đảng ta về sức mạnh BVTQ trong tình hình
mới. Quan điểm đó hình thành trên cơ sở bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh toàn dân
tộc trong lịch sử dựng nước, giữ nước của nhân dân ta, mà nổi bật là đường lối: “Toàn dân
kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình là chính" trong

60
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày nay, chúng ta có thuận lợi cơ bản là hệ
thống pháp luật từng bước được hoàn thiện. Đó là cơ sở pháp lý để xây dựng kế hoạch, các
biện pháp phối hợp, huy động các tiềm lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ.

Tiểu sử Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Tên khai sinh Võ Giáp,bí danh: Văn. Sinh ngày 25/8/1911 tại xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình.
- Tháng 4/1945, tại Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, đồng chí được cử vào Ủy ban Quân sự Bắc
Kỳ. 
- Tháng 8/1945, đồng chí được cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Ủy ban Khởi
nghĩa toàn quốc. 
- Tháng 10/1946, là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm
Tổng Chỉ huy Quân đội Nhân dân và Dân quân tự vệ Việt Nam. Tháng 1/1948, đồng chí
được phong quân hàm Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.
- Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu làm
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ
Chính trị.
- Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1979, đồng chí là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng.
- Hội đủ tố chất của một vị tướng: Nhân, Trí, Dũng, Tín, Liêm, Trung.

Một số chiến dịch Võ Nguyên Giáp chỉ huy:


- Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947)
- Chiến dịch Biên giới 1950
- Chiến dịch Trung Du (tháng 12, 1950)
- Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951)
- Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9, 1952)
- Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4, 1953)
- Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 - 5 năm 1954)
 

61
🌓 Chủ đề 7: Phân tích đường lối Cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới từ tháng 9/1960 -
1965 (đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3)
* Phân tích nội dung đại hội
* Giai đoạn căng thẳng của chiến tranh (1963 - 1965 cao trào chiến tranh)
I.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III tháng 9/1960
1. Hoàn cảnh lịch sử

Đến cuối năm 1960, sự nghiệp cách mạng ở hai miền nước ta có những bước
tiến quan trọng.

+ Ở miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa với các
thành phần kinh tế đã đạt được những thành tựu quan trọng.

+Ở miền Nam, cuộc đấu tranh chống Mỹ – Diệm đã giành được thắng lợi có ý
nghĩa chiến lược trong phong trào “Đồng khởi” (1959 – 1960), làm lung lay chế
độ ngụy quyền Sài Gòn. Phong trào cũng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng miền Nam, chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang
thế tiến công.

Trong thời điểm này, tình hình thế giới cũng có nhiều thay đổi, vừa là thuận lợi,
vừa là thách thức cho cách mạng Việt Nam.

+Sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô và Trung
Quốc đã có nhiều ảnh hưởng tích cực đến cách mạng Việt Nam. Phong trào đấu

62
tranh giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và Mĩ Latinh phát triển
mạnh mẽ. Đó là thuận lợi cơ bản cho cách mạng Việt Nam ở cả hai miền.

+Tuy nhiên, sự mâu thuẫn trong phong trào cộng sản mà tâm điểm là quan hệ
Liên Xô – Trung Quốc đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế và cũng ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam.

Sự phát triển của cách mạng hai miền Bắc – Nam đòi hỏi Đảng phải nhanh
chóng hoạch định đường lối cách mạng cho cả nước, thống nhất ý chí và hành
động, định hướng tư tưởng và hoạt động thực tiễn cho cách mạng của hai miền.

Đặc biệt, cùng với sự thách thức của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một
nước nghèo nàn, lạc hậu, Đảng và dân tộc Việt Nam đã và đang đối mặt với
nhiều vấn đề thực tiễn phức tạp đặt ra yêu cầu cấp thiết Đảng phải sớm khẳng
định những nhiệm vụ cụ thể cho sự nghiệp cách mạng ở hai miền đất nước.

2. Nội dung

Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô
Hà Nội.

+Trong diễn văn khai mạc, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.

+Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch và Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất.

+Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong
giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5
năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,..

Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam:

Trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội xác định nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời hai
chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền:

+Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

+Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
63
Về mục tiêu chiến lược chung:

Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai
chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song trước mắt đều hướng vào
mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.

Miền Bắc sau khi hoàn toàn giải phóng đã trở thành căn cứ địa cách mạng
chung của cả nước. Tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc được tăng
cường về mọi mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền
Nam. bảo đảm sự phát triển của cách mạng trong cả nước.

+ Vì vậy,“cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rỏ ràng là nhiệm vụ


quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự
nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta”.
+ Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc , dân chủ nhân dân trong
cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà, cách mạng miền Nam “có tác dụng
quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”.

Trong khi giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền, cả hai chiến lược cách mạng
ở hai miền đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn
giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu
chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc.

Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền:

Đại hội nêu rõ:

+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và
bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị
cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối
với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống
nhất nước nhà.

Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là vấn đề trung tâm thảo
luận tại Đại hội. Xuất phát từ các đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm
lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định: cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về
mọi mặt, là một quá trình đấu tranh gay go giữa con đường xã hội chủ nghĩa và

64
con đường tư bản chủ nghĩa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng văn
hoá và kỹ thuật.

+Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định
trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Đại hội đề ra “Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng ở miền Nam là đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ
tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một
chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam. thực hiện độc lập dân tộc,
các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hòa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân dân chủ, tích cực góp
phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.

Về triển vọng của cách mạng và về xây dựng chủ nghĩa xã hội:

Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương (hay phương châm) kiên
quyết giữ vững đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó
phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như của nhân
dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác,
chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều
lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên
quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm
vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách
mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai
của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta,
Nam Bắc nhất định sum họp một nhà.

Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đại hội chủ trương
(hay phương châm) kiên trì con đường hòa bình thống nhất theo tinh thần Hiệp
nghị Giơnevơ vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân
dân cả nước ta cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Nếu đế
quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược
miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn
thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.

65
Xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là
quá trình đấu tranh giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con
đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn
hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu
cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa.

3. Kế hoạch năm năm lần thứ I

Trong thời kì Cách mạng VIệt Nam giai đoạn mới, Đảng đã đề ra những
đường lối chính trị nhằm phát triển các cuộc cách mạng, song song với đó
Đảng ta cũng đề ra những chiến lược phát triển kinh tế, tiêu biểu trong giai
đoạn này là Kês hoạch năm nam lần thứ nhất được đưa ra trong Đại hội
lần thứ 3 của Đảng

Kế hoạch 5 năm 1961-1965, hay tên gọi chính thức là "Kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất phát triển kinh tế quốc dân (1961-1965)" là kế hoạch phát triển ngắn hạn
thứ hai của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (kế hoạch ngắn hạn lần thứ nhất là kế
hoạch 3 năm (1958-1960). Từ những thành tựu to lớn đã đạt được sau kế hoạch
3 năm đã thôi thúc Đảng ta triển khai một kế hoạch mới tham vọng hơn.Các
phương hướng và mục tiêu chính của kế hoạch này đã được Đảng Lao động
Việt Nam đề ra vào tháng 9 năm 1960 tại Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng.

Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch năm năm
lần thứ nhất (1961-1965) với nhiệm vụ “… thực hiện một bước công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế miền
Bắc nước ta trở thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa”.

Sau Đại hội III của Đảng, miền Bắc bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ lấy xây
dựng chủ nghĩa xã hội làm nhiệm vụ trọng tâm. Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tổ chức các hội nghị chuyên đề cụ thể hóa đường lối phát triển kinh tế
trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của Kế hoạch
năm năm lần thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
xây dựng một bước cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội; cải thiện đời sống nhân

66
dân; bảo đảm an ninh quốc phòng; làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà , trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ quan trọng nhất là củng cố và phát
triển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, phát triển nông nghiệp một cách toàn
diện, mạnh mẽ và vững chắc.

Trong quá trình thực hiện kế hoạch, nhiều cuộc vận động và phong trào thi đua
được triển khai sôi nổi ở các ngành, các giới và các địa phương. Đặc biệt, phong
trào “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột
thịt” theo lời kêu gọi của Hồ Chí Minh tại Hội nghị chính trị đặc biệt tháng 3-
1964, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ở miền Nam, đã làm tăng thêm
không khí phấn khởi, hăng hái vươn lên hoàn thành Kế hoạch năm năm lần thứ
nhất.

Dựng ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” ngày 05/8/1964, đế quốc Mỹ chính thức tiến
hành chiến tranh phá hoại miền Bắc do đó Kế hoạch này mới được thực hiện
hơn bốn năm thì được chuyển hướng, song những mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch đã cơ bản hoàn thành. Nhân dân miền Bắc đã thực hiện được một bước
đáng kể kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển văn hóa, xã hội và
giáo dục. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân từng bước được chú trọng,
mạng lưới y tế được xây dựng rộng rãi từ thành thị đến nông thôn.

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt được những thành tựu to lớn làm thay đổi
bộ mặt xã hội miền Bắc. “Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những
bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người
đều đổi mới.” - Hồ Chí Minh. Tháng 12/1965, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng cũng nhận định: “Trải qua hơn 10 năm thực hiện cách
mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã trở thành căn
cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước, với chế độ chính trị ưu việt, với lực
lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh”.

Tháng 1/1961 và tháng 2/1962. Bộ Chính trị ra chỉ thị về “phương hướng và
nhiệm vụ công tác trước mắt của Cách mạng miền Nam” với tinh thần: giữ
vững thế chiến lược tiến công của cách mạng miền Nam đã giành được từ sau
phong trào Đồng Khởi, đưa đấu tranh vũ trang phát triển lên song song với đấu
tranh chính trị, tiến công địch trên cả 3 vùng chiến lược: đô thị, nông thôn đồng
bằng và nông thôn rừng núi, bằng 3 mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh
vận. Trên thực tế, đây là quyết định chuyển cuộc đấu tranh của nhân dân miền
Nam từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng.

67
Do đặc điểm phát triển không đều của cách mạng miền Nam nên phương châm
đấu tranh của ta phải linh hoạt, cụ thể:

Vùng núi: lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu

Vùng nông thôn đồng bằng: kết hợp hình thức đấu tranh vũ trang, chính trị

Vùng đô thị: lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu

Để tăng cường sự chỉ đạo của trung ương Đảng với cách mạng miền Nam,
tháng 10/1961. Trung ương cục miền Nam được thành lập. Ngày 15/2/1961 các
lực lượng vũ trang ở miền nam được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng
miền Nam Việt Nam.

Cách mạng Việt Nam tiếp tục có bước phát triển mới, tiêu biểu là chiến thắng ở
Ấp Bắc (Mỹ Tho), đã thể hiện sức mạnh và hiệu quả của đấu tranh vũ trang kết
hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, chống địch càn quét và nổi dậy giành
quyền làm chủ.

Sau chiến thắng Ấp Bắc (1963) phong trào đấu tranh phá “ấp chiến lược” phát
triển mạnh mẽ, thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị lên cao, lôi
cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, đặc biệt là phong trào đấu tranh
của Phật giáo (1963) (phần này sẽ được đề cập chi tiết ở phần sau)

Được sự chi viện của miền Bắc, quân và dân miền Nam đã mở nhiều chiến dịch
với hàng trăm trận đánh lớn nhỏ trên khắp các chiến trường. Phong trào đấu
tranh chính trị ở các đô thị cũng phát triển mạnh mẽ từ giữa 1963 trở đi, làm cho
bộ ba chỗ dựa chủ yếu của Mỹ bị lung lay tận gốc

4. Ý Nghĩa

Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do
Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.

+ Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng là giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc, vừa phù hợp
với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam, vừa phù hợp với tình hình
quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền
tuyến.

68
+ Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của
cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng.

+ Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền
là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to
lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống
các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.

II.Giai đoạn căng thẳng của chiến tranh 1963-1965

Từ đầu năm 1963, sau chiến thắng Ấp Bắc, phong trào đấu tranh phá “ấp chiến
lược” phát triển mạnh mẽ, với phương châm “bám đất, bám làng”, “một tấc
không đi, một ly không rời”. Phong trào đấu tranh quân sự và phong trào phá
“ấp chiến lược” phát triển, đã thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị ở các đô
thị lên cao, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, tri thức, học sinh,
sinh viên và các giáo phái tham gia.

Trước sự lớn mạnh của các phong trào cách mạng, nội bộ kẻ địch ngày càng
khủng hoảng trầm trọng. Đáng chú ý là vào ngày 8 tháng 5 năm 1963 xảy ra sự
kiện Phật Đản tại Huế, sự kiện này chỉ là sự bùng nổ của các mâu thuẫn vì lý do
tôn giáo tích tụ lâu ngày trong lòng xã hội, và đặc biệt bị đẩy lên mức độ cực
đoan trong thời kỳ của chính phủ Ngô Đình Diệm. Nó được bắt nguồn từ một
chỉ thị của chính phủ Ngô Đình Diệm nhằm siết chặt quy định cấm treo cờ tôn
giáo tại nơi công cộng. Từ một vụ lộn xộn là cảnh sát không cho treo cờ Phật
giáo nhân ngày Phật Đản, lãnh đạo Phật giáo đã quyết định đấu tranh chống
chính quyền đến cùng cho dù chính phủ Ngô Đình Diệm đã có nhiều cố gắng
xoa dịu sự bất mãn của Phật giáo. Cho đến khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức
tự thiêu tại Sài Gòn nhằm phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính phủ
và nối tiếp một loạt các cuộc tự thiêu khác của Phật tử, đã làm chấn động tình
hình trong nước và quốc tế. Tình thế lúc này đã vượt khỏi tầm kiểm soát của
chính phủ Việt Nam Cộng hoà.

Ngày 1 tháng 11 năm 1963 Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự chỉ huy của
tướng Dương Văn Minh và sự im lặng không phản đối của Hoa Kỳ, đã làm đảo
chính lật đổ và giết chết ba anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm (ông Diệm và
Nhu bị giết chết ngày 2 tháng 11 năm 1963; riêng ông Cẩn bị xử tử ngày 9

69
tháng 5 năm 1964). Sự kiện này được biết ở miền Nam với cái tên “Cách mạng
1/11”.

Từ tháng 11-1963 đến tháng 6- 1965 đã diễn ra 10 cuộc đảo chính quân sự
nhằm lật đổ lẫn nhau trong nội bộ ngụy quyền Sài Gòn.

Tháng 12- 1963, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 9, xác định những vấn
đề quan trọng về đường lối cách mạng miền Nam và đường lối đoàn kết quốc tế
của Đảng. Nghị quyết trung ương lần thứ 9 đã xác định “đấu tranh vũ trang
đóng vai trò quyết định trực tiếp” đến thắng lợi trên chiến trường.

Tháng 12/1965, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân
tích một cách toàn diện chiến lược mới của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam. Hội nghị kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục
vạn quân viễn chinh, cuộc chiến đấu của quân và dân ta sẽ khó khăn, gian khổ
gấp bội, nhưng do quân Mỹ vào trong thế thua, thế bị động nên lực lượng so
sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Vì thế, cuộc kháng chiến vẫn giữ
vững và phát triển thế chiến lược tiến công. Kết hợp đấu tranh quân sự và đấu
tranh chính trị, nhưng đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp.
Phương châm là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Hội nghị khẳng định
quyết tâm chiến lược: “Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại
cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo
vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.

Thể hiện quyết tâm đánh và thắng Mỹ, quân và dân miền Nam đã giành thắng
lợi ở Núi Thành, Vạn Tường, Bầu Bàng (Bàu Bàng), Đất Cuốc, Plâyme, Bình
Giã (12/1964), Ba Gia (5/1965), Đồng Xoài (7/1965),... đồng thời đã sáng tạo
một hình thức tiến công, phương châm tác chiến độc đáo ở miền Nam là: 2 chân
(quân sự, chính trị), 3 mũi ( quân sự, chính trị, binh vận), 3 vùng ( đô thị, nông
thôn đồng bằng, miền núi). (Như đã đề cập ở phần trước thì )Các chiến dịch
quân sự và phong trào đấu tranh chính trị dồn dập, có hiệu quả của quân và dân
miền Nam đã làm cho ba chỗ dựa chủ yếu của Mỹ là quân đội chính quyền Sài
Gòn, hệ thống “ấp chiến lược” và các đô thị bị lung lay tận gốc.

- Với tinh thần chủ động sáng tạo, sau hơn 4 năm (1961 – giữa 1965), miền
Nam đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, chính quyền
Ngô Đình Diệm cũng bị lật đổ (01-11-1963). Bên cạnh đó, phong trào học sinh,
sinh viên, trí thức, bãi công của công nhân ... ngày càng lan rộng.

70
- Tháng 9 – 1964, Bộ Chính trị họp và chủ trương giành thắng lợi quyết định
ở miền Nam trong một vài năm tới, tăng cường chi viện cho miền Nam. Đến
đầu năm 1965, các công cụ, chỗ dựa của “chiến tranh đặc biệt” là ngụy quân,
ngụy quyền, ấp chiến lược đều bị lung lay tận gốc. Chiến lược “chiến tranh đặc
biệt” của Mỹ đã hoàn toàn phá sản.

- Đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” là một thắng lợi to lớn có ý nghĩa
chiến lược của quân và dân ta ở miền Nam, tạo cơ sở vững chắc để đưa cách
mạng miền Nam tiếp tục tiến lên.

🌔 Chủ đề 8: Phân tích đường lối Cách mạng miền Nam trong giai đoạn 1965 - 1975.
* Giai đoạn gay cấn -> đi đến quyết định thống nhất đất nước.

* Phân tích nghị quyết trung ương lần 11 + 12 (Diên Hồng) KHÔNG sa vào diễn biến.

1. Hoàn cảnh lịch sử:


Thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển
sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân đội viễn chinh và chư hầu vào
miền Nam Việt Nam một cách ồ ạt, coi đây là gọng kìm thứ nhất; đồng thời, ra
sức tăng cường quân ngụy cả về số lượng và trang bị, coi đây là gọng kìm thứ
hai; thực hiện hai mục tiêu bình định và tìm diệt quân giải phóng, đồng thời mở
rộng “chiến tranh phá hoại” miền Bắc lần thứ nhất. Cả nước đứng trước nguy cơ
chiến tranh xâm lược của Mỹ lan rộng.
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản
của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ và
quân các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” với
quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân hùng hổ tiến hành cuộc chiến
tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã quyết định phát
động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc.
Thuận lợi: Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng thế
giới đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và

71
vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hóa. Sự chi viện sức người, sức của của miền
Bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961-1962, từ năm
1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. Ba “chỗ dựa”
của “Chiến tranh đặc biệt” (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị)
(đều bị quân dân ta tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965, chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị
phá sản.
Khó khăn: Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và
không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ mở cuộc “Chiến tranh
cục bộ” ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực tiếp xâm
lược miền Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và
đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
2. Quá trình hình thành
Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam, các
Hội nghị của Bộ chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ trương
giữ vững và phát triển thế tiến công mà ta đã giành được sau cuộc “đồng khởi”
năm 1960, đưa cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành
chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền. Thực hành kết hợp đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị song song, đẩy mạnh đánh địch bằng ba mũi giáp
công:quân sự, chính trị, binh vận.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín (11/1963), ngoài việc xác định đúng
đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, còn quyết định nhiều
vấn đề quan trọng về cách mạng miền Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu
tranh chính trị,đấu tranh vũ trang đi đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản,
đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc,
Hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm căn cứ địa, hậu phương đối với cách
mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt, sẵn sàng đối
phó với âm mưu đánh phá của địch.
- Trước hành động gây “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, tiến hành chiến tranh
phá hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng

72
3-1965) và lần thứ 12 (tháng 12-1965) đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra
đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.

❖ Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng ta trong
nghị quyết trung ương 11 và 12(1965):
Đảng ta đã họp HNTW 11 (3/1965) và HNTW 12 (12/1965). Đây là 2 HN đặc
biệt đã đề ra đường lối ĐÁNH MỸ VÀ THẮNG MỸ.
- Nhận định tình hình:
Dù Mỹ có ồ ạt đổ quân Mỹ và chư hầu tham chiến, nhưng tính chất của cuộc
chiến tranh là không thay đổi.
Mỹ triển khai chiến lược mới trong thế thua nhưng Mỹ không dễ dàng chấp
nhận thất bại vì Mỹ thua hậu quả đối với Mỹ là khôn lường.
Cuộc đụng đầu lịch sử giữa ta và Mỹ đã bước sang giai đoạn gay go và quyết
liệt nhất.
- Mục tiêu: chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc do vậy
chúng ta phải quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng bất cứ giá nào để bảo vệ
hòa bình, giải phóng miền Nam hoàn thành cuộc cách mạng DTDCND và thực
hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.
- Phương châm chiến lược chung gồm: Đánh lâu dài dựa vào sức mình là
chính, càng đánh càng mạnh cần phải cố gắng tới mức độ cao, tập trung lực
lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành
thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền
Nam.
- Phương thức đấu tranh là: kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị
nhưng đấu tranh vũ trang sẽ có tầm quan trọng và quyết định. Triệt để thực hiện
3 mũi giáp công quân sự, chính trị, binh vận..
- Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là: Giữ vững và phát triển thế tiến công, liên tục
tiến công.
- Khẩu hiệu đấu tranh là: “tất cả để đánh thắng Mỹ xâm lược, hễ còn một tên
giặc Mỹ xâm lược lược trên đất nước ta thì ta phải quét sạch nó đi

- Quyết tâm của ta là: “chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân
tộc ta từ nam chí bắc, kiên quyết đánh bại đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống
nào nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”.
Ngày 17/07/1966 bác Hồ khẳng định “chiến tranh có thể kéo dài 5 năm,10 năm,
20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có

73
thể bị tàn phá. Song nhân dân VN quyết không sợ. KHÔNG CÓ GÌ QUÝ
HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO”.
- Nhiệm vụ của miền Bắc là phải nhanh chóng chuyển hướng kinh tế, kết hợp
kinh tế với quốc phòng. Kiên quyết đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ, chi viện tích cực cho miền Nam và sẵn sàng đánh bại địch nếu chúng liều
lĩnh mang bộ binh ra miền Bắc.
- Nhiệm vụ của miền Nam là giữ vững thế chiến lược, tiến công và liên tục tiến
công, kiên trì phương châm đánh lâu dài dựa vào sức mình là chính. Đẩy mạnh
3 mặt giáp công, đánh địch trên 3 vùng chiến lược, giành thắng lợi trong thời
gian tương đối ngắn.
Mối quan hệ giữa 2 miền:
- Miền Bắc chính là hậu phương lớn, miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn. Phải kiềm
chân địch và thắng địch trên chiến trường miền Nam, kiềm chế và thắng Mỹ
trong chiến tranh phá hoại miền Bắc. Phải nắm vững 2 nhiệm vụ chiến lược bảo
vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam, 2 nhiệm vụ không được tách rời nhau,
phải hỗ trợ cho nhau và cùng thực hiện khẩu hiệu “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”.
c) Ý nghĩa của đường lối:
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các hội
nghị TW lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng:
- Nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ trên cơ sở khoa học.
- Thể hiện tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập, tự chủ, sự kiên trì
mục tiêu giải phóng MN, thống nhất TQ, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng
chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
- Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CMXH,
tiếp tục tiến trình đồng thời và kết hợp chặt chẽ 2 chiến lược CM trong hoàn
cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tiễn đất
nước và hoàn cảnh quốc tế.
- Tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài
và thắng lợi.

74
🌙 Chủ đề 9: Tại sao lại Đảng quyết định đổi mới đất nước? (1960 - ĐH lần 13)
ĐH3 ĐH4 xác định chọn ưu tiên CN nặng -> sai lầm

chuyển hướng

lý giải

* Phân tích thể chế kinh tế Việt Nam - đường lối công nghiệp hóa -> tại sao đổi mới đất nước.
PHẦN MỞ ĐẦU

Sau ngày giải phóng miền Bắc, Đảng và Nhà nước đã lựa chọn con đường phát triển
đất nước theo chủ nghĩa xã hội, áp dụng nền kinh tế kế hoạch hóa theo mô hình Liên
Xô cho nền kinh tế Việt Nam. Kể từ đây, nền kinh tế Việt Nam đã được gắn vào quỹ
đạo của nền kinh tế kiểu Soviet, mọi vấn đề kinh tế tại Liên Xô hay các nước Đông
Âu đều có sự ảnh hưởng đến Việt Nam. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Chính
phủ đã tiến hành áp dụng nền kinh tế kế hoạch hóa trên phạm vi cả nước. Trong khi
đó, nền kinh tế này đã bắt đầu bộc lộ những điểm yếu tại Liên Xô và khối Xã hội chủ
nghĩa, dẫn đến các cuộc khủng hoảng triền miên kéo dài sau đó, và cuộc khủng hoảng
này cũng đã ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, kèm theo những vấn đề trong nước, Việt
Nam bị rơi vào “vòng xoáy” khủng hoảng. Để thoát khỏi khủng hoảng, Liên Xô và

75
các nước Đông Âu đã tiến hành các cuộc cải tổ, cải cách, nên theo đó, Việt Nam cũng
đã tiến hành Đổi mới. Tuy nhiên, các cuộc cải tổ, cải cách tại Liên Xô hay các nước
Đông Âu đã mắc phải những sai lầm tai hại, dẫn đến sự sụp đổ liên hoàn của khối Xã
hội chủ nghĩa, nhưng lần này Việt Nam đã thoát được khỏi quỹ đạo đó bởi những điều
chỉnh kịp thời, sáng suốt của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực hiện Đổi mới,
đưa Việt Nam thoát khỏi viễn cảnh của Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng ta
không chối bỏ những thiếu sót đã mà đã đương đầu đối mặt để sửa chữa, để kiến thiết
lại một con đường phát triển mới cho nước ta. Vậy những sai lầm đó là gì? Và nguyên
nhân nào đã thúc đẩy tới những sai lầm đó trong buổi thuyết trình này với chủ đề “
….” chúng em xin có một góc nhỏ ý kiến để trình bày và thảo luận với thầy cô cùng
các bạn

NỘI DUNG

I. Bối cảnh trong nước và thế giới

1. Sơ lược về Việt Nam

Việt Nam có một bề dày lịch sử hàng nghìn năm, từ thời Văn Lang, Âu Lạc, sau đó
đã phải chịu “ngàn năm Bắc thuộc”, đến khi Ngô Quyền dành được độc lập năm 938,
Việt Nam bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, xây dựng và phát triển chế độ quân chủ.
Năm 1858, Pháp nổ súng tấn công Việt Nam, mở đầu cho quá trình xâm lược, đô hộ
của thực dân châu Âu, kéo dài đến tận năm 1945, với sự thành công của Cách mạng
tháng 8, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, khai sinh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau đó, nước ta tiếp tục kháng chiến chống Pháp đến 1954 với hiệp định Geneve,
kháng chiến chống Mỹ đến 1973 với hiệp định Paris, ta lật đổ chính quyền Việt Nam
Cộng hòa, thống nhất đất nước năm 1975, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Trong lịch sử, Việt Nam đã từng trải qua nhiều lần cải cách, như cải cách họ Khúc
thế kỷ X, cải cách kinh tế-chính trị của Hồ Qúy Ly thế kỷ XV, cải cách hành chính
Minh Mạng thế kỷ XIX,… Mặc dù các cuộc cải cách đều khác biệt về thời gian, nội
dung, hình thức, nhưng tất cả đều có chung mục tiêu là giúp cho đất nước tốt hơn,
phát triển.

2. Bối cảnh thế giới

76
Thời kỳ này là thời kỳ Chiến tranh Lạnh bước vào giai đoạn cuối cùng, khi mối
quan hệ Mỹ - Xô đang từ giảm căng thẳng chuyển sang đối đầu trở lại từ năm 1979
đến 1985, khi Mikhail Gorbachev nắm quyền tại Liên Xô, mối quan hệ này bắt đầu
“tan băng” cho đến khi Liên Xô sụp đổ năm 1991. Khoảng thời gian này cũng đánh
dấu sự bắt đầu khủng hoảng ở Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày
một nghiêm trọng, đe dọa đến sự tồn vong của khối Xã hội chủ nghĩa, dẫn đến là các
nước này buộc phải tiến hành cải cách, Liên Xô khi Gorbachev cầm quyền cũng đã
tiến hành cải tổ đất nước, nhưng do đường lối sai lầm nên cuối cùng đã thất bại, dẫn
đến sự sụp đổ hoàn toàn của Liên Xô và kéo theo đó là các nước Xã hội chủ nghĩa
Đông Âu. Trái ngược với các quốc gia Xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng khủng
hoảng, Trung Quốc đã tiến hành cuộc cải cách năm 1978 do Đặng Tiểu Bình khởi
xướng và đã gặt hái được nhiều thành công, đất nước ngày càng phát triển. Ngoài ra,
thế giới còn có cuộc cách mạng khoa học công nghệ, với sự ra đời của máy tính và tự
động hóa, xu thế Toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ, các nước Tư bản chủ nghĩa do biết
tận dụng và tiếp thu nên đã trở nên phát triển, sống sót ra khỏi Chiến tranh lạnh. Là
một quốc gia Xã hội chủ nghĩa theo mô hình của Liên Xô, Việt Nam cũng đã chịu tác
động của cuộc khủng hoảng, từ đó đặt ra yêu cầu cấp bách cho Việt Nam là phải đổi
mới, cũng như qua tất cả những gì đã diễn ra trong tiến trình, Việt Nam cũng phải điều
chỉnh đường hướng đổi mới của mình, hòa mình vào nền kinh tế thế giới, tiếp thu các
thành tựu, nhằm để không phải chịu cảnh sụp đổ giống như Liên Xô và các nước
Đông Âu.

3. Bối cảnh trong nước

Năm 1954, hiệp định Geneve được ký kết, Việt Nam tạm thời bị chia cắt tại vĩ
tuyến 17, chờ Tổng tuyển cử thống nhất vào 2 năm sau. Miền Bắc được giải phóng và
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong khi đó Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm lập nên
chính phủ Việt Nam Cộng hòa tại miền Nam, âm mưu chia cắt Việt Nam lâu dài,
nhằm ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản bao phủ toàn bộ Việt Nam và lan rộng trên toàn
Đông Nam Á. Vậy nên miền Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa là hậu phương
chi viện miền Nam, còn miền Nam thì thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
đánh đuổi giặc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

77
Năm 1973, hiệp định Paris được ký kết, quân Mỹ phải hoàn toàn rút khỏi Việt
Nam, tạo thời cơ cho công cuộc thống nhất. Đến ngày 30/4/1975, chính quyền Việt
Nam Cộng hòa sụp đổ, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đến Tổng tuyển cử năm
1976, Việt Nam đã hoàn toàn thống nhất về mặt nhà nước với sự ra đời của Quốc hội
thống nhất đầu tiên, với tên nước chung là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ
đây, cả nước bắt đầu tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả 2 miền Nam – Bắc.

II. NGUYÊN NHÂN ĐẢNG QUYẾT ĐỊNH ĐỔI MỚI:

1. Nguyên nhân chủ quan:

1.1 Công cuộc công nghiệp hóa đất nước trước đổi mới (giai đoạn 1960-1986).

Khái niệm CNH: Là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc, biến một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp.

1.1.1 Đại hội lần thứ III của Đảng 1960 đề ra đường lối cách mạng XHCN ở miền
Bắc:

Đảng xác định rằng nhiệm vụ CMXHCN ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định
nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp
thống nhất nước nhà của nhân dân ta. Muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu
của nước ta, không còn con đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa.

Xuất phát từ nhiệm vụ đó, Đảng đã đề ra đường lối xây dựng kinh tế cho miền Bắc:

+ ƯU TIÊN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NẶNG MỘT CÁCH HỢP LÝ

+ Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp nặng với phát triển nông nghiệp;

+ Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng

+ Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển
công nghiệp địa phương.

Điểm xuất phát của Việt Nam khi bước vào thực hiện CNH rất thấp. Năm 1960,
công nghiệp chiếm tỷ trọng18,2% và 7% lao động xã hội; tương ứng nông nghiệp

78
chiếm tỷ trọng 42,3% và 83%. Sản lượng lương thực/người dưới 300 kg; GDP/người
dưới 100 USD.

1.1.2 Đại hội IV (1976):

Sau chiến thắng 30/4/1975 lịch sử, đất nước ta thống nhất 2 miền Nam Bắc. Tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng diễn ra từ ngày 14 đến 20/12/1976, Đại
hội nêu lên ba đặc điểm của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới:

- Một là, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.

- Hai là, đất nước đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội có nhiều thuận lợi, song cũng còn không ít khó khăn do hậu quả của chiến
tranh để lại nặng nề, lâu dài trên nhiều mặt.

- Ba là, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có nhiều
thuận lợi. Song, bên cạnh đó, tình hình thế giới cũng có nhiều khó khăn, đó là
cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa lực lượng cách mạng và phản cách mạng trên
thế giới đang diễn ra quyết liệt và phức tạp, hàng ngày tác động đến Việt Nam.

Xuất phát từ ba đặc điểm đó, Đảng đưa ra đường lối xây dựng kinh tế trong giai
đoạn cách mạng mới nội dung cơ bản là:

- Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội,

- ƯU TIÊN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP NẶNG MỘT CÁCH HỢP LÝ


TRÊN CƠ SỞ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG NGHIỆP NHẸ;

- Vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương, kết
hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với việc hoàn thiện quan
hệ sản xuất mới.

79
Những thay đổi trong chính sách CNH dù còn chưa thật rõ nét song cũng đã tạo
một sự thay đổi nhất định trong phát triển:

+ Số xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên 2627
cơ sở năm 1980 và 3220 cơ sở năm 1985.

+ 1976 – 1978 công nghiệp phát triển khá. Năm 1978 tăng 118,2% so với năm
1976.

1.1.3 Đại hội lần thứ V (3-1982): Khi đề cập đến “những nội dung chính của công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt” và những năm tiếp
theo đã phải nhấn mạnh cần:

1. Tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ——> tạo cái
ăn, bình ổn xã hội.

2. Đồng thời, ra sức đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng. ——> giải quyết hàng tiêu dùng cho xã hội, giải quyết hàng xuất khẩu cho
nước ngoài.

3. Tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng ——> công
nghiệp năng lượng, công nghiệp vật liệu xây dựng (chủ yếu là là xi măng) và công
nghiệp khai khoáng (than, dầu khí).

Cần kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong
một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý.

Việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có
mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ.

= > Tại Đại hội V : ( tháng 3-1982 ) đã xác định trong chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu

Như vậy, có thể nói rằng, thực tế cuộc sống đã dần dần buộc chúng ta phải điều
chỉnh quan niệm và nội dung công nghiệp hoá, song vẫn khẳng định việc tiếp tục xây
dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng.

80
1.1.4 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng(12/1986) đã nghiêm khắc
chỉ ra những sai lầm trong nhận thức về chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ
1960-1985:

● Xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Cải tạo
xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng
vội.
● Muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên đã chủ trương đẩy mạnh công
nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế.
● Bố trí cơ cấu kinh tế nhất là cơ cấu sản xuất không hợp lý.
● Chỉ muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp và
nông nghiệp thành một cơ cấu không hợp lý.
● Thiên về xây dựng công nghiệp nặng và các công trình quy mô lớn.
● Không tập trung sức giải quyết về căn bản vấn đề là đầu tư về lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, kết quả là đầu tư
nhiều mà hiệu quả thấp.

Từ việc chỉ ra những sai lầm , khuyết điểm , Đại hội VI đã cụ thể hoá nội dung
chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là thực hiện cho bằng được 3 chương trình mục tiêu
: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Trong đó ''vị trí hàng
đầu là nông nghiệp”. (Từ đó ta có thể rút ra các đặc trưng/hạn chế của công cuộc
công nghiệp hóa kinh tế trước thời kì đổi mới.)

1.2 Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hoá thời kỳ trước đổi mới:

Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về
phát triển công nghiệp nặng.

Công nghiệp hoá chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và
nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là
Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa chủ
yếu bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu trong nền kinh tế thị trường.

81
Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan
tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.

=> Đại hội VI (1986) của Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý
nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc
đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức,
cán bộ, phương thức lãnh đạo và phong cách của Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi
mới chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đại hội VI khẳng định: Đối
với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý
nghĩa sống còn. Đại hội VI đã đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay
chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên.

2. Nguyên nhân khách quan

Trước thời kì giải phóng năm 1975, cụ thể là ở những năm 60 sau đại hội Đảng
lần III (9/1960), những thể chế, nguyên tắc của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung được hình thành ở Liên Xô và sau đó được áp dụng tại hầu hết các nước xã
hội chủ nghĩa (XHCN) nói chung, và ở miền Bắc Việt Nam nói riêng, với mục
tiêu đặt ra lúc này là tiến lên chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương chi viện cho
cách mạng miền Nam. Miền Bắc Việt Nam đã chuẩn bị tiền đề đi vào mô hình này từ
những năm cuối của thập kỷ 50, với hai cuộc cải tạo lớn: Cải tạo nông nghiệp và cải
tạo công thương nghiệp trong ba năm 1958-1960. Từ thập kỷ 60, với Đại hội Đảng lần
thứ III và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), miền Bắc bắt đầu trực tiếp áp
dụng mô hình kinh tế XHCN. Trong khi đó, nền kinh tế miền Nam lại phụ thuộc nặng
nề vào sự viện trợ của Mỹ, nên sự độc lập trong kinh tế rất hạn chế.

Tháng 9/1960, vấn đề CNH, HĐH, lần đầu tiên được Đảng ta đề cập vào Đại
hội III của Đảng. Tại đây, Đại hội xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại;
bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ
bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết
hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng. Tuy nhiên,
thời kỳ đổi đường lối công nghiệp hóa bước đầu lại vấp phải vô vàn khó khăn do
một số tác nhân khách quan như:

82
- Tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công
nghiệp yếu ớt và què quặt.

- Tiến hành công nghiệp hóa trong điều kiện đất nước bị chia cắt, miền Bắc
phải thực hiện vai trò của hậu phương lớn và sẵn sàng ứng phó với tình huống
chiến tranh lan ra miền Bắc.

Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời
kỳ khôi phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất
nước: cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất
chưa đảm bảo nhu cầu đời sống và tích luỹ,… Đảng cũng vạch ra những nguyên
nhân sâu xa của tình hình trên là nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ
chức và quản lý kinh tế có nhiều hạn chế,…Nhưng những điểm bất hợp lý trong
quan hệ sở hữu Đảng lại chưa chỉ ra. Chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng…” tiếp tục được khẳng định lại tại Đại hội IV của Đảng (1976). Thời kỳ
1976-1980 là thời kỳ triển khai những tư tưởng của Đại hội Đảng lần thứ IV và phấn
đấu thực hiện những chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 1976-1980, bao gồm phát triển và
cải tạo kinh tế, văn hoá, phát triển khoa học, kỹ thuật nhằm cùng một lúc hai mục tiêu
vừa cơ bản, vừa cấp bách: xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cải
thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân với hy vọng tươi sáng. Có
thể nói, thời kỳ này được dự kiến là thời hòa bình và phát triển với tốc độ cao nhất,
khi đất nước đã "sạch bóng quân thù."

Tuy nhiên, kết thúc kế hoạch 5 năm 1976-1980 ngành công nghiệp Việt nam
nói riêng và nền kinh tế nói chung không tiến thêm được bao nhiêu mà còn bộc lộ
nhiều yếu kém, nhất là mất cân đối nghiêm trọng trong quan hệ cung – cầu về
một số mặt hàng quan trọng. Những khủng hoảng đó ngoài bắt nguồn từ những
nguyên nhân chủ quan như sai lầm trong chính sách, chúng còn đến từ những tác động
khách quan khó tránh:

• Viện trợ Mỹ được thay bằng cấm vận của Mỹ: Ở miền Nam, sự phong phú
về hàng hóa đã sớm chuyển thành sự thiếu hụt. Chúng ta biết rằng nguồn hàng
công nghiệp phong phú của miền Nam chủ yếu là dựa vào nhập khẩu. Mỗi năm, miền
Nam nhập khẩu khoảng trên dưới một tỷ đô la, thông qua hệ thống viện trợ Mỹ.

83
Nguồn này chấm dứt đột ngột từ 30/04/1975 đã ảnh hưởng tới cả sản xuất lẫn
tiêu dùng. Trong nhiều sự thiếu hụt như nhiên liệu trong nông nghiệp và nguồn điện
trong công nghiệp, thì sự thiếu hụt phổ biến nhất là thiếu hụt phụ tùng thay thế. Do
những thiếu hụt lớn đó, hàng trăm xí nghiệp của miền Nam mà dự kiến sẽ là
những đầu tàu đưa cả nước cất cánh trên con đường công nghiệp hóa, thì bản
thân nó kêu cứu: Một số lớn đã đóng cửa, cho công nhân nghỉ việc hoặc đi làm
ruộng rẫy kiếm ăn, số còn sản xuất cầm chừng.

• Thiên tai - địch họa:

Từ năm 1977 - 1978, bóng quân thù lại xuất hiện ở phía Tây Nam khi toàn bộ
tuyến biên giới Tây Nam bị quân Pol Pot đánh phá, lính Khơ me đỏ đã tấn công
vào hầu khắp các xã biên giới. Cuối năm 1978, Việt Nam đưa quân sang để cứu
nhân dân Campuchia thoát khỏi ách thống trị của chính quyền sát nhân Pol Pot.
Việc duy trì một quân số rất lớn ở trong nước và ở cả Campuchia là một gánh quá
nặng đè lên một ngân sách quá yếu và một dân tộc đã quá mệt mỏi sau nhiều thập kỷ
chiến tranh. Đầu năm 1979 thì bóng quân thù lại tràn ngập khắp biên giới phía
Bắc chống Trung Quốc và gây những tổn thất rất nặng nề.

Cũng vào cuối năm 1978 và liên tiếp cả năm 1979, có hai trận lũ lớn ở đồng
bằng Nam Bộ cuốn mất lương thực, tài sản, nhà cửa. Hàng trăm ngàn người rơi
vào cảnh màn trời chiếu đất. Phần rất lớn diện tích canh tác bị ngập úng 56 tháng. Gia
súc, gia cầm phải bán chạy lụt với giá hạ, sản lượng gia súc, gia cầm giảm nghiêm
trọng. Kinh tế, đời sống nhiều địa phương bị đảo lộn lớn.

• Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cũng giảm sút: Trước hết là khoản
viện trợ của Trung Quốc, trước đây thường vào khoảng 300 - 400 triệu đô la/năm. Từ
sau ngày giải phóng, do nhiều diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế, nguồn này
giảm mạnh và đến năm 1977 thì chấm dứt hoàn toàn.

Ngoài ra, về mặt chính trị, chính sự giáo điều, chủ quan, nóng vội đã dẫn đến
hàng loạt các sai phạm và kết quả là khủng hoảng, đặc biệt trong công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Nam, chưa đặt đúng vai trò, vị trí của dân chủ với tư cách là một
động lực quan trọng hàng đầu và là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, sự quan liêu,
tham ô, lãng phí của hệ thống cán bộ, viên chức nhà nước đã dẫn đến sự mất

84
lòng tin của nhân dân cả nước. Chính Tổng bí thư Trường Chinh cũng đã nhìn nhận
vấn đề này tại Đại hội VI: “…Những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán
bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt động của bọn làm ăn phi pháp... chưa bị trừng
trị nghiêm khắc và kịp thời…”

Nói tóm lại, về khách quan, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa từ một nền
kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá
nặng nề, vừa không thể tập trung sức người sức của cho công nghiệp hóa. Chính
điều đó đã dẫn đến những hậu quả không đáng có trong công cuộc CNH-HĐH của
Việt Nam lúc bấy giờ, nhưng cũng chính là động lực thúc đẩy cho bước “vượt rào”
đổi mới tại Đại hội V (2/1982).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (2/1982) của Đảng khẳng định tiếp tục
thực hiện đường lối CMXHCN và đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN do Đại
hội lần thứ IV của Đảng đề ra. Tại đây, Đại hội V cụ thể hóa đường lối CMXHCN ,
vạch ra chiến lược kinh tế - xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công
nghiệp hóa XHCN. Đây là bước điều chỉnh rất đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Với chủ trương “đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành, xoá bỏ
cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp, khắc phục bằng được tình trạng
bảo thủ, trì trệ, vô trách nhiệm, vô kỷ luật, phát huy động lực làm chủ tập thể,
nâng cao tính năng động sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật”. Cả
Trung ương, địa phương và cơ sở đều làm kế hoạch kế hoạch phải thấu suốt nguyên
tắc hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong cơ chế
quản lý mới này thì mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả. Các tổ
chức và đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng. Từ đó
sẽ khiến cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nâng cao tính tự lập, phát huy tính chủ
động sáng tạo của mình để đẩy mạnh phát triển sản xuất.

Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, một số ngành và nhiều địa
phương đã tiến hành những cuộc thử nghiệm, tìm tòi về cách làm ăn mới này nhằm
khai thác khả năng tiềm tàng của nền kinh tế phát triển sản xuất, cải tiến lưu thông,
phân phối, đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân. Từ cuối những năm 70, một số
địa phương đã xé rào, vượt rào, khoán hộ (khoán chui), thử nghiệm cách làm ăn

85
mới, có hiệu quả. Có thể nói, đây chính là những bước “phá rào” đầu tiên. Song,
cho tới năm 1986 cơ chế tập trung quan liêu bao cấp về căn bản chưa bị xoá bỏ.
Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ. Nhiều chính sách, cơ chế đã lỗi thời
chưa được thay đổi, một số thể chế quản lý mới còn chắp vá, không ăn khớp,
thậm chí trái ngược nhau.

Đất nước ta sau nhiều năm trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nền
kinh tế vẫn ở trong tình trạng thấp kém. Thực trạng đất nước vào giữa những năm
1980 với những khó khăn mới gay gắt và phức tạp: Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp;
mất cân đối lớn trong nền kinh tế, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhiều nhu
cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất tinh thần chưa được đảm
bảo…

Thực trạng kinh tế – xã hội đó đòi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách xoay
chuyển tình hình, tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển, phải đổi mới, “đổi
mới là sống còn”.

III. Thành tựu đạt được và những hạn chế

Sau quá trình đổi mới nền kinh tế từ chủ trương phát triển công nghiệp nặng sang
phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước , Việt Nam đã đạt được những thành
tựu quan trọng như sau:

1. Thành tựu

1.1. Kinh tế

Đưa đất nước bước ra giai đoạn khủng hoảng của nền kinh tế, và đạt tốc độ nhanh
trong tăng trưởng, cụ thể là:

● Giai đoạn 1986 - 1990: Giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới

Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu
kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc
đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm;
tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình

86
quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim
ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm .

Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế,
kiềm chế lạm phát,…

● Giai đoạn 1991-1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái.

Tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ
yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng
13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản
lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn
1986 – 1990

Tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

● Giai đoạn 1996 - 2000:

Giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000
đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng
10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2% (4). “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp
độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn
hai lần”

● Giai đoạn 2001 - 2005:

Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của
Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định.

Việt Nam trở thành đất nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới

Năm 2005: Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về
các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều…..

87
● Giai đoạn 2006-2010: Mặc dù chịu ảnh hưởng của nền kinh tế toàn cầu, tuy
nhiên tốc độ phát triển kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoại vẫn đạt tỷ trọng
cao.
● Giai đoạn 2011- 2020: Sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên rõ rệt:
Năm 2013 - 2014 nền kinh tế Việt Nam đứng thứ 70/148 quốc gia trong bảng
xếp hạng. Năm 2019, năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam tăng
10 bậc so với năm 2018, đứng thứ 67/141 nền kinh tế. Chỉ số môi trường kinh
doanh của Việt Nam năm 2019 tăng 8 bậc so với năm 2015, xếp thứ 70/190
quốc gia, vùng lãnh thổ.

Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn
sản xuất với thị trường, cụ thể:

- Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn
20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các
sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên
tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên
41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.

- Nông nghiệp từ độc canh lúa chuyển sang đa canh đã thu lại năng suất sản
lượng nông nghiệp cao đã góp phần vào an ninh lương thực thé giới.

● Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế

Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm
của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày
càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan
trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.

• Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được
hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định

88
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của
Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã
tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ
thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song
phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối
ngoại.

1.2. Phát triển các mặt xã hội

Lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã
giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những năm
2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu
người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác
dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10%
năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010 (13).

Công tác xóa đói giảm nghèo: Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch
toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ
(MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra (14). Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa
đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao
Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước
có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á

• Sự nghiệp giáo dục:

- Đa dạng hóa về loại hình nhà trường từ cấp mầm non đến cao đẳng, đại học.

- Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm
1980 lên 90,3% năm 2007

- Thực hiện các chsinh sách hỗ trợ sinh viên nghèo theo học tại các trường cao
đẳng, đại học

• Y tế: Bảo hiểm y tế được mở rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức
khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81%

89
năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng
đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng
được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống
chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.

Như vậy, sau một quá trình dài thực hiện quá trình đổi mới kinh tế, Việt Nam đã
đạt được những thành tựu to lớn toàn diện, sự ổn định về kinh tế được duy trì. Sự ổn
định về chính trị, kinh tế, xã hội được duy trì, an ninh quốc phòng được ổn định. hành
tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần
quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp
đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn.

2. Những hạn chế

Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn
đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học
hoạch định đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát triển
vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt trong
10 năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh
quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ thống thị trường hình thành và phát triển chưa đồng
bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và
hiện đại đang cản trở sự phát triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn.

Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường,
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững.

KẾT LUẬN

Như vậy, trước tình cảnh khủng hoảng triền miên, công cuộc Đổi mới đã như một
“chiếc phao cứu sinh” đưa Việt Nam ra khỏi cuộc khủng hoảng, tiến lên xây dựng và
phát triển đất nước, đồng thời cũng đưa Việt Nam ra khỏi “quỹ đạo” của khối Xô Viết

90
mà kết cục của khối này là sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội. Và với “chiếc phao cứu sinh”
Đổi mới, Việt Nam đã từng bước đưa đất nước đi lên từ vũng lầy, nền kinh tế từng
bước phát triển, từng bước đi vào nền kinh tế toàn cầu. Trong thời đại Toàn cầu hóa
hiện nay, Đổi mới đã được xem là bước đi sáng suốt và đúng đắn của Đảng, Nhà
nước, nhân dân Việt Nam. Cho đến hiện nay, công cuộc Đổi mới ở Việt Nam vẫn
đang tiếp tục được thực hiện, nếu tiến triển vẫn theo hướng tích cực, Việt Nam sẽ sớm
kết thúc công cuộc Đổi mới đã kéo dài hơn 30 năm và nền kinh tế Việt Nam sẽ trở
thành nền kinh tế phát triển mức cao và hiện đại ở châu Á và thế giới.

⭐️Chủ đề 10: Phân tích thể chế kinh tế Việt Nam thời kỳ bao cấp (tham khảo đường lối cũ)
* Tại sao đổi mới là tất yếu?
* Tại sao VN đa phương hóa đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế?
I. Định nghĩa và mô tả sơ lược về thời kì bao cấp. Tình hình
kinh tế và vai trò tiền tệ của thời kì bao cấp
1. Định nghĩa và mô tả sơ lược về thời kì bao cấp
Thời bao cấp là một thời kỳ lịch sử trong giai đoạn những năm 1976 – 1986
đây là khái niệm dùng của người Việt đặt cho một thời kì lịch sử từng diễn ra
sau chiến tranh bước vào giai đoạn hòa bình, xây dựng và thống nhất đất nước.
Xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa theo mô hình chủ nghĩa xã hội giống như
Liên Xô (cũ).

91
  - Về Xã hội ít có sự phân hóa giàu nghèo như hiện nay nhưng mức sống của
người dân thấp. Xã hội có tính cộng đồng cao. Đời sống tinh thần không có
nhiều loại hình giải trí, tuy đời sống bình an nhưng nghèo nàn, khó khăn.
-  Về kinh tế - xã hội, văn hóa được kiểm soát trong thời bao cấp, người dân ít
được tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Các mảng về phim, văn học hay nhạc…
đều được nhà nước kiểm duyệt trước khi phát hành. Nội dung thường gần gũi
với quần chúng, tư tưởng và quan điểm của Đảng. Văn học lãng mạn bị xem là
tiêu cực ở giai đoạn này.
- Về lĩnh vực giáo dục, thời bao cấp, giáo dục được phổ thông đại trà tới các xã
phường. Công tác bổ túc văn hóa, xóa mù chữ trong độ tuổi đi học cho người
dân được đẩy mạnh. Tất cả sinh viên ra trường đều được nhà nước phân công
công việc nên không lo thất nghiệp nhưng không được tự chọn cơ quan làm việc
cho mình.
- Về mặt y tế, người dân không mất tiền khám chữa bệnh nhưng điều kiện còn
nhiều thiếu thốn. Người dân đi khám chữ bệnh, mua thuốc sau đó mang hóa đơn
về cơ quan hay bệnh viên thanh toán. Nhà nước viện trợ trang thiết bị y tế,
thuốc men... Bệnh viện cũng được Bộ y tế phân chỉ tiêu để thực hiện công tác
khám chữa bệnh.

2. Tình hình kinh tế và vai trò tiền tệ của thời kì bao cấp
2.1 Tình hình kinh tế
Vì vừa thoát khỏi chiến tranh với những hậu quả nặng nề của một nước
thuần nông, nước ta gặp nhiều khó khăn thời kì sau chiến tranh. Thời kì bao cấp
là giai đoạn mà toàn dân đang cố gắng vượt qua những điều kiện khó khăn,
thiếu thốn của thực tại và tìm hướng đi để phát triển đất nước tốt hơn. 
Nền kinh tế nước ta học theo mô hình xã hội chủ nghĩa của Liên Xô bao cấp
là nền kinh tế kế hoạch hoá – một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng
sản. Thời bao cấp là một giai đoạn mà hầu hết việc sinh hoạt kinh tế đều được
Nhà nước bao cấp. Theo đó thì kinh tế tư nhân dần bị xóa bỏ, nhường chỗ cho
khối kinh tế tập thể và kinh tế do nhà nước chỉ huy. Song thời kỳ bao cấp
thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu
năm 1976 đến cuối năm 1986 trên toàn quốc, tức là trước Đổi Mới. 
Trong nền kinh tế kế hoạch, phần lớn thương nghiệp tư nhân bị loại bỏ,
hàng hóa được phân phối theo tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền, hạn chế
việc người dân tự mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển hàng hoá đến địa
phương khác. Nhà nước độc quyền phân phối hầu hết các loại hàng hóa, hạn
chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để
phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn
định số lượng và mặt hàng mà một gia đình được phép mua.
>> Hầu hết người lao động làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp của
nhà nước và sống theo chế độ tem phiếu của thời kì này. Đời sống người dân
gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về ăn mặc, về cuộc sống vật chất và tinh thần.

92
2.2 Vai trò tiền tệ của thời kì bao cấp
Vào thời kỳ này nhà nước phân phối hàng hóa dựa vào hệ thống tem phiếu.
Mua hàng gì thì có tem phiếu hàng đó. Một phần tiêu biểu của thời kỳ bao cấp
là đồng tiền Việt Nam bị mất giá. Lương đi làm của người lao động cũng được
quy ra lương thực. Tuy nhiên, chợ đen vẫn hoạt động nhỏ lẻ, bị xem là bất hợp
pháp nên hàng hóa ở chợ không nhiều và có giá rất cao. Nhiều người lĩnh hàng
tem phiếu nhưng không dùng tới thường đem bán ở chợ đen. 
 Ví dụ: nếu lấy tiền lương năm 1978 làm chuẩn thì năm 1980, số tiền lương này
chỉ còn 51,1%, đến năm 1984 chỉ còn 32,7%.
II. Các hình thức bao cấp, cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ bao cấp.
1. Các hình thức bao cấp
1.1 Hình thức bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa
- Đối với hình thức này nhà nước sẽ quyết định giá trị tài sản, vật tư, thiết
bị, hàng hóa thấp hơn giá thị thực của chúng trên thị trường.
- Các cán bộ công chức được cấp 13kg gạo/tháng còn công nhân lao động
nặng được cấp 20kg/tháng. Do đó, cơm nấu thường được độn thêm khoai,
ngô, sắn, bo bo… đã không còn xa lạ đối với những người từng trải qua
thời kì bao cấp.
-Hàng hóa các loại trong thời kỳ số lượng ít, không đa dạng này đều rất
khan hiếm, dù có tiền cũng không mua được. Thậm chí có tem phiếu
nhưng có quá nhiều người xếp hàng mua chờ đến lượt mình thì không
còn hàng. 
- Những người nước ngoài sống ở Việt Nam có thể mua sắm ở cửa hàng
quốc doanh một số mặt hàng như Intershop ở Hà Nội các món đồ như
rượu vang, đồ hộp.
- Cùng với bao cấp lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng, nhà nước
cũng nắm việc phân phối nhà cửa. Nhiều khu nhà tập thể cho các cán bộ,
công nhân viên nhà nước nhiều tầng được xây dựng theo mô hình Liên
Xô . Khi ở nhà bị hư hỏng, người dân không phải tự sửa mà Sở nhà đất lo
sửa cho.
- Cuộc sống trong những căn hộ tập thể diện tích khiêm tốn, nhiều người
trong gia đình sinh sống với cuộc sống thiếu thốn, nhiều bộn bề lo toan.
Lúc này, giá nhà trong thành phố khá rẻ nhưng cũng khó có thể mua được
một căn vì thu nhập rất thấp.

1.2 Hình thức bao cấp qua chế độ tem phiếu 


- Định mức qua hình thức tem phiếu/sổ gạo (đối với 6 mặt hàng chính:
gạo, thịt lợn, nước mắm, đường, chất đốt, xà phòng giặt).
- Việc phân phối hàng hóa, nhu yếu phẩm hàng ngày cho người dân được thực
hiện qua chế độ tem phiếu. Tem phiếu dành cho các cán bố công nhân viên làm
việc trong cơ quan, xí nghiệp quốc doanh. Hàng hóa thông qua chế độ tem

93
phiếu thường có giá thấp hơn rất nhiều so với giá bên ngoài thị trường (chợ
đen). Theo đó, lương của người lao động sẽ được quy ra hiện vật.
- Sổ gạo hay lúc đầu tên là cuốn sổ lương thực. Chế độ này được áp dụng vào
khoảng những năm 1960. Các loại mặt hàng, số lượng mà một gia đình được
phép mua, dựa trên quy chuẩn như cấp bậc và niên hạn. Tem phiếu mua nhu
yếu phẩm hàng ngày sẽ có chế độ riêng tùy vào vị trí công việc, nghề nghiệp mà
cán bộ công chức nhà nước và người dân lao động được phát khác nhau. Theo
đó, tem phiếu được phân chia cho những cán bộ viên chức cấp cao như sau:

+ Tiêu chuẩn đặc biệt A1 dành cho cán bộ cao cấp


+ Phiếu A dành cho bộ trưởng
+ Phiếu B dành cho thứ trưởng
+ Phiếu C là trưởng các vụ, cục, viện

1.3 Hình thức bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách
Các đơn vị được cấp vốn không bị các chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất,
mà chủ yếu dựa theo ý thức của các cơ quan này. Điều đó vừa làm tăng gánh
nặng đối với ngân sách, vừa làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh
cơ chế "xin - cho".

2. Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ bao cấp


Vào thời kì bao cấp, cơ chế quản lý kinh tế của nước ta chính là cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, thể hiện qua những khía cạnh sau:
- Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh, triển khai từ
trên xuống. Tất cả doanh nghiệp hoạt động phương hướng sản xuất,
nguồn vật tư, tiền vốn  định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền
;

lương... đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu
kế hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp
sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
- Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Những thiệt hại vật chất do các
quyết định không gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các
doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị
ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.
- Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ
hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ "cấp phát
- giao nộp". Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát
minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng không được coi là hàng hóa về
mặt pháp lý.
- Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng
động, vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền,
quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động.
>> Kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội.
94
III. Đặc điểm kinh tế Việt Nam trước khi đổi mới.
1. Đặc điểm, tình hình chính của kinh tế Việt Nam trước đổi mới.
Sau nhiều năm vận động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, tuy đất nước có
đạt được những thành tựu to lớn, song nhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất
của cuộc sống nhân dân vẫn chưa được giải quyết: tình trạng mất cân đối
trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng lực
sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác,
phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. 
>>  Cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu
năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm
tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại. Tiêu cực xã hội lan rộng.
Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà
nước giảm sút.
 Cần phải nói rằng ngay khi đất nước mới lâm vào khủng hoảng, trong nền kinh
tế Việt Nam, dưới áp lực của thực tiễn, đã diễn ra hai cuộc thử nghiệm quan
trọng: 
- Áp dụng chế độ khoán sản phẩm đến hộ gia đình nông dân trong Hợp tác
xã (HTX) nông nghiệp.
- Triển khai chế độ "kế hoạch 3 phần" ở các xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh.
Về nguyên tắc, cả hai cuộc thử nghiệm này đều diễn ra theo một xu hướng
chung: nới lỏng các ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mở rộng hơn
phạm vi hoạt động của các quan hệ thị trường, trao nhiều quyền chủ động kinh
doanh hơn cho các chủ thể kinh tế và người lao động. 
Mặc dù vậy, kết quả của xu hướng cải cách này còn bị hạn chế do việc thực
hiện những cải cách theo hướng thị trường mới mang tính cục bộ và chỉ dừng
lại ở cấp vi mô, trong khuôn khổ cố gắng bảo tồn cơ chế kế hoạch hoá tập trung
ở tầm vĩ mô. Vì vậy, những cuộc thử nghiệm này tuy đưa đến những thành tựu
nổi bật trong nông nghiệp nhưng vẫn không ngăn cản được cuộc khủng hoảng
ngày càng trở nên trầm trọng. 

2. Đặc điểm kinh tế Việt Nam sau khi đổi mới.

95
Trước đổi mới, nền kinh tế vận hành theo cơ chế  kế hoạch hoá, tập trung, hành
chính và bao cấp, do đó đã nhận thức không đúng về cơ chế thị trường, về sản
xuất hàng hoá và vai trò của các thành phần kinh tế.
 Đại hội VI của Đảng (1986) kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, thừa nhận sự tồn lại khách quan của sản xuất hàng hoá và vai trò của
thị trường. 
 Đến Đại hội VII (1991), Đảng tiếp tục bổ sung tư duy khoa học về kinh tế hàng
hoá: “Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước”
 Đại hội VIII của Đảng (1996) đưa ra quan niệm mới, rất quan trọng về kinh tế
hàng hóa và chủ nghĩa xã hội: "Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ
nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền vàn minh nhân loại, tồn tại
khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi
chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng".

Từ Đại hội VI (1986) đến hết nhiệm kỳ Đại hội VIII (2001) là thời kỳ đổi mới
toàn diện, cả về cấu trúc và cơ chế vận hành của nền kinh tế với nội dung
chính là nhận thức đúng hơn về kế hoạch hoá, phát triển kinh tế.
Đến Đại hội IX (2001) khái niệm "kinh tế thị trường" mới chính thức được nêu
trong văn kiện của Đảng "... thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa: đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"
Như vậy, lần đầu tiên sau 15 năm đổi mới, Đảng đã trình bày một cách sáng rõ
và có hệ thống về cấu trúc tổng thể của mô hình kinh tế nước ta. Đây là bước
chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường coi kinh tế thị trường như
một chỉnh thể, là cơ sơ kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Đại hội X (2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá...". Kế thừa tư duy Đại hội IX, Đại
hội X của Đảng đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản,  gồm bốn nội
dung sau:
Thứ nhất, về mục tiêu: Nhằm thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo”

96
Thứ hai, về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở
hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân). Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân.
Thứ ba, về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển: tăng trưởng kinh tế đi
đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì
mục tiêu phát triển con người.
Thứ tư, về định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực quản lý: Phát huy quyền
làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.1 Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Mục tiêu cơ bản: Làm cho các thể chế phù hợp với những nguyên tắc cơ bản
của kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhạp kinh tế quốc tế thành công, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
- Từ nay đến 2010, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật bảo đảm
cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi; phát
huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Giai đoạn từ năm 2011 - 2020: Tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao trình độ
phát triển của nền kinh tế, hoàn thành về cơ bản mục tiêu chung nêu trên.
2.2.Các quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa:
-    Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan
của kinh tế thị trường
-   Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội,
phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường.
-    Chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải quyết các vấn
đề lý luận và thực tiễn quan trọng.
-   Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đàm giữ vững
độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

97
-    Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà
nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Ưu điểm sau khi đổi mới kinh tế.
Một là, sau 25 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh
tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. 
Hai là, chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,
trong đó sở hữu toàn dân những tư liệu sản xuất chủ yếu. Điều đó đã tạo ra động
lực và điều kiện thuận lợi cho giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng
trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất
trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp, doanh
nhân được tự chủ sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh. 
Bốn là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói
giảm nghèo đạt nhiều két quả tích cực.
>> Thể chế kinh tế mới đã đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả tích cực, thúc
đẩy tăng trường kinh tể nhanh và bền vững, khắc phục được khủng hoảng kinh
tể - xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.

 NHƯỢC ĐIỂM VÀ THÀNH TỰU TRONG CÔNG TÁC ĐỔI MỚI


CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC:
1. NHƯỢC ĐIỂM:
- Đến nay nước ta vẫn còn là một trong những nước nghèo trên thế giới;
trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh
thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu, nợ nần nhiều. Nhà nước còn thiếu
chính sách để huy động có hiệu quả nguồn vốn trong dân.
- Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết.
Việc làm đang là vấn đề gay gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa
thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh.
 Chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế ở nhiều nơi rất thấp. Văn hóa phẩm độc hại
lan tràn. Tệ nạn xã hội phát triển. Trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp.
- Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng
túng vừa buông lỏng.

98
Chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp
thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hớp tác, để hợp tác xã ở
nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở sản xuất phát triển. 
- Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu.
Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện
chưa nghiêm.
Quản lý nhà nước đối với các hoạt động khoa học và công nghệ, bảo vệ tài
nguyên và môi trường sinh thái, giáo dục, đào tạo, thông tin, báo chí, xuất bản,
văn hóa, văn nghệ chưa tốt.
-  Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm:
Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Tiêu cực
trong bộ máy nhà nước, đảng và đoàn thể.
Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của
nhiệm vụ. Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng
cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức; sức chiến đấu của một bộ phận tổ
chức cơ sở đảng suy yếu.
2. THÀNH TỰU TRONG CÔNG TÁC ĐỔI MỚI:
- Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều
mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm.
Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hăng năm về:
- Tổng sản phẩm trong  nước (GDP) đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 – 6,5%), sản xuất
công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%.
Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP; năm 1995 là
27,4%.  Đến cuối năm 1995, tổng vốn đăng ký các dự án đầu tư của nước ngoài
đạt trên 19 tỉ USD. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7%
năm 1995.
- Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển
của lực lượng sản xuất.
-  Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Mỗi năm thêm hơn 1
triệu lao động có việc làm. Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân
dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt
động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao… phát triển nhanh chóng.

99
>> Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đất nước, vào Đảng và Nhà
nước được nâng lên.
- Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.
Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và
công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được
củng cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng
cường.
- Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị
Đã ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều
văn bản pháp luật quan trọng.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực hơn.
Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Các tầng lớp nhân dân, đồng bào
các dân tộc đoàn kết, gắn bó trong sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh. 
- Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận,
tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
 Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với tổ chức
ASEAN; củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với nhiều nước Đông Âu; mở
rộng quan hệ với các nước công nghiệp phát triển; bình thường hóa quan hệ với
Mỹ; thiết lập và mở rộng quan hệ với nhiều nước Nam Á, Nam Thái Bình
dương, Trung Đông, châu Phi và Mỹ latinh.
 Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn
bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư
trực tiếp vào nước ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện trợ
không hoàn lại hoặc cho vay để phát triển.
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT
 Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành
về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số
mặt còn chưa vững chắc.
 Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ
hơn.
 Tuy trong quá trình thực hiện có một số khuyết điểm nhưng xét trên tổng
thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ
bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. 

IV.  Đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế.

100
Thứ nhất, đối ngoại là tiến hành trong việc đàm phán, dàn xếp thương lượng
giữa những người đại diện cho một nhóm hay một quốc gia.

Thứ hai, làm cho hoạt động đối ngoại trở nên đa dạng hơn, quan hệ trên nhiều
mặt, nhiều phương diện về kinh tế chính trị xã hội.
Thứ ba, thực hiện đối ngoại với nhiều bên cùng một lúc, nói cách khác là quan
hệ đối ngoại có sự thỏa thuận hay tham gia của nhiều bên.
Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại nhằm tạo môi
trường quốc tế thuận lợi, thân thiện và mở rộng để đẩy mạnh kinh tế xã hội,
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc.

-   Tại sao Việt Nam đa dạng hóa trong quan hệ Quốc tế

Đầu tiên, về mặt chính trị - ngoại giao, do không nắm bắt kịp thời xu thế
phát triển của thế giới mà chính sách đối ngoại của chúng ta mười năm trước
đổi mới đã bộc lộ nhiều hạn chế. Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, bị cô lập
lại bị các thế lực thù địch chống phá, cộng với các chính sách phát triển sai lầm,
không phù hợp với hoàn cảnh khiến nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế -
xã hội nghiêm trọng.
Những biến động của tình hình thế giới tác động sâu sắc đến nhận thức và
tư duy của Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của
hệ thống xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta.
Từ đây, Đảng ta nhận thức và rút kinh nghiệm, cần phải thay đổi mô hình xã hội
chủ nghĩa cũ, cụ thể hơn là đổi mới chủ trương và chính sách ngoại giao sao cho
hợp lí, hiệu quả.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong, ngoài nước và nhu cầu phát triển của
nước ta, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng
12/1986, Đảng ta bắt đầu đã có những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược
về đường lối và chính sách đối ngoại, đặc biệt coi trọng đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ ngoại giao.
Với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập là xu thế chung hiện nay, việc hợp tác
đa phương trên nhiều lĩnh vực là tất yếu. Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực
văn hóa, an sinh xã hội, lao động, thông tin - truyền thông, môi trường, du
lịch...được mở rộng, từ đó thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển thị trường lao động
và hệ thống an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo… Hội nhập khu vực và quốc tế
về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế đóng vai trò quan trọng đối với
việc phát triển nền khoa học, giáo dục tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu cầu của  người dân, tiến tới thu
hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới trong các lĩnh vực này.
Việc VN tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương đã góp từng bước
mở cửa, gắn nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới, tiếp
101
thu những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát triển,
tạo thêm động lực xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội 

-   Nội dung đối ngoại đa dạng hóa quan hệ quốc tế

Việc thực hiện chủ trương, đường lối về đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
đối ngoại của đảng nhằm đạt được những Mục tiêu, nhiệm vụ sau : 
- Tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công nghiệp đổi mới để phát triển kinh tế,
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao địa vị quốc gia trên chính trường
quốc tế.
- Kết hợp nội lực và ngoại lực để tạo ra nguồn lực tổng hợp đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa; 
- Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình
độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội. Để đạt được những mục tiêu ấy Đảng
đã đưa ra tư tưởng chỉ đạo như: bảo đảm lợi ích dân tộc đồng thời thực hiện
nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam. Giữ vững độc lập tự chủ tự
cường đi đôi với đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Kết hợp đối
ngoại của Đảng ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Xác định hội nhập
kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân….
Trong quá trình thực hiện đảng đã có Một số chủ trương, chính sách lớn như :
Thứ nhất, Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định,
bền vững. Kí hiệp định khung với liên minh Châu Âu. Bình thường quan hệ
ngoại giao với Mỹ. Củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền
thống.
Thứ hai, nước ta đã Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình
phù hợp: Gia nhập ASEAN và tham gia AFTA(Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN ). Tham gia Diễn đàn hợp tác Á- Âu (ASEAM) với tư cách là thành
viên sáng lập. Trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác kinh tế
châu Á- Thái Bình Dương (APEC), gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.

Thứ ba, Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực bộ máy nhà
nước. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với
các nguyên tắc, quy định của WTO. Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp
luật, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần, thúc
đẩy sự hình thành phát triển từng bước hoàn thiện các loại thị trường.

Thứ tư, nâng cao năng lực về vốn của doanh nghiệp, Tăng cường hoạt động
nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu, xây dựng chiến lược
kinh doanh…

-   VN đa dạng hóa quan hệ quốc tế trong những lĩnh vực nào? Thành tựu?
Hạn chế?

102
Thứ nhất: Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại,
xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký
kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, 54 Hiệp định chống đánh thuế
hai lần.  5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc,các nước trong
nhóm G8;  nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc, gia tăng nội hàm
của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với
Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện
của ta ở nước ngoài cũng tăng lên với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4
phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn
hóa. 

Thứ hai :Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích
cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu,
Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và chính thức tham gia Khu vực thương
mại tự do ASEAN từ 1/1/1996. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập
Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp
vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt,
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan trọng
khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức
này.

Thứ ba: Về kinh tế: Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng tăng trưởng
trong khu vực và trên thế giới với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Sau giai đoạn
đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt
4,4%. Giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng GDP đạt 7%. Tốc độ tăng GDP bình
quân giai đoạn 2016-2019 đạt mức 6,8%. Chất lượng tăng trưởng được nâng
cao, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 5,8%/năm
giai đoạn 2016 - 2020.

Thứ tư: Về văn hóa: Nhiều hoạt động, như ngày/tuần/tháng văn hóa Việt Nam,
biểu diễn nghệ thuật, lễ hội văn hóa - du lịch, chiếu phim, triển lãm… giới thiệu
hình ảnh đất nước, con người Việt Nam liên tục được tổ chức ở nhiều quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới để lại ấn tượng đẹp đối với cộng đồng quốc tế, tạo
tiền đề, điều kiện để nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới mong muốn, tích cực
đẩy mạnh giao lưu, hợp tác với nước ta.

Thứ năm: Về du lịch: Về khách du lịch quốc tế, nếu như năm 1990 mới chỉ có
250 nghìn lượt khách quốc tế đến Việt Nam thì năm 2019 tăng 72 lần hơn 18
triệu lượt. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2015-2019 đạt 22,7% mỗi năm - được
Tổ chức Du lịch thế giới xếp vào hàng cao nhất trên thế giới.

103
Khách du lịch nội địa tăng 85 lần, từ 1 triệu lượt vào năm 1990 lên 85 triệu lượt
vào năm 2019. 
=>Góp phần nâng cao đời sống tinh thần và thúc đẩy hoạt động kinh tế trong
nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện đường lối của Đảng còn
tồn tại một số hạn chế. 
Một là, một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu
cầu mở rộng quan hệ đối ngoại. 

Hai là, các kế hoạch tổng thể và dài hạn chưa đáp ứng , cũng như chưa có lộ
trình thực hiện hợp lí.
 
Ba là, đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực đối ngoại chưa đáp ứng được nhu cầu về cả
số lượng và chất lượng. 

Bốn là, Bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản nóng vội
chạy theo nguyện vọng chủ quan.

🌕 Chủ đề 1: Hội nghị thành lập Đảng và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (nội dung hội
nghị, nội dung cương lĩnh và phân tích nội dung cương lĩnh tháng 2, bối cảnh lịch sử quốc tế +
nội địa và con đường cứu quốc của NAQ).
* Cương lĩnh là gì?
* Điểm sáng tạo của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Ứng dụng điều đó vào điều kiện cụ thể
hiện nay. 

104
🌖 Chủ đề 2 Trang 9: Làm rõ giai đoạn lịch sử Đảng tháng 10/1930 - 1939 (mốc luận cương
tháng 10/1930) - Tại sao có luận cương, so sánh + phân tích luận cương tháng 10 & cương lĩnh
chính trị đầu tiên.
6 vấn đề tương đồng
2 vấn đề khác nhau
* Những vấn đề xảy ra sau luận cương? (dựa trên chủ trương đường lối của Đảng) Phân tích giai đoạn
phân kỳ từ năm 1930 - 1935, 1936 - 1939 (mốc trước chiến tranh TG), 1939 - 1945 (chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược có sự thay đổi rõ qua các cuộc họp trung ương).

🌗 Chủ đề 3 trang 17: Phân tích nghệ thuật nắm bắt thời cơ, tiến tới nắm quyền tổng khởi
nghĩa. (1939 - 1945) 
* Nghệ thuật nắm bắt thời cơ đọ sức, trí, tài bằng cách so sánh các cuộc chiến trước đây, cuộc khởi
nghĩa này nằm ở những cuộc chuẩn bị, cuộc họp xuyên suốt 15 năm, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu
nước.

🌘 Chủ đề 4 trang 36: Hoàn cảnh Việt Nam sau CMT8. Chủ trương xây dựng, bảo vệ chính
quyền của Đảng.
* Làm rõ bối cảnh lịch sử Việt Nam: khó khăn gì? (nạn đói năm 1945; dịch tả). Phân tích đường lối
kháng chiến kiến quốc trong giai đoạn này. 
dễ nhầm: đường lối kháng chiến chống Pháp >< đường lối xây dựng & bảo vệ chính quyền.
bảo vệ quần đảo HS + TS 

🌑 Chủ đề 5 trang 48: Nguyên nhân bùng nổ toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến
chống Pháp xâm lược giai đoạn 1946 - 1954. Đưa ra bài học kinh nghiệm.
* Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

🌓 Chủ đề 7 trang 62: Phân tích đường lối Cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới từ tháng
9/1960 - 1965 (đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3)
* Phân tích nội dung đại hội
* Giai đoạn căng thẳng của chiến tranh (1963 - 1965 cao trào chiến tranh)

🌔 Chủ đề 8 trang 71: Phân tích đường lối Cách mạng miền Nam trong giai đoạn 1965 - 1975.
* Giai đoạn gay cấn -> đi đến quyết định thống nhất đất nước.
* Phân tích nghị quyết trung ương lần 11 + 12 (Diên Hồng) KHÔNG sa vào diễn biến.

🌙 Chủ đề 9 trang 75: Tại sao lại Đảng quyết định đổi mới đất nước? (1960 - ĐH lần 13)
ĐH3 ĐH4 xác định chọn ưu tiên CN nặng -> sai lầm
chuyển hướng
lý giải
* Phân tích thể chế kinh tế Việt Nam - đường lối công nghiệp hóa -> tại sao đổi mới đất nước.

⭐️Chủ đề 10 trang 91: Phân tích thể chế kinh tế Việt Nam thời kỳ bao cấp (tham khảo đường
lối cũ)
* Tại sao đổi mới là tất yếu?
* Tại sao VN đa phương hóa đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế?

105
106

You might also like