You are on page 1of 129

1

LỜI NÓI ĐẦU :


Xin chào tất cả các học trò yêu quý của thầy Phạm Minh Nhật!
Lời nói đầu tiên, thầy muốn cảm ơn các em vì đã thực sự yêu thích môn
Văn. Văn học là nghệ thuật, là tiếng lòng của cả một thời đại, là lịch sử
của mỗi quốc gia, dân tộc. Khi chúng ta tìm hiểu về văn học Việt Nam,
nghĩa là chúng ta tìm hiểu về chính cội nguồn của ta, nuôi dưỡng tâm
hồn ta. Văn học sẽ giúp các em trở thành những con người lương thiện,
hiểu biết, có ích cho cộng đồng. Đó chính là ý nghĩa nhân văn mà chúng
tôi- những người thầy muốn các em thấm nhuần để ngày càng yêu thích
Văn học hơn nữa. Vì chỉ khi các em thật sự yêu thích, các em sẽ rất hiểu
bài, và thầy chỉ là người hỗ trợ, giúp các em thành công!
Thầy mong rằng với cuốn “Cửu Âm Chân Kinh – Tổng ôn Ngữ văn
12” trên tay em mà thầy đã dày công biên soạn. Các em sẽ thành công
trên con đường mà mình đã chọn, chinh phục mọi đề văn dù khó nhất…
Chúc cho các học trò sở hữu cuốn sách này sẽ học tốt, đỗ đại học và vào
được các trường mà mình hằng mơ ước.
Nhưng các em cũng cần hiểu rằng nếu tặng sách cho học trò khác cũng
đồng nghĩa với việc em đang tự tạo thêm cho mình nhiều đối thủ đấy,
hãy cất giữ và luôn tuyệt mật cuốn bí kíp này.

***

Facebook: Phạm Minh Nhật ( anh tũn dạy văn )


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12
Hotline: 037 255 0683
Add: Số 8 ngõ 17 Tạ Quang Bửu – Hà Nội

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
2

TÁC PHẨM Trang

1. Vợ Nhặt – Kim Lân 3

2. Vợ Chồng A Phủ - Tô Hoài 16

3. Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành 26

4. Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi 36

5. Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu 45

6. Hồn Trương Ba – Da Hàng Thịt – Lưu Quang Vũ 54

7. Tuyên Ngôn độc lập – Hồ Chí Minh 60

8. Tây Tiến – Quang Dũng 67

9. Việt Bắc – Tố Hữu 78

10. Sóng – Xuân Quỳnh 92

11. Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm 101

12. Đàn ghi ta của Lorca – Thanh Thảo 108

13. Tùy bút người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân 113

14. Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng Phủ Ngọc Tường 122

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
3

VỢ NHẶT (KIM LÂN)

Phân tích chi tiết


1. Mở bài:
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả Kim Lân.
- Giới thiệu truyện ngắn Vợ Nhặt.
VD: Kim Lân là nhà văn lão làng trong nền văn xuôi hiện thực Việt Nam. Ngòi bút của ông
lách sâu vào từng mảnh đời bất hạnh, vào những người nông dân chân chất mộc mạc, nghèo
đói nhưng tràn đầy tình yêu thương. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã khắc họa rất thành công bức
tranh của nạn đói năm 1945, là một trong những kiệt tác tái hiện lại chân thực nhất hình ảnh
người nông dân sống trong thời kì kinh hoàng vì đói, thời kì mà cái nghèo ám ảnh vào sâu
trong tiềm thức mỗi con người Việt Nam. Qua đó thể hiện niềm cảm thương trước số phận
của con người cùng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường
cùng.

 Gián tiếp:
- Trích dẫn 1 câu nói nổi tiếng.
- Nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm, qua đó làm nổi bật nhà văn
Kim Lân và tác phẩm Vợ Nhặt.
VD: Nhắc đến nạn đói năm 1945, ai cũng cảm thấy kinh hoàng, sợ hãi, là nỗi ám ảnh của
người Việt Nam. Trong mọi thời đại lịch sử, miếng ăn chưa bao giờ trở nên nặng đến như thế.
Nhà văn Kim Lân từng nói: "Đói, nó vừa đắng cay, vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó
nó lại lóe lên một tia sáng về đạo đức, danh dự". Viết về nạn đói, các nhà văn thường khai
thác ở những khía cạnh tối tăm và bất lực. Nhưng với tác phẩm Vợ Nhặt, nhà văn Kim Lân đã
thật sự tìm được một tiếng nói riêng khi ông đã mang đến cho những nạn nhân của năm đói
một khát khao cháy bỏng về một tương lai tươi sáng.

Thông tin tham khảo: Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920. Quê quán: Phù
Lưu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Sở trường về truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là làng xóm
quê với người dân cày Việt Nam. Ông viết rất hay về những thú chơi dân dã đồng quê như:
chọi gà, thả diều, nuôi bồ câu, chơi núi non bộ,...mà ông gọi là thú"phong lưu đồng ruộng".
Tác phẩm , hai tập truyện ngắn:" Nên vợ nên chồng"(1955) và "Con chó xấu xí"(1962).

2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm:
- Luận điểm 1: Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn "Vợ nhặt" viết năm 1955 được in trong tập truyện ngắn " Con chó xấu xí"(1962).
Truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết"Xóm ngụ cư"- tác phẩm viết sau CMT8 nhưng còn

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
4

dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại(1954), tác giả dựa vào cốt truyện cũ để
viết truyện ngắn "Vợ nhặt"
- Luận điểm 2: Ý nghĩa nhan đề
+ Nhan đề gợi lên tình huống éo le, kích thích trí tò mò của người đọc. Thông thường, người
ta có thể nhặt thứ này, thứ khác chứ không ai “nhặt” vợ. Bởi dựng vợ gả chồng là việc thiêng
liêng với mỗi con người, không thể qua quýt như trò đùa.
+ Vợ nhặt là điều trái khoáy, oái oăm và bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Bởi
đúng thực tế, anh cu Tràng trong câu chuyện này đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông
đùa của Tràng mà cũng đã có người chịu theo anh về làm vợ. Điều này đã khiến một sự việc
nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là
thật. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra sự éo le, rẻ rúng giá trị con người. Chuyện
Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân
nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
- Luận điểm 3: Tình huống truyện
+ Tràng – Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt được vợ chỉ bằng
vài bát bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là cùng !
+ Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy
được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những
người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
 Khái quát nội dung:
- Luận điểm 1: Nhân vật Tràng
+ Xuất thân: Gia cảnh neo đơn nghèo khổ, có em gái mất tích trong nạn đói, mẹ ốm yếu già
nua, ăn cháo loãng với muối, ở trong một túp lều vắng teo, bé tí, quần áo rách vắt khươm
mươi niên trong nhà, rách như tổ đỉa, một mảnh sân lổn nhổn những búi cỏ dại.Dân ngụ cư ,
dân tứ xứ, không có nhà cửa ruộng đất, dân cấp thấp nhất của làng xã thời xưa.Nghề nghiệp
mưu sinh vô cùng lam lũ cực nhọc, kiếm sống qua ngày bằng việc kéo xe bò.
+ Ngoại hình: Ngoại hình của anh Tràng trong nguyên tác ( đã được lược bỏ trong sách mới
nhưng ta vẫn được sử dụng ). Tràng là nhân vật trung tâm , anh có đầy đủ đặc điểm của người
Việt Nam trước Cách mạng tháng 8. Tràng một anh nông dân xấu trai ế vợ, quá lứa : Cái đầu
thì trọc lốc, cái lưng thì to vập vạp như con gấu, hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, mặt
thì bạnh ra.Hắn có một thói quen là ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch.
5 điểm thiệt thòi của anh Tràng:
Xấu xí , thô kệch , ế vợ, quá lứa
Công việc bấp bênh, lao động chân tay vất vả
Gia đình neo đơn
Nghèo khổ lại trong những năm nạn đói khủng khiếp 1945
Dân ngụ cư , dân mạt hạng nhất

+ Diễn biến tâm lí:


a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ.
Tác giả phát triển tính cách của Tràng qua hai lần gặp gỡ tầm phơ tầm phào với cô vợ Nhặt.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
5

Lần thứ nhất, Tràng kéo xe bò lên tỉnh, Tràng bỗng buông ra câu hò chơi, tầm phơ, tầm phào,
hò cho đỡ mệt:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây cùng đẩy xe bò với anh nì”
Vẫn biết đó chỉ là một câu hò tầm phơ, tầm phào nhưng họ vẫn đẩy một cô gái ra để đẩy xe bò
với anh cu Tràng. Thế đấy, trong lúc đói người ta có thể bấu víu vào bất cứ cái gì.
Rồi bám vào câu hò, cô gái chờ đợi Tràng đã ba bốn ngày sau mới gặp lại được Tràng ngồi
trong quán nước ở cổng chợ tỉnh, đó là lần thứ hai gặp gỡ. Vì quá đói, lại phải chờ đợi lâu,
giữa ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, người đàn bà trở nên cong cớn, chao chát,
chanh chua, đanh đá lạ thường. Trông thấy Tràng, thị sầm sập chạy đến, sưng sỉa nói:
- Điêu ! Người thế mà điêu!
Vài câu qua lại, Tràng vẫn không nhận ra cô gái là ai, sở dĩ bởi vì hắn cũng là một người cạn
nghĩ, lơ đãng, nói rồi quên ngay. Nhưng cũng bởi một lẽ, mới chỉ có vài ba ngày mà sao trông
cô gái lại tiều tụy thế này? “Cô gái ăn mặc rách rưới như tổ đỉa”, “khuôn mặt tối đen xạm lại”,
“mặt cong như lưỡi cày”. Kim Lân mô tả cái đói thật tinh tế. Cái đói đang gặm nhấm vào sâu
trong tâm hồn và thể xác của người đàn bà này từng giờ từng phút. Mới có mấy ngày, trông
cô gái “gầy sọp hẳn đi”, khiến Tràng không thể nhận ra. Dăm câu ba điều, Tràng mới nhận ra
và mời cô gái ăn trầu. Cô nói ngay:
- “Có ăn gì thì ăn! Chả ăn giầu”
Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo) no nê. Tràng mời Thị ăn
không phải vì Thị đẩy xe bò giúp mà xuất phát từ tình thương. Thấy chị cắm cúi ăn như chưa
bao giờ được ăn, Tràng động lòng bảo: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe
rồi cùng về. Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở chỗ
trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá nên không ai chịu
lấy. Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là không bình thường, là bất hạnh. Câu nói
của anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát:
- Làm đếch gì có vợ…
Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người bình thường,
khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia? Tràng nói đùa không
ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có
nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi lo, nhưng anh tặc lưỡi: Chậc, kệ! Có lẽ anh cho
rằng mình đang mạnh chân khỏe tay, lại có công ăn việc làm, nên dẫu đèo bòng thì cũng chưa
đến nỗi chết đói ngay đâu mà. Chẳng còn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu
người mà còn may mắn tự nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm.
Trong lòng Tràng giờ đây không chỉ có tình thương mà còn có niềm vui sướng, háo hức. Mấy
lần Tràng định nói với thị một vài câu cho tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Cái phút ban đầu
bao giờ chả thế. Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã khó. Nay đã là thật rồi, khó biết mấy!
Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp cả đâu? Tràng lúng túng là phải.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
6

Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên
ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một
người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì
họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục và
kính trọng, phải chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nòi
sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói.
Rõ ràng, cái đói làm cho nhân phẩm của con người ta không còn nghĩ đến cái sĩ diện bình
thường nữa. Qua đó ta còn thấy được anh cu Tràng dở hơi, xấu xí là thế nhưng cũng là một
người có tấm lòng nhân hậu, bao dung và tốt bụng, một người luôn biết đồng cảm với nỗi khổ
của người khác. Đó cũng chính là tình cảm của Kim Lân dành cho nhân vật của mình.
Thay vì đánh giá vì một cô gái chỏng lỏn, cong cớn, đanh đá, anh mời cô gái ăn, đó là sự
đồng cảm với người có hoàn cảnh kém hơn mình.
Kết quả là thể hiện khát vọng về hạnh phúc gia đình : “Chậc, kệ” đánh cược với cả cuộc đời,
số phận với hạnh phúc, nuôi thêm một miệng ăn đó chính là nguy cơ dẫn đến cái chết.Khát
vọng sống vẫn lớn hơn là những lo âu về mưu sinh. Tràng rất nghiêm túc với quyết định của
mình, sau khi nhặt được vợ, dẫn thị ra ngoài chợ tỉnh đánh chén một bữa , mua thúng con, hai
hào dầu đèn về thắp và một ít kim chỉ. “Thúng con” là biểu tượng cho sự nữ tính, khéo léo,
đảm đang, Tràng mua cho Thị cái thúng bởi anh coi trọng, trân trọng thị, người phụ nữ anh
lấy làm vợ không phải chỉ đơn thuần là một người qua đường.Gia cảnh éo le, nhưng lại là một
nhân vật có suy nghĩ chín chắn, hành động đúng đắn.
Tràng có khát vọng sống mãnh liệt
b. Trên đường về nhà.
Sau khi nhặt được vợ, dẫn thị ra ngoài chợ tỉnh đánh chén một bữa , mua thúng con, hai hào
dầu đèn về thắp và một ít kim chỉ. “Thúng con” là biểu tượng cho sự nữ tính, khéo léo, đảm
đang, Tràng mua cho Thị cái thúng bởi anh coi trọng, trân trọng thị, người phụ nữ anh lấy làm
vợ không phải chỉ đơn thuần là một người qua đường. “Đèn dầu” là biểu tượng của ánh sáng,
hi vọng vào tương lai, Tràng muốn bắt đầu từ hôm nay cuộc đời mình sẽ bước sang một trang
mới, một cuộc sống sáng sủa hơn.
Lần đầu là khi Tràng quyết mua hai hào dầu đèn, Thị bảo Tràng hoang phí, Tràng đáp lại:
- “Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc vào
ngay, hì hì..”
Gia cảnh éo le, nhưng lại là một nhân vật có suy nghĩ chín chắn, hành động đúng đắn.
Ban đầu trùm lên xóm ngụ cư là không khí u ám, chết chóc, âu lo, nhưng đôi trai gái đi đến
đâu thì ở đó bừng lên ánh sáng. Không chỉ hiện về ở những con người trong xóm ngụ cư. Ánh
sang còn hiện về trong túp lều nhà bà cụ Tứ. Mặt Tràng có một vẻ gì hớn hở khác thường, hay
tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Chuyện Tràng có vợ đã gây ngạc
nhiên cho tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ - mẹ Tràng và cho cả chính bản
thân anh- người trực tiếp nhặt được vợ. “…người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng
cửa nhìn ra bàn tán..”. Đến khi hiểu ra Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn
nữa. Người thì “Cười lên rung rúc”. Người lại lo dùm cho anh ta “Ôi chao! Giời đất này còn
rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. Nếu để ý ta

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
7

sẽ thấy, khi Tràng chưa về, cả xóm ngụ cư chìm trong âu lo và bóng tối, mọi người đều có
gương mặt tối om vì đói. Nhưng khi Tràng về thì như có luồng gió tươi mát thổi vào từng
gương mặt người. Họ cố cắt nghĩa xem Tràng đi với ai, sự ngạc nhiên khiến họ quên đi cái
đói. Chi tiết này lại một lần nữa thể hiện Kim Lân là một nhà văn Nhân đạo. Ông đã đưa
Tràng vào như một chiếc phao tinh thần để cho cả thế giới này, cả xóm ngụ cư mà “cái đói đã
tràn về tự bao giờ” không bị cái đói cuốn trôi đi đến chìm nghỉm.
Hoàn toàn trái ngược với vẻ bề ngoài thô kệch xấu xí, nhưng Tràng lại là một nhân vật có trái
tim ấm áp. Mỗi ngày đi làm về, trở lại xóm ngụ cư, trẻ con lại ùa ra để trêu Tràng “Chông vợ
hài”, đứa thì đòi leo lên cổ, đứa lại đòi được bế, đứa túm đằng trước, đứa lại giậm chân anh
Tràng ơi bế em mấy. Người Việt Nam ta có câu “Yêu trẻ trẻ đến nhà , quý già già để tuổi
cho.” Trẻ con yêu thương ai, người đó là người có tâm hồn trong sáng, giàu lòng nhân ái.
Tràng là một thanh niên nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái
c. Khi về đến nhà.
Khi đưa vợ về đến nhà, Tràng nhấc cành dong lên để giới thiệu về gia cảnh. Hiện ra trước mắt
cô gái bấy giờ là một túp lều lụp xụp ở góc vườn. Căn nhà tăm tối quá, cỏ dại mọc đến tận cửa
nhà, đám mùn cưa trong bãi thì vương vãi bẩn thỉu, cái ang nước ngoài vườn thì khô cong,
bước chân vào trong nhà thì đầy những sống áo luộm thuộm. Ta có cảm giác như biết bao gia
đình khác trong xóm ngụ cư này, cái chết đã bò vào tận cửa.
Tràng xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn
bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá
khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
Vẫn biết dẫn vợ về đột ngột ra mắt mẹ là một hành động sai với gia cảnh, với mẹ trong những
năm nạn đói, bởi vậy Tràng thấy lo lắng khi dẫn vợ về, thấy sợ…Bà cụ Tứ đã là người truyền
cho anh lòng nhân ái trong tính cách của Tràng.
Tràng ngóng mẹ, mong mẹ chia vui vì mình đã có vợ, với khát vọng sống mãnh liệt : “Chúng
tôi phải duyên phải kiếp với nhau người ta về làm bạn với tôi đấy u ạ”.Khi được mẹ đồng tình
thì Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.Tràng biết việc làm của anh không phải với mẹ, chắc
chắn sẽ làm cho mẹ buồn, anh là một người con chí hiếu, biết nghĩ cho mẹ biết nghĩ cho
người khác. ( tác giả xây dựng theo hình thức tương phản, xấu xí nhưng lại có bản chất tốt
đẹp )
Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục vợ ngồi, nhìn vợ ngồi ngay đầu giường
mình, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư”.
Tràng là một chàng trai hiếu thảo, có nề nếp suy nghĩ trước sau.
d. Sáng hôm sau.
Thời điểm sáng ngày hôm sau, đêm tâm hôn đã làm Tràng thay đổi hoàn toàn, trong người
lửng lơ như một người từ trong mơ bước ra.Khi có vợ anh nhìn nhận xung quanh mình đã có
sự thay đổi.Cảnh vật vẫn thế : bát đĩa sứt mẻ, nhà vẫn là một túp lều rách…Nhưng Tràng
nghe thấy tiếng chổi quét sân của Thị, mẹ nhổ cỏ.Tràng vẫn vậy nhưng tinh thần đã thay đổi,

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
8

“Tràng thấy mình nên người”.Tràng muốn sinh con đẻ cái ở đây, Tràng muốn thay đổi cuộc
sống của chính mình, sự thay đổi giữa bất hạnh và hạnh phúc ( cuộc thay đổi về chất ngoạn
mục trong tác phẩm ). Mẹ sinh ra mới là người, còn lấy vợ mới là Con người hoàn thiện, hoàn
hảo.Hai chữ “nên người” đánh dấu sự trưởng thành , dù chỉ là vợ nhặt nhưng chính anh cũng
nhận ra điều đó.
Trong bữa cơm thảm hại chỉ có rau chuối thái rối, niêu cháo loãng lõng bõng, cháo cám…
Tràng cảm thấy nuối tiếc vì đã từng nhìn thấy đoàn người đang đói, họ đi theo lá cờ to lắm, đi
phá kho thóc Nhật.. Trong tâm trí Tràng hai lần hiện lên hình ảnh đoàn người đang đói, anh
hướng tới một ngày nào đó chính anh sẽ hòa mình vào đám người đang đói, được giác ngộ đi
theo Việt Minh, khát vọng của Tràng, khi cuộc sống vật chất chưa có gì thay đổi, anh đã
hướng tới một tương lai tươi sáng hơn. Đó là lí do tại sao nhân vật Tràng cùng thời với Lão
Hạc, Chí Phèo nhưng lại hướng tới ánh sáng đấu tranh, bởi ngòi bút của tác giả Kim Lân đã
được giác ngộ lý tưởng cách mạng.
Tràng có khát vọng sống mãnh liệt
- Luận điểm 2: Nhân vật Thị
+ Không tên, không tuổi, quê quán.
Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm
chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ
Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước
khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn
chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân
phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết
bao chị gái như thế.
+ Ngoại hình xấu xí, rách như tổ đỉa.
“Cô gái ăn mặc rách rưới như tổ đỉa”, “khuôn mặt tối đen xạm lại”, “mặt cong như lưỡi cày”.
Kim Lân mô tả cái đói thật tinh tế. Cái đói đang gặm nhấm vào sâu trong tâm hồn và thể xác
của người đàn bà này từng giờ từng phút.
+ Tính cách chao chác, chỏng lỏn, cong cớn.
Có cái nhục nhã và xấu hổ khi phải lăn sà vào miếng ăn, khi không thể chế ngự được sự giày
vò của cái dạ dày đói khát, cái khát vọng có được một bữa no lại trỗi dậy như bản năng, như
một nét tâm lí quá đỗi bình thường của con người. Giá trị và nhân cách của một con người có
lẽ chưa bao giờ rẻ rúng và thê thảm đến thế. Nhưng người phụ nữ ấy chao chát, chỏng lỏn là
thế, nhưng không hề lẳng lơ và trơ trẽn mà tất cả những hành động và lời nói chỉ càng làm tô
đậm thêm những vẻ đẹp, những thanh âm trong trẻo trong lòng Thị giữa biết bao ngổn ngang
và ngặt nghẽo của cuộc đời.
+ Diễn biến tâm lý:
a. Gặp gỡ Tràng.
Khi mới gặp Tràng,Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng
phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
9

anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp
lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà
xưng xỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục
cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà
xuống ăn như chết đói. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.
Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà khen ngon.Phải chăng đấy là tính cách
cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy
hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để có được miếng ăn.
b. Trên đường về nhà.
Khi đã chấp nhận làm vợ của Tràng,trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn.
Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì hớn hở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt
thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón
tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa khuôn mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với
người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là một con người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ,
thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng. Vả lại, thị bắt đầu ý thức
về thân phận của mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả
quyền lựa chọn và đành chấp nhận thuận theo số phận khi đã đến bước đường cùng. Xưa nay,
hôn nhân là đại sự. Con gái lấy chồng, giàu nghèo gì cũng phải cố cưới xin tử tế. Giàu thì làm
lớn, mời họ mời làng. Nghèo đến mấy cũng phải có mâm cơm trình tổ tiên, ông bà rồi mới
nhận vợ, nhận chồng.Vợ thì cũng năm bảy loại. Có loại quý hóa như cô tiểu thư con quan
trong Lí ngựa ô, đem lại danh giá, sang trọng cho chồng. Có loại vợ phải tốn bao công sức,
tiền của mới cưới được… Tủi nhục thay cho những ai mang tiếng là vợ theo (theo không,
chẳng cưới hỏi gì).
Tuy nhiên, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên
đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị
có vẻ rất khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa tay lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm
chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng và xấu hổ, chân nọ
díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong
miệng và lầm lũi đi đến nỗi đi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm
ngó của mọi người xung quanh.
c. Về đến nhà.
Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò bẽn lẽn của nàng dâu
mới. Thị đảo mắt nhìn xung quanh. Quả là nghèo quá, nghèo xơ xác. Thị nén tiếng thở dài.
Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục vợ ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm
xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt
người mẹ chồng, thị càng rụt rè sợ sệt, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái
đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những
người mẹ chồng đối với nàng dâu, bà nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng đón nhận
thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
Chưa bao giờ phẩm giá của con người lại bị rẻ rúng như giai đoạn này. Hôn nhân vốn là một
việc hệ trọng, là việc thiêng liêng cả cuộc đời vậy mà người ta có thể nhặt được vợ như nhặt

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
10

được cọng rơm, cọng rác ngoài đường. Chưa bao giờ, phẩm giá của người phụ nữ trở nên mạt
hạng thế này, đồng nghĩa với việc người vợ trong tác phẩm này là một sự đèo bòng, một
miệng ăn và là một gánh nặng. Để làm tăng thêm giá trị tố cáo, Kim Lân đã cực khéo léo khi
để cho vợ của Tràng là một nhân vật không tên, gọi cô ta là thị, “thị” là từ chung để chỉ người
phụ nữ. Điều đó chứng tỏ không phải chỉ mình vợ Tràng bị rẻ rúng, thấp kém, mà là giá trị
chung của tất cả những người phụ nữ trong xã hội. Tất cả những điều ấy đều do bọn phát xít
Nhật gây ra. “Vợ Nhặt” của Kim Lân xứng đáng là một bản cáo trạng đanh thép để kết tội
Phát xít Nhật.
Cô gái này có sự dần dần lột xác. Giữa đám đông, cô sưng sỉa, chao chát, đánh đá, kể cả ăn
xong bốn bát bánh đúc chẳng chút e dè, cầm đôi đũa quệt ngang miệng rất tự nhiên. Vậy mà
sau khi nghe Tràng lửng lơ nói về “lời hứa hôn” thì những cái đanh đá, chanh chua, hồn nhiên
bỗng biến đổi theo từng bước khi về đến nhà Tràng. Thị đi sau ba bốn bước, đầu hơi cúi, nón
che khuất mặt. Chỉ là Thị đang đối diện với chính lòng mình: chuyện số phận chứ chẳng phải
chơi. Không có nước mắt, nhưng cứ rón rén, e thẹn đích như cô dâu vừa bước khỏi nhà mẹ
theo chồng. Cho đến khi ngồi trong mép giường nhà Tràng, tay ôm khư khư cái thúng, mặt
bần thần. thì ra đến giờ phút này cô mới nghĩ tới tình cảm của mình. Đây là nơi quyết định
cuối cùng cho thân phận của cô. Bà cụ chưa về, biết ý bà ra sao? Chuyện thành vợ chồng mà
như thế này sao? Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái lại trơ trọi, lủi thủi như
thế này sao? Cũng may bà cụ Tứ là một người nhân hậu, bao dung, cùng sự an ủi, thương
cảm, nên cô cũng đã cảm thấy yên lòng.
d. Sáng hôm sau.
Sáng ngày hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy
sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận
ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà
hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh.
Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống
ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khe khẽ thở dài. Rồi chính thị là
người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không
chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.
Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có cơ hội làm như thế
mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này
có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ
và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng
cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn
mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn tủi hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến
nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân văn và tinh tế như vậy.
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do
khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống
với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
- Luận điểm 3: Nhân vật Bà cụ Tứ
+ Hoàn cảnh nghèo khó, thiệt thòi.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
11

Hoàn cảnh neo đơn : chồng mất sớm, con gái mất tích, ở với con trai cả, xấu xí thô kệch
không bình thường, Bà còn là dân ngụ cư, tủi thân tủi phận , khi nạn đói và chiến tranh đẩy
con người ta vào tình cảnh trôi dạt.
+ Ngoại hình cơ cực, lam lũ.
Bà cụ Tứ cũng là một nhân vật già cả, ốm yếu ( xuất hiện với dáng người lọng khọng, tiếng
ho húng hắng, lẩm bẩm tính toán, đôi mắt kèm nhèm…) Bà được khắc họa không còn tinh
anh, không còn nhanh nhẹn hoạt bát.Vì cuộc sống khó khăn đè nặng cuộc đời bà khiến bà trở
nên chậm chạp nhiều suy tư.
+ Tình huống xuất hiện
Sự xuất hiện của bà cụ Tứ đặc biệt, xuất hiện khá muộn trong tác phẩm , chỉ sau khi anh con
trai đưa vợ về ra mắt, không phải nhân vật trung tâm nhưng vai trò quan trọng và không thể
thiếu trong tác phẩm. Tại sao nhà văn lại để cho sự xuất hiện nhân vật muộn đến như vậy ?
Bà xuất hiện trong một hoàn cảnh thê thảm.Không gian rộng là nạn đói khủng khiếp, không
gian hẹp là một túp lều với mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, ngôi nhà rách nát.
Tràng đang làm việc tày trời, dắt một cô vợ về ( một cô vợ không tông tích,xấu xí rách rưới,
không tên, theo không..) vượt quyền của bậc làm cha làm mẹ, một điều không thể chấp
nhận.Anh dắt vợ về trong tình cảnh vô cùng nhếch nhác, nhưng từ tình huống của bà, càng éo
le bao nhiêu ta lại càng thấy được tác giả tô đậm vào tình yêu thương bao la của bà nhiều bấy
nhiêu.Đồng thời tác giả tôn lên những phẩm chất của người mẹ Việt Nam trong những năm
nạn đói.
Nếu như ở Tràng và vợ nhặt được xây dựng chủ yếu bằng hành động thì với bà cụ Tứ - Kim
Lân lại khai thác vào thế giới tình cảm, thế giới tâm lý tâm trạng. Người già là thể hiện sự
giàu trải nghiệm, hơn nữa bà là một người mẹ nghèo khổ cho nên những trang văn miêu tả về
tâm lý của nhân vật này được xem như là hay nhất tác phẩm cũng như của văn học Việt
Nam.Có thể nói nếu thiếu đi nhân vật bà cụ Tứ thì tác phẩm sẽ không thể thấy được hết giá
trị.
+ Diễn biến tâm lý.
Bà còn bị đứa con trai đẩy vào tình cảnh vô cùng éo le.Dắt vợ về không xin phép đưa về một
cô vợ xấu xí, không hẳn là xin phép mà là thông báo quyết định của bản thân anh, không thể
từ chối.Một tình cảnh trớ trêu, nghiệt ngã và khó xử. Bậc cha mẹ nào cũng mong con của
mình có những đám vừa ý, có tương lai, còn con trai bà thì đem về nhà là hiện thân của thần
chết,một con người đang đi vào cõi chết, thêm một miệng ăn nữa trong tình cảnh đói kém.
Càng thấu hiểu hoàn cảnh trái ngược ấy của nhân vật, bạn đọc càng cảm phục và ngưỡng mộ
vẻ đẹp của bà cụ.
a. Khi vừa về đến nhà.
Đầu tiên là sự ngạc nhiên, khi bà đi chợ về thấy anh con trai rối rít, mừng rỡ, bà thấy sự bất
thường của con trai, bà càng thấy phấp phỏng hơn khi theo Tràng vào nhà.Bà cụ Tứ nhìn thấy
người đàn bà xa lạ ngồi trên đầu giường.Trong tiềm thức của bà xuất hiện biết bao nhiêu
những câu hỏi băn khoăn thắc mắc : Sao lại chào bà bằng u?, sao lại ngồi trên đầu giường con

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
12

trai mình?...Sự xuất hiện của người đàn bà , con trai bà thì xấu xí, kèm theo đó là thể hiện sự
nhạy cảm, có thể chưa nói rõ nhưng bà đã ngầm hiểu đây là vợ của con trai mình.Bà hỏi
nhưng không tìm kiếm câu trả lời, bà đang lo lắng với sự nhạy cảm, từng trải của mình.Một
nhân vật nhạy cảm về cảm xúc, khác với những cuộc đấu tranh khốc liệt trong từng trang văn
của Nam Cao, Kim Lân đi sâu vào thế giới tâm hồn của nhân vật.
Giàu tình yêu thương.
b. Khi hiểu ra cơ sự.
Từ bất ngờ, cảm xúc của người mẹ nghèo dần tủi thân tủi phận cho hoàn cảnh éo le của mình
và các con, khi được Tràng giới thiệu cô vợ của anh.Bà cảm thấy ai oán xót thương cho chính
số kiếp của mình : “Người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc nhà đang ăn nên làm nổi,
còn mình thì…” Bà tủi thân trước hết là vì mình nghèo tới mức độ không thể dựng vợ gả
chồng cho con, bà là cha là mẹ mà không làm tròn được trách nhiệm để cho con phải ra ngoài
đường nhặt vợ.Dấu ba chấm hàm ý là sự xúc động không nói lên thành lời.Bà xót xa cho bậc
làm cha mẹ mà để con nhặt vợ, nỗi tủi thân khiến bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.Đó là giọt
nước mắt của người mẹ hiểu được tận cùng được giá trị con người.Bà thì không thể lấy vợ
cho con, con trai bà thì đi nhặt vợ, còn cô vợ thì rách rưới thảm hại, không thể ngẩng mặt lên
với đời.
Vượt lên trên nỗi xót xa ai oán cho thân phận, đó là lòng thương yêu và khích lệ các con.Bỏ
qua những ích kỉ của người mẹ, bà nghĩ cho con trai, bà thương chúng nó nuôi nổi nhau sống
qua cơn đói khát này không.Suy nghĩ của bà thương con trai , trên hết bà còn thương người
đàn bà xa lạ, bởi người đàn bà này đã lấy con mình : “Người ta có đến gặp bước đói khổ này
mới lấy con mình”.Bà đã hạ thấp chính mình và con trai bà, bà vượt qua sự đói rách thê thảm
nghèo khổ, trân trọng thị.Trong con mắt người đọc đó có thể là không thể chấp nhận, người
phụ nữ trơ trẽn, theo không.Bà bao dung độ lượng đón nhận thị , điều này rất khó xảy ra
nhưng Kim Lân đã khai thác được tấm lòng bao dung của người mẹ nghèo.Trên nữa bà biết
dẹp qua những đói nghèo, đau khổ, xót xa bà động viên các con. Bà đồng tình với quyết định
của con : “Các con phải duyên phải kiếp với nhau.U cũng mừng lòng.” Bà hiểu cho nỗi khổ
và đồng cảm cho cả hai đứa con của mình.Người nông dân Việt Nam với tính cách chân chất,
cho nên khi họ bày tỏ cảm xúc ở mức độ sâu đậm nhất sẽ không sử dụng từ “ đồng tình” mà là
“mừng lòng”.Bà thể hiện sự tin tưởng : “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời…”Rõ ràng
bà cụ Tứ là biểu hiện rõ nét nhất suy nghĩ của tác giả, cái đói cái chết vẫn không thể chiến
thắng được khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người.
Giàu đức hi sinh.
c. Sáng hôm sau.
Khi bà cụ nói:
- Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng
Đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn
trước kinh nghiệm của người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên
con trai và con dâu bước qua những ngày đói khổ mà lòng đầy thương xót. Mới đêm qua
khuôn mặt bà cụ bủng beo là thế, vậy mà sáng hôm nay khuôn mặt bà rạng rỡ hẳn lên bước đi
“xăm xắn” nhanh nhẹn, mạnh mẽ, bước đi sảng khoái, đó là niềm vui khi con mình đã có vợ,

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
13

bà tin rằng nhà cửa sạch sẽ thì cuộc sống sẽ thay đổi, khác đi. Bà cụ Tứ với tinh thần lạc quan,
ánh sáng giao tranh ngay trên khuôn mặt bà. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói
nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. “Nồi cháo cám” hiện lên
bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón
dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là
thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con. Bà lão lật đật chạy xuống bếp,
lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mọt cơm,
cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười: "Chè đây… Chè khoán đây, ngon đáo để cơ." Rồi
bà múc trao cho con dâu, con trai, miệng vẫn tươi cười, đon đả: "Cám đấy mày ạ, hì. Ngon
đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Bà lão “đãi” nàng
dâu mới món ăn đặc biệt mà bà gọi là chè, nấu bằng cám. Bà khen ngon đáo để và so sánh:
Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy. (Vậy có cám mà ăn như thế này là còn may lắm!)
Chao ôi là khổ! Phải đói đến mức nào thì mới ăn cám thấy ngon? Cuộc sống khắc nghiệt đày
đọa con người, bắt họ phải sống cuộc sống của loài vật, song nó không dập tắt được phần
người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Bà là người già nhất mâm cơm nhưng lại nói
nhiều nhất, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau, hình ảnh bà nhắc tới là “đôi
gà”.Trong cuộc sống của người nông dân họ thường nói tới hình ảnh con gà, hình ảnh thể hiện
của sự sinh sôi nảy nở, một cuộc sống đông đúc vuông tròn.Tâm hồn bà đã được sưởi ấm và
hướng đến tương lai.Hiện tại ước mơ ấy chưa xảy ra, nhưng từ đó ta thấy được sự tin tưởng
lạc quan của bà, ta thấy được Tràng giàu có hơn, cuộc sống sáng sủa hơn trước hết là về tinh
thần.
Tinh thần lạc quan
 Đắc sắc nghệ thuật:
- Tình huống truyện độc đáo
Thành công trước tiên của truyện Vợ nhặt là ở chỗ tác giả đã tạo ra một tình huống độc đáo:
Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt được vợ chỉ bằng vài bát bánh
đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là cùng ! Tác giả diễn tả tình huống đặc biệt này
qua thái độ ngạc nhiên của dân xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn về nhà một người đàn bà lạ.
Họ ngạc nhiên bởi thời buổi đói khát này, đến nuôi thân còn chẳng nổi vậy mà Tràng còn dám
lấy vợ. Bà mẹ của Tràng cũng sửng sốt vì không ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm chí chính
Tràng cũng chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế. Nguyên nhân sâu xa là do nạn
đói khủng khiếp đang xô đẩy còn người vào chỗ chết nên người đàn bà kia mới phải chấp
nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của tác phẩm tuy kín đáo nhưng sâu sắc. Tác giả không
trực tiếp nói đến tội ác của bọn đế quốc, phong kiến, vậy mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra
một cách đáng ghê tởm và tình cảnh cớ cực, đói khát của dân nghèo quả là thê thảm. Tình
huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện, tác động đến diễn
biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn của truyện là nạn đói năm 1945,
bối cảnh nhỏ là cái xóm ngụ cư tồi tàn ven chợ. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên bức tranh
hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình ảnh thê lương.
- Kết hợp hai yếu tố hiện thực và nhân đạo
+ Giá trị hiện thực:

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
14

Truyện dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, là
khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945.
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào…
+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma
+ Âm thanh tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết
+ Xóm ngụ cư với những khuôn mặt hốc hác, u tối
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm rõ, xẹo xệch, rách nát
+ Trên khuôn mặt của chị vợ nhặt
+ Bữa cơm ngày đói

Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói năm
1945
Giá trị hiện thực còn được thể hiện trong thân phận rẻ rúng của những người nông dân nghèo.
Người đàn bà chết đói, người gầy sọp đi, hai mắt trũng sâu vào, vì cái đói, vì miếng ăn đã
đồng ý lấy Tràng một cách nhanh chóng. Chính cái đói đã khiến người đàn bà ấy mất đi danh
dự, sự e thẹn vốn có của một người con gái, mà trở thành một kẻ chỏng lỏn, chao chát vì
miếng ăn sẵn sàng liều lĩnh đi theo không Tràng về. Trong hoàn cảnh bị cái đói, cái chết dồn
đuổi, thị sẵn sàng bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi tiết mà Kim
Lân miêu tả đã cho thấy, người vợ nhặt là một người nông dân khốn khổ, bị đẩy đến bước
đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.
+ Giá trị nhân đạo:
Kim Lân đã đồng cảm xót thương với số phận của con người lao động nghèo khổ.
Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động
nghèo.
Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương mẹ con
Tràng dành cho người vợ nhặt. Tràng mặc dù có ngoại hình xấu xí nhưng lại có tấm lòng
nhân hậu, yêu thương con người. Dù chỉ làm công việc tạm thời, không có ruộng đất nhưng
Tràng sẵn sàng mua đồ ăn cho người đàn bà không quen biết. Tràng thương cảm cho người
đàn bà khi nhìn thấy hình dáng tiều tụy hẳn đi của thị. Và nhất là Tràng còn đồng ý đem
người đàn bà ấy về nhà làm vợ của mình, dù trong Tràng lúc ấy cũng thoáng chút lo âu. Việc
lấy vợ của Tràng không phải là một chuyện ngẫu nhiên mà đó là cả một mạch vận động hợp
lí. Lần đầu gặp gỡ, Tràng lần đầu tiên nhận được sự quan tâm, đó là cái híp mắt cười tình của
một người con gái. Đến lần thứ hai, Tràng xót xa khi người đàn bà phốp pháp lần trước đã
biến mất, thay vào dó là một kẻ quần áo rách như tổ đả, gầy hẳn đi. Sự thay đổi bất ngờ nhanh
chóng ấy đã dấy lên trong Tràng lòng thương cảm, với bản chất lương thiện và sự đồng cảm
của những người đồng cảnh ngộ, Tràng đã nhanh chóng quyết định đưa người phụ nữ đó về
nhà để làm vợ của mình. Quyết định nhanh chóng, bất ngờ đó vừa thể hiện khát khao hạnh
phúc của Tràng, vừa là sự cứu mang, nghĩa cử cao đẹp mà Tràng dành cho người phụ nữ khốn
khổ, bất hạnh hơn mình.
Hơn nữa, tình huống còn thể hiệ khát vọng chân chính của con người: Trong tình cảnh thê
thảm ấy, Thị vẫn khát khao được sống, luôn tin tưởng vào điều tốt đẹp sẽ đến. Và mặc dù chỉ
“nhặt vợ” nhưng Tràng vẫn mua dầu, thắp đèn, đưa Thị vào chợ tỉnh mua những vật dụng cần
thiết thể hiện một niềm tin, niềm hi vọng và mong muốn được thay đổi cuộc sống.
- Dự báo cho người nghèo khổ con đường để đấu tranh, đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
15

- Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật chân thực và sâu sắc
Có ba nhân vật trong tác phẩm , không nhân vật nào là chính, cũng không nhân vật nào trở
thành phụ. Ba nhân vật bà cụ Tứ, Tràng, Thị đều quan trọng tạo thành thế kiềng ba chân với
mạch truyện, ba nhân vật là ba tuyến tâm lý hoàn toàn khác nhau, thể hiện sống động cái đói
và niềm hi vọng khi con người ta đi vào chỗ chết nhưng vẫn hướng đến sự sống với tình yêu
thương, đùm bọc nhau, niềm tin và hi vọng mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng.
- Nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm
Nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật một cách đầy tình tế, đối thoại ngôn ngữ trong sáng gần
gũi , hóm hỉnh với đồng quê Việt Nam.Tác phẩm phản ánh đời sống của người nông dân,
thuần túy nông thôn, tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Kim Lân.
- Ngôn ngữ kể chuyện phong phú
- Kết cấu truyện đặc sắc
3. Kết bài:
 Khái quát giá trị nhân đạo của tác phẩm
 Thể hiện cảm nhận cá nhân đối với tác phẩm
VD: Truyện ngắn Vợ nhặt được chấp bút trong bối cảnh tăm tối, ám ảnh khủng khiếp của nạn
đói, thế nhưng cái mà nhà văn Kim Lân hướng đến không phải phản ánh hiện thực thê thảm
của con người mà trong bóng tối của nạn đói nhà văn phát hiện ra ánh sáng đẹp đẽ, cảm động
của tình người. Trong nạn đói, khi cái chết vây hãm, trực chờ rút sạch đi sự sống thì những
nạn nhân khốn khổ của nạn đói vẫn mạnh mẽ vươn lên bằng niềm tin, bằng sức mạnh tình
thương. Bà cụ Tứ và Tràng là những người dân đói khổ sống ở xóm Ngụ cư, thế nhưng vào
chính thời điểm mà nạn đói hoành hành dữ dội nhất, khi mà con người đứng trên ranh giới vô
cùng mỏng manh giữa sự sống và cái chết vẫn sẵn sàng cưu mang, giúp đỡ người vợ nhặt,
cũng chính tình thương ấy đã đánh thức phần thiện lương, dịu dàng và khát khao yêu thương
bên trong người vợ nhặt.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
16

VỢ CHỒNG A PHỦ (TÔ HOÀI)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu nhà văn Tô Hoài
- Giới thiệu tác phẩm Vợ chồng A Phủ
VD: Nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ: “Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho
tôi nhiều,không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng
thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi”, bởi vậy mà tác phẩm “Truyện Tây Bắc”
nói chung và đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” nói riêng như một món nợ lòng mà nhà văn dành
cho Tây Bắc, dành cho con người nơi đây. Tác phẩm không chỉ là một trong những đỉnh cao
trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài, không chỉ thể hiện sở trường của ông trong ngòi bút
viết về mảng đề tài miền núi mà còn làm sáng lên khả năng nắm bắt, miêu tả đầy tinh tế quá
trình diễn biến tâm lí nhân vật, từ đó đưa tác phẩm lên đỉnh cao văn chương, trở thành một
sáng tác xuất sắc của nền văn nghệ kháng chiến nước nhà.
 Gián tiếp:
- Trích dẫn 1 câu nói
- Giới thiệu nhà văn Tô Hoài và cảm xúc về tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
VD: Có những sở thích nhất thời song có những sở thích đời đời không bao giờ thay đổi, có
những nỗi đau thoáng qua và cũng có những vết thương hằn sâu theo năm tháng. Nếu giở
những trang đời đẫm lệ của kiều ta sẽ khóc, nếu Chí Phèo chết ta sẽ thương thì khi đọc Vợ
Chồng A Phủ ta cũng cho phép mình rung lên theo tiếng thổn thức của Mị. Một cô gái trẻ phải
chôn vùi tuổi thanh xuân của mình trong nhà thống lý, một chàng trai yêu tự do phải làm nô lệ
chuộc nợ chấp nhận trói mình vì mất một con bò. Đọc tác phẩm, chúng ta có cảm tưởng đó
vừa là một bản cáo trạng vừa là một khúc tình ca.
2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm:
- Hoàn cảnh sáng tác
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc dài 8 tháng, ghi dấu sự trưởng thành của
ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề tài miền núi, mảng đề tài tới nay vẫn còn nhiều
mới lạ với bạn đọc. Tác phẩm được tổ chức chặt chẽ, rất sinh động và tự nhiên, không cần
những nút thắt quá biến động những vấn thu hút được bạn đọc là bởi tác giả đã có cái nhìn
hiện thực sắc bén.
- Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề tác phẩm gợi lên nhiều ý nghĩa cho người đọc. “Vợ chồng A Phủ” trước hết được Tô
Hoài đặt theo tên của một nhân vật trong tác phẩm: A Phủ - nhân vật đóng vai trò hết sức

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
17

quan trọng. Còn cụm từ “vợ chồng” chỉ mối quan hệ giữa hai nhân vật chính của tác phẩm
(Mị và A Phủ). Trong cuộc sống, “vợ chồng” là những người có mối quan hệ vô cùng gắn bó,
tuy không có quan hệ huyết thống nhưng họ cùng chung sống và cùng tạo dựng hạnh phúc.
Trong truyện ngắn này, A Phủ và Mị từ hai người xa lạ, cùng chung cảnh ngộ cùng chạy trốn
khỏi sự áp bức tù đày để tìm đến với tự do, từ đó họ trở thành vợ chồng. Qua đây, nhà văn
muốn phản ảnh được số phận cuộc đời đau thương bất hạnh của những con người ở vùng núi
Tây Bắc. Và khẳng định muốn có được cuộc sống hạnh phúc và sự đổi đời, con người phải
biết đồng lòng cùng nhau vượt lên số phận. Cũng như vai trò to lớn của chính ánh sáng cách
mạng sẽ soi đường dẫn lối cho họ tìm đến với hạnh phúc.
- Tình huống truyện
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ,
xinh đẹp, nết na, có tài thổi sáo. Cô bị bắt làm vợ A Sử - Con trai của thống lí Pá Tra để trừ
một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc,
Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha, vì nỗi đau của gia đình nên Mị không thể chết.
Mị đành tiếp tục sống tủi cực, kiếp trâu ngựa trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật, khổ
hơn con trâu con ngựa trong nhà “lúc nào Mị cũng lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi
chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối.
A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khỏe mạnh, lao động giỏi, vì đánh lại A Sử mà bị bắt,
bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do mải bắt
nhím A Phủ làm lạc mất bò, A Phủ bị thống lí trói đứng ở cột nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng
ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người và sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói
cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…
 Phân tích:
- Luận điểm 1: Xuất thân
+ Xuất thân của Mị
a. Cô gái dân tộc Mông xinh đẹp, tài giỏi
Mị là cô gái có ngoại hình xinh đẹp và có nhiều phẩm chất tốt, có tài thổi lá hay như thổi sáo,
một cô gái chăm chỉ lao động không quản ngại khó khăn đáng lẽ ra sẽ được sống cuộc sống tự
do trong hạnh phúc, nhưng trái lại Mị lại khổ ngay từ trong trứng nước.
b. Gia đình nghèo
Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có tiền đã phải vay của bố thống lí Pá Tra - là ông của
thằng A Sử 100 đồng bạc trắng, nhưng cho đến khi mẹ Mị đã mất, cha Mị đã già mà món nợ
ấy vẫn chưa được trả hết.
c. Đời sống nội tâm phong phú
Thống lí bắt bố Mị phải gả con gái cho con trai hắn là A Sử về làm con dâu gạt nợ. Biết được
tin này, Mị phản ứng ngay : “Con nay đã lớn, biết cuốc nương làm ngô, về nhà làm nương
ngô trả nợ thay cho bố, bố đừng bán con cho nhà giàu”. Câu nói toát lên khí chất của cả một
con người, một con người có sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong câu nói của Mị là sự đánh

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
18

tráo, đánh đổi, Mị thà làm việc cực nhọc chứ quyết không làm dâu gạt nợ, sống kiếp trâu ngựa
nô lệ. Thể hiện sự mạnh mẽ, tự tin của tuổi trẻ, của một người không ham giàu sang, phú quý,
biết quý trọng danh dự và nhân phẩm của mình. Mị quyết không chấp nhận cuộc hôn nhân
không tình yêu ấy.
d. Khát vọng tự do
+ Xuất thân của A Phủ
a. Chàng trai dân tộc Mông
b. Có nhiều phẩm chất tốt đẹp
c. Tính cách gan góc
d. Kiếm sống học hỏi đủ thứ nghề
- Luận điểm 2: Phân tích nhân vật Mị
+ Trước khi trở thành con dâu gạt nợ
a. Trẻ trung, hồn nhiên, hiếu thảo, chăm chỉ, có tài thổi sáo.
b. Khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu
Mị đã từng hồi hộp nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu
nhưng không ngờ rơi vào cạm bẫy nhà thống lí.
+ Từ khi trở thành con dâu gạt nợ
Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu gạt nợ. Đó là tục dùng con người làm vật thế mạng cho
món nợ tiền bạc của các dân tộc miền núi. Lệ tục cổ hủ này đã cướp đi cuộc sống tự do của
biết bao con người. Lợi dụng tục lệ cướp vợ của người Mèo, cho cướp Mị về. Vậy là không
cần cưới hỏi, không cần tình yêu vẫn là hợp lẽ. Đáng nói ở đây, chúng bắt Mị về để cúng trình
ma nhà thống lí, Mị sẽ chết rũ ở trong cái nhà này, sống không bằng chết. “Con ma nhà thống
lí” là một nỗi ám ảnh suốt cuộc đời Mị, bọn phong kiến đã cao tay đến mức “ngu dân” để dễ
trị. Chẳng ai dám lên tiếng bênh vực cô Mị xinh đẹp, nết na, vậy mà Tô Hoài đã phanh trần
bản chất bóc lột ẩn sau những phong tục, tập quán.
Bị bắt về nhà thống lý, Mị toan ăn lá ngón để tự tử. “Suốt mấy tháng ròng đêm nào Mị
cũng khóc”. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức
sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. Mị trốn về nhà cầm theo một nắm
là ngón để tạ lỗi với cha ý chính khát vọng được sống cuộc sống như một con người đúng
nghĩa khiến Mị không chấp nhận bị chà đạp, tủi cực, bị đối xử bất công như những con vật.
Tô Hoài nhắc đến cái chết, bởi với những số phận như Mị thì cái chết cũng là sự lựa chọn đầy
dũng cảm để chống chọi lại những gì khổ đau và đắng cay. Về đến nhà để chào cha, nhưng Mị
không đành lòng đi chết bởi câu nói đẫm nước mắt của người cha “Mày chào tao để mày đi
chết đấy à? Mày mà chết nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ, mày chết rồi lấy ai làm
nương ngô trả nợ người ta? Tao thì già rồi, không được đâu con ơi!” Mị chợt nhận ra nỗi đau
của gia đình mình, Mị không thể vì bản thân mình mà làm ngơ trước nỗi đau của gia đình.
Điều ấy cũng toát lên ở Mị là một người con hiếu thảo, ân tình.
Bề ngoài là con dâu thống lí, là vợ của A Sử nhưng Mị chỉ là nô lệ để bù đắp cho
khoản tiền cha mẹ mình nợ. Tái hiện lên bức tranh về bi kịch của Mị tác giả đã vẽ lên hình
ảnh nhân vật chính hiện lên trong sự đối lập với hoàn cảnh xung quanh.. Chẳng phải ngẫu
nhiên Tô Hoài mở đầu câu chuyện của mình bằng một câu văn đầy ám ảnh: “Ai ở xa về có
việc vào nhà thống lí Pá Tra thấy một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa canh

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
19

tàu ngựa”. Giữa cảnh giàu có tấp nập của nhà thống lí Pá tra “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều
thuốc phiện nhất làng” thì Mị lại được đặt bên “tảng đá và cái tàu ngựa”. Câu văn mở đầu một
tác phẩm thường được coi là một câu chủ âm thì “Vợ chồng A Phủ” đã được mở đầu bằng
một âm thanh đầy ám ảnh và xót xa. Nỗi buồn, nỗi tủi của Mị cứ đậm dần lên theo những câu
văn: “Cô ấy lúc nào cũng cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”. Cuộc sống của một kiếp đời tối
tăm, im lìm, cực nhọc, đọa đày Tâm hồn cô đã chai sạn như gỗ đá, cô đang phải sống cuộc
sống lầm than, nô lệ. Bi kịch bị bóc lột sức lao động tưởng như là đã quá dã man với một
người con gái, nhưng không, đối với Mị, sự chèn ép và hủy hoại tinh thần còn đáng sợ hơn
nhiều. Cuộc sống của Mị thu hẹp lại bên một ô cửa sổ bé bằng lòng bàn tay “mờ mờ trăng
trắng, không biết là sương hay là nắng, là ngày hay đêm”. Căn phòng của người phụ nữ vốn dĩ
phải là nơi sáng sủa, yên ấm, hạnh phúc nhưng căn phòng của Mị như một thứ ngục từ giam
hãm, chôn vùi cả tuổi thanh xuân. Mị dường như bị tê liệt về lòng yêu đời, yêu cuộc sống lần
tinh thần phản kháng. “Ở lâu trong cái khổ, Mị khổ quen rồi.” Cha Mị đã chết, Mị cũng không
muốn tự tử nữa. Mị sống âm thầm như một cái bóng, như một tù nhân của chốn địa ngục trần
gian. Nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền
núi mà còn phản ảnh sự thật đau xót: Người dân lao động nghèo khổ bị chúng đẩy đến bước
đường cùng, chà đạp đến mức tê liệt về cảm xúc, cuộc sống xung quanh, mất dần ý niệm về
cuộc đời. Chúng đang cai trị theo cách “ngu dân”. Từ những người có lòng ham sống mãnh
liệt, giờ đây chỉ như cái bóng cái xác không hồn, không ước ao. Một sự hủy diệt về ý thức
sống thật đáng sợ. Cuộc sống của Mị tiêu biểu cho số phận bi thảm, bất hạnh của những người
dân nghèo miền núi.

+ Sức sống tiềm tàng


Đầu tiên, ta cần phải hiểu sức sống tiềm tàng là gì? Sức sống tiềm tàng được hiểu là toàn bộ
những sức mạnh về thể chất lẫn tinh thần, là sức sống vốn có của con người nhưng bị hoàn
cảnh bên ngoài tác động làm che khuất đi, nhưng luôn thường trực và chờ cơ hội trỗi dậy. Ở
nhân vật Mị, đó là khát khao được sống một cuộc đời tự do trong hạnh phúc. Khát khao ấy âm
ỉ cháy trong tâm hồn Mị như một ngọn lửa chưa bao giờ tắt hẳn, như một chồi cây đâm sâu
trong lòng đất chờ ngày gặp ánh sáng để vươn lên. Trong cuộc sống, sức sống tiềm tàng chính
là sự phản kháng, chống lại những thế lực bạo tàn, nhăm nhe tiêu diệt thế lực độc ác.
a. Trong đêm tình mùa xuân
Nếu như truyện ngắn chỉ dừng lại ở việc khắc họa số phận bi thương của những con người bị
dồn đường cùng thì đã là một thành công rất lớn. Nhưng tác phẩm của Tô Hoài được ra đời
vào những năm sau Cách mạng, một thời đại mới, một trang sử mới, bởi vậy tác giả không hề
để cho nhân vật của mình lao vào bóng tối như chị Dậu, cũng chẳng để nhân vật giết người,
rồi giết mình trong một tiếng kêu đầy ai oán như Chí Phèo. Ông đã để cho nhân vật Mị thực
sự trỗi dậy, sống với một sức phản kháng mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân. Đọc tác phẩm
ta thấy có ngọn núi quanh năm đọng trong tuyết, nơi có sương mù bao phủ, những cánh rừng
bát ngát bạt ngàn nương rẫy, khi thì xanh mướt lúa ngô, khi thì sặc sỡ ẩn hiện. Nơi có làng
bản tụ quanh nguồn nước, chiều về cảnh vật hiện ra trong hơi sương, tối đến lại bập bùng
quanh ánh lửa. Ở Hồng Ngài, bao giờ cũng thế, cứ gặt hái xong là người ta chuẩn bị ăn Tết.
Nhà văn Tô Hoài đã khéo léo kết hợp tính trữ tình đậm chất thơ vào trong tác phẩm, thể hiện
vốn hiểu biết phong phú, những bản sắc riêng của người dân tộc vùng cao để người đọc có thể
hình dung rõ hơn về cuộc sống của họ, về đề tài mà ít ai từng chạm đến trên diễn đàn văn
chương lúc ấy. Nhà văn đã lấy việc miêu tả tâm lý nhân vật làm nền tảng, khi mùa xuân đến

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
20

nhà văn để nhân vật của mình vùng dậy, sức sống tiềm tàng trỗi dậy trước hết là nhờ những
đổi thay bên ngoài. Trên bản của những người Mèo đỏ, trai gái đem váy áo ra phơi trên những
mỏm đá, nhìn xa xa như những chú bướm sặc sỡ khổng lồ đầy màu sắc. Mùa xuân cũng làm
thay đổi những đóa hoa thuốc phiện khiến chúng trở nên sặc sỡ hơn. Trai gái rủ nhau ném
pao, tung còn, hát những câu hát giao duyên quen thuộc :
“Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương Ngô
Tao không có con trai con gái
Tao đi tìm người yêu”
Tất cả làm cho người đàn bà đã từng chịu nhiều khổ đau phải lay động, có sự vận động. Tiếp
đó là “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình vọng vào tâm hồn Mị “thiết tha
bồi hồi” Nhà văn lách sâu vào đêm tình mùa xuân để khơi dậy sức sống tiềm tàng trong nhân
vật này. Thiên nhiên của Hồng Ngài, không khí của mùa xuân năm ấy khiến cho Mị không
khỏi xao động, khiến cho lòng Mị không thể lặng yên mà cứ mãi xao xuyến, xốn xang. Và
trong không khí mùa xuân tưng bừng và nô nức ấy, tiếng sáo chính là âm thanh tác động
mạnh mẽ nhất đến tâm hồn Mị. Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị như đã
nguội tắt. Tác giả đã dụng công miêu tả chi tiết tiếng sáo rất nhiều lần. Âm thanh ấy khiến Mị
nhớ lại những bài hát ngày xưa. Mị đâu còn là con người “chết dần chết mòn về nhân tính”
như Chí Phèo. Tiếng sáo thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Tiếng sáo ấy
chính là tiếng sáo của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua hàng
rào lạnh giá bên ngoài để đánh thức miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị. Đánh thức sức sống vẫn
được bảo lưu đâu đó trong cõi lòng thiếu nữ Tây Bắc này. Bữa cơm Tết cúng ma đón năm
mới rộn rã, “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa, trong cái nồng
nàn của bữa rượu, Mị nhẩm lại bài hát của người đang thổi, Mị dần có khái niệm về thời gian,
về cuộc sống. Những suy nghĩ trong tâm trí bỗng chốc bật ra thành hành động, rồi “Mị cũng
uống rượu”. Để ý kĩ ta sẽ thấy rằng, Mị uống rượu “ực từng bát”, đó đâu phải là cách người ta
vẫn thường hay thưởng rượu. Mị uống rượu như nuốt bao cay đắng tủi hờn, như để quên,
quên đi hiện tại để nhớ về quá khứ và sống trong quá khứ ấy, lấy cái đắng cay của men rượu
để mà quên đi cái đắng cay của đời. Men rượu chính là tác nhân cuối cùng để Mị trở lại với
chính con người mình, để trở lại với sự sống: “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui
sướng như những đêm Tết ngày trước” Mị cảm thấy mình vẫn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi. Mị
thấy cái vô nghĩa của cuộc sống hiện tại : “nếu có nắm là ngón trên tay, Mị sẽ ăn cho chết
ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Niềm khao khát được sống như đang nhảy múa trong lòng
Mị. Đối với cô gái người Mèo ấy, cái chết lúc ấy thật sự là một sự giải thoát chứ không phải
là sự hèn nhát. Mị muốn vượt thoát ra khỏi căn buồng nhưng chẳng khác nào cái phòng gia,
giam hãm tâm hồn và tuổi trẻ của mình. Biết bao năm trời tưởng như sức sống và khao khát
được sống trong Mị đã bị vùi lấp mất, tưởng Mị đã an phận trong cái kiếp nô lệ đày đọa
nhưng không phải vậy. Mị đã ý thức được về sự bất công phi lí, “không có lòng với nhau mà
vẫn phải ở với nhau”, ý thức về quyền sống và hạnh phúc của chính mình. Người con gái ấy
đã thực sự vượt thoát ra khỏi trạng thành chai lì vô cảm của một “con rùa nơi xó cửa”.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
21

Quá trình hồi sinh của Mị không được nói đến một cách dễ dãi, hời hợt. Tâm trạng nhân vật
được miêu tả theo trình tự rất logic, nếu có hoàn cảnh làm nó tha hóa thì ắt sẽ có hoàn cảnh
làm nó thức tỉnh. Con người tưởng như đã chết từng bước được hồi sinh, Mị như một đóa hoa
ban Tây Bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài mỏng manh, yếu đuối nhưng bên trong sức
sống tiềm tàng vẫn luôn âm ỉ và mãnh liệt. Tô Hoài đã thực hiện một cuộc giải phẫu tâm lí đê
tìm ra một sự vận động biện chứng trong tâm hồn Mị. Nghe thấy tiếng sáo, tất cả cứ đang bồi
hồi rộn ràng trong Mị. Hạnh phúc như đang ở ngay trước mắt, Mị vào trong căn buồng tối tăm
của mình, xắn một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho thêm sáng. Đây là một chi tiết có chiều sâu
về nghệ thuật, Mị đang tự tay thắp lên ngọn lửa trong tim mình, ngọn lửa của tình yêu cuộc
sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc. Trong đầu Mị vẫn rập rờn những tiếng sáo. Tiếng sáo
như thôi thúc Mị quấn lại tóc, “với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách” để đi chơi hội.
Những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị chính là sức sống tiềm tàng mãnh liệt bấy lâu bị
vùi lấp. Nó đang chuyển hóa thành hành động và kéo theo những hành động tiếp theo. A Sử
hỏi nhưng Mị không nói. Hành động không nói ấy chắc hẳn là vì Mị đang sống trong quá khứ,
cả tâm trí đang nghe tiếng gọi của tiếng sáo. Mị dường như đã quên hết thực tại, quên đi cả
nỗi sợ cố hữu của mình. Rõ ràng, khát vọng sống trong Mị vẫn đang được bảo lưu ở đâu đó.
Nó giống như hòn than đang cháy âm ỉ dưới lớp tàn nguội lạnh và chỉ cần trận gió thổi tới là
nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh làm nên cuộc nổi
loạn trong Mị là không nhỏ. Nhưng sức mạnh tiềm ẩn không thể nào dập tắt mới là mấu chốt
quyết định sức sống của mỗi cá nhân. Tô Hoài đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của
mình khi dành cho nhân vật sự ưu ái. Ông thương cảm, đồng cảm xót xa với những số phận bị
chà đạp về phẩm chất, tâm hồn, những con người là nạn nhân của chế độ phong kiến.
Tưởng rằng sức sống mãnh liệt của Mị sẽ bị vùi dập lần nữa, nhưng trong bóng tối, Mị mơ
màng theo tiếng sáo, Tiếng sáo có lần đã đưa Mị theo những cuộc chơi, đám chơi. Nhưng rồi
quá khứ ra đi, hiện tại ở trước mắt. Mị chỉ thấy xung quanh toàn bóng tối, không một tiếng
động, “Cô vùng bước đi” nhưng chân tay đau không cựa được, Mị không nghe tiếng sáo nữa.
Nỗi đau thể xác đã kéo Mị trở về thực tại. Mị sống trong sự giằng xé và đau đớn giữa những
khát khao cháy bỏng với một thực tại nghiệt ngã đang hiện hữu.
b. Trong đêm cứu A Phủ
Sức sống tiềm tàng của Mị không chỉ được khắc họa trong đêm tình mùa xuân mà còn dữ dội
và mãnh liệt trong chính đêm đông cứu A Phủ. Mị đã gặp được một người mà không ngờ tới
rằng đó là người sẽ giải phóng cuộc đời mình, đó là A Phủ. Đó cũng là lí do tại sao tác phẩm
có nhan đề “Vợ chồng A Phủ”. Thời gian cũng trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng
vào cây cọc gỗ giữa mùa đông lạnh giá vì để hổ bắt mất bò. A Phủ là một chàng trai khỏe
mạnh, phóng khoáng, vì đánh lại con quan mà bị phạt vạ hết sức vô lí và trở thành nô lệ
không công cho nhà thống lí, còn Mị thì làm dâu gạt nợ. Hai con người này đang cùng chung
hoàn cảnh, số phận. A Phủ bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi
và thản nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị
nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng không nói gì. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy,
cũng thế thôi. ” bởi người con gái ấy đã chai sạn, chai lì cảm xúc, sự thản nhiên đến lạnh lùng
ấy xét đến cùng cũng là bởi đã chịu quá nhiều đắng cay và khổ đau. Cái chế độ ấy đã bóp
nghẹt sự sống của con người, khiến cho con người ta trơ lì và vô cảm đến tột cùng, khiến cho
con người ta dửng dưng trước mọi nỗi đau và sự nhức nhối.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
22

Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa” bởi tâm hồn Mị đã khép kín và câm
lặng rồi ý chính dòng nước mắt lấp lánh của A Phủ đã làm tan chảy sự vô cảm trong lòng Mị,
Mị bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. “Ngọn lửa vừa bập bùng lóe sáng, Mị lé mắt trông
sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã
đen sạm”. Mị chợt nhớ cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng nước
mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Nhưng vào đêm ấy, Mị đã trở dậy thổi
lửa và trông thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A
Phủ. Dòng nước mắt của một người con trai ương bướng, gan góc, tưởng chẳng hề sợ hãi bất
cứ điều gì ở đời. Dòng nước mắt như hình ảnh của sự uất ức trước một nỗ lực bất thành trong
một quá trình chống trọi lại thực tại cay đắng. Và cũng chính dòng nước mắt ấy cũng đã kéo
Mị về quá khứ, và rồi một nỗi cảm thương vô hạn dâng ngập lên trong lòng của người con gái
ấy. Mị thương mình, rồi thương cả người đàn bà bị nó trói ba ngày, trói đến chết. Và vì thế,
cảm giác dửng dưng dường như đã biến mất hoàn toàn, Mị đã có cảm giác rất rõ về sự đồng
cảm và đồng cảnh. Sức phản kháng trỗi dậy mạnh đến mức đã chi phối toàn bộ cả suy nghĩ.
Mị đã nghĩ một cách rành rọt là Mị sẽ chết nếu cởi dây trói cứu A Phủ, rồi phải chết trên cái
cọc ấy. Nhưng “Mị làm sao cũng không thấy sợ”, đó chính là sức mạnh của tình thương. Mị
đã không sợ chết, nhất là cái chết ấy có gắn với sự giải thoát, dám chết đê cho người khác
được sống.
Từ suy nghĩ đó đã dẫn đến hành động của Mị. Có một điều thú vị ở đây là Mị đã hành động
trong bóng tối, khi “đám than đã vạc hẳn lửa” và tối như bưng. Lần này, sức sống trong Mị
mãnh liệt đến mức chẳng cần men rượu, chẳng cần những cơn say để bùng lên. Lần này cũng
chẳng cần ngọn lửa hơ tay bởi ngọn lửa của sức sống, của khao khát được tự do và hạnh phúc
trong lòng Mị đang rừng rực cháy. Mị “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Một câu
văn ngắn với dấu phẩy khiến hành động của Mị dứt khoát và cảm giác rõ nét hơn về tốc độ
nhanh thoăn thoắt. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị nhân văn. Hành
động của Mị, tuy không thể đoán trước nhưng vẫn nằm trong mạch chảy của nội tâm nhân
vật. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã cát dây trói tinh thần trói buộc mình bấy lâu nay. Nhưng,
tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mới
nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ chạy đi, “Mị nghẹn lại”, “đứng
lặng trong bóng tối”, một sự im lặng đầy giông bão. Đó chính là sự giằng xé đấu tranh âm
thầm nhưng dữ dội. Ở lại hay chạy đi, sự sống hay cái chết? Và khi đứng trước cái chết. Mị đã
‘vụt chạy” theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng chưa bao giờ lòng Mị sáng như thế, chưa bao giờ
ngọn lửa của khát vọng sống trong Mị lại cháy mãnh liệt đến thế. Mị băng đi với tất cả sức
sống trẻ trung của mình, sức sống bị kìm hãm bấy lâu nay được bung ra, được tuôn chảy. Mị
đã vượt qua nỗi sợ cố hữu với thần quyền và cường quyền để chọn con đường sống. Một kết
cấu chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình ? và “hai người lẳng lặng đỡ
nhau lao xuống núi”. Nhìn bề ngoài ta tưởng hành động của Mị là sự liều lĩnh. Thực chất, quá
trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ xuất phát từ yếu tố bên trong, là logic tâm lí hoàn
toàn hợp lí, là một quá trình tự nhận thức : Nhận thức tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A
Phủ bởi cô thấy sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội và nhận thức “người”
cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng “mình”. Mị không hề bồng bột, không hề ngẫu hứng,
Mị đã cảm nhận được sự đồng điệu trong tâm hồn của Mị và A Phủ. Hai mảnh ghép khổ đau
và cùng cực tựa vào nhau để vượt lên sự nghiệt ngã của số phận. Mị đã tự vùng lên, tự giải
phóng cho chính cuộc đời mình khỏi áp bức và bất công. Tô Hoài đã để nhân vật mình được

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
23

con đường sáng ngay trong đêm đông tối tăm trên núi cao, tự cứu lấy đời mình, sống với cuộc
sống xứng đáng với con người. Ấy chính là giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ mà nhà văn
muốn gửi gắm. Đó cũng là khẳng định và khao khát của nhân dân Tây Bắc về khát vọng tự do
cháy bỏng. Tác giả Tô Hoài đã lách sâu ngòi bút nhân đạo của mình để tìm ra cho nhân vật
con đường đúng đắn nhất, để nhân vật đi theo ánh sáng của cách mạng cũng chính là để cho
nhân vật làm chủ cuộc đời mình, tự mình thoát ra khỏi xiềng xích, đồng thời đây cũng là giá
trị hiện thực mới mẻ khi tác giả đề cao vai trò của Đảng trong việc giải phóng nhân dân.
Bằng cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên, cách dẫn dắt câu chuyện chặt chẽ và
nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế bậc thầy thì Tô Hoài đã vẽ nên bức chân dung cô Mị tĩnh
lặng nhưng ẩn chứa sau bức tranh ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như
mạch ngầm trong mắt. Làm ta yêu thêm hình ảnh về một cô Mị ở Hồng Ngài thoát khỏi cảnh
đọa đầy để vươn đến tương lai hạnh phúc. Môt cô Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt để có
thể du kích ở Phiềng Sa sau này.
 Đặc sắc nghệ thuật
- Giá trị hiện thực:
Miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới ách
thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi (dẫn chứng 2 nhân vật Mị và A Phủ)
Phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi (dẫn chứng cha con
thống lí Pá tra)
Tái hiện bức tranh sống động đầy chất thơ về vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc, phong tục tập
quán của người dân miền núi (Đêm tình mùa xuân, xử kiện a Phủ)
- Giá trị nhân đạo:
Thể hiện lòng yêu thương, đồng cảm sâu sắc với nhân vật đau khổ của người lao động
nghèo miền núi.
Phê phán thế lực chà đạp con người.
Khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do cháy bỏng
của con người. Dù hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào cũng ko mất đi khát vọng tự do và
hạnh phúc.
Tác giả chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những con người khổ đau nói
chung về con đường giải thoát khỏi bất công, làm chủ cuộc đời mình. Đề cao vai trò của
Đảng với cách mạng trong thời kì bấy giờ.

Nhiều tác phẩm hiện thực phê phán xuất sắc vẫn bị xem là có hạn chế trong tầm nhìn khi chỉ
thương xót mà không tìm được lối ra cho nhân vật của mình. Giá trị hiện thực lúc ấy chưa
được toàn vẹn. Tô Hoài, trong khi đào sâu vào hiện thức đã tìm ra tất yếu con đường mà ông
dành cho nhân vật của mình. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống
trị gây ra sẽ dồn tới sự phản kháng tất yếu. Và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến
được thắng lợi. Nhà văn cũng là một người đã được lí tưởng của cách mạng soi đường, giác
ngộ lí tưởng cách mạng một cách nhanh chóng nên chính ông đã có con đường riêng cho sự
giác ngộ chân chính ấy. Với sở trường xấy dựng nhân vật bằng cách miêu tả tâm lí nhân vật,
Tô Hoài tìm ra logic của sự phát triển tính cách, và đã tạo ra một giá trị hiện thực vô cùng mới
mẻ, độc đáo cho tác phẩm và nó mang sức thuyết phục cao nhất. Tô Hoài chỉ ra quá trình tha
hóa nhân cách của nhân vật Mị thời kì đầu, Mị làm việc nhiều quá, bị đày đọa khổ sở quá, mãi

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
24

rồi cũng thành quen, rồi cam chịu. Mị không còn muốn ăn lá ngón để tự tử nữa, Mị như một
cái máy, không cảm xúc, không ước ao… Liệu rằng cô ấy có thể thức tỉnh nữa không? Câu trả
lời giăng mắc, ám ảnh trong tâm trí bạn đọc để rồi chính tác giả đã trả lời câu hỏi ấy “Có”.
Nếu đã có một hoàn cảnh tha hóa con người Mị thì tất yếu cũng sẽ có một hoàn cảnh mang
Mị trở lại, khôi phục sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong người con gái này. Đó là tiếng sáo
Mị chợt nghe được trong một đêm mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả như sống lại, Mị có khái
niệm trở lại về thời gian, Mị thấy lòng mình “thiết tha bồi hồi” và lập tức sống lại quãng đời
niên thiếu tươi đẹp. Tiếng sáo gọi bạn yêu khơi dậy trong Mị ao ước, khát khao về hạnh phúc,
tình yêu còn dang dở. Tiếng sáo lay động sức mạnh bền vững nhất, Mị thấy rằng “mình vẫn
còn trẻ lắm” rằng “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Để rồi những suy nghĩ chực
chờ bung ra thành hành động. “Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát”. Rồi say, Mị lịm
mặt ngồi trước nhà, ngọn lửa của sức sống tiềm tàng đang cháy hừng hực. Mị quả quyết thay
váy áo để đi chơi, điều mà bao năm nay Mị không nhớ tới. Đây là một bước ngoặt tâm lí trong
cuộc đời Mị, và chính tác giả cũng đã dành sự ưu ái ấy cho nhân vật của mình dưới lăng kính
nhân văn, nhân đạo. Cô đã thực sự hồi sinh và lột xác để thoát ra khỏi vòng áp chế của các thế
lực cường quyền, thần quyền, phu quyền. Sự trỗi dậy của Mị tuy bị A Sử dập tắt ngay sau đó,
A Sử đánh Mị, trói đứng cô vào cột nhà, nhưng ý chí Mị lúc này đang ý thức về quyền sống,
về khát vọng tự do, hanh phúc. Mị lại biết khóc, những giọt nước mắt trong khoảnh khắc tàn
nhẫn này sẽ lưu giữ mãi như một vết thương trong lòng cô.
Để rồi đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy lấp lánh trên gò mà hốc hác của A Phủ, nó
đã biến thành sự đồng cảm giữa những người đồng cảnh ngộ. Toàn bộ ý thức phản kháng của
Mị hiện lên trong một hình ảnh sáng rõ “Người kia việc gì phải chết?” Mị quyết định trong
khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn để tự giải thoát
cho mình. Hai kẻ bỏ trốn cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Cuộc đời họ
trở thành con đường với hai bước ngoặt, kiếp sống nô lệ và chống trả kẻ thù. Chắc chắn, họ
thà chết còn hơn lại sống nô lệ, lầm than. Nhưng muốn chống lại kẻ thù, họ trông cậy vào ai?
Cách mạng đã đến với họ trong giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo ánh sáng của Đảng, thủy
chung với Đảng là một lẽ tất yếu! Bằng sự am hiểu cuộc sống, phân tích vấn đề xã hội sâu sắc
và miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình
đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao động miền núi, trong
chế độ phong kiến. Ngoài ra đó còn là nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng cho bạn
đọc.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn với con người. Ngay giá trị
hiện thực của tác phẩm, Tô Hoài đã để lại cái nhìn đầy sự ưu ái. Khi cô đúc nỗi khổ của hai
nhân vật dưới ý thức một bản cáo trạng đanh thép. Tô Hoài gợi lên trong chúng ta sự đau xót,
cảm thông. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm gần như hòa trộn với nhau.
Nhưng rõ ràng phải là một người biết thông cảm, trân trọng và nâng niu con người mới có thể
xét đoán tâm hồn người ta tinh tế như vậy. Nhà văn trước sau vẫn tin rằng hoàn cảnh dù có
khắc nghiệt đến mấy, cũng không bao giờ có thể tiêu diệt hoàn toàn nhân tính con người. Mị
đã sống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình, bằng tình yêu thương, đồng
cảm nhân hậu thông qua khát vọng sống mãnh liệt. Cả hai nhân vật đã đi đến con đường có
ánh sáng của Đảng, thoát khỏi trốn địa ngục trần gian để làm lại cuộc đời như một con người.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
25

Ngoài ra, giá trị hiện thực của truyện còn được gia tăng bằng màu sắc địa phương rất đậm nét
với cảnh sắc, phong tục, sinh hoạt của người Mèo, bản sắc tâm hồn độc đáo của các nhân vật.
Cùng một số phận, một cảnh ngộ nhưng diễn biến tâm lí của Mị rất khác A Phủ. Nếu A Phủ
mạnh mẽ, bộc trực, dứt khoát thì Mị dường như chín chắn nhưng lại yếu đuối hơn. Tô Hoài đã
dành cho nhân vật của mình những cái nhìn nhân đạo và tích cực. Ông cảm thông cho nỗi đau
của Mị và A Phủ, mặt khác lại trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tự tin
làm chủ cuộc đời mình. Phải chẳng cái nhìn đó đã tạo nên giá trị của tác phẩm?
- Xây dựng tình huống truyện đặc sắc
- Khắc họa hình tượng nhân vật sinh động
- Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế
- Nghệ thuật trần thuật, giọng kể trầm lắng, cảm thông
- Ngôn ngữ chân thực, sinh động, giàu tạo hình
Tô Hoài đã sử dụng ngòi bút chân thực, sinh động của mình để phơi bày tội ác của chế độ
phong kiến miền núi, của tiền quyền, thần quyền và cường quyền.
3. Kết bài
 Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
 Nêu cảm xúc cá nhân
VD: Qua việc khắc họa cuộc sống và số phận của những người nông dân cùng khổ: Mị, A
Phủ, nhà văn Tô Hoài đã mở ra bức tranh hiện thực tăm tối, ngột ngạt của người dân miền
núi Tây Bắc dưới chế độ phong kiến đen tối, nơi giai cấp thống trị có thể tự do áp bức,
tước đoạt đi tự do, hạnh phúc và cả quyền sống của những người dân nghèo vô tội. Quá
trình vượt qua nghịch cảnh, giải phóng bản thân, đi theo cách mạng của Mị và A Phủ cũng
chính là quá trình giác ngộ cách mạng của đồng bào dân tộc miền núi. Truyện ngắn không
chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo của Tô Hoài khi bênh vực, đồng cảm với số phận con
người mà còn thể hiện niềm tin của tác giả vào cách mạng, khẳng định chỉ có đi theo cách
mạng con người mới có thể thực sự tìm thấy tự do, phá bỏ xiềng xích áp bức để hướng
đến cuộc sống hạnh phúc.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
26

RỪNG XÀ NU (NGUYỄN TRUNG THÀNH)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trung Thành
- Giới thiệu tác phẩm Rừng Xà Nu
VD: Tây Nguyên là mảnh đất của văn hóa cồng chiềng và những pho sử thi đồ sộ. Chính
mảnh đất này đã thổi hồn vào những trang viết của Nguyễn Trung Thành và để lại nhiều dấu
ấn qua “Rừng Xà Nu”, “Đất nước đứng lên”…. “Rừng xà nu” được xem là một khúc hùng ca
– một “Bản hịch thời đánh Mỹ”. Tác phẩm có kết cấu độc đáo – truyện lồng truyện, truyện
của cuộc đời những cánh rừng xà nu quyện hòa vào cuộc đời của nhân vật chính – Tnú. Tất
cả tạo nên một đội ngũ trùng điệp, bất tận về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn của dân
tộc.

 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý
- Giới thiệu tác giả- tác phẩm
VD: Tây Nguyên là mảnh đất nắng gió bao la, nơi đại ngàn hoang sơ hùng vĩ. Mảnh đất sản
sinh văn hóa cồng chiêng và bao pho sử thi đồ sộ như Đam Săn, Xinh Nhã, Xinh Bia…
Mảnh đất ấy cũng từng kinh qua bao cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và để lại bao dấu ấn
đẹp đẽ qua bao trang văn, trang thơ. Trong số những sáng tác về mảnh đất và con người

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
27

nơi đây phải kể đến “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Tác phẩm ra đời vào
mùa hè đỏ lửa năm 1965 và nhanh chóng trở thành một khúc hùng ca bi tráng, thiêng liêng –
một “Bản hịch thời đánh Mỹ”. Người đã dệt nên bản anh hùng ca ấy chính là hình tượng
nhân vật Tnú – con người tiêu biểu cho chân lý cách mạng ngời sáng mà cụ Mết đã truyền
dạy “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn “Rừng xà nu” được Nguyễn Trung Thành sáng tác mùa hè năm 1965 khi giặc Mĩ
đổ ào ạt vào miền Nam. Nguyễn Trung Thành cũng giống như những nhà văn cùng thời của
mình, muốn viết một bài “Hịch tướng sĩ” của thời đại chống Mĩ. Nên sau khi viết tùy bút
“Đường chúng ta đi”, ông bắt tay vào viết truyện ngắn “Rừng xà nu”. Thế là “Rừng xà nu”,
con người Tây Nguyên đã trải mình trên những trang văn hừng hực của Nguyễn Trung Thành.
Theo lời của nhà văn thì sự ra đời của tác phẩm “Rừng xà nu” gần như là không hề tính trước,
một khu rừng xà nu, những cây xà nu. Lúc đầu tác phẩm được in trên tạp chí văn nghệ giải
phóng miền Trung Trung Bộ Tháng 2/1965. Sau đó được đưa vào tập truyện và kí “Trên quê
hương những anh hùng Điện Ngọc” (1969).
- Ý nghĩa nhan đề
Nhà văn đặt tên cho tác phẩm là “Rừng xà nu” không phải là ngẫu nhiên vô tình mà là một
dụng ý nghệ thuật. Bởi đối với những nhà văn, nhất là những nhà văn có tài, việc đặt tên cho
các đứa con tinh thần của mình là một việc làm hết sức quan trọng bởi nó ghi dấu linh hồn của
tác phẩm và tư tưởng tác giả. Tên tác phẩm không khác gì một chiếc chìa khóa giúp người
đọc mở vào chiếm lĩnh thế giới huyền diệu của tác phẩm hoặc nó được ví như một lối mở dẫn
dắt người đọc và khám phá lâu đài của văn chương, nghệ thuật.
Đọc tác phẩm ta thấy nhà văn có thể đặt tên khác cho truyện ngắn của mình là Tnú, là Làng
Xô Man, bởi câu chuyện xoay quanh những con người ấy. Nếu đặt là Tnú, kết quả của cách
đặt tên ấy là hướng người đọc vào nhân vật trung tâm nhưng lại làm mất đi tính khái quát gợi
mở - điều cốt yếu của một tác phẩm văn học. Vì vậy nhà văn đặt tên là “Rừng xà nu” với
những ý nghĩa sâu sắc dưới đây:
Đó là một hàm nghĩa sâu xa, nó là hình ảnh gắn bó mật thiết và để lại những dấu ấn sâu đậm
trong cuộc đời viết văn của Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành. Trong truyện rừng xà nu
không chỉ được trạm khắc thành một bức tranh phong cảnh có đường nét, màu sắc mang đặc
trưng của đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ mà nó còn làm nền cho câu chuyện bi tráng về Tnú.
Vì vậy xà nu mang ý nghĩa biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do, vẻ đẹp tâm
hồn và tinh thần bất khuất của đồng bào Tây Nguyên. Nhan đề truyện là sự lựa chọn đặc sắc
của Nguyễn Trung Thành góp phần tạo lên chất sử thi anh hùng, lấp lánh màu sắc thiên nhiên
trong thiên truyện. Hơn thế nữa, xà nu được biết đến là một loại cây rất đặc trưng của núi từng
Tây Nguyên hùng vĩ, thơ mộng. Ấy là loài cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch.
“Thân cây cao vút, vạm vỡ, ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã, vừa rắn rỏi”. Nó là một sự sống
không thể thiếu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên bởi nó tạo lên một không khí Tây
Nguyên, chất Tây Nguyên độc đáo cho thiên truyện.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
28

Đặt cho thiên truyện một cái tên giàu ý nghĩa, chứng tỏ Nguyễn Trung Thành là một nhà văn
giàu tài năng và sáng tạo.
- Tình huống truyện
Truyện mở đầu là cảnh rừng xà nu bạt ngàn trong tầm đại bác của giặc đang ưỡn tấm ngực
lớn ra che chở cho làng Xô man.Sau ba năm đi lực lượng Tnú được cấp trên cho phép về thăm
làng một đêm. Bé Heng trở thành một giao liên chững chạc nhanh nhẹn đã đưa Tnú vào làng.
Đêm hôm đó tại nhà cụ Mết, cụ Mết đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời Tnú và cũng là một
đoạn đời của làng Xô man trong kháng chiến. Hồi đó Mĩ – Diệm khủng bố gắt gao,được anh
Quyết dìu dắt Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ của Đảng,trong một lần đi liên lạc cho
cách mạng Tnú bị giặc bắt.Ba năm sau anh vượt ngục trở về làng lúc này anh Quyết đã hy
sinh.Mai và Tnú lấy nhau. Thực hiện lời dặn của anh Quyết trước lúc hy sinh Tnú và dân làng
Xô man mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu.Nghe tin giặc kéo về làng khủng bố bắt vợ con anh
tra tấn tàn bạo cho đến chết ngay trước mắt anh.Căm hờn cháy bỏng Tnú đã nhảy xổ ra trước
mặt bọn lính nhưng không cứu được mẹ con Mai.Giặc bắt anh cuốc giẻ tẩm nhựa xà nu đốt
mười đầu ngón tay.Trước cảnh tượng ấy cụ Mết cùng thanh niên trong làng nổi dậy giết sạch
bọn lính cứu Tnú.Sau đó Tnú rời làng gia nhập lục lượng quân giải phóng chiến đấu dũng
cảm giết chết kẻ thù bằng bàn tay cụt đốt. Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh cụ Mết và Dít
tiễn Tnú trở lại đơn vị.Trước mắt họ là những cánh rừng xà nu chạy đến tận chân trời.
 Phân tích
- Rừng xà nu, cây xà nu
+ Hình tượng thật, chân thực
Trước hết, xà nu chính là một hình ảnh quen thuộc của núi rừng Tây Nguyên và gắn bó, thân
thiết như người bạn chí cốt của dân làng. Xà nu là một loài cây phổ biến nơi núi rừng Tây
Nguyên, dẻo dai, kiên cường và bất khuất, “trong rừng có ít loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như
vậy”,”cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế”. Xà nu đã gắn liền với cuộc sống
sinh hoạt đời thường của con người Tây Nguyên “khói xà nu xông bảng nứa đen kịt” để Tnú
và Mai học chữ, dầu xà nu, nhựa xà nu được sử dụng làm chất đốt trong những đêm sinh hoạt
cộng đồng ở nhà ưng,.. Không những thế, xà nu còn còn tham gia đánh dấu nhiều sự kiện lịch
sử đặc biệt của làng Xô man : ngọn đuốc xà nu đã cháy sáng dẫn đường cho dân làng đi rừng
chuẩn bị vũ khí để nổi dậy chống phá kẻ thù, rồi chính đôi bàn tay của Tnú cũng bị đốt bằng
giẻ tẩm nhựa xà nu, và ngọn đuốc xà nu bập bùng soi rõ xác mười tên tính bị giết “đống lửa
xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ, xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đỏ”,...
+ Biểu tượng cho số phận và phẩm chất của con người Xô Man
Không những thế, xà nu đã được nâng lên trở thành biểu tượng cho cuộc sống và vẻ đẹp phẩm
chất của con người Tây Nguyên.. Số phận đau thương của rừng xà nu cũng giống như số phận
bi thương của con người Tây Nguyên, đó cũng chính là nét hiện thực tàn khốc trong những
năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Nhưng nhờ có sức sống mãnh liệt và bền bỉ, xà nu cũng
như con người của mảnh đất đỏ bazan đã chiến đấu và chiến thắng sự tàn phá của kẻ thù Sức
sống mãnh liệt không gì tàn phá nổi “cạnh một cây ngã gục đã có bốn năm cây con mọc
lên...lao thẳng lên bầu trời” của xà nu cũng chính là sức sống mãnh liệt trường tồn, phẩm chất
kiên cường bất khuất của biết bao thế hệ dân làng Xô man, thế hệ con người Tây Nguyên. Hết

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
29

lớp này rồi đến lớp khác đứng lên, vùng lên giành lại tự do. Anh Quyết hi sinh thì còn Tnú và
Mai, Mai nằm xuống sau trận mưa cây sắt của lũ kẻ thù tàn ác thì có Dít – cô bé nhỏ dũng
cảm, “bình thản lạ lùng” “chùi nước mắt”, “im bặt” đứng trước mưa đạn, còn bé Heng cũng
đang lớn lên từng ngày, theo bước của những thế hệ trước gìn giữ độc lập cho dân tộc. Dòng
máu Tây Nguyên được truyền từ lồng ngực của những người già sang trái tim của thế hệ trẻ,
dòng máu anh hùng từ thời Đăm Săn - Sinh Nhã. Nó giúp cho Nguyễn Trung Thành khẳng
định chân lý “Sức sống của người dân Tây Nguyên” là bất diệt. Lớp lớp người Tây Nguyên
mang trong mình ngọn lửa yêu nước, tinh thần ấy được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế
hệ này sang thế hệ khác:
“Tôi muốn viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên viết tiếp thay cha
Người đứng lên viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”
(Bài ca trên báng súng – Hoàng Trung Thông)
Khi đạn bác rơi xuống ngọn đồi xà nu ở Xô man thì lòng yêu nước bất khuất của đồng bào
Tây nguyên như sức vươn xa của cây xà nu ấy, phát triển rộng ra cả xứ sở Tây Nguyên, ra cả
Miền Nam thành đồng tổ quốc. Số phận đau thương của rừng xà nu cũng giống như số phận
bi thương của con người Tây Nguyên, đó cũng chính là nét hiện thực tàn khốc trong những
năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Nhưng nhờ có sức sống mãnh liệt và bền bỉ, xà nu cũng
như con người của mảnh đất đỏ bazan đã chiến đấu và chiến thắng sự tàn phá của kẻ thù.
Trong khi miêu tả rừng xà nu, cây xà nu, nhà văn đã sử dụng biện pháp "nhân hóa như một
phép tu từ chủ đạo. Ông luôn lấy nỗi đau và vẻ đẹp của con người làm chuẩn mực để nói về
xà nu khiến xà nu trở thành một ẩn dụ cho con người, một biểu tượng của Tây Nguyên bất
khuất, kiên cường. Ngược lại, khi miêu tả con người, tác giả cũng thường so sánh với xà nu.
Cụ Mết có bộ ngực “căng như một cày xà nu lớn”, tay “sần sùi như vỏ cây xà nu”. Vết thương
trên lưng Tnú thì “ứa ra từng giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thẫm như
nhựa xà nu”. Đây chính là thủ pháp “ứng chiếu” giữa thiên nhiên và con người, tạo nên một
sự đồng điệu, gắn bó, trở thành một bản hòa ca đậm chất sử thi nhưng vẫn dào dạt chất thơ về
sức sống bất diệt của nhân dân Tây Nguyên.
Mặc dù đồi xà nu nằm dưới tầm đại bác của giặc, mặc dù hầu hết ngọn đại bác rơi xuống đồi
xà nu ấy nhưng đồi xà nu ấy vẫn không hề bị tiêu diệt. Ngược lại nó vẫn luôn xanh tốt bạt
ngàn để rồi đến cuối tác phẩm, tác giả tự hào viết câu văn:”Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa.
Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân
trời”. Mới nghe qua ta tưởng đó là câu văn lặp lại phần mở đầu nhưng thực chất ở đây đã có
sự thay đổi về cú pháp. Đó là sự phát triển của xà nu về cả số lượng và chất lượng. Để hiểu
được hết kết cấu của tác phẩm thì ta đặt nó vào sự phát triển của không gian, thời gian. Ở
phương diện thời gian, từ đồi xà nu ở câu văn thứ nhất thì giờ đây đã trở thành cả rừng xà nu.
Đó là quãng thời gian chiến đấu trường kì gian khổ của người dân Tây Nguyên. Trong hai
mươi mốt năm kháng chiến chống Mỹ ấy là 21 lứa xà nu đã ngã xuống để rồi 21 thế hệ xà nu
sau mọc lên, nhìn rộng ra đó là 21 thế hệ người dân Tây Nguyên, người dân Việt Nam lên
đường ra trận ào ạt quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh. Lớp lớp người Tây Nguyên mang trong

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
30

mình ngọn lửa yêu nước, tinh thần ấy được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này sang
thế hệ khác, từ lồng ngực của người già đến trái tim của thế hệ trẻ:
Khi đạn bác rơi xuống ngọn đồi xà nu ở Xô man thì lòng yêu nước bất khuất của đồng bào
Tây nguyên như sức vươn xa của cây xà nu ấy, phát triển rộng ra cả xứ sở Tây Nguyên, ra cả
Miền Nam thành đồng tổ quốc. Được thể hiện qua câu văn : “Đứng trên đồi xà nu gần con
nước lớn, suốt đêm nghe cả rừng Xô man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng”. Hình ảnh
rừng xà nu nối tiếp nhau cuối chân trời ở cuối tác phẩm chính là tinh thần yêu nước bất khuất
của cả dân tộc. Nói cách khác, đó là sức mạnh tổng hợp để có thể đánh đuổi quân thù khỏi đất
nước ta. Bởi vậy mà nhà phê bình Chu Văn Sơn đã từng nói: “Rừng xà nu” chính là sự thu
nhỏ, chưng cất của tiểu thuyết “Đất Nước đứng lên”
Cuối cùng, Nguyễn Trung Thành đã biến hình ảnh cây xà nu thể hiện tinh thần đoàn kết, là
biểu tượng của con người Tây Nguyên cũng như tất cả những thế hệ người Việt Nam yêu
nước. “Trong rừng có hàng vạn cây”, nhưng ở đây Nguyễn Trung Thành đã nhận thấy ở đó có
ba lứa cây Xà Nu, tượng trưng cho ba thế hệ của làng Xô Man. Đầu tiên là những cây xà nu
cổ thụ mà ở đó cụ Mết được ví như một cây Xà nu đại thụ, một pho sử vĩ đại của làng Xô
Man. Cụ Mết là một già bản, vai trò của Cụ Mết thường xuất hiện trong sinh hoạt cộng đồng
trong những đêm ở nhà Rông, bên ánh lửa xà nu bập bùng. Cụ là chỗ dựa tinh thần cho cả dân
làng Xô man. Kế đó là nhưng cây xà nu trưởng thành mang trên mình đầy thương tích nhưng
sức vóc lớn mạnh của nó đã làm mờ vết thương. Những cây xà nu trưởng thành ấy vươn lên
che chở cho cả buôn làng, tương ứng với thế hệ xà nu này ta phải kể dến Mai, Tnu. Bên cạnh
hai lứa xà nu kể trên tác giả còn tập trung miêu tả hình ảnh cây xà nu non vừa nhú khỏi mặt
đất, lập tức lao thẳng lên bầu trời để tiếp lấy ánh nắng. Tiêu biểu cho thế thệ xà nu này là thế
hệ thiếu niên của làng Xô Man mà tiêu biểu là bé Heng, Dít. Vượt qua mưa bom bão đạn của
kẻ thù nhưng không hề bị tiêu diệt, phát triển xanh tốt bạt ngàn, chạy tít xa tận chân trời. Vì
ba lứa xà nu bền chặt lẫn nhau là ba thế hệ người dân Tây Nguyên đoàn kết, gắn bó với nhau.
Sức mạnh đoàn kết cũng chính là sức mạnh nội lực của cả dân tộc. Dòng máu Tây Nguyên
được truyền từ lồng ngực của những người già sang trái tim của thế hệ trẻ, dòng máu anh
hùng từ thời Đăm Săn - Sinh Nhã. Nó giúp cho Nguyễn Trung Thành khẳng định chân lý
“Sức sống của người dân Tây Nguyên” là bất diệt, nó cũng trở thành triết lí của câu chuyện
này. Nguyễn Trung Thành gửi gắm điều đó vào lời của cụ Mết, chỉ có cụ Mết mới có toàn
quyền để phát ngôn cho sức mạnh của Xà Nu. Và khi người Xô Man đã cầm lấy vũ khí nhất
tề đứng lên khởi nghĩa, thì đó cũng là sự nổi giận của rừng già, của xà nu khi đã chịu quá
nhiều đau thương.
Tác giả đã kết hợp tỉ mỉ giữa tả và kể dựng lên hình tượng cây xà nu với vóc dáng tràn đầy
sức lực vừa chân thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so
sánh đối chiếu xuyên suốt với hình ảnh con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, so sánh
đều được vận dụng linh hoạt nhằm thể hiện sự hùng vĩ của thiên nhiên, gợi ra nhiều suy tưởng
sâu xa về con người, đời sống.
Tập trung khắc họa hình tượng rừng xà nu, tác giả Nguyễn Trung Thành đã rất thành công tạo
dựng một phông nền đậm chất Tây Nguyên cho tác phẩm của mình. Thiên nhiên và con người
đồng điệu trong những nét đẹp ẩn sâu, đồng lòng quyết tâm chiến thắng kẻ thù. Có thể nói,
hình tượng xà nu là một mô típ chủ đạo, góp phần không nhỏ làm nên thành công và sức Tinh
thần yêu nước, bất khuất, sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
31

với kẻ thù còn được biểu hiện thông qua cách tổ chức sắp xếp hình tượng cây xà nu của tác
giả. Nó gắn liền với kết cấu của truyện, đó là kết cấu đầu cuối tương ứng. Ở phần đầu tác
phẩm ta bắt gặp câu văn: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không
thấy gì ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”
- Các anh hùng Tây Nguyên
+ Cụ Mết
a. Ngoại hình
Quắc thước: “râu dài đến ngực mà vẫn đen bóng”, “vết sẹo ở má phải láng bóng”, cụ là người
đã trải qua nhiều thăng trầm, “bàn tay nặng trịch như kìm sắt”, “ngực căng như một cây xà nu
lớn”, ...mang dáng dấp của anh hùng trong sử thi Tây Nguyên.
b. Tính cách, phẩm chất
Cụ là người quắc thước và nghiêm nghị: Giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực ”: vừa thể hiện sức
mạnh thể chất vừa thể hiện sức mạnh quyền uy của người chỉ huy. Mỗi câu nói như một chân lí
“không có gì mạnh bằng cây xà nu trên đất ta”, “cán bộ là Đảng, Đản còn, núi nước này còn”,
“chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”.
Cụ Mết có tình yêu quê hương sâu sắc: Dẫn Tnú ra máng nước đầu làng gội rửa, để nhắc nhở những
ai đi xa nhớ về ngườn cội, quê hương. Tự hào về tất cả mọi thứ trên quê hương: “Không có gì
mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi này”. Vì muốn
bảo vệ quê hương nên luôn tìm hướng đi đúng đắn cho buôn làng: “Cán bộ là Đảng. Đảng
còn, núi nước này còn”.
Là người giàu tình yêu tình yêu thương: Hết lòng thương yêu và tin tưởng Tnú – chàng trai trẻ có số
phận bi tráng: nồng hậu đón Tnú trở về, xót thương khi nhìn những ngón tay còn hai đốt của Tnú,
luôn động viên anh: “Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được” Xúc động khi kể lại cho dân làng
nghe câu chuyện của Tnú, cụ “vụng về trở bàn tay lau một giọt nước mắt”. Nhận được muối,
dù ít ỏi cụ vẫn chia đều cho mọi người trong buôn làng.
Cụ Mết là người biết nhìn xa trông rộng: dự trữ lương thực đủ ăn để đánh giặc, biết rõ
được sức mạnh chưa đủ khi chưa có vũ khí nên không liều mạng xông ra cứu Tnú,... Cụ chính
là người chỉ đường dẫn lối. Là chỗ dựa tinh thần cho dân làng.
Nhận xét: Cụ Mết là biểu tượng thế hệ anh hùng đi trước, hiện thân cho truyền thống thiêng
liêng, hội tụ vẻ đẹp con người Tây Nguyên, mang dáng vẻ của người anh hùng với sức mạnh
phi thường trong sử thi.
+ Tnu
Trước tiên ta đến với lai lịch và ngoại hình của Tnu. Anh là một nhân vật điển hình trong văn
chương, một nhân vật điển hình bao giờ cũng gắn với một hoàn cảnh điển hình. Tnu là một
đứa trẻ mồ côi lớn lên trong tình yêu thương của buôn làng Xô Man. Lớn lên trong sự dẫn dắt
của Cụ Mết, cũng giống như những thế hệ đi trước, Tnu được giác ngộ lí tưởng cách mạng
ngay từ khi còn nhỏ. Khi trưởng thành, anh giống với chị Út Tịch trong tác phẩm “Người Mẹ
cầm súng” của nhà văn Nguyễn Thi, chị Tư Hậu trong “Một truyện chép ở bệnh viện” của Bùi

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
32

Đức Ánh… Họ là những con người đang viết lên huyền thoại của thế kỉ 20. Tnu được tác giả
xây dựng trên hai nguồn cảm hứng là lãng mạn và sử thi. Tác phẩm chủ yếu không mô tả
nhiều về ngoại hình của Tnu mà chỉ tập trung chủ yếu vào hình tượng đôi bàn tay của anh.
Nhà văn ví hình tượng của Tnu như một cây xà nu trưởng thành trong rừng “như những con
chim đã đủ lông mao, lông vũ” và “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho buôn làng”.
Cái nét Tây Nguyên thấm đẫm trong anh, từ ngôn ngữ đến hành động. Ngôn ngữ của Tnu chủ
yếu là ngôn ngữ đối thoại. Nói chắc như đinh đóng cột, nói sắc như dao chém đá, thân đi ào ạt
như thác núi Tây Nguyên. Chảy trong huyết quản của anh là dòng máu có từ thời Đăm Săn –
Xing Nhã.
a. Khi còn nhỏ
Tnu là một người vô cùng gan dạ, dũng cảm. Nét tính cách này đã xuyên suốt cả cuộc đời của
anh từ khi còn nhỏ cho đến khi đi theo Cách mạng. Giặc giết bà Nhan, Anh Xút nhưng Tnu
vốn dĩ chỉ là một đứa trẻ lại không sợ. Vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.
Khi làm giao liên, Tnu không bao giờ chịu đi đường mòn, cứ xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các
vòng vây, qua sông Tnu không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi qua “vượt
băng băng như con cá kình”. Nói như H.Balzac: “Bản chất của con người thường bị bánh xe
của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ.” đó là khi Tnu đối
diện với cái ác, cái xấu và khi anh cận kề với cái chết, cái ác trong tác phẩm này được hiện lên
với rất nhiều diện mạo như mũi dao, họng súng, cây gậy sắt… Nhưng Tnu chưa bao giờ đầu
hàng hoàn cảnh. Một lần Tnu đang vượt sông Đắc Năng, Tnu bị giặc phục kích và bắt được.
Chúng dí họng súng lạnh ngắt vào đầu Tnu và hỏi “Cộng sản ở đâu”. Tnu nuốt lá thư vào
họng, chỉ tay vào bụng mình và trả lời đầy quả cảm “Cộng sản ở đây này”. Dẫu biết sau câu
nói ấy dọc ngang lưng anh toàn những vết chém của kẻ thù.
b. Khi trưởng thành
Thằng Dục hiểu được rằng Tnu trở về rừng sẽ làm loạn núi rừng, nó bắt mẹ con Mai đứng
giữa sân làng để tra tấn bởi chúng nghĩ “bắt được con cọp cái và cọp tất sẽ dụ được cọp đực
trở về”. Tnu đã phải chứng kiến một trận mưa gậy sắt giáng xuống mẹ con Mai. Anh nhìn ra
sân làng rõ mồn một, mắt anh giờ đây là những cục lửa lớn, tay anh đã dứt hàng chục trái vả
từ lúc nào không hay. Dù trong tay không còn một tấc sắt nhưng anh vẫn nhảy ra cứu vợ con
mình.
Tnu còn là người giàu tình cảm thương yêu. Anh tha thiết yêu quê hương mình. Sinh ra và lớn
lên giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, giữa những con người thuần hậu, Tnu gắn bó thân
thiết với cảnh và người quê hương mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản làng, khi trở về Tnu vô
cùng xúc động.
Anh nhớ rõ từng hàng cây, con đường, từng dòng suối mát. Anh đau đớn khi gặp lại cây to
chắn ngang đường, nơi mà ngày xưa Mai đã thổ lộ tình cảm mến yêu ngay khi anh từ nhà tù
trở về. Anh cũng bồi hồi khi nghe tiếng chày giã gạo của dân làng đến nỗi vấp châp ngã đến
hai lần, tiếng chày chuyên cần, rộn ràng của người dân bản, những cô gái Stra, của mẹ anh
ngày xưa mà suốt đời anh vẫn nhớ.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
33

Anh yêu thương vợ con tha thiết ý chính vì yêu thương rất nhiều nên anh căm thù sâu sắc bọn
giặc đã dùng cây gậy sắt đánh chết vợ con anh. Anh cũng rất yêu thương dân làng. Người dân
làng Xô Man đã dành cho anh một tình cảm đặc biệt nồng hậu, thân thiết. Những cặp mắt tròn
xoe, rồi những tiêng reo của mọi người khi đón mừng Tnu về làng.
Bên cạnh đó, ta còn thấy Tnu là người ngay thẳng trung trực. Vẻ đẹp này được bộc lộ rõ ngay
từ khi Tnu còn nhỏ anh học chữ cùng Mai. Ngày còn nhỏ, Tnu và Mai được anh Quyết dạy
cho cái chữ, được Đảng dạy cho cái chữ và toán hai con số. Học chữ thua Mai, Tnu đập vỡ
bảng, bỏ ra suối ngồi vì quên chữ a, chữ b, chữ y dài. Tnu tự lấy đá ghì vào đầu mình cho đến
khi chảy máu. Anh hiểu được rằng chỉ có con chữ mới giúp cho anh trở thành người cán bộ
giỏi, viết được những gì trong bụng của mình. Đọc toàn bộ tác phẩm thì đây chỉ là một tiểu
tiết nhỏ nhưng bộc lộ được Tnu là một con người trung trực, ngay thẳng với chính lòng mình.
Để rồi Cụ Mết phải thốt lên rằng “Cái bụng của thằng Tnu sạch như nước suối làng ta”
Tnu là một con người trung thành với cách mạng và có tình yêu quê hương đất nước sâu sắc.
Tình yêu quê hương đất nước được chuyển hóa từ tình yêu thương vô bờ bến với vợ con anh,
với dân làng.
Tình yêu nước ấy được thể hiện ở lòng căm thù giặc cao độ, đậm chất Tây Nguyên: Tnu mang
trong tim ba mối thù, thù của bản thân, thù của gia đình, và thù của buôn làng. Khi Tnu bị tẩm
dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và châm bùng lên là mười ngọn lửa, đây là đòn roi tra tấn
dã man nhất của kẻ thù. Chúng nhằm tiêu diệt hệ thần kinh của Tnu: Máu anh mặn chát ở đầu
lưỡi, răng anh cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên. Anh Quyết nói “Người cộng sản
không thèm kêu van”. Tnu không thèm, không thèm kêu van. Rõ ràng bom đạn có thể cày
xới, băm vằm mảnh đất hình tia chớp nhưng không bao giờ khuất phục được những con người
như thế.
Mặt khác đó cũng là biểu hiện của lòng trung thành tuyệt đối với Cách Mạng. Sự dũng cảm,
gan góc của Tnu khiến ta liên tưởng đến những câu thơ trong bài “Mùa thu mới” của Tố Hữu:
“Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!”
Khi nói đến vẻ đẹp của Tnu, người yêu văn sẽ bị ám ảnh bởi hình tượng đôi bàn tay. Nếu ai
đó đã từng đọc tiểu thuyết “Hòn Đất” của nhà văn Anh Đức chắc hẳn sẽ không thể nào quên
được vẻ đẹp của chị Sứ, người anh hùng trong cả một tập thể anh hùng ở Hang Hòm, ta sẽ
nhận thấy nhà văn miêu tả lách sâu ngòi bút để miêu tả suối tóc của chị. Suối tóc của chị là
nơi gặp gỡ giữa chị với chồng chị, giữa chị và má Sáu, là nơi gặp gỡ của chị với cái Thúy -
Con chị. Bởi vậy suối tóc chính là linh hồn của chị. Trở lại với tác phẩm “Rừng Xà nu” ta
nhận thấy Nguyễn Trung Thành sử dụng nhiều bút lực của mình để mô tả đôi bàn tay của
Tnu. Trước khi bị giặc tra tấn, đó là đôi bàn tay yêu thương, đôi bàn tay nghĩa tình. Đôi bàn
tay mà khi anh từ ngục Kon Tum trở về Mai đã nắm chặt lấy. Đôi bàn tay biết lấy đá ghì vào
đầu mình sao cho chảy máu vì không nhớ chữ, đôi bàn tay đã từng biết cầm phấn học bài…
Cũng là đôi bàn tay mà chính anh đã không thể cứu được vợ con mình dưới trận mưa gậy sắt.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
34

Sau khi bị giặc tra tấn, thì đó lại là một chứng tích của giai đoạn đau thương, của lòng sục sôi
dâng trào. “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe tiếng lửa trong lồng
ngực, cháy trong bụng”. Đôi bàn tay trở thành biểu tượng cho tất cả các dân tộc anh em, của
tình đoàn kết giữa các dân tộc chống lại kẻ thù. Là tội ác của giặc đổ xuống nhân dân Việt
Nam ta. Bởi súng đã nổ, người dân sẽ phải đổ máu, chiến tranh không phải trò đùa.
Đôi bàn tay cháy bùng lên như mười ngọn lửa, là 10 ngọn lửa đồng khởi của tất cả dân tộc
anh em đứng lên chống lại chiến tranh phi nghĩa của Mỹ. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, khi
chỉ còn lại hai ngón, đôi bàn tay ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu
của quân giải phóng. Đó cũng là quy luật của ác giả ác báo, nợ máu phải trả bằng máu.
Hình tượng Tnu điển hình cho con đường đấu tranh đến với Cách mạng của người dân Tây
Nguyên. Hơn thế nữa còn làm sáng tỏ chân lí của một thời Đại đánh Mỹ “chúng nó đã cầm
súng thì mình phải cầm giáo”. Bi kịch của Tnu khi chưa cầm vũ khí cũng là bi kịch của người
dân làng Xô Man khi chưa giác ngộ chân lí. Tnu là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng
anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung
bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và chính bản thân mình. Tnu chỉ cứu được dân làng Xô
man khi biết cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng mang ba mối thù của anh đã chứng minh
cho chân lí mà cụ Mết đã nói : “Phải dùng bạo lực Cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản Cách
mạng”.
+ Dít
Dít không phải nhân vật chính nhưng sự xuất hiện của nhân vật Dít có ý nghĩa quan trọng đối
với sự sự phát triển của mạch truyện và góp phần thể hiện nội dung chủ đề của truyện ngắn.
Dít là em gái của Mai, tuy phải trải qua nhiều đau thương mất mát nhưng ngay từ khi con nhỏ
Dít đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp và những khía cạnh anh hùng. Ngay từ khi còn nhỏ,
Dít đã tỏ ra rất gan dạ, kiên cường. Khi chứng kiến cảnh chị gái (Mai) và đứa cháu nhỏ bị giặc
giết hại dã man, dù dân làng không ai kiềm được nước mắt tiếc thương thì Dít lại bình tĩnh
đến lạ thường. Người con gái ấy câm lặng, không để cho mình rơi dù chỉ một giọt nước mắt,
đôi mắt to ráo hoảnh, dường như Dít đang cố gắng nén lại những đau thương, để ghi nhớ
những mất mát, sự tĩnh lặng bên ngoài khéo léo che giấu đi những đau đớn, lòng căm thù sôi
sục bên trong. Sự gan dạ hơn người của Dít còn được thể hiện trực tiếp thông qua tình huống
đối mặt với kẻ thù. Khi bị quân giặc đe dọa Dít không hề sợ hãi mà vẫn cố gắng bò theo máng
nước đem gạo cho cụ Mết và thanh niên. Ngay cả khi bị giặc bắt, bị tra tấn hay khi bị mang ra
làm “tấm bia sống” thì Dít vẫn nhìn chúng bằng đôi mắt bình thản đến lạ lùng. Đó là bản lĩnh
tuyệt vời của người anh hùng, hình ảnh của Dít gợi cho chúng ta liên tưởng đến những nữ anh
hùng vẻ vang một thời là bà Trưng, bà Triệu, Võ Thị Sáu…. Trong cuộc đời của mình, Dít đã
phải trải qua nhiều đau thương, mất mát khi chứng kiến chị gái, bà con bị giặc giết hại. Thế
nhưng những đau thương ấy không làm Dít gục ngã mà làm cho Dít trở nên mạnh mẽ, kiên
cường hơn. Từ rất sớm Dít đã tham gia vào cách mạng, tích cực hoạt động dẫn dắt bà con làm
cách mạng. Khi trở thành cô bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội Dít đã rất nghiêm túc,
chững chạc được nhiều người yêu mến. Dít sống tình cảm nhưng vẫn nghiêm túc và kỉ luật
trong những công việc chung, dù rất mong và nhớ T nú nhưng khi T nú về thăm làng, Dít vẫn
yêu cầu T nú trình báo giấy phép của cấp trên. Dít là tấm gương anh hùng được người dân
làng Xô Man yêu quý và tin tưởng. Trong suy nghĩ của bé Heng, chị Dít nói gì cũng đúng và
cần thực hiện nghiêm chỉnh, ta có thể thấy điều này thông qua lời nói của Heng với T nú “…
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
35

rửa chân đi, nhưng đừng uống nước lạnh, về chị Dít phê bình cho đấy”. Qua nhân vật Dít, nhà
văn Nguyễn Trung Thành không chỉ thể hiện sự yêu mến, kính trọng đối với những người phụ
nữ Tây Nguyên mà còn cho thấy vai trò to lớn của họ trong cuộc kháng chiến trường kì của
dân tộc.
+ Bé Heng
Bé Heng là một nhân vật đáng chú ý, bé Heng chính là bản sao của Tnú, mặc dù tuổi còn nhỏ
nhưng đã thông thạo đường rừng nước bước. Ngày Tnú về làng, bé Heng gọi Tnú là đồng chí
xưng là tôi và dẫn dắt Tnú đi qua biết bao nhiêu con đường với biết bao nhiêu cạm bẫy. Bé
Heng nhanh nhẹn, gan góc anh hùng giống như Tnú ngày xưa vậy. Trong tương lai không xa,
bé Heng lại trở thành một Tnú thứ hai, một cán bộ cách mạng tài giỏi.
 Giá trị nghệ thuật: Biểu hiện của tính sử thi và cảm hứng lãng mạn trong tác
phẩm (Gợi ý)
+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân VN trong cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ, số phận và con đường giải phóng của nhân dân làng Xô Man không
chỉ là vấn đề sinh tử của một ngôi làng mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
+ Hệ thống nhân vật như Cụ Mết, Tnu, Heng.. đều là những nhân vật anh hùng kết tinh cao độ
vẻ đẹp của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí là của con người Việt Nam trong
kháng chiến (yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với
Cách Mạng).
+ Không gian nghệ thuật: Rộng lớn: ban đầu là đồi xà nu, tiếp sau đó mở rộng ra là cả rừng xà
nu.
+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo– hình tượng câu xà nu thể hiện
chủ đề của thiên truyện, đem lại chất sử thi và lãng mạn bay bổng.
+ Giọng điệu: Ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân
VD: Thông qua hình ảnh những đồi xà nu trải dài bất tận cùng những con người Xô Man giàu
yêu thương, đoàn kết trong cuộc sống, kiên cường quả cảm trong chiến đấu như: Tnú, Dít nhà
văn Nguyễn Trung Thành không chỉ tái hiện đầy sinh động không khí kháng chiến dữ dội của
dân tộc trong thời kì lịch sử đặc biệt mà còn dựng lên bức tượng đài sử thi sáng chói về những
người anh hùng yêu nước đã vùng lên đấu tranh để giải phóng cho quê hương, cho đất nước,
cho dân tộc, quả đúng như nhận định: "Rừng xà nu là bản hùng ca của người Tây Nguyên".

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
36

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (NGUYỄN THI)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Thi
- Giới thiệu tác phẩm Những đứa con trong gia đình
VD: Nguyễn Thi là cây bút tiêu biểu góp phần làm nên diện mạo của văn học miền Nam giai
đoạn kháng chiến chống Mĩ. Mảnh đất, con người Nam Bộ là không gian nghệ thuật đặc biệt
trong những sáng tác của Nguyễn Thi, qua những trang văn của ông, chúng ta không chỉ sống
dậy những cảm xúc hào hùng, tự hào trước cuộc chiến đấu gian khổ mà hào hùng của dân tộc
mà còn cảm phục trước những con người bình thường nhưng mang tầm vóc ý chí phi thường.
Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi
viết về con người Nam Bộ tình cảm, yêu thương trong cuộc sống, anh hùng bất khuất trong
chiến đấu.
 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý / trích dẫn

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
37

- Giới thiệu tác giả- tác phẩm


VD: Viết về lòng yêu nước, sự chuyển giao thế hệ cầm súng để đánh giặc có lần ta bắt gặp
trong thơ Tố Hữu ở hình ảnh:
“Lớp cha trước lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành”
(Tiếng hát xuân sang)
hay Nguyễn Quang Sáng với tác phẩm “Chiếc lược ngà” với hình ảnh cô giao liên Thu nhanh
nhẹn, thông minh, vào chiến trường để vưa trả thù cho cha vừa đánh giặc cứu nước. Thì đến
với tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi tác giả đã viết về một
gia đình lớn với nét tính cách không giống nhau nhưng cùng chung một lý tưởng lớn:
“ Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ chồng ta”
Nhân vật của Nguyễn Thi hiện ra như nhũng bức chân dung rõ rệt, sống động qua bút pháp
miêu tả nhân vật điêu luyện. Đó là những người nông dân Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, nghĩa
tình, họ là những con người yêu nước nồng nàn, có lòng căm thù giặc cao độ, họ đẹp trong
chiến đấu, họ đẹp trong đời thường, họ đẹp như những dòng kênh nước bạc nơi đây. Toàn bộ
vẻ đẹp ấy được kết tinh trọn vẹn nhất ở hai nhân vật Chiến và Việt.

2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác
“Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi ra đời vào những năm mà cuộc
chiến tranh chống đế quốc Mĩ và tay sai bước vào giai đoạn gay go, ác liệt. Phần lý tưởng lớn
nhất của thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ là dâng hiến cuộc đời và tuổi thanh xuân cho sự
nghiệp cứu nước vĩ đại của dân tộc. Trong những năm tháng tàn khốc, đau thương ấy càng
mất mát thì con người Nam Bộ lại càng vùng lên chiến đấu dũng cảm. Đó là lòng yêu nước
nồng nàn, là tinh thần căm thù giặc sâu sắc, là phẩm chất kiên cường của miền Nam đã khơi
nguồn cảm hứng để Nguyễn Thi viết lên thiên truyện ngắn này.
- Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề “Những đứa con trong gia đình” không chỉ có giá trị thông báo về vị trí thế hệ của
hai nhân vật chính Việt và Chiến mà còn gợi nhiều ý nghĩa. Đó là những con người được nuôi
dưỡng và trưởng thành trong gia đình có nhiều truyền thống tốt đẹp, đáng tự hào. Họ là những
con người đã tiếp nối xứng đáng truyền thống cách mạng tốt đẹp của gia đình. Hơn thế nữa là
họ đã đi theo truyền thống yêu nước của toàn dân tộc Việt Nam. Họ là những đứa con trong
gia đình Việt Nam ruột thịt.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
38

Khẳng định, ngợi ca mối liên kết bền chặt, thiêng liêng giữa các thế hệ trong gia đình, giữa
con người với gia đình và giữa gia đình với xã hội, đất nước.
- Tình huống truyện
Truyện kể về gia đình anh giải phóng quân tên Việt. Việt được sinh ra trong một gia đình có
truyền thống cách mạng, ông nội, cha mẹ đều bị giết dưới bàn tay của kẻ thù. Chính mối thù
sâu sắc với Mĩ - Ngụy đã thôi thúc những người con trong gia đình ấy khát khao chiến đấu để
trả thù nhà, nợ nước. Trong một trận đánh, Việt bị thương, bị lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh
lại nhiều lần. Cũng giống như những lần tỉnh dậy trước, hồi ức quá khứ, hiện tại luôn đan xen
nhau. Lần tỉnh thứ 4 của Việt, kí ức về má hiện về, mấy hạt mưa làm Việt choàng tình hẳn.
Việt sợ bóng tối, sợ ma hơn là sợ giặc. Dù bị thương nhưng phân biệt rất rõ đâu là tiếng súng
nổ của ta, đâu là tiếng pháo lễnh lãng của giặc. Việt nhớ lại cảnh hai chị em tranh nhau đi
tòng quân. Việt đòi đi nhưng chị Chiến không nghe, sau đó phải nhờ chú Năm phân giải. Chú
Năm nhất trí cho cả hai đi. Trước khi lên đường, chị Chiến lo thu xếp công việc gia đình. Gửi
em Út sang chú Năm, nhà cửa gửi cho các anh trong chi bộ làm nơi dạy học, ruộng trả lại cho
xã, gởi bàn thờ má sang chỗ chú Năm. Đoạn trích kết thúc bằng hình ảnh hai chị em Việt -
Chiến khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm.
 Phân tích nhân vật Chiến và Việt
- Chung:
Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân
vật gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong
cùng huyết thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai ý chính những nét tiêu biểu đó
đã góp phần tái hiện thành công phẩm chất đáng quý của những con người quê hương Nam bộ
giàu lòng yêu nước, căm thù giặc. Trong tác phẩm này, nổi bật nhất là hai nhân vật Việt và
Chiến. Cả hai nhân vật đều xuất thân trong một gia đình, tuổi tác cũng gần nhau nhưng do đặc
điểm về giới tính và thứ bậc trong gia đình nên giữa hai người vừa có nét chung vừa có nét
riêng biệt để lại nhiều dư âm trong lòng bạn đọc. Trước hết, ở hai chị em Việt và Chiến có
những nét tính cách chung vì cùng chung huyết thống: hai chị em cùng sinh ra trong một gia
đình giàu truyền thống cách mạng. Ông Nội, chú Năm, ba má Việt, chị Hai của Việt đều là
những người cán bộ cách mạng trung kiên. Gia đình của chị em Việt được ví như một dòng
sông mà Việt và Chiến là khúc sông sau của đại gia đình cách mạng ấy. Họ đều có tình cảm
gia đình sâu nặng. Việt nhiều lần ngất đi tỉnh lại nhưng mỗi lần tỉnh lại anh lại nhớ về gia
đình. Hai chị em Chiến – Việt có chung mối thù với bọn Mỹ – Ngụy. Bởi gia đình họ phải
chịu nhiều mất mát đau thương do bọn ác ôn gây ra. Ông nội hy sinh trong chiến đấu, ba Việt
thì bị giặc chặt đầu, má Việt chết vì bom đạn của giặc. Tuy còn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thôi
thúc hai chị em cùng một ý nghĩ và có cùng nguyện vọng: “được cầm súng đánh giặc để trả
thù cho ba má”. Vì vậy, đêm ghi danh tòng quân, cả hai đều giành nhau đi bộ đội. Sau khi
được ghi tên tòng quân, tối về, cả hai chị em đều chung nhau quyết tâm đánh giặc. Đều quyết
tâm “Đi xa nhà thì ráng học chúng bạn… thù ba má chưa trả” thì không được bỏ về. Chị
Chiến thì thề thốt dữ dội hơn “Nếu giặc còn thì tao mất”. Hai chị em Chiến – Việt đều có
những nét rất ngây thơ thậm chí có phần trẻ con vì cả hai chị em chênh nhau có một tuổi nên
vẫn còn giành nhau bắt ếch nhiều hay ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến của giặc và
giành nhau ghi tên tòng quân.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
39

- Nhân vật Chiến


Nam bộ chính là miền đất điển hình của những người phụ nữ mà trong tác phẩm của mình
Nguyễn Đình Thi đã ca ngợi như : “Chị Út Tịch” trong tác phẩm “Người mẹ cầm súng”, nhân
vật Chiến trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”. Rõ ràng, Nguyễn Thi là một
trong những nhà văn thành công nhất khi viết về hình tượng người phụ nữ Nam bộ “giỏi việc
nước, đảm việc nhà” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ anh dũng, kiên cường trước kẻ thù,
nhân hậu đảm đang trong gia đình. Nhân vật Chiến cũng vậy, cô sinh ra và lớn lên trong mối
thù nhà, nợ nước: ông nội, ba má đều chết trong chiến tranh. Ba của Chiến bị kẻ thù chặt đầu,
má Chiến đã mang rổ đi đòi đầu chồng ý chính bà cũng chết khi đi lấy đầu đạn làm thuốc
súng cho du kích. Một hoàn cảnh éo le, bất hạnh khiến Chiến phải thay ba má trông nom các
em. Bởi vậy, tinh thần cách mạng, lòng căm thù giặc của Chiến lại càng mạnh mẽ hơn. Đó
cũng là tính cách điển hình của người phụ nữ Việt Nam nói chung và người phụ nữ Nam Bộ
nói riêng.
Không những vậy, Nguyễn Đình Thi còn xây dựng ở nhân vật Chiến một tính cách trẻ con,
được thể hiện như tranh đi bộ đội với em, tranh bắt ếch nhưng hơn hết cô là một người không
chỉ giỏi việc nước, là một nữ du kích có tiếng mà còn đảm đang việc nhà. Chiến cùng một lúc
đã vừa làm ba, vừa làm má để chăm lo, lấp đày khoảng trống ấy cho các em. Trong truyện
ngắn, nhân vật Chiến hiện lên với vóc dáng của một con người lao động “hai bắp tay tròn vo
xạm màu đỏ cháy nắng”. Trong kí ức của Việt, chị Chiến dường như là sự hiện thân, sự kế tục
của má. Chị Chiến cũng mang vóc dáng y như mẹ mình: “thân người to và chắc nịch”. Đã ba
lần Việt thấy chị Chiến giống mẹ, giống ở điệu bộ, cử chỉ, lời nói cách lo liệu công việc,
chính chị cũng cảm giác hòa vào với mẹ. Theo lời chú Năm, cô “không khác mẹ một chút
nào”. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ nội một việc bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia
đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng đã đủ chứng tỏ điều đó. Ở đây, hình tượng cuốn
sổ gia đình được nhắc tới nhiều lần trong truyện có ý nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé
lộ cho ta thấy ý đồ nghệ thuật của nhà văn muốn qua câu chuyện một gia đình mà đề cập
những vấn đề khái quát hơn. Hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức năng lí giải chiều sâu hành
động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi chép đủ những sự việc đáng nhớ xảy ra với gia
đình lớn của chị em Chiến – Việt, từ chuyện người nào bị giặc giết vào ngày nào đến chuyện
ai bị chúng nhục mạ ra sao. Đặc biệt, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc của các
thành viên gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mỹ trên
sông Định Thuỷ. Cuốn sổ – ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy truyền thống và sự tiếp
nối. Nó là một hình thức giáo dục lòng tự hào về truyền thống mà chú Năm rất có ý thức xây
dựng cho thế hệ con cháu.
Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em: “Tao đã
thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao
mất, vậy à!”. Ở cô, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng
em đi bộ đội, mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, “nói nghe thiệt
gọn” khiến cho chú Năm cũng phải có chút sững sờ, “nhìn hai cháu thiệt lâu” rồi nói: “Khôn !
Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non.
Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Câu nói của chú Năm thể hiện
sự yên tâm của thế hệ trước đối với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh
vác được những việc lớn của đất nước.Còn nữa, trước khi tòng quân, Chiến còn lo lắng, thu

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
40

xếp việc gia đình, Chiến nói với Việt: “năm công ruộng...mần nghen”. Có ai đời bàn thờ cũng
mang đi gửi? Ấy vậy mà trông truyện ngắn này Nguyễn Thi đã đẩy cái cùng cực, tội ác của lũ
cướp nước lên đến đỉnh điểm khi để hai chị em Chiến đem gửi chú Năm bàn thờ của ba má.
Chiến tham gia du kích từ khi còn nhỏ, mọi công lao đều có thể nhường cho em nhưng cương
quyết tranh đi tòng quân với em không phải là vì Chiến sợ em đi sẽ cướp hết công của mình
mà Chiến biết, chiến ý thức được sự tàn khốc của chiến tranh và hơn hết là tình thương dành
cho em. Chiến sợ súng đạn vô tình, sợ nguy hiểm đến với Việt, lại một lần nữa đức tính tốt
đẹp của người phụ nữ được nâng lên. Hai chị em đều là những chiến sĩ dũng cảm, tuy tuổi đều
còn nhỏ nhưng so với Việt, Chiến lớn hơn hẳn. Chiến gắn bó với lớp người đi trước nhiều
hơn. Chị có thể bỏ cả ăn để đánh vần cuốn sổ truyền thống của gia đình. Không chỉ giống má,
Chiến còn học được cả cách nói “trang trọng” của chú Năm, ví truyền thống cách mạng của
gia đình là một dòng sông và mỗi con người là một khúc sông của dòng sông ấy thì so với lớp
người đi trước, Chiến là một khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ cũng chảy được xa hơn
khúc sông trước. Đấy cũng là chỗ để Chiến khác với mẹ mình. Người mẹ trước nỗi đau mất
chồng đã không có dịp nào được cầm súng, còn Chiến đã được đi bộ đội để được đánh giặc
trả thù nhà với một quyết tâm như dao chém đá: “Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân
con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Câu nói này của Chiến
làm chúng ta nhớ đến câu nói của chị Út Tịch trong “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi:
“Còn cái lai quần cũng đánh!”
Và với ý chí đó, Chiến đã lập được chiến công lớn, bắn chìm tàu chiến địch trên sông Dịch
Thùy, trở thành một tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương tỉnh Bến Tre.
Hiện lên thật bình dị, Chiến đã để lạ nhiều xúc cảm trong lòng bạn đọc. Hình ảnh với tính
cách đặc trưng của nguòi phụ nữ Việt Nam nói chung và người phụ nữ Nam bộ nói riêng
“đảm việc nước, giỏi việc nhà” và ý chí quyết đấu của cả dân tộc Việt Nam:
“Giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh!”
- Nhân vật Việt
Nguyễn Thi đã khéo léo chọn nhân vật Việt làm điểm nhìn trần thuật cho tác phẩm này. Câu
chuyện về các thế hệ trong gia đình được kể theo dòng hồi ức của Việt khi anh bị thương, lạc
đơn vị, nằm lại một mình giữa chiến trường. Dòng tâm tư ấy cứ đứt rồi lại nối qua những lần
Việt bị ngất đi rồi tỉnh lại. Nó cho phép nhà văn đan cài các sự kiện quá khứ và hiện tại, đồng
hiện các khoảng thời gian và không gian. Qua đó, không chỉ hiện thực khách quan được nắm
bắt ở nhiều hương diện mà thế giới chủ quan cũng được soi sáng từ nhiều góc độ khác nhau.
Lối tự sự độc đáo này đã giúp nhà văn thể hiện được vẻ đẹp tự nhiên, phong phú trong tính
cách, tâm hồn nhân vật.
Việt chỉ kém chị Chiến một tuổi nhưng là con trai nên tính cách vẫn rất hồn nhiên, vô tư.
Trong các cuộc tranh giành với chị, Việt bao giờ cũng đòi phần thắng, cũng muốn chú Năm
bênh mình. Đêm ngay trước ngày lên đường đi bộ đội, Việt chỉ biết vui, chưa biết lo lắng việc
nhà. Cậu chỉ “ừ” và phó mặc hết cho chị: “Tôi nói chị tính sao cứ tính mà”. Chị Chiến bảo
viết thư cho người chị gái lớn đã lấy chồng dưới miền biển, cậu cũng ngại: “Sắp đi tới nơi mà
còn bắt viết thư”. Thấy chị thu xếp chuyện nhà chu đáo, Việt lại ngỡ hồi xưa má dặn dò chị

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
41

sẵn rồi. Trong lúc chị Chiến lo trước tính sau, Việt lúc thì “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc
nói ngang ngang “Sao không chịu?”, lại còn chụp một con đom đóm úp trong lòng tay rồi
“ngủ quên lúc nào không biết”. Nguyễn Thi đã miêu tả thật tài tình cái vẻ vô tư của một cậu
con trai lộc ngộc “ăn chưa no, lo chưa tới”, nhất là khi cậu ta có mội người chị gái đảm đang,
tháo vát.
Đi đánh giặc, Việt nhỏ tuổi nhất tiểu đội nên được anh em coi là cậu út. Cậu lén mang theo cả
chiếc ná thun ra trận. Một mình giữa chiến trường, khi đêm xuống, Việt không sợ giặc, không
sợ chết nhưng lại sợ những bóng ma đang hiện về đâu đó: “Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo
bao trùm lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng
chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vòm sông, cái mà Việt vẫn nghe
các chị nói hồi ở nhà”. Lúc thì Việt ước được gặp má, được trở lại làm đứa con bé bỏng để má
yêu chiều: “má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng
để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn”. Lúc thì Việt muốn chạy trốn khỏi bóng tối và sự im ắng
đáng sợ kia để tìm anh Tánh “níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng em út ở nhà vẫn níu
chân chị Chiến”. Thậm chí, Việt hình dung về cái chết đúng kiểu trẻ con: chết có phải là một
người thì nằm đó, còn một người thì biến lên nóc nhà? Lúc cận kề bên cái chết, cậu lại thèm
được làm nũng chị “má áp vào báng sung như gối đầu trên tay chị”. Gặp lại anh Tánh và đồng
đội, Việt khóc đó, cười đó chẳng khác gì em út trong nhà. Những nét hồn nhiên, thơ ngây ấy
khiến cho hình ảnh Việt trở nên gần gũi, thân thuộc, dễ mang lại thiện cảm với người đọc. Và
có lẽ đó còn là cái nền để nhà văn tô đậm tính cách anh hùng của chàng trai chưa hai mươi ấy.
Khi đối diện với những vấn đề thiêng liêng, trọng đại của gia đình, quê hương, Việt không hề
non nớt, vô tư. Trái lại, cậu cảm nhận một cách sâu sắc tâm tư, tình cảm của những người
thân và luôn có ý thức về trách nhiệm của một đứa con với truyền thống gia đình. Việt không
chỉ gắn bó, yêu thương mà còn rất hiểu má, hiểu chú Năm. Má thường xuyên hiện về trong kí
ức của Việt với bao nỗi vất vả, cực nhọc và lòng cản đảm phi thường. Má lặng lẽ vượt lên
những mất mát, đau thương dữ dội của gia đình, để nuôi con và góp phần vào cuộc chiến đấu.
Việt cũng hiểu niềm trông đợi thầm lặng mà tha thiết, cháy bỏng của người mẹ: “Má trông
ngày trông đêm cho con mau lớn”. Đêm trước ngày ra trận, Việt mường tượng như má đã về
đâu đây: “Má biến theo ánh đom đó trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà
cầm nón quạt? Đêm nay dễ gì má vắng mặt, má cũng phải về dòm ngó coi chị em Việt tính
toán việc nhà làm sao chớ?”. Việt cảm nhân được tấm lòng yêu thương thầm lặng mà sâu sắc
của chú Năm qua việc chú nâng niu cuốn sổ gia đình. Nghe tiếng hò, Việt đón nhận được lời
nhắn gửi chú dành cho những đứa cháu sắp lên đường giết giặc: “Câu hò nổi lên giữa ban
ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ảnh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một
vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội”. Việt đã mang theo giọng
hò ấy ra trận, đã nhớ về nó trong những khoảnh khắc khó khăn nhất của người lính.
Sự trưởng thành của Việt thể hiện ngay trong hành động tưởng như bồng bột của tuổi trẻ:
giành nhau với chị Chiến đi bộ đội. Nguyên nhân thôi thúc Việt chính là tình thương yêu với
ba má, ý thức trách nhiệm với truyền thóng cách mạng của gia đình. Khi chị Chiến ngăn
không cho Việt đi tòng quân, cậu nóng nảy “đá trái dừa rụng xuống mương cái đùng” mà căn
vặn chị: “Bộ mình chị biết đi trả thù à?”. Bới vì, đối với Việt, cầm súng đánh giặc trước hết là
thực hiện ước nguyện của má: “Dường như cả cuộc đời vất vả của má… cả những nguy hiểm
gian lao mà má đã trải qua một cách không hề sợ hãi đó, tất cả đều được gom lại và dồn vào

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
42

trong ý nghĩ cuối cùng này”. Đó cũng là trách nhiệm cuối cùng nối tiếp dòng sông truyền
thống mà các thế hệ ông cha đã khơi nguồn. Sáng ngày lên đường, chàn trai trẻ ấy như đã lớn
bổng lên khi cùng chị khiêng bàn thờ ba má đi gửi. Lần đầu tiên, Việt thấy được lòng mình rõ
ràng trong tình yêu thương chị Chiến một cách lạ lùng và “mối thù thằng Mỹ thì có thể rờ
thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Hơn bao giờ hết, Việt cảm nhận được những bước
chân của hai chị em trên con đường mà má đã đi. Đó không chỉ là con đường ngang qua lối
xóm “thoảng mùi hoa cam” mà còn là con đường chiến đấu “hồi trước má vẫn đi”.
Phẩm chất anh hùng ở Việt cũng được biểu lộ một cách hồn nhiên, tự nhiên như bản tính của
chàng trai này. Vào bộ đội, Việt là “cậu Tư” được các anh cưng chiều nhưng đã chiến đấu rất
dũng cảm, lập được nhiều chiến công. Chàng tân binh ấy đã thật kiên cường khi đối mặt với
những thử thách lớn. Bị thương nặng, hai mắt không còn nhìn thấy, chân không thể đi nổi, lạc
đơn vị, nằm lại một mình giữa chiền trường nhưng Việt không hề sợ hãi. Nghe tiếng súng
giặc vây bốn bề, cậu vẫn nghĩ: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có
mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày… Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối
với tao thì mày là thằng chạy”. Với Việt, chúng chỉ là những kẻ tàn bạo mà hèn nhát. Bất chấp
những đau đớn trên thân thể, vượt lên cảm giác chỉ có một mình, Việt hướng về nơi có tiếng
súng của đồng đội. Suốt ba ngày trải qua cái đau, cái đói và kề bên cái chết, Việt vẫn cầm
chắc cây súng. Ngay cả lúc kiệt sức, ngón tay chỉ còn hơi nhúc nhích, Việt vẫn không rời vũ
khí, vẫn sẵn sàng trong tư thế chiến đấu: “Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên
nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng”. Lúc tìm được Việt, nếu anh Tánh không nhanh
miệng lên tiếng, thì chắc sẽ “ăn đạn của cậu Tư rồi”.
Điều thú vị là Nguyễn Thi không chỉ miêu tả, ngợi ca mà còn giúp người đọc nhìn thấy được
ngọn nguồn của tính cách anh hùng trong con người Việt. Nó được hình thành, nuôi dưỡng
trong truyền thống, nề nếp gia đình. Ba má, bác Hai, chú Năm, chị Chiến – những người đang
sống và cả những người đã khuất luôn ở bên Việt, là điểm tựa và nguồn sức mạnh tinh thần to
lớn cho Việt. Khi nằm giữa chiến trường còn mù mịt khói lửa và ngổn ngang xác giặc, trong
dòng ý nghĩ của Việt lúc nào cũng thấy hiện lên hình ảnh của những người thân trong gia
đình, những kỉ niệm tuổi thơ. Có kỉ niệm êm đềm của những ngày sống trong vòng tay của
má, có kỉ niệm đau thương và dữ dội khi gia đình phải chịu những tổn thất lớn lao. Nhưng dù
là niềm vui hay nỗi buồn thì điều quan trọng nhất vẫn là tình cảm gắn bó, yêu thương, tự hào
của Việt về gia đình. Nó thôi thúc Việt lên đường chiến đấu trả thù nhà, nợ nước. Ra trận,
Việt muốn giết thêm nhiều tên giặc, vì với cậu, đó là cách “tính đếm” tình thương dành cho
má. Niềm yêu thương và ý thức tiếp nối truyền thống cách mạng của gia đình chính là cội
nguồn làm nên sức mạnh của Việt.
Có thể nói, trong dòng sông gia đình, Việt là “khúc sông” chảy được xa nhất. Chưa đầy hai
mươi tuổi, Việt đã lập được nhiều chiến công, có thể vững vàng, mạnh mẽ trước những thử
thách lớn. Người thanh niên sớm trưởng thành trong hoàn cảnh gia đình, quê hương phải trải
qua nhiều mất mát, hy sinh ấy đã trở thành biểu tượng cho thế hệ trẻ Nam Bộ thời chống Mỹ.
Họ đã tiếp nối một cách xứng đáng truyền thống cách mạng của các thế hệ cha anh, góp phần
to lớn vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
 Giá trị nghệ thuật

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
43

Với “Những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Thi đã triển khai một kĩ thuật tự sự vượt xa các
truyện ngắn đã có. Về mặt kết cấu, tác phẩm đã lắp ghép những đoạn hồi ức rời rạc trong
trạng thái nửa tỉnh nửa mê của nhân vật với những đoạn cảm nhận về thực tại. Vì thế, các chi
tiết trong cốt truyện không xuất hiện tuần tự theo trình tự thời gian. Thời gian thực tế và thời
gian được tái hiện lại nhờ hồi ức đan xen lẫn nhau, không gian thực tế và không gian hồi ức
cũng vậy. Nhân vật được chiếu rọi từ các tầng phức tạp trong vô thức, tiềm thức kết hợp với
nhận thức và hành động. Vì thế đời sống tâm lí được tái hiện sinh động với cả những quá
trình, những hiện tượng liên quan chặt chẽ và chi phối lẫn nhau.
- Nghệ thuật trần thuật
+ Truyện kể theo điểm nhìn và giọng điệu của nhân vật
 Tác dụng:
+ Câu chuyện đứt nối nhưng lại hợp lý
+ Câu chuyện được kể tự nhiên và chân thực
+ Câu chuyện giàu tình cảm.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Nhân vật được khắc họa qua ngôn ngữ đối thoại và diễn biến tâm lí
+ Tính cách nhân vật đậm màu sắc Nam Bộ
+ Ngôn ngữ giàu sắc thái địa phương.
- Ngôn ngữ kể mang sắc thái Nam Bộ.
+ Ngôn ngữ đối thoại sử dụng các phương ngữ.
+ Lời nói và suy nghĩ thẳng thắn, bộc trực, giàu tình cảm.
 Mở rộng: Khuynh hướng sử thi trong “Những đứa con trong gia đình” và “Rừng
xà nu”
Trong hai tác phẩm Rừng Xà nu của Nguyễn Trung Thành và Những đứa con trong
gia đình của Nguyễn Thi, khuynh hướng sử thi thể hiện trước hết là ở đề tài sáng tác.
+ Nguyễn Trung Thành viết về câu chuyện của một ngôi làng người dân tộc-làng Xô man.
Cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm là hình tượng cây Xà nu. Tác giả đã lấy ngọn đồi Xà nu
làm biểu tượng cho những con người làng Xô man anh dũng kiên cường trước bom đạn của
giặc Mỹ. Ông viết chuyện về một ngôi làng nhưng qua đó đã nói lên cuộc kháng chiến trường
kì của cả dân tộc. Màu sắc sử thi chi phối toàn bộ tác phẩm, biến câu chuyện riêng thành câu
chuyện chung mà qua đó người đọc phần nào hình dung được tính ác liệt, những tổn thất về
người và của cùng một ý chí kiên cường, tấm lòng yêu nước nồng nàn, trung thành với Cách
Mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
+ Những đứa con trong gia đình lại là câu chuyện khác về một gia đình Nam Bộ giàu truyền
thống Cách Mạng. Giống như vùng Tây Nguyên, Nam Bộ cũng là nơi diễn ra cuộc chiến
chống Mỹ ác liệt. Câu chuyện xoay quanh các thành viên trong một gia đình có truyền thống

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
44

yêu nước, căm thù giặc. Qua Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi đã vẽ nên một bức
tranh chân thật về cuộc kháng chiến chống Mỹ và số phận của những người con trong gia
đình Cách Mạng. Câu chuyện tuy riêng mà mang một tinh thần chung ý chính điều này đã
mang tới màu sắc sử thi cho tác phẩm.
Bên cạnh lối chọn đề tài, cách xây dựng nhân vật cũng góp phần thành công cho hai
tác phẩm
+ Trong Rừng Xà nu, Nguyễn Trung Thành vẽ nên hình tượng Tnú là một anh hùng Cách
Mạng chân chính. Tnú không còn là một nhân vật cá biệt mà đã là hình tượng, đại diện cho
các anh hùng chiến sĩ Việt Nam. Tnú hiện lên với nhiều mất mát cả về tâm hồn và thể xác
nhưng trên hết là tinh thần chiến đấu kiên cường, là một nhân cách, một bản lĩnh mà ai ai
cũng phải ngưỡng mộ. Phẩm chất đáng quý ấy đã được cụ Mết nhận định: “Đời nó khổ,
nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta” Anh đã trở thành một nhân vật oai hùng như thần
thoại, mang đầy đủ tinh hoa của tinh thần dân tộc.
+ Việt và Chiến cũng là những anh hùng trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.
Việt và Chiến là những con người, những thanh niên đại diện cho tuổi trẻ Việt Nam thời
kháng chiến.
Không chỉ ở hình tượng những người anh hùng mà cả mối quan hệ giữa họ với quần
chúng đã góp phần làm nên chất sử thi cho hai tác phẩm.
+ Dưới ngòi bút của Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành, truyện ngắn không chỉ khắc họa
hình ảnh người anh hùng mà còn là bức tranh về một tập thể, một cộng đồng, một dân tộc
Việt Nam anh hùng.
Tính sử thi trong hai tác phẩm còn được thể hiện rõ qua ngôn ngữ kể chuyện đầy hào
hùng và mạnh mẽ, dứt khoát.
+ Nguyễn Trung Thành tả ngọn đồi xà nu với một quy mô hoành tráng, cường đại. Nguyễn
Thi cũng ưu ái miêu tả hai nhân vật Việt Chiến thành những anh hùng lý tưởng qua các lời
thoại sục sôi ý chí của nhân vật. Phương thức miêu tả và cách sử dụng từ ngữ mạnh mẽ, dứt
khoát đã góp phần làm tăng chất sử thi cho hai tác phẩm.
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân
VD: Những năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biến động nhưng “Những đứa con trong
gia đình” mãi là bông hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày tháng đã ghi lại quá khứ hào
hùng, sôi động của đất nước mình một thuở. Vẻ đẹp con người Việt Nam đã làm nên cái hồn
của cả dân tộc và góp phần làm cho tác phẩm còn sống mãi với thời gian. Văn học thời kì
chống Mĩ cứu nước đã bắt được nhịp sống của dân tộc, đã ngợi ca sức sống và vẻ đẹp của con
người Việt Nam. Giờ lật lại, chúng ta không khỏi tự hào, xúc động về những năm tháng đất
nước nước mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời của người con đất Việt. Và ta mãi cất lên
những bài ca không quên – bài ca viết về quê hương, viết về con người bởi tự hào biết mấy
hai tiếng: Việt Nam.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
45

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (NGUYỄN MINH CHÂU)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Minh Châu
- Giới thiệu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
VD: Nguyễn Minh Châu là một người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, tha thiết kiếm tìm
“hạt ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm hồn con người”. Trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu
được biết với những tác phẩm đậm chất sử thi như: “Cửa sông”, “Miền cháy”, “ Dấu chân
người lính”. Thế nhưng, sau 1975, chính Nguyễn Minh Châu lại là người đi đầu trong công
cuộc đổi mới văn học. “ Chiếc thuyền ngoài xa” được in năm 1983 là một bước dài đáng trân
trọng trong hành trình khám phá vào tầng chìm, vào chiều sâu của cuộc sống và con người
của văn xuôi Nguyễn Minh Châu.

 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý/ trích dẫn

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
46

- Giới thiệu tác giả- tác phẩm


VD: Nhà văn Nguyễn Minh Châu được mệnh danh là vị khai quốc công thần của triều đại văn
học mới, là “người mở đường tinh anh và tài năng”. Sinh thời, ông từng quan niệm rằng:
“Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con
người”. Nếu trước năm 1975, nhà văn đi tìm hạt ngọc ấy trong chất sử thi anh hùng với những
tác phẩm tên tuổi như“Mảnh trăng cuối rừng”, “Dấu chân người lính”, “Cửa sông”,…thì
sau năm 1975, bằng tâm huyết và tài năng, bằng khát vọng sáng tạo chân chính và bản lĩnh
dũng cảm, ông vẫn tiếp tục hành trình tìm kiếm không ngừng nghỉcủa mình về cảm hứng thế
sự với những vấn đề về đạo đức, nhân sinh, để từ đó khám phá ra vẻ đẹp của những “hạt ngọc
ẩn giấu” trong những con người đời thường lam lũ, nhọc nhằn. Và truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa” là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện tài năng và tấm lòng của Nguyễn Minh Châu –
một người nghệ sĩ mang trong mình mối quan hoài sâu sắc trước những vấn đề của đời sống,
của con người. “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa
dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”. Vì vậy,
văn chương không chỉ được tạo nên bởi sự mĩ miều với những giá trị tuyệt đích mà phải là
những tác phẩm mang đến cho người đọc một nội dung ý nghĩa có tính thông điệp, và hơn hết
phải làm rung động hàng triệu tâm hồn, có chỗ đứng qua thời gian và năm tháng. Điều này
đòi hỏi ở các văn nhân sự chú trọng khai thác mọi khía cạnh và phản ánh cuộc sống đa chiều,
muôn màu muôn vẻ, từ đó khơi sâu và làm hiện lên cả những góc khuất của đời sống xã hội,
của bản chất con người, hơn thế là làm nổi bật những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn con
người, mang một niềm tin cao cả, hướng người tiếp nhận tới những chân – thiện – mĩ, những
chân giá trị đích thực.. Và “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là một minh chứng rõ nét, tiêu biểu
cho tất cả những điều ấy.

2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê(1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung
cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987)
Truyện in đậm phong cách tự sự- triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp
cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
- Ý nghĩa nhan đề
- Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thuật, là thứ nghệ thuật đạt tới sự
hoàn Mỹ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình
được thanh lọc
- Chiếc thuyền khi vào gần thì đó chính là hiện thực, là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó
nhọc, thậm chí là của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
- Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng hiện thực thì lại ở rất gần. Đó chính
là quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Người nghệ sĩ cần có những khoảng cách
nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thuật nhưng cũng cần bám
sát vào hiện thực cuộc sống để có thể phát hiện ra những sự thật.
=> Vậy nên, có thể nói hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật
hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
47

đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn muốn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản
sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng
con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu
muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với
đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.
Ý tưởng này ta đã từng bắt gặp trong thơ ca của Tố Hữu
“Nhân dân là bể, văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy, sóng đẩy thuyền lên”

- Tình huống truyện


Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh , truyện ngắn
"Chiếc thuyền ngoài xa" mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm:
+ Cần có một cái nhìn đa diện, nhiều chiều để có thể phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên
ngoài của hiện tượng.
+ Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: Nghệ thuật phải gắn với cuộc đời- " NT vị nhân
sinh"
 Phân tích
- Hai phát hiện của nhà báo Phùng
+ Cảnh “đắt” trời cho
Sự tự nhận thức đầu tiên có lẽ bắt nguồn từ anh chàng nhiếp ảnh gia tên Phùng. Anh được cấp
trên giap cho nhiệm vụ chụp ảnh cảnh biển vào buổi sớm, thực chất chính tác giả Nguyễn
Minh Châu cũng là một người con của miền biển nên câu chuyện của ông được kể và miêu tả
khá sinh động, chi tiết và có phần mặn mòi. Hiện thực của “Chiếc thuyền ngoài xa” không
phải bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa ghi lại tội ác kẻ thù cũng như bao
chiến công lừng lẫy từng đi vào lịch sử. Sau bao nhiêu ngày trở về chiến trường xưa, lang
thang ở bãi xe tăng hỏng, Phùng đã phát hiện ra vẻ đẹp của bức tranh thời cổ mà anh chụp
được, đó chính là hình ảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang được tưới thẫm lên bằng màu của
sương khói. Đó là một bức ảnh “đắt” như được ông trời ban cho vậy. Bức ảnh mang nét tráng
lệ thời cổ “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe
nhòe vào mầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum”.
Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét cho đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn
giản mà toàn bích”. Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hóa công, người nghệ
sĩ trở nên bối rối, và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Bức ảnh đã khiến cho tâm
hồn người nghệ sĩ rung động, cảm xúc thẩm mỹ đang cháy lên trong lòng anh. Chưa hết,
trong giây lát, người nghệ sĩ còn “Khám phá thấy cái chân lí cựa toàn thiện, khám phá thấy
cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nguyễn Tuân đã từng nói “Cái đẹp cảm hóa lòng
người” và cũng không phải ngẫu nhiên, ông được mệnh danh là một người cả đời đi tìm cái
đẹp. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, anh đã cảm thấy cái Chân, cái
thiện của cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ như được gột rửa, trong trẻo, tinh khôi. Phùng bấm
liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim để có thể thu lại khoảnh khắc tuyệt đỉnh của
chiếc thuyền ngoài xa.
+ Bức tranh cuộc sống đầy nghịch lý
Tất cả những hình ảnh tuyệt vời ấy có lẽ sẽ không bị phá vỡ và Phùng có lẽ cũng sẽ không
kinh ngạc khi con thuyền trở vào gần bờ và bắt đầu xuất hiện những tiếng quát tháo. Bước ra

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
48

từ chiếc thuyền Ngư phủ đẹp như mơ ấy là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi “Người đàn bà
trạc ngoài bốn mươi,. . cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụn rỗ mặt…” và người đàn
ông to lớn dữ dằn “Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi
chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy
vẻ độc dữ..”. Một cảnh tượng thật tàn nhẫn: Gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo “trút cơn
giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, vừa
đánh lão vừa thở hồng hộng, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi lần quất xuống lão lại
nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi
cho ông nhờ!”“ Mâu thuẫn được đẩy lên rõ nét khi người đàn bà kia bị đánh mà không hề
chạy trốn, cũng không kêu van nửa lời. Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy
hai cái bạt tai ngã dúi xuống cát. Ta nhận thấy đứa con trong gia đình này được miêu tả chẳng
khác nào một viên đạn, nó đập vào hình ảnh của người cha và đâm xuyên qua trái tim của
người mẹ. Ta đã nhận ra khoảng lặng của tác phẩm khi thấy sự trăng trở của người nghệ sĩ.
Có lẽ ít ai hình dung và tưởng tượng được rằng không hiểu sao cảnh tượng phũ phàng ấy lại
xảy ra khi con người ta đang xây dựng cuộc sống mới trong thời đại mới, thời đại mà Tố Hữu
đã từng viết : “Người yêu người, sống để yêu nhau”
Nhiếp ảnh gia Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến
mức trong mấy phút đầu tối cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như chết lặng.
Những điều bất công xảy ra trước mắt người chiến sĩ từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng
đất nước, giải phóng con người đã bùng lên một cơn giận dữ. Bản thân anh nghĩ về người đàn
ông kia là một kẻ độc ác, tàn nhẫn nhất thế gian, còn người đàn ba kia là nạn nhân đáng
thương nhất trong nạn bạo hành gia đình. Sở dĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể
ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa kia lại có cái ác, cái xấu đến mức không thể
tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, là cái
“toàn thiện” của cuộc đời. Phùng xót xa khi nhận thấy cái xấu xa, ngang trái, bi kịch trong gia
đình người dân chài đã làm cho bức ảnh của anh chụp được như nhuốm màu đau thương ghê
sợ! Chao ôi ! Nghệ thuật không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai mà
che đi nỗi đau thương ghê rợn, khiếp người kia.
 Qua hai phát hiện của Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn người đọc nhận thức mối
quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật không nên chỉ dừng lại ở vẻ đẹp
ngoài, nhất là cái tuyệt vời thơ mộng, mà còn phải nhìn vào bề sâu, bề sâu của cuộc
đời không hề đơn giản, mà tâm điểm chính là số phận con người đa đoan, với mọi
nhọc nhằn và khổ đau, không hiếm những ngang trái bi kịch. Cuộc đời đâu phải chỉ
toàn màu hồng, cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, mà còn chứa đựng nhiều nghịch
lí. Cuộc sống luôn luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn giữa đẹp – xấu,
thiện –ác,… Vì thế mà nhà văn có dụng ý khi để cảnh tượng “trời cho” hiện ra trước
mắt như là vỏ bọc bên ngoài để hòng che giấu bản chất thực của đời sống bên trong.
Nhà văn khẳng định : Đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên
ngoài và nội dung bên trong vì không phải bao giờ chúng cũng thống nhất. Đừng vội
đánh giá con người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ
đẹp của nó. Bởi xuất phát của văn chương và đích đến của nó là cuộc đời con người.
Từ đó ta còn thấy được Nguyễn Minh Châu muốn nhắn gửi đến những người cầm bút
viết văn chân chính, nhiệm vụ của họ là phải kéo nghệ thuật ở ngoài xa kia để nó lại
gần hơn với cuộc sống. Và không phải ngẫu nhiên chính ông đã từng nói rằng : “Văn
chương và cuộc sống là những vòng tròn đồng tâm, tâm của nó chính là con người”
- Hình ảnh người đàn bà làng chài
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã xây dựng hình ảnh người đàn bà hàng chài hiện lên là một
nạn nhân khốn khổ của bạo hành gia đình. Đó là một người đàn bà không tên, lẫn vào trong
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
49

đám đông vất vả, lam lũ, khốn khổ của đời sống hiện thực, một con người không hề cá biệt,
một cuộc đời tiêu biểu cho nhiều cuộc đời khác. “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân
hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch” với khuôn mặt
rỗ đầy mệt mỏi. Chân dung người đàn bà hàng chài là một chân dung rất khác với các nhân
vật nữ trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1980. Những người phụ nữ
trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu nhìn chung thường mang vẻ đẹp thánh thiện, trong
sáng. Đó là Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng”, là Quỳ trong “Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành”,… Bước vào thế giới ấy, chân dung người đàn bà hàng chài là một dị biệt. Chị
vốn dĩ đã không đẹp ngay từ nhỏ, lại phải chịu di chứng của trận đậu mùa với vô vàn nốt rỗ
trên gương mặt xấu xí. Ngoại hình ấy còn tiều tuỵ thêm vì cuộc sống lam lũ, vất vả, phải đối
mặt với phong ba bão táp hàng ngày trong khi họ chỉ có một con thuyền nghèo túng, chật chội
mãi thêm vì đàn con ngày một đông đúc. Không chỉ có vậy, người đàn bà ấy còn phải chịu
đực những trận đòn thô bạo như cơm bữa của lão đàn ông hàng chài độc dữ. Tất cả những nét
chân dung ấy đã hé mở cho người đọc về một cuộc sống nghèo đói, lam lũ, một thân phận đàn
bà khốn khổ, nhọc nhằn.
Không chỉ qua nét chân dung về ngoại hình, nhà văn Nguyễn Minh Châu còn khắc hoạ nỗi
đau của người đàn bà hàng chài qua hành động, cử chỉ của chị khi bị chồng đánh. Trước
những trận đòn trời giáng của người chồng, người đàn bà không hề kêu than, không hề chạy
trốn, cũng không hề chống trả mà chỉ quỳ xuống cầu xin. Phải chăng vì đòn roi nhiều quá,
phải chịu đựng nhiều quá khiến chị u mê, hay phải chăng do thất học mà chị không hiểu
quyền sống của mỗi người? Với chồng là vậy, còn với con, chị cũng có những hành động thật
trái với lẽ thường: “người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại
buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Tâm trạng của người đàn bà hàng chài
được thể hiện rõ nhất qua “những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”.
Dòng nước mắt ấy như được chắt ra từ những vết thương đau đớn trong tâm hồn chị, đó là
những giọt tủi thân, tủi phận. Chỉ khi khóc, chị mới thấm thía cả nỗi đau về thể xác lẫn tinh
thần.
Mặc dù là một nạn nhân khốn khổ của nạn bạo hành gia đình nhưng thực chất, ẩn sâu bên
trong vẻ bề ngoài xấu xí ấy là một người phụ nữ trải đời sâu sắc, giàu lòng vị thi và đức hi
sinh. Đó chính là một “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” được nhà văn khám
phá qua hành trình nhận thức của Phùng và Đẩu.
- Câu chuyện ở tòa báo huyện
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là một người có lòng tốt, không thể chấp nhận những bất công
nhưng anh đã quá đơn giản khi nhìn nhận cuộc sống để rồi đi đến tình huống vỡ lẽ thứ hai
trong tác phẩm này. Chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập dã man không lí do
như thế, nghệ sĩ Phùng đã đánh nhau với gã chồng để bảo vệ chị ta, để rồi bị thương, vết
thương trên mặt đã lên da non nhưng vẫn sẽ để lại những dấu tích. Người đàn bà bị mời đến
tòa án huyện để giải quyết công việc gia đình, từ đây đã có một cuộc tranh luận giữa ba người
là Phùng, Người đàn bà và Chánh án Đẩu. Được mời đến tòa án huyện lần này là lần thứ hai,
“chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở chỗ chốn công đường để ngồi”, tuy không phải lần đầu
nhưng chị ta có vẻ rất sợ sệt và lúng túng, “Dáng vẻ thì nhấp nhổm, mụ xoay người trên ghế
như bị kiến đốt”, cái sợ sệt mà ta không hề thấy có khi chị ta bị chồng đánh ở bãi xe tăng. Chị
thấy sợ hãi khi phải đối diện với một không gian lạ, chị ta thật tội nghiệp, cái dáng vẻ ngồi
“nép vào mép ghế” và cố “thu người lại”, để có thể tự về dù Đẩu đã nói những lời rất thân
mật, chia sẻ và cảm thông. Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ
và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi nói chuyện và tiếp xúc với chánh án

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
50

Đẩu, chị còn xưng “Con” với “quý tòa” có lúc đã van xin “Con lạy quý tòa, quý tòa bắt tội
con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện,
đang cúi gục mặt bỗng người đàn bà hàng chái ngẩng lên, nhìn thẳng và lại đổi cách xưng hô
thành “chị’” và “các chú”. “chị cảm ơn các chú…Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là
người làm ăn… cho nên các chú đâu hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc”
Cái vẻ sợ sệt cũng không còn, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho Phùng và Đẩu hết sức
ngạc nhiên. Người đàn bà hàng chài đó không hề đơn giản như Phùng và Đẩu nghĩ. Mới bước
vào cuộc tranh luận thì ta nhận thấy nhân vật người đàn bà hàng chài có vẻ đáng trách, rung
túng cho bạo lực gia đình diễn ra một cách thường xuyên “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày
một trận nặng. Cả nước ta không có người nào như hắn”. Thế nhưng đọc kĩ và ngẫm nghĩ lại
thì đó lại là những điều mà Phùng và Đẩu phải vỡ lẽ ra. Đẩu vốn là một chánh án, được mệnh
danh là Bao công phố huyện vùng biển, là người có kiến thức về luật pháp còn Phùng là
người hiểu biết về nghệ thuật, chuyên săn lùng cái đẹp vậy mà cũng đã bị người đàn bà thuyết
phục hoàn toàn. Mặc dù là một nạn nhân khốn khổ của nạn bạo hành gia đình nhưng thực
chất, ẩn sâu bên trong vẻ bề ngoài xấu xí ấy là một người phụ nữ trải đời sâu sắc, giàu lòng vị
thi và đức hi sinh. Đó chính là một “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” được
nhà văn khám phá qua hành trình nhận thức của Phùng và Đẩu. Đến tận cùng nỗi đau, thế
nhưng, khi được quyền lựa chọn giải thoát khỏi số kiếp ấy, chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người
đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột. Thế nhưng, sau những lời
tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Cái nhìn của
người đàn bà hàng chài như lời minh oan cho lão đàn ông, rằng lão cũng là một nạn nhân, một
số phận khốn khổ khác. Bản tính của lão không xấu, lão hiền lành, chất phác, nhưng cái
nghèo đã khiến lão trở thành một con người vũ phu, cộc cằn. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu
lẽ đời, thấu hiểu lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ
rằng người phụ nữ thân gái dặm trường cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con
cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Những con người lênh đênh bốn bề là nước, họ
vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu
cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho môt người phụ nữ.
Đối với con cái, người đàn bà tự nhận thiên chức của mình là sinh ra để đẻ con, nuôi con.
Người đọc dường như hiểu vì sao người đàn bà phải gửi thằng Phác lên bờ. Chị gửi con đi,
một phần vì đói nghèo, phần nhiều vì đó là đứa chị yêu thương nhất trong đàn con của mình.
Chị gửi con đi vì mơ hồ nhìn thấy trước tai hoạ, rằng nếu cứ để nó trên thuyền thì những điều
tồi tệ nhất cũng có thể xảy ra. Hơn nữa, chị không muốn làm tổn thương con, không muốn
con mang những ấn tượng xấu về gia đình, về người cha, không muốn điều gì ảnh hưởng đến
việc hình thành nhân cách của con. Với chị, niềm vui nhỏ bé nhà được nhìn đàn con ăn no, dù
cho mình có bị đánh đập tàn nhẫn đến thế nào, chị vẫn cam chịu. Dù chân dung ngoại hình có
khác với những nhân vật nữ trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng
chài vẫn là người phụ nữ muôn thuở mang vẻ đẹp mẫu tính sâu đậm. Đó là người sinh ra với
thiên chức của người mẹ.
Người đàn bà hàng chài với lời lẽ thuyết phục ấy đã lộ ra cái sắc sảo của mình, người đàn bà
không tên này càng ngày càng thể hiện mình là một người từng trải, hiểu biết về cuộc sống.
Thì ra, cái nghề hài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênh không thể thiếu bàn tay, sức
lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại mà làm
quần quật để nuôi một đàn con mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa ý chính người đàn bà còn
khẳng định người chồng của chị ta vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”,
nhưng chỉ vì hoàn cảnh khắc nghiệt, đói nghèo mà anh ta trở nên vũ phu, tàn nhẫn và ích kỉ.
Đó là cả một câu chuyện về kế sinh nhai, về những người làm ăn lam lũ khó nhọc.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
51

Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình của người đàn bà hàng chài, người đàn bà khẳng định
chị ta sống cho những đứa con chứ không phải cho mình. Ở đây lẽ đời đã chiến thắng, Người
lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con,
thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ uy quyền có sức công phá lớn. Nó đã làm cho nghệ sĩ Phùng
và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều, nhận ra nỗi nhọc nhằn vất vả của cư dân vùng biển, Nhận ra mối
quan hệ giữa bản chất và hiện tượng bên ngoài, cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận
nghịch cảnh, những ngang trái và người đàn bà không chịu đòn roi một cách vô lí. Cả Đẩu và
Phùng đều chua chát nhận ra rằng : Trên thuyền cần có một người đàn ông… dù hắn có man
rợ, tàn bạo, thì vẫn cần có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp. Và
cái bản chất ở đây là cuộc sống sinh nhai, không thể một mực áp dụng luật pháp, kiến thức
sách vở được mà đôi khi đó phải là những sự trải nghiệm và hiện thực cuộc sống phản ánh lại.
Họ còn nhận thức được rằng, với người phụ nữ, với người đàn bà kia họ vẫn luôn tìm thấy
cho mình niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống còn đầy rẫy những khó khăn,
vẫn luôn tin vào một sự lạc quan và tình yêu cuộc sống. Hành trình kiếm tìm hạnh phúc với
họ không đơn giản nhưng họ vẫn thấy hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con của mình được
ăn no. Tình yêu thương gia đình của người đàn bà đã khiến cho “Một cái gì mới vừa vỡ ra
trong đầu vị bao công phố huyện vùng biển này”. Đó là sự vỡ lẽ về quan niệm tình yêu, hạnh
phúc, lòng nhân ái và sự khoan dung mang giá trị nhân bản sâu sắc. Bước ra khỏi cuộc chiến
tranh, không còn phải đương đầu với quân xâm lược nhưng người Việt Nam lúc bấy giờ cần
phải tổ chức lại nhịp sống của mình, khôi phục lại kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh,
đây không phải công việc có thể thực hiện một sớm một chiều. Dù là một người đàn bà ít học,
suốt ngày lênh đênh trên biển, chỉ là một nhân vật luận đề am hiểu về cuộc sống cũng khiến
cho Phùng và Đẩu vỡ lẽ. Ta biết rằng lí thuyết sách vở luôn đúng nhưng cuộc sống cũng sẽ có
những lí lẽ riêng của nó. Những kết hợp ấy mang lại cho tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cái
nhìn đa diện về số phận con người.
- Các nhân vật khác: bé Phác, người chị gái và lão đàn ông
Không chỉ làm hiện lên bức chân dung người đàn bà hàng chài một cách chân thật, các nhân
vật khác trong “Chiếc thuyền ngoài xa”cũng được Nguyễn Minh Châu dụng công xây dựng
bằng tất cả tấm lòng của người cầm bút chân chính. Trong cuộc sống mới, khi chiến tranh đã
qua, mặc dù những đứa trẻ như cậu bé Phác không phải gánh chịu những nỗi đau chiến tranh
gây nên nhưng hoàn cảnh sống của chúng cũng thật đáng thương. Những đứa trẻ phải sống
trên chiếc thuyền lưới vó trong công cuộc mưu sinh đầy bấp bênh, nhọc nhằn. Nhân vật Phác
cùng với những đứa con khác đều là nạn nhân của nghèo đói, thất học. Tất cả dường như khía
vào lòng người đọc nỗi đau về thân phận của những đứa trẻ trong cuộc đời mới. Cậu bé Phác
được nhà văn khắc hoạ với những hành động thật khác thường mà cũng thật cảm động như
đánh bố, lau nước mắt cho mẹ, thủ sẵn con dao trong người, tuyên bố rằng “nó còn có mặt ở
dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Để bảo vệ mẹ, thằng bé tàn nhẫn với chính người bố
của mình. Đó lại là một nghịch lí ở đời, qua đó nhà văn muốn phơi bày bức tranh hiện thực
sâu sắc của cuộc sống con người sau chiến tranh.
Trái ngược với cậu bé Phác đầy xốc nổi, nhân vật người chị gái lại là một người biết suy nghĩ
chín chắn, là điểm tựa tinh thần cho người đàn bà hàng chài khốn khổ. Chị là một người con
gái hiếu thảo. Chị thương mẹ nhưng không biết phải làm gì để giúp mẹ, giận cha nhưng cũng
không thể làm gì để can ngăn cha, và dù thương em chị cũng không biết phải khuyên bảo em
như thế nào. Quả thật, dù đều là những đứa trẻ biết yêu thương nhưng mỗi đứa trẻ có một
cách phản ứng khác nhau trước hành động bố nó gây ra. Những đứa trẻ ấy phải chịu bất hạnh,
không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn nên chúng rất dễ bị tổn thương bởi những hành vi xấu

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
52

của người lớn. Tác phẩm dường như gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, mang theo nỗi lo sợ cho
sự phát triển nhân cách của những đứa trẻ trong một môi trường phi nhân tính.
Với nhân vật lão đàn ông, Nguyễn Minh Châu chỉ khắc hoạ một vài chi tiết ngoại hình nhưng
làm nổi bật hình ảnh người đàn ông lam lũ, nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh, đồng thời hé mở
phần nào tính cách dữ dội của nhân vật. Từ lời nói đến hành động, nhà văn cho người đọc
thấy được cách đối xử thô bạo và tàn nhẫn của lão với vợ con. Nhưng sâu xa hơn, ta thấy
được rằng, không chỉ là kẻ gây nên cảnh bạo hành, lão đàn ông cũng là nạn nhân của sự thất
học, của cuộc sống đói nghèo đầy tăm tối. Đằng sau tất cả, đó là sự phơi trải và thấu hiểu của
nhà văn về bi kịch của kiếp người.
- Nhân vật Phùng và Đẩu
Ngoài ra, nhân vật Phùng và Đẩu cũng được nhà văn Nguyễn Minh Châu dụng công xây
dựng, góp phần thể hiện cái nhìn sâu sắc về cuộc đời, về con người của ông. Đó cũng là cái
nhìn đầy nhân đạo, tin tưởng về những phẩm chất tốt đẹp của con người.
Nhân vật chánh án Đẩu là người chiến sĩ trong thời kì chiến tranh. Và trong thời bình, người
chiến sĩ từng đi qua những năm tháng chiến tranh ấy tiếp tục đứng ra để bảo vệ công lí, bảo vệ
lẽ phải. Và ở toà án huyện, sau khi nghe người đàn bà kể lại chuyện về cuộc đời mình và về
lão đàn ông, “một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”.
Câu chuyện của người đàn bà hàng chìa đã giúp Đẩu nhận ra, hiểu hơn về những nghịch lí ở
đời, và đôi khi vì mưu sinh, vì cuộc sống mà những người phụ nữ phải chấp nhận tất cả những
nghịch lí trớ trêu ấy.
Còn nhân vật Phùng chính là sự hoá thân của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Mượn điểm nhìn
của nhân vật, nhà văn thể hiện cách nhìn mới mẻ của mình về con người, về cuộc đời và cả về
văn chương nghệ thuật. Phùng xuất thân là một người lính của khói lửa chiến tranh. Bản thân
mang những phẩm chất tốt đẹp của một người lính: Căm ghét những bất công ở đời, luôn
muốn ra tay thực hiện chính nghĩa. Phùng đã hành động đúng với lương tâm một người lính
trong cả hai lần anh chứng kiến cảnh người đàn bà bị bạo hành dã man. Và chính điều đó đã
giúp Phùng có thêm nhận thức mới mẻ về cuộc đời và con người thời hậu chiến, với những
bất công, những bi kịch, những nghịch lí xót xa.
Không chỉ là một người lính, Phùng còn là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh với một tâm hồn
nhạy cảm, tinh tế, khao khát cái đẹp và say mê kiếm tìm cái đẹp. Khi nhận ra cảnh “đắt trời
cho”, với Phùng, cái đẹp chính là đạo đức, là cái hoàn thiện, hoàn mĩ. Nhưng cho đến khi
được chứng kiến và lắng nghe về thân phận người đàn bà hàng chài, lúc bấy giờ, Phùng mới
hiểu rằng cái đẹp phải gắn liền với cái thật của cuộc đời, gắn với cái bề sâu trong tâm hồn con
người. Đó cũng là phát hiện đầy mới mẻ về cuộc sống và con người của Nguyễn Minh Châu
qua cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Bên cạnh hình tượng người đàn bà hàng chài, nhân vật
người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Minh
Châu. Qua nhân vật Phùng, người đọc dường như nhận ra bức chân dung tinh thần của nhà
văn. Ở Nguyễn Minh Châu là một cái nhìn đầy thấu hiểu, giàu yêu thương, đầy lo âu về cuộc
sống, về con người.
 Giá trị nghệ thuật
- Truyện xoay quanh tình huống tự nhận thức nhân vật từ lầm lẫn, ngộ
nhận đến" giác ngộ", tình huống truyện đã chi phối:

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
53

+ Giọng điệu thay đổi linh hoạt: lúc say sưa hùng biện, lúc hài hước tự trào, lúc khách quan
tiết chế, lúc trầm lắng suy tư
+ Diễn biến tình tiết giàu kịch tính, chi tiết đối lập...
+ Sắc thái tư duy, chiêm nghiệm, suy tư- triết lí nổi bật hơn cả với những câu văn miêu tả giàu
chất trữ tình, nhịp chậm, ngữ điệu trầm.
- Giá trị nhân đạo
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính được tạo nên
bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời
bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những
nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hòan
cảnh nào của cuộc đời.
+ Biểu hiện ở sự đồng cảm của nhà văn đối với cuộc đời người lao động sau chiến tranh. Nhà
văn đã nhìn thấu và miêu tả chân thực cuộc sống nhọc nhằn, cơ cực, khốn khổ của những con
người lao động thông qua hình tượng người đàn bà hàng chài. Nguyễn Minh Châu đã dành
biết bao yêu thương cho số phận bất hạnh của chị (phân tích nỗi khổ của người đàn bà: xấu xí,
nghèo khổ, nạn nhân của bạo hành gia đình).
+ Không chỉ dừng lại ở đó, nhà văn còn lí giải những nguyên nhân gây nên đau khổ cho con
người. Từ đó, ông phê phán, lên án hành động vũ phu thô bạo của người chồng trong đối xử
với vợ, con (các em miêu tả cảnh người chồng đánh vợ). Đồng thời, thể hiện nỗi lo âu, khắc
khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người (cảnh đói nghèo, cơ cực, tình trạng bất
ổn, bất trắc trong cuộc sống …là nguyên nhân sâu xa của sự bạo hành và sự nhịn nhục chịu
đựng); bày tỏ niềm trắc trở trước cuộc sống của thế hệ tương lai (qua cách nhìn của nhà văn
đối với cậu bé Phác).
+ Tác giả đã khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động mà tiêu biểu là người đàn bà
hàng chài và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là vẻ đẹp của lòng vị tha, sự thấu
hiểu lẽ đời và tình mẫu tử sâu nặng (phân tích câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện).
Trong hoàn cảnh đau khổ, nghèo khó, tăm tối vẫn ngời lên vẻ đẹp của tình yêu thương, của
đức hy sinh thầm lặng.
+ Tư tưởng nhân đạo mang tính triết lí của tác phẩm, còn được thể hiện ở việc nhà văn đặt ra
vấn đề : làm thế nào để giải phóng con người khỏi những bi kịch gia đình, bi kịch cuộc sống
con người muốn thoát khỏi đau khổ, tăm tối, man rợ cần những giải pháp thiết thực chứ
không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn, cần rút ngắn
khoảng cách giữa văn chương và hiện thực đời sống.
=> Tác phẩm thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai đọan sáng tác thứ hai : Văn
học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người…Quan niệm ấy đã khiến tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu ở giai đọan này giàu nhân bản. Đọc tác phẩm của ông, người ta
đau đớn, day dứt về thân phận con người và tràn đầy khát vọng làm người cao đẹp.
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân
VD: Hình ảnh người đàn bà hàng chài đã trở thành “nỗi ám ảnh" với chính nhân vật người
nghệ sĩ Phùng, cũng là hình ảnh đem đến những ấn tượng đặc biệt trong lòng đọc giả. Một

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
54

chút ồn ào, một chút đau đớn, một chút tủi hờn, một chút xót thương, một chút đồng
cảm,...tôi vẫn nghĩ rằng những cảm xúc bản thân còn lưu lại sau khi đọc xong câu chuyện
này còn nhiều hơn như thế. Và hình ảnh người đàn bà hàng chài vẫn vẫn, đẹp đẽ, thánh
thiện, bao dung. Người đàn bà ấy là biểu trưng cho biết bao nhiêu những người phụ nữ
hàng chài khác mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, chỉ cần gạt nhẹ một chút đã thấy
sáng lấp lánh, long lanh.

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (LƯU QUANG VŨ)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả Lưu Quang Vũ
- Giới thiệu tác phẩm
VD: Hồn Trương Ba da hàng thịt không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con
người trong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán
một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
55

đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và
cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do
danh và lợi.
 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý/ trích dẫn
- Giới thiệu tác giả- tác phẩm
VD:
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi
Như tiếng gọi ngàn đời không khuất phục
Đất nước giống như con thuyền xuyên gió mạnh
Những mối tình trong gió bão tìm nhau
(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi…- Lưu Quang Vũ)
Từ những năm 60 của thế kỉ trước, Lưu Quang Vũ đã khẳng định tên tuổi của mình bằng việc
sáng tác thơ ca, ngay từ đầu ông đã tạo được dấu ấn về một lối viết tài hoa, nông nàn cảm xúc
toát lên tình yêu quê hương, đất nước tha thiêt, mà Hopaif Thanh đã từng nhận định rằng”
Thơ anh là một tiếng nói nhỏ nhẹ mà sâu”. Từ năm 1978, Lưu Quang Vũ bắt đầu chuyển sang
lĩnh vực sân khấu. Có thể khẳng định” Sân khấu mới là mảnh đất của người nghệ sĩ tài ba
này”… Cảm hứng chủ đạo trong kịch Lưu Quang Vũ là cảm hứng về con người, về cái đẹp,
cái thiện, cái tôi hòa tan trong cái ta. Ở đó tính thời sự được kết hợp với những vấn đề muôn
thuở của nhân loại mà tiêu biểu đó là vở “ Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Đó là cuộc gioa
trang giữa cái thiện và cái ác, cuộc giao tranh này là muôn đời muôn kiếp từ khai sinh cho đến
ngày không còn trái đất thì vẫn còn giao trang thiện ác. Cho nên có người đã từng nói” kịch
Lưu Quang Vũ là có tính vĩnh cửu”

2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch gây được nhiều tiếng vang nhất của
Lưu Quang Vũ. Vở kịch được viết từ năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới lần đầu ra mắt
công chúng. Nhanh chóng tạo được nhiều thiện cảm với người xem, Hồn Trương Ba, da hàng
thịt đã được công diễn nhiều lần trên các sân khấu trong và ngoài nước.
- Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề Hồn Trương ba, da hàng thịt gợi cảm giác về đô ̣ vênh lê ̣ch của hai yếu tố quan trọng
trong mô ̣t con người. Hồn là phần trừu tượng, da thịt thân xác là cái cụ thể, là cái bình có thể
chứa linh hồn, hồn nào xác ấy. Nhưng ở đây hồn người người này lại ở trong xác người kia.
Hồn và xác lại không tương hợp ; tính cách, hành đô ̣ng, lối sống của Trương Ba và anh hàng
thịt trái ngược nhau. Tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn, xung đô ̣t bên
trong của mô ̣t con người.
- Tình huống truyện

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
56

Trương Ba là mô ̣t người là vườn và giỏi đánh cờ đã bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốnsửa
sai, nên Nam Tào và Đế Thích cho Hồn Trương Ba sống lại và nhâ ̣p vào xác hàng thịt mới
chết. Trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gă ̣p rất nhiều phiền toái : lý tưởng sách
nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ,… mà bản thân
Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên và giả tạo. Đă ̣c biê ̣t thân xác hàng thịt làm
Trương Ba nhiễm mô ̣t số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải chính bản thân ông.
Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương
Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhâ ̣n cái chết.
 Phân tích
Lấy cốt truyện dân gian nhưng nối thêm phần đuôi sau khi truyện dân gian đã kết thúc và
thêm vào đó nhiều sự kiện, chi tiết để thổi vào luồng gió của thời đại, tác giả đã làm cho tác
phẩm tràn ngập ánh sáng của những vấn đề thời sự trong đời sống đương đại với tất cả những
xung đột, mâu thuẫn và mọi ưu tư, phiền toái bất tận của nó. Nói một cách cụ thể hơn, “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” là một vở kịch khai thác cốt truyện dân gian để gửi gắm vào đó
những suy ngẫm về nhân sinh, hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống
hiện thời và khẳng định khát vọng hoàn thiện nhân cách con người.
Có thể tóm tắt ngắn gọn về cốt truyện dân gian và phần phát triển sáng tạo của Lưu Quang Vũ
để tạo nên tình huống kịch đặc sắc.
Xưa có một người làm vườn là ông Trương Ba chất phác, cần cù, yêu vợ, thương con, quý
cháu và giỏi đánh cờ, bỗng nhiên lăn đùng ra chết, mà nguyên nhân là do sự nhầm lẫn tai hại
của Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình. Đế Thích – một ông tiên cao cờ - do quý trọng tài cờ
của Trương Ba đã hóa phép làm cho Trương Ba sống lại bằng cách để Hồn Trương Ba nhập
và xác anh hàng thịt mới chết. Thế là xảy ra chuyện tranh chấp chồng giữa hai bà vợ. Quan xừ
kiện lệnh cho đương sự lần lượt làm hai việc mổ lợn và đánh cờ. Đương sự thậm chí không
biết cầm dao mổ lợn thế nào nhưng lại rất giỏi đánh cờ. Quan bèn quyết định cho bà vợ
Trương Ba mang chồng về. Mọi chuyện kết thúc tại đây và Trương Ba tiếp tục sống hạnh
phúc với vợ con, làm xóm trong thân xác anh hàng thịt.
Nhưng tình huống kịch của Lưu Quang Vũ lại bắt đầu từ chỗ kết thúc của truyện dân gian
này: Sống nhờ trong thân xác người khác, Hồn Trương Ba gặp bao nhiêu rắc rối, phiền toái.
Tệ hại hơn nữa là ông ngày càng trở nên xa lạ, đáng sợ trong con mắt người thân, đứa cháu
không nhận ông nội, lại thêm đứa con hư hỏng, xung quanh ông còn có tên lí trưởng đồi bại,
những bậc tiên thánh trên trời vô trách nhiệm, cố tình lấp liếm lỗi lầm… Ba tháng “trú ngụ”
trong cái xác lạ, Hồn Trương Ba có nguy cơ bị thân xác lấn át, nó phải đấu tranh một cách
chật vật với những ham muốn bản năng, những dục vọng thấp hèn của anh hàng thịt, có lúc
thiếu chút nữa thì bị thất bại và sa ngã trước sự dẫn dắt của thể xác. Kết cục, để bảo toàn sự
trong sạch của mình, Hồn Trương Ba đã chấp nhận cái chết vĩnh viễn, khước từ sự sống
không phải là của mình, cho dù sự sống là muôn phần đáng quý. Không những vậy, nếu ở
truyện dân gian, Hồn Trương Ba sau khi nhập vào xác anh hàng thịt được sống yên ổn, hạnh
phúc thì ở kịch bản này, Hồn Trương Ba luôn đau khổ, dằn vặt, giày vò bởi “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo”. Một mặt Hồn tượng trưng cho thế giới tinh thần thanh cao của con
người luôn muốn giữ gìn những giá trị của chuẩn mực văn hóa và đạo đức, mặt khác, Hồn
thấy mình ngày càng chịu sự cám dỗ mãnh liệt của xác – tượng trưng cho những dục vọng
bản năng xấu xa của con người. Vì thế, bi kịch của tình huống, như Hồn Trương Ba đã nói với
Đế Thích là: sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là điều không nên, đến thân xác
cũng phải nhờ vào một anh hàng thịt, và một khi phải sống giả dối, “bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo” thì Hồn chẳng thể nào tìm thấy sự bình yên. Hồn day dứt đau khổ vì ý thức rõ
được điều đó, lại ý thức được cả cái sự sai lầm không thể nào cứu vãn được của Đế Thích nên
đã quyết định dứt khoát chọn cái chết thật sự để bảo toàn sự trong sạch của mình. Đoạn trích

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
57

là đoạn kết, tập trung phản ánh tư tưởng chủ đề của vở kịch: Bi kịch của con người khi bị đặt
vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu bị tha hóa
trước sự lấn át của thể xác phàm tục, thô lỗ. Vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc
đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng
hoàn thiện nhân cách.
Khởi đầu cho diễn biến của xung đột kịch cũng đồng thời là điểm khở đầu “tấn bi kịch của
Hồn Trương Ba”, ấy chính là từ khi Hồn được sống lại trong thân xác anh hàng thịt. Về mặt
xung đột kịch, ta nhận thấy rõ ở đây đã xuất hiện hai lớp mâu thuẫn: Một mâu thuẫn do sự
khập khiễng, không phù hợp giữa linh hồn và thể xác – trong một con người, linh hồn và thể
xác lẽ ra phải là một nhất thể, đằng này, linh hồn của người làm vườn thanh cao lại phải trú
trong một cái xác phàm tục, thô lỗ của anh đồ tể. Hai là mâu thuẫn giữa văn hóa và bản năng
của con người. Hai mâu thuẫn này là nguyên nhân xảy ra “tấn bi kịch nội tại của nhân vật
Hồn Trương Ba”.
Ở đọan này, điểm đỉnh của mâu thuẫn kịch đã được tác giả thể hiện qua sự dằn vặt, giằng xé
đau đớn của Hồn Trương Ba. Mở đầu là cảnh Hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt
ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy bực bội, bức xúc: “Không!
Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!… Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này
lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa
mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ
một lát!”. Tiếp sau đó, Hồn Trương Ba tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa
hồn và xác bắt đầu. Dưới lớp vỏ ngôn ngữ của những lời đối thoại là nhiều tầng nghĩa khác
nhau, tuỳ thuộc vào trình độ của người xem kịch, Lưu Quang Vũ rất chú ý đến việc dùng
ngôn ngữ để phản ánh tính cách và bản chất nhân vật. Xác hàng thịt lên tiếng với giọng điệu
mỉa mai, chế giễu và phủ nhận những cố gắng giải thoát của Hồn Trương Ba: “cái linh hồn
mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ
là thân xác”… Hồn Trương Ba đáp lại với thái độ vừa ngạc nhiên vừa coi thường, “mày cũng
biết nói kia à ? Vô lí, mày không thể biết nói. Mày không có tiếng nói mà chỉ là xác thịt âm u
đui mù… Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được:
thèm ăn ngon, thèm rượu thịt”.
Lưu Quang Vũ kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian, tiếp tục khẳng định vai trò quan
trọng của linh hồn so với thể xác. Thế nhưng tác giả đã để cho cuộc tranh luận giữa Hồn
Trương Ba và xác hàng thịt không kém phần gay go, quyết liệt. Có những lúc tiếng nói của
xác thịt đường như lấn át cả tiếng nói của linh hồn, đẩy linh hồn vào thế lúng túng, bị động:
“Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục!… Sao ông có vẻ khinh thường tôi
thế nhỉ? Tôi cung đáng được quý trọng chứ. Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi
mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn mảnh đất cây cối, những người thân… Nhờ có
đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ
tâm hồn con người, người ta xúc phạm thể xác… Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông
hay vịn vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê cho thân
xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác… Mỗi bữa tôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi
có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ… Tôi thông
cảm với những “trò chơi tâm hồn của ông nghĩa là: Những lúc một mình một bóng, ông cứ
việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để sống
mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu gì ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được
thanh thản.” Tôi biết: “Cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ
diện, Hà hà, miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của tôi”. Hồn
Trương Ba tuy vẫn khăng khăng phủ nhận lí lẽ của xác hàng thịt: “Lí lẽ của anh thật ti tiện”,
nhưng rõ ràng là đã lâm vào tình thế tuyệt vọng và chỉ biết than: “Trời!”

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
58

Rõ ràng, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Những câu cảm
thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên điều đó. Hồn bức
bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình
không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết
lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba
được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng về. thô lỗ, phũ phàng lắm.
Người đọc. người xem càng lúc càng được thấy rõ điều đó qua các đối thoại và hồn Trương
Ba cũng cáng lúc rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói
những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận. Đó là cái đêm khi ông
đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và
“suýt nữa thì...”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là
“phàm”. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”, ... tất cả đều là sự thật.
Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy
minh ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta
vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.”. Trong cuộc đối thoại này,
xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười
nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với
giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ
trước những lời nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra,
không muốn thừa nhận.
Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người
thân. Người vợ mà ông rất mực vêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với
bà “đi đâu cũng được... còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm
nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái,
cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình cảm của ông: tôi không
phải là cháu ông. Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không
thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy
tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó.
Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cụ Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man
cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó “ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận
dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể,
cút đi!”.
Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng
trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau
trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị
đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái
bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một
đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con
cũng không nhận ra thầy nữa…”. Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận
ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba
xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”. Sau tất cả những đối thoại
ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm
thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần, lớn dần, muốn đứt
tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có vẻ tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy
ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ tốt lành như thầy của chúng cơn xưa
kia? Làm thế nào, thầy ơi?” thì đương nhiên hồn không thể chịu đựng thêm được nữa.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
59

Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng
lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết
liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu
thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như
thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không
cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết
định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát. Cuộc trò chuyện giữa
hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về
lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn...
Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi
cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế
nào thì ông chẳng cần biết!”. Người đọc, người xem có thế nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu
sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác
phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi
con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân
xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự
cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi
không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh
trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng chênh
lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật
trước lúc Đế Thích xuất hiện. Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại,
cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba
là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp
thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác
cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy
cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát.
Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu
lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống. Cái chết của cu Tị
có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định
dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí
của tác phẩm. Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh
thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội,
trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán
một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ
chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm
phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cánh báo “muốn nuôi sống
xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng
trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn
vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không
tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra, vở kịch còn
đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống
giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người
đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Rõ ràng, việc lựa chọn cái chết của Hồn Trương Ba thể
hiện khát vọng vươn tới cái chân thực và sự vẹn toàn tuyệt đối của những giá trị nhân văn.
Trương Ba chết nhưng tâm hồn tốt đẹp của ông sẽ sống mãi trong tình yêu mến và nỗi tiếc
nhớ của gia đình, bạn bè, làng xóm. Chết nhưng lại là vẫn sống.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
60

Đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt tập trung cao độ tính chất triết lí và tư tưởng nhân văn
của vở kịch có nguồn gốc dân gian này. Lưu Quang Vũ đã đưa vào vở kịch quan niệm đúng
đắn về cách sống: Trước hết, mình hãy là mình. Cuộc sống của cá nhân chỉ thực sự có ý nghĩa
khi biết sống vì niềm vui và hạnh phúc của mọi người vì sự tốt đẹp của cuộc đời. Vở kịch
“Hồn Trương Ba da hàng thịt” đã góp phần phê phán 1 số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc
bấy giờ. Con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường, muốn thỏa mãn
những nhu cầu của bản năng, đến nỗi trở nên phàm phu, tục tử như nhà thơ Chế Lan Viên đã
viết:
“Muốn nuôi sống thân xác
Đem làm thịt linh hồn”
Nhưng lại có 1 xu hướng ngược lại, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống linh hồn là cái cao nhất,
không chăm lo gì đến đời sống vật chất, không chịu phấn đấu vì hạnh phúc trọn vẹn.
 Giá trị nghệ thuật
- Tình huống kịch phát triển tự nhiên, hợp lí
- Sự kết hợp giữa diễn biến hành động bên ngoài và bên trong
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân
VD: Vở kịch còn phê phán tình trạng con người sống giả dối, không dám sống là mình. Đấy
là nguy cơ đẩy con người vào chỗ tha hóa do danh và lợi. Nhưng kịch của Lưu Quang Vũ có
được sức sống lâu dài là bởi những triết lý sâu sắc, có ý nghĩa đối với muôn đời. Vở kịch cho
ta những bài học về lẽ sống, chết, về hạnh phúc. Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải
sống thế nào cũng được. Hạnh phúc chân chính của con người là được sống trọn vẹn, sống
thật với chính mình, với mọi người. Tư tưởng triết lí về con người của Lưu Quang Vũ vừa
biện chứng vừa lạc quan, cao thượng. Tất cả những điểu đó được thể hiện bằng tài năng sáng
tạo hiếm có của tác giả khiến vở kịch có sức cuốn hút lạ thường đối với khán giả. Lưu Quang
Vũ xứng đáng là nhà biên kịch xuất sắc của sân khấu Việt Nam hiện đại.

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (HỒ CHÍ MINH)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả
- Giới thiệu tác phẩm
VD: Dòng máu lạc hồng qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước vẫn tuôn trào trong huyết
quản của mỗi người dân Việt Nam. Một dân tộc mang trong mình dòng máu anh hùng quyết
chiến sinh tử với bè lũ cướp nước,quyết diệt tận vong lũ bè bán nước. Hỡi ôi! Một dân tộc
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
61

lừng lẫy chiến công vang dội mang tên Việt Nam.Mỗi một người dân đều là máu thịt của đất
nước,họ xứng đáng được hưởng quyền tự do,bình đẳng và mưu cầu hạnh phúc. Bản “ Tuyên
ngôn độc lập “ của Hồ Chí Minh không chỉ là bản cáo trạng về tội ác của kẻ thù xâm lược mà
còn chính là một lời khẳng định chắc chắn về quyền tự do,tự chủ của dân tộc.
 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý/ trích dẫn
- Giới thiệu tác giả- tác phẩm
VD: Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm: Từ Bắc
xuống, từ Nam lên, tứ Tây sang, từ Đông vào cho nên cùng với những chiến công hiển hách:
phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đuổi Thanh; nền văn học chúng ta cũng đã có những áng
văn kiệt tác khẳng định đanh thép chủ quyền độc lập của dân tộc. Bên cạnh bài thơ Thần của
Lý Thường Kiệt sang sảng ngâm trên sông Như Nguyệt, Bình Ngô đại cáo một thiên cổ hùng
văn của Nguyễn Trãi, ngày nay chúng ta có Tuyến ngôn Độc lập y một áng văn chính luận
mẫu mực, nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc, khí phách của non sông.
2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác
Ngày 19/8/1945, chính quyền ở Hà Nội đã về tay nhân dân. Ngày 26/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh từ chiến khu Cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Người soạn thảo bản “Tuyên ngôn độc
lập” tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang. Ngày 02/09/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội,
trước hàng chục vạn đồng bào, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”.
- Mục đích
"Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lịch sử đúc kết nguyện vọng sâu xa của dân tộc Việt
Nam về quyền độc lập, tự do, cũng là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh gần một trăm
năm của dân tộc ta để có quyền thiêng liêng đó.
Bản tuyên ngôn đã tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam và mở ra một
kỷ nguyên mới cho dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập, tự do, kỷ nguyên nhân dân làm chủ đất
nước.
- Ý nghĩa nhan đề
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, có ba bản tuyên ngôn độc lập vô cùng quan trọng: Một là,
bài thơ “Nam quốc sơn hà” được sử dụng trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất
(Lê Hoàn) và lần thứ 2 (Lý Thường Kiệt) nhằm khẳng định độc lập chủ quyền quốc gia dân
tộc, khích lệ tinh thần tướng sĩ và uy hiếp tinh thần quân giặc. Hai là, “Bình Ngô đại cáo”
được Nguyễn Trãi thay mặt Bình Định Vương - Lê Lợi viết sau khi đánh thắng quân Minh để
tuyên bố độc lập chủ quyền cho dân tộc. Ba là, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh
viết sau ngày Cách mạng tháng 8 thành công - lúc bấy giờ Việt Nam đã giành lại chính quyền
từ tay thực dân Pháp.
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
62

Như vậy, “Tuyên ngôn độc lập” chính là một văn kiện lịch sử có tính pháp lý cao và đã được
luật pháp quốc tế công nhận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt tên cho văn kiện của mình một
cách trực tiếp nhằm thể hiện đúng vai trò và giá trị lịch sử của nó. Cách đặt nhan đề này tưởng
chừng như hết sức hiển nhiên nhưng lại giàu ý nghĩa.
 Phân tích
Nhắc đến văn chính luận của Hồ Chí Minh, sau “Bản án chế độ thực dân Pháp”, chúng ta
không thể quên “Tuyên ngôn độc lập”, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”… trong đó
“Tuyên ngôn độc lập” được xem là văn kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại, đồng thời là áng văn
chính luận mẫu mực. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh
từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Người tự tay soạn thảo bản
Tuyên Ngôn độc lập. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, trước toàn thể
đồng bào cả nước và nhân dân thế giới, Người thay mặt chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc
bản “Tuyên ngôn” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn đã kế thừa
một cách xuất sắc truyền thống yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo trong lịch sử văn học dân tộc,
đã nêu cao những tư tưởng, tình cảm lớn, ý chí sắt đá, nguyện vọng thiết tha của nhiều thế hệ
con người Việt Nam.
Trong phần mở đầu của bản Tuyên ngôn về nền độc lập của Việt Nam, tư tưởng làm cơ sở
cho sự lập luận được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên trước hết là những quyền lợi cơ bản và
thiêng liêng nhất của con người. Bằng cách dẫn ra những lời văn bất hủ trong bản “Tuyên
ngôn độc lập” của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và trong bản “Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền” của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, tác giả đã chỉ rõ những
quyền lợi cơ bản thiêng liêng đó của con người là bất khả xâm phạm, và phải luôn được tự do,
bình đẳng trong việc mưu cầu hạnh phúc. Điều quan trọng hơn là từ quyền lợi của con người,
Hồ Chủ tịch đã phát triền, nâng lên thành quyền độc lập, tự quyết của các dân tộc. Đó là một
sự suy luận thể hiện nhãn quan chính trị hết sức sáng tạo, nhạy bén và hoàn toàn hợp lí. Người
viết tiếp: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tác dụng lập luận
và sức thuyết phục của những lời trích dẫn này trước hết bởi đó là những chân lí của lịch sử,
đã được cả thế giới thừa nhận. Như chính tác giả khẳng định, đó là “những lời bất hủ: là
“những lẽ phải không ai chối cãi được” và được ghi trong những văn kiện nổi tiếng của nhân
loại.
Nhưng ý nghĩa của hai lời dẫn mở đầu bản Tuyên ngôn không chỉ có vậy. Đặt vào hoàn cảnh
lịch sử đặc biệt của thời điểm bản Tuyên ngôn ra đời, những lời trích dẫn nói trên còn có tác
dụng phản lại luận điệu xảo trá của bọn đế quốc đang lăm le xâm lược nước ta. Như mọi
người đều biết, Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa mới giành thắng lợi chưa bao lâu thì dân
tộc ta lại đứng trước họa ngoại xâm. Theo hiệp ước của các nước thắng trận, dưới danh nghĩa
là quân đồng minh vào tước giới khí của phát xít Nhật, ở phía Bắc nước ta, 20 vạn quân
Tưởng, theo sau là quân Mỹ đã kéo vào, còn miền Nam, núp sau quân Anh là quân đội viễn
chinh Pháp. Tại hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng, Hồ Chủ Tịch đã nhận định phải lợi dụng

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
63

mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc Pháp – Anh và Mỹ - Tưởng về vấn đề Đông Dương,
tránh trường hợp một mình phải đối phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù, đồng thời cũng cần
chuẩn bị ứng phó việc Pháp trở lại Đông Dương. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bản tuyên ngôn
không chỉ hướng tới quốc dân đồng bào mà còn hướng tới nhân dân thế giới, đặc biệt là
hướng vào bọn đế quốc lúc đó, nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của chúng. Mà bác bỏ luận điệu
của kẻ thù thì còn gì đích đáng và thú vị hơn là dùng ngay lí lẽ của chính họ nói về quyền tự
do bình đẳng con người và quyền độc lập tự quyết của các dân tộc.
Bác bỏ lí lẽ của kẻ xâm lược cũng đồng thời là nhằm khẳng định quyền tự do, độc lập chính
đáng của dân tộc ta. Việc trích dẫn để làm cơ sở lập luận như vậy là một cách nói vừa khéo
léo vừa kiên quyết. Khéo léo vì nó thể hiện sự tôn trọng chân lí, tôn trọng lẽ phải của dân tộc
ta, cho dù chân lí và lẽ phải ấy cho chính người Mỹ hay người Pháp phát biểu. Kiên quyết vì
đã nhắc nhở họ nhớ đến lí tưởng cao cả của cách mạng dân tộc dân chủ, đừng làm vấy bẩn lá
cờ nhân đạo và chính nghĩa mà họ đã từng nêu cao. Đây chính là chiêu “gậy ông đập lưng
ông” đặc sắc mà Hồ Chí Minh đã sử dụng một cách tinh tế.
Việc mở đầu bằng cách nhắc đến hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của hai cuộc cách mạng vĩ đại
trong lịch sử nhân loại cũng có nghĩa là đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng, ba cuộc cách
mạng và ba nền độc lập cũng ngang hàng với nhau. Điều này làm chúng ta lại nhớ đến cách
mà tác giả “Bình Ngô đại cáo” khi xưa đã làm để đặt các triều đại của nước ta với các triều
đại phương Bắc trong hai vế cân xứng, ngang hàng:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương…”
Vì kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất đang đe dọa nền độc lập non trẻ mà dân tộc ta vừa mới
giành được là thực dân Pháp nên cần phải tập trung chĩa mũi nhọn vào chúng. Sau khi trích
dẫn những nguyên lí làm cơ sở cho sự lập luận, bản Tuyên ngôn tiếp tục xoáy sâu vào việc
bác bỏ luận điệu xâm lược của kẻ thù. Trong cuộc xâm lược lần này, thực dân Pháp đã viện
dẫn cho sự quay trở lại Đông Dương lần hai của chúng. Bằng lí lẽ sắc sảo, nhạy bén, bằng lập
luận chặt chẽ và thực tiễn hùng hồn đầy thuyết phục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng minh
cho cả thế giới biết rằng thực tế lịch sử cho thấy thực dân Pháp không hề có quan hệ đạo lí –
nhân tình hay quan hệ pháp lí nào đối với nhân dân Việt Nam. Thực dân Pháp đã có những
hành động “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
Cùng với lời buộc tội, Hồ Chí Minh đã đập tan các luận điệu xảo trá, vạch trần bộ mặt giả dối,
lừa bịp của thực dân Pháp. Người đã sử dụng những bằng chứng cụ thể, chính xác, tiêu biểu ở
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa để khẳng định tội ác tày trời của thực dân Pháp
với nhân dân Việt Nam. Chúng đã “khai hóa” đất nước này bằng cách “lập nhà tù nhiều hơn
trường học”, bằng rượu cồn, thuốc phiện và chính sách ngu dân. Kết quả của cuông cuộc khai
hóa văn minh ấy là 90% dân số Việt Nam mù chữ! Tự xưng là “nước mẹ bảo hộ” nhưng thực
chất thực dân Pháp chỉ là những kẻ bóc lột và đô hộ. Chúng “cướp không” tài nguyên của
nước ta, bóc lột sức lao động của nhân dân ta, đặt ra hàng trăm thứ thuế để bòn rút người dân
đến tận xương tủy. Chúng còn chèn ép các nhà tư bản thuộc địa, giữ độc quyền của những
lĩnh vực kinh tế then chốt… Kết quả, sau gần một thế kỉ “bảo hộ” của chúng là một Việt Nam

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
64

nghèo đói, lạc hậu, tiêu điều, xơ xác. Những kẻ xảo quyệt, tàn ác đã đầy một phần mười dân
số Việt Nam vào thảm cảnh chết đói năm 1945.
Bộ mặt thật của thực dân Pháp càng hiện rõ hơn qua những chính sách chính trị phản động ý
chính quyền thực dân đã tước đoạt mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam. Chúng
chia cắt Việt Nam thành ba kì để dễ bề cai trị và thi hành những luật pháp dã man: “thẳng tay
chém giết những người yêu nước thương nòi của ta”, “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong
những bể máu”. Tất cả những chủ trương và biện pháp của nó làm cho cuộc sống của dân tộc
Việt Nam đang bị đảo lộn mỗi ngày, chúng đã ra sức áp bức và tạo nên những điều tồi tệ nhất,
Bác đều khẳng định và tố cáo ở đây, có thể nói đây là bằng chứng sống để mỗi người khi đọc
xong tác phẩm này đều có thể hiểu được một thời kì lịch sử đã qua của dân tộc ta, trải qua bao
nhiêu gian truân, cảm xúc đó đang dần được thể hiện của sự tố cáo, và đây là bản tố cáo đanh
thép và có nhiều giá trị nhất.
Nó không chỉ mang giá trị tố cáo đối với kẻ thù, mà nó còn đẩy mạnh sự thức tỉnh và ý thức
về một niềm tin yêu đối với dân tộc của chúng ta. Những giọng điệu đanh thép đã đang dần tố
cáo mạnh mẽ tội ác của kẻ thù. Bọn thực dân Pháp cũng như mọi kẻ áp bức, lúc còn quyền
hành thì hống hách, hung bạo, lúc thất thế thì đê hèn, mất hết, mất hết liêm sỉ, giẫm lên nhân
phẩm để bám lấy chút sống thừa. Quỳ gối đầu hàng Nhật, chúng gây bao nhiêu tội ác. Đối với
nhân dân Việt Nam mà chúng vẫn rêu rao được chúng “bảo hộ”, “khai hóa”, chúng quàng
thêm một ách lên đầu. Kết quả thảm hại, cụ thể mà lịch sử Việt Nam và nhân loại ghi bằng
chữ máu không thể phai mờ với thời gian là hai triệu người đã chết đói “chỉ riêng từ Quảng
Trị đến Bắc Kì”. Đối với Đồng minh là phe của chúng, chúng phản bội, chúng biến Việt Minh
là những người đứng về phe Đồng Minh thành kẻ thù chính, và “thẳng tay khủng bố”. Nhiều
động từ miêu tả được dùng để vẽ lên hình ảnh thảm bại của chúng: quỳ gối đầu hàng, mở cửa
rước Nhật, bỏ chạy…Trong sự việc nêu ở câu cuối của đoạn văn mỗi chữ dùng, mỗi nét phác
họa đều có ý nghĩa.
Đối lập với cái ti tiện, cái dã man của chúng là lượng hải hà, là những hành động văn minh
của nhân dân ta. Cũng chỉ là những hiện tượng lịch sử. Nhưng đặt vào đây nó có tác dụng như
một thủ pháp nghệ thuật làm nổi bật lên cái khác nhau về bản chất giữa ta và địch, khẳng định
thêm về chất nhân đạo của dân ta. Đối với kẻ tay còn đẫm máu Việt Nam, nhân dân và cách
mạng Việt Nam vẫn giúp họ, cứu họ, bảo vệ họ. Ba động từ biểu hiện ba hình thái tương quan
với kẻ thù, ba trạng thái cụ thể của lòng nhân đạo Việt Nam. Giúp là đối với kẻ còn chủ động,
muốn vượt biên giới tránh cái họa của chủ nghĩa phát xít Nhật. Ta thêm cho họ một cái đẩy
tay giúp họ vượt được ranh giới giữa mong muốn và hiện thực. Cứu là đối với những kẻ bất
lực, trong một tình thế nguy nan tuyệt vọng, những kẻ bị giam trong nhà tù Nhật, chỉ chờ
ngày tận số…Ta phá cũi sổ lồng, cứu những con mồi của thần chết. Bảo vệ là đối với những
con người đang còn bị đe dọa. Ta cứu họ rồi lại còn tiếp tục bảo vệ, không chỉ tính mạng mà
còn cả tài sản nữa. Cái chu đáo của lòng nhân đạo Việt Nam là như thế.
Vậy thì giữa những người Việt Nam như thế và những người Pháp như trên, ai bảo hộ ai? Và
người Pháp có quyền gì đối với Việt Nam nữa không? Thêm vào đó là một sự thực rành rành:
từ tháng 9 - 1940 khi Nhật tràn qua Lạng Sơn vào Việt Nam, Pháp đã đầu hàng Nhật, đã bán
chủ quyền nước ta cho Nhật. Về mặt pháp lý, một vật đã bán cho người khác tất thuộc quyền
sở hữu của người đó. Và ta đã lấy lại vật ta đã mất từ tay Nhật. Như thế là về mọi mặt, Pháp

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
65

đã không còn quan hệ gì với Việt Nam nữa. Bản tuyên ngôn có thể dõng dạc tuyên bố rằng
chúng ta “thoát li hẳn quan hệ với Pháp”.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời không phải là một sự thật ngẫu nhiên. Đó là bước
phát triển của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam vĩ đại. Chủ nghĩa anh hùng đó đã “đánh đổ chế
độ quân chủ mấy mươi thế kỷ” bằng vô vàn những cuộc khởi nghĩa quật đổ những ngai vàng
mà cuối cùng là của vương triều nhà Nguyễn mục nát. Bảo Đại buộc phải thoái vị để làm một
người nông dân. Chủ nghĩa anh hùng đó đã “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm
năm nay “bằng gươm súng, bằng máu xương của những con người anh hùng như Trương
Định, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám và của những chiến sỹ vô sản bất khuất kiên
cường. “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Một câu trong những câu hiếm của văn
chương, cô đúc bao sự kiện lịch sử.
Ách thực dân, họa phát xít, tệ quân quyền, những rác rưởi ấy bị quét sạch, dọn chỗ đón một
quốc gia mới, một chế độ mới. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Ba đoạn cuối của bản tuyên ngôn độc lập là những
đoạn văn thép: chất thép của ý chí Hồ Chí Minh, của ý chí Việt Nam. Chất thép trong lập luận
buộc Đồng minh phải công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam, lấy lời của họ để ràng buộc
họ. “Chúng tôi tin rằng...”. Tin có ý nghĩa tu từ. Mềm đấy, mà rắn đấy. Tin là tỏ vẻ tôn trọng
họ, giá định phẩm chất tốt đẹp của họ. Đó là cách buộc họ phải tự trọng, nghĩa là buộc họ
không được có sự bất nhất giữa lời nói và việc làm, “Không thể không công nhận” quyền độc
lập của dân tộc Việt Nam. “Không thể không” hai phủ định nghe vẫn chắc chắn hơn một
khẳng định. Chất thép trong câu tiếp ở cái kết luận tất yếu của một thứ tam đoạn luận độc đáo
vì có một vế ẩn mà lại rất rõ. Một dân tộc không chịu khuất phục, đã liên tục chiến đấu chống
mọi ách nô lệ Pháp cũng như Nhật, dân tộc đó phải được độc lập. Phe Đồng minh gồm toàn
những nước tự do. Một nước đứng về phe Đồng minh, cùng lí tưởng, cùng chiến đấu. Nước
đó phải được tự do. Dân tộc đó là dân tộc Việt Nam. Vậy dân tộc Việt Nam phải được độc
lập, nước Việt Nam phải được tự do. Dân tộc, tự do, độc lập. Những từ thiêng liêng đó trở lại
cùng với những tính từ gan góc, những trạng ngữ: 80 năm nay, mấy năm nay, những khẳng
định: phải được nhưng hùng dũng gõ nhịp trong một điệp khúc của một bài hùng ca đòi quyền
sống. Chất thép trong đoạn cuối cùng là ở tính chất trịnh trọng của bản tuyên bố về một sự
thực, về quyết tâm bảo vệ bằng bất cứ giá nào sự thực đó. “Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập...Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Mỗi từ, mỗi chữ đều có sức nặng và
sau đó những lời thề thiêng liêng thét lên từ cửa miệng của một triệu người, trên cái âm vang
của làn sóng bốn nghìn năm bất khuất càng thêm vững chắc. Bản tuyên ngôn kết thúc dứt
khoát ngoan cường như một lời thách thức. Những kẻ thù của Việt Nam mù quáng vì lòng
tham, không đủ khôn ngoan sáng suốt lần lượt lao đầu vào chất thép Việt Nam và sẽ nghiệm
thấy thấm thía lời cảnh báo của một Hồ Chí Minh, của một Việt Nam dân chủ cộng hòa.
 Giá trị nghệ thuật
- Kết cấu chặt chẽ, lập luận đanh thép, sắc bén
+ Kết cấu chặt chẽ:
Phần mở đầu nêu chân lý, lẽ phải không thể chối cãi để làm cơ sở lập luận cho phần tiếp.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
66

Phần hai, trên cơ sở lí luận, soi vào thực tiễn để tố cáo.


Phần cuối, tuyên bố và khẳng định dựa vào những lý lẽ chặt chẽ đã đưa ra.
+ Lập luận đanh thép, sắc bén:
Lập luận luôn hướng đến mục đích tác phẩm
Luôn có sự kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn để tăng sức thuyết phục.
- Giọng văn linh hoạt, phù hợp với đối tượng và nội dung truyền đạt:
+ Nói với công luận quốc tế, lời văn uyên bác, giàu chất trí tuệ. Nói với đồng bào trong nước,
lời văn tình cảm, chân thành, tha thiết.
+ Giọng văn dõng dạc, trang trọng khi khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc; căm phẫn xót
xa khi tố cáo tội ác giặc; hùng hồn đanh thép khi nói về tinh thần đấu tranh của dân tộc Việt
Nam.
- Ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật vừa súc tích, chính xác, vừa giàu sức biểu
cảm:
+ Từ ngữ vừa chính xác, vừa gợi cảm
+ Những quan điểm, tư tưởng chính trị được diễn đạt bằng hình tượng sinh động, dễ hiểu, có
sức truyền cảm lớn.
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân
VD: Lời văn không khô khan mà trữ tình đanh thép. Mỗi từ mỗi câu đều chứa đựng trong đó
sức nặng tinh thần của cả một dân tộc anh hùng quyết hi sinh để giữ độc lập tự do. Cụm từ
độc lập tự do được lặp đi lặp lại ba lần như khắc sâu vào muôn triệu người Việt Nam, như
tiếng kèn xung trận vang lên mạnh mẽ hào hùng. Lời tuyên bố mở nước cũng là lời thề sắt đá
vừa thiêng liêng vừa khích lệ nhân dân ta vừa là lời cảnh báo đối với kẻ thù. “Tuyên ngôn
Độc lập” xứng đáng là một áng “thiên cổ hùng văn”. Nó đã kế tục truyền thống vinh quang
của “Nam quốc sơn hà” và “Bình Ngô đại cáo“. Nó là lời nước non cao cả và thiêng liêng, thể
hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đọc đoạn văn cuối bản
“Tuyên ngôn Độc lập“, chúng ta càng thấm thía tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã
giành được bằng xương máu của bao thế hệ, của bao anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống cho chúng
ta được tự do như ngày hôm nay.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
67

TÂY TIẾN (QUANG DŨNG)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
68

- Giới thiệu tác phẩm


VD: “Tây Tiến” là một tác phẩm xuất sắc mà đã được nhà phê bình văn học Nguyễn Xuân
Nguyên không tiếc lời khen ngợi: “Một bài thơ kỳ diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng
công chúng, một bài thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường tồn
trong lịch sử và ký ức mỗi người. Nó như một viên ngọc sáng trong tâm hồn Việt, tấm lòng
Việt và thơ ca Việt”. Tác phẩm thành công và để lại trong dấu ấn người đọc một ấn tượng về
hình ảnh Việt Nam trong những năm tháng chiến đấu gian khổ và quyết liệt. Và hình ảnh
những người lính Tây Tiến chính là hình tượng nổi bật làm nên giá trị và sức sống của tác
phẩm.
 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý/ trích dẫn
- Giới thiệu tác giả- tác phẩm
VD:
“Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai bồng
……
Khi Tổ Quốc cần họ biết sống xa nhau”
Chiến tranh đi qua đã để lại cho chúng ta những hoài niệm về những tháng năm không thể nào
quên, đó là khi con người ta nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là để chiến đấu, là để báo thù,
đó là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ, việc học hành, tình cảm cá nhân vị kỉ để đi
theo tiếng gọi của Tổ Quốc… Những con người ấy đã đi vào trong thơ ca, nghệ thuật như
những huyền thoại của thế kỉ 20 mà nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện thật xuất sắc thông qua
lăng kính lãng mạn nhưng vẫn đậm chất hiện thực của mình qua bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm
đã khắc họa thành công bức tượng đài người lính Tây Tiến trong những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp gian khổ.

2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác
Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù
Lưu Chanh(1 làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ ), Quang Dũng viết bài thơ'' Nhớ Tây Tiến". Khi in
lại, tác giả đổi tên bài thơ là" Tây Tiến".
- Ý nghĩa nhan đề
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào
cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
69

Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm
Nưa (Lào). Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh,
sinh viên chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh
sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Đoàn
quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52.
Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù
Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Tây Tiến có nghĩa là tiến về miền Tây,
nơi đoàn quân đang dốc hết sức mình bảo vệ tổ quốc và giúp sức cho đất nước bạn.
- Nội dung
Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng đường
hành quân với bao gian khổ, thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị,
ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng... Qua đó, tác giả đã khắc họa thành công hình
tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên
miền Tây tổ quốc.
 Phân tích
Khi nhắc đến tên tuổi của nhà thơ Quang Dũng, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn
chương đều biết ông luôn luôn nhìn sự vật, hiện tượng thông qua lăng kính lãng mạn với
phong cách thơ rất độc đáo. Bên cạnh đó, Quang Dũng được thừa nhận như là một sự khác
biệt hoàn toàn trong phong trào thơ mới những năm 1932 - 1945. Một trong số những kiệt tác
của Quang Dũng ta phải kể đến bài thơ “Tây Tiến” in trong tập “Mây đầu ô” năm 1948, được
tác giả viết trong một chiều mưa ở Phù Lưu Chanh. Bài thơ viết về những năm tháng kháng
chiến chống Pháp gian khổ và khó khăn, nổi bật lên trên phông nền ấy là hình tượng người
chiến sĩ Tây Tiến-những người thanh niên Hà Nội lần đầu đến với miền Tây để thực hiện
nhiệm vụ vừa đánh vừa tiêu hao lực lượng địch. Toàn bộ bài thơ là một khúc vĩ thanh về nỗi
nhớ sâu sắc cuộc sống gian khổ của người lính Tây Tiến. Bởi vậy nên ban đầu tác phẩm được
đặt tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng rồi được đổi lại thành “Tây Tiến.
Trước hết, ta đến với hai câu thơ mở ra chặng đường hành quân của những người lính Tây
Tiến và cũng chính là khúc tiền tấu về nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhớ tới khi nói về đơn vị của mình đó là con sông Mã. Và cũng
ở câu thơ cuối, sông Mã lại hiện lên một lần nữa: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Đây là
thủ pháp nghệ thuật đầu cuối tương ứng, nhà thơ khéo léo chỉ ra rằng sông Mã trải dài trên
toàn bộ vùng địa bàn rộng lớn mà người lính Tây Tiến hành quân đi qua. Nhờ đó, thi sĩ đã
nâng tầm sông Mã để trở thành một chứng nhân lịch sử, ghi lại tội ác của kẻ thù, đánh dấu
những chiến công hiển hách của đoàn binh Tây Tiến.. Câu thơ đầu tiên đã diễn tả hai mảng
hiện thực tâm trạng, đó không chỉ là “Sông Mã xa rồi” mà mảng hiện thực tâm trạng nữa còn
thể hiện ở tiếng gọi thân thương “Tây Tiến ơi”. Điều này khẳng định rằng dường như trong
tâm trí, những người lính Tây Tiến chưa bao giờ rời xa đơn vị của mình. Tây Tiến vốn dĩ chỉ
là tên của một đơn vị nhưng lại được gọi với giọng điệu đầy thân thương và tha thiết như gọi

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
70

những người thân yêu. Và điều đó khiến chúng ta hiểu rằng : khoảng cách địa lí đôi khi phải
bất lực trước sự dào dạt và thiết tha của cảm xúc, của tình yêu thương và của nỗi nhớ nhung.
Nỗi nhớ trong trái tim của những người lính Tây Tiến là một nỗi nhớ đặc biệt: “nhớ chơi vơi”.
Tưởng như rất nhẹ mà lại rất sâu, tưởng như thoáng qua mà lại buộc vào đầy day dứt. Hai câu
thơ nhưng lại có đến ba lần gieo vần “ơi” tạo nên âm hưởng thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ
trong lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian, cảm giác về
một nỗi nhớ da diết, mênh mang lan mãi đến từng nhịp đập trái tim người đọc. Điệp từ “nhớ”
được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả. Mặc dù đã
“xa rồi” nhưng trong lòng vẫn tha thiết nhớ mong –đó là những ngày tháng chiến đấu cùng
đồng chí, đồng đội. Những tưởng cuộc sống gian khổ là thế nhưng lại hạnh phúc, giản dị vô
cùng. Phải chăng nỗi nhớ ấy trước tiên là thiên nhiên, rừng núi Tây Bắc – nơi in đậm bao nỗi
khổ, bao niềm vui sầu của người lính Tây Tiến.
Hai câu thơ đầu đem đến sự ấn tượng về nỗi nhớ nhung khắc khoải, và những câu thơ tiếp
theo đã cụ thể hóa nỗi nhớ ấy của những người lính. Họ đã nhớ về hình ảnh thiên nhiên Tây
Bắc với cả hai nét vẽ: vừa gân guốc dữ dội, vừa mềm mại, tinh tế.:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Hai câu thơ trên vừa tả thực vừa sử dụng bút pháp lãng mạn. Sài Khao và Mường Lát đều là
những địa danh rộng lớn mà người lính Tây Tiến đã từng đặt chân qua. Nói đến Tây Bắc là
nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Từ hình ảnh “sương lấp đoàn quân
mỏi”, độc giả cả nước có thể dễ dàng cảm nhận được khoảng thời gian mà người lính Tây
Tiến hoạt động, các anh ra đi khi trời còn tờ mờ sáng và trở về trong những đêm khuya thanh
vắng, dày đặc hơi sương chẳng thấy rõ mặt nhau. Quang Dũng đã tái hiện lên một mảng hiện
thực còn khuất lấp trong thơ ca thời chiến. Hình ảnh sương khói đã từng xuất hiện rất nhiều
trong các tác phẩm thơ ca : “ Nhớ từng bản khói cùng sương” (“Việt Bắc”- Tố Hữu), “Nhớ
bản sương giăng nhớ đèo mây phủ…” (“Tiếng hát con tàu”- Chế Lan Viên). Với Quang
Dũng, “sương” không hề gắn liền với một nỗi nhớ thương, mà đó chính là thử thách đầy khó
khăn và khắc nghiệt. Một câu thơ có đến năm thanh bằng nhưng không hề gợi ra nét êm ả
phẳng lặng. Sương khói đã khiến “đoàn quân mỏi” chứ tinh thần không “mỏi”. Bởi mỗi người
trong họ luôn có một sức sống mãnh liệt, một tâm hồn trẻ trung, một tinh thần lạc quan vì
ngày mai tương sáng, một ý chí kiên cường, bất khuất ra đi không hẹn ngày trở lại, quyết tử
cho tổ quốc quyết sinh. Ngay sau một câu thơ đầy dữ dội lại là một câu thơ êm đềm và tinh tế.
Hình ảnh “hoa về” đã được tác giả sử dụng cùng một lúc hai thủ pháp nghệ thuật đó là nhân
hóa và ẩn dụ. Ta có thể hiểu “hoa” đây chính là những người lính Tây Tiến khi trở về sau
những đêm dài hành quân nung nấu. Nhưng bên cạnh đó, “hoa” cũng có thể hiểu là những bó
đuốc cháy bập bùng soi đường chỉ lối cho anh bộ đội sau cả một ngày dài hành quân vất vả.
Nếu như ở hai câu thơ trước, nhà thơ gợi cho chúng ta về thời gian thì hai câu thơ tiếp lại gợi
tả về vùng địa bàn rộng lớn – nơi những người lính Tây Tiến từng hoạt động:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
71

Cuộc hành quân của những người lính khó khăn và gian khổ còn bởi núi cao vực sâu. Nhà thơ
đã sử dụng điệp từ “dốc” để nhấn mạnh vào độ cao và một loạt các từ láy tượng hình như
“khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” kết hợp với nhịp thơ 4/3 như chẻ đôi câu thơ, gieo
nhiều thanh trắc gợi cho ta thấy sự vất vả, nhọc nhằn của những người lính khi đi qua những
vách núi cheo leo, hiểm trở. Trong hoàn cảnh ấy, người lính Tây Tiến phải treo mình trên
những triền núi đá khi một bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là núi cao chót vót. Sự vắng vẻ,
quạnh hiu của những nơi các anh từng đi qua đều chưa có bóng người đặt chân tới được
Quang Dũng gói gọn trong từ láy “heo hút”. Hình ảnh “súng ngửi trời” được nhà thơ xứ Đoài
nhân hóa lên một cách đầy mới mẻ, trẻ trung và không kém phần táo bạo. Đó như điểm nhìn
của tác giả khi tưởng chừng rằng người lính Tây Tiến đã chạm đến đỉnh của mây trời. Cả 3
câu thơ rõ ràng khắc họa chân thực về chặng đường hành quân gian khổ của những người
lính. Với thủ pháp nghệ thuật điệp ngữ “Ngàn thước” cùng những từ ngữ tương xứng phản
đối lập mở ra khôn gian từ trên xuống hay từ dưới lên đều thật hùng vĩ, nhấn mạnh độ gập
ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây, sau ngọn núi này lại
là một ngọn núi khác, mênh mông vô tận. Tuy nhiên, sự bình yên lại được bộc lộ qua câu thơ
tiếp theo:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Dường như, sự yên bình ấy được gợi lên khi người lính nhìn thấy hình ảnh “nhà ai”.
Ở đây, “ai” là một đại từ phiếm chỉ thể hiện sự vô định, đây là những bản làng của người
đồng bào dân tộc miền cao, nó đều trở thành những mái nhà che chở cho người lính Tây Tây
trên suốt chặng đường hành quân. Có những cơn mưa rừng chợt đến rồi chợt đi, để lại cho
người lính bao giá rét đêm ngày. Nhưng khắc nghiệt là thế, bởi Quang Dũng là một nhà thơ
luôn nhìn sự vật, hiện tượng thông qua lăng kính lãng mạn nên dưới ngòi bút ấy, mọi thứ đều
trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Sự sáng tạo và thông minh trong phong cách thơ Quang Dũng
thể diện rõ qua cách ông gọi những cơn mưa rừng là “mưa xa khơi”, gợi chút hoang sơ, kì bí
giữa chốn núi rừng. Không chỉ vậy, vần mở “ơi” được đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng,
những giây phút hiếm hoi người lính được nghỉ ngơi, thư giãn trên đỉnh núi, thưởng thức chút
bình yên, ngắm trọn vẹn phong cảnh núi rừng Tây Bắc, xa xa thấy mưa rừng giăng mờ nơi
bản làng Pha Luông. Cả bốn câu thơ khi phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt.
Nếu như ba câu thơ trước được vẽ bằng những nét dứt khoát, mạnh mẽ thì ở câu thơ thứ tư lại
được tô lên rất mềm mại. Đây có một chút tương đồng với quy luật khi sử dụng các gam màu
trong hội họa: giữa những gam màu nóng người họa sĩ sử dụng một gam màu lạnh như làm
dịu lại, xoa mát cả cả bức tranh. Cũng như cách Quang Dũng làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở
của núi rừng và mở ra bức tranh thiên nhiên sông núi nước non đầy lãng mạn.
Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn binh Tây Tiến đã từng phải
đối mặt. Nhưng để có thể vượt qua chặng đường ấy, họ đã phải sống hết mình, sống như
không có ngày mai:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
Súng đã nổ thì người dân Việt Nam cũng đổ máu, chiến tranh không phải là trò đùa, có người
lính ra đi thì có người lính hy sinh là những điều không thể tránh khỏi. Trước gian khổ, trên

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
72

đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy. Thế
nhưng, dưới ngòi bút độc đáo của Quang Dũng, cái chết của người lính lại được nhìn nhận
thông qua lăng kính lãng mạn: “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.Những người lính Tây Tiến đã
chủ động “không bước nữa” và sự ra đi của họ thật thanh thản và nhẹ nhõm. Chẳng còn chút
gì phả đắn đo, phải day dứt, phải hối tiếc. Sự ra đi của người lính Tây Tiến được lãng mạn
hóa chỉ như một giấc ngủ nhẹ nhàng giữ hai giờ súng nổ thông qua cụm từ “bỏ quên đời”, một
cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính từ trần. Nhưng hình ảnh “gục
lên súng mũ” mới thực sự là đắt giá khiến từ trong tâm thức của mỗi người yêu văn chương
đều nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:
“Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng chiến
chống Mỹ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn
của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục
lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức
lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. Bên cạnh đó, ta cũng có thể
thấy một nét đẹp khác trong phẩm chất của những người lính Tây Tiến. Đó là những con
người dũng cảm, gan dạ và đầy bản lĩnh phi thường, họ thà chết đường, chết bệnh, chết trận
chứ nhất quyết không bao giờ có chuyện đào ngũ trở về. Dù có ra đi nhưng cũng ra đi trong tư
thế của một người chiến sĩ. Sự trầm lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng
liêng trong một bản nhạc hào hùng vừa qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao.
Họ đã hy sinh cả tuổi trẻ –điều tốt đẹp nhất của cuộc đời –để gìn giữ cho hòa bình hôm nay.
Đó là cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng
chiến đấu không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế,
sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ tuy
nói đến sự mất mát hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.
Sự hùng vĩ và dữ dội của con đường hành quân không chỉ được thể hiện qua những đường nét
mà còn được tô đậm bởi những âm thanh hoang dại của núi rừng thiên nhiên:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này -
một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Nhà thơ sử dụng từ láy “chiều chiều”
và “đêm đêm” gợi cho ta về sự viên miễn của thời gian, sự tuần hoàn và thường xuyên, lặp đi
lặp lại. Có thể thấy, những gian khổ mà người lính phải trải qua không chỉ là núi cao dốc thẳm
không chỉ là mưa lũ thác gầm mà còn cả bóng cọp vờn người bởi các anh phải hành quân đi
qua những mảnh đất u tì quốc nơi rừng thiếng nước độc. Ta có thể phần nào hiểu được sự trắc
trở, khó khăn của người lính Tây Tiến trên con đường hành quân khi nhớ đến câu thơ của Lý
Bạch: “Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.” Có nghĩa: đường xứ Thục khó đi, khó
hơn lên tận trời xanh. Ở đây, sức nặng của văn chương dồn đổ vào từ “Mường Hịch”, đây
thực sự là thử thách với bản lĩnh của người lính Tây Tiến. Những bóng cọp, bóng hổ xuất hiện
như một hiểm họa đến từ thiên nhiên, đe dọa mạng sống của con người thế nhưng khi được

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
73

nhìn nhận thông qua lăng kính lãng mạn của Quang Dũng cũng chỉ như một trò đùa trẻ con
dùng để “trêu người”. Những con người ấy – họ ra đi từ những năm đầu của cuộc kháng chiến
trường kỳ gian khổ của dân tộc, lại là những trí thức Hà thành, tạm gác chuyện đèn sách mà
xông pha nơi tiền tuyến không hối hận cũng chưa từng nề hà trước khó khăn gian khổ. Đó là
tình yêu quê hương, tình yêu đất nước sâu sắc, là tấm lòng của người con dân với đất mẹ, là ý
chí kiên cường sắt đá của những người lính khi vượt qua được chính mình. Quang Dũng là
một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống
gian khổ của người lính Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Ông viết về người lính Tây
Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về những gian khổ, những hy sinh của
người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị,
mà ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. “Tây Tiến” không che giấu cái bi, nhưng không phải bi
lụy mà là bi tráng. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng, nói hy sinh để nâng hình ảnh người
lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi
chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hy sinh? Và hình ảnh người lính sẽ
không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu
khắc nghiệt. Đoạn thơ khép lại đột ngột bằng hai câu thơ:
“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Nhà thơ xứ Đoài đã gói gọn mùa hương thơm lúa gạo trong hình ảnh “cơm lên khói” và
“thơm nếp xôi”. Cảnh tượng thật đầm ấm, đó là nỗi nhớ thiết tha của tác giả khi nghĩ về
những ngày dừng chân ở một bản làng nào đó sau bao đêm băng rừng, vượt đèo, lội suối rồi,
lại được quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói cùng đồng chí, đồng đội, xua tan đi bao
mệt mỏi. Dù phải chiến đấu ở bất cứ nơi đâu, trong hoàn cảnh nào thì mùi hương thơm lúa
gạo luôn canh cánh và thường trực trong lòng của mỗi người chiến sĩ khi nhớ về quê nhà. Khi
đến với đoạn thơ thứ hai, ta thấy một Tây Bắc hoàn toàn khác so với đoạn trước. Thay cho
hình ảnh một khung cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, Tây Bắc hiện lên là một vùng sông núi
nước non diễm lệ, đấy duyên dáng và đậm chất trữ tình, rất nên thơ nên họa. Và ở đoạn thơ
này, ngòi bút tài hoa của Quang Dũng được thực sự tỏa sáng. Tác giả như một người nghệ sĩ
bị hấp dẫn bởi chính những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật xứ lạ,
phương xa. Mở ra đoạn thơ là một quang cảnh lung linh, huyền ảo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.”
Ta bắt gặp động từ mạnh “bừng” cùng một lúc mang nhiều trường ý nghĩa nhưng dù hiểu
cách nào cũng đều hay và chính xác. Trước hết, ta có thể hiểu “bừng” là bừng sáng lên, vừa
đột ngột, bất ngờ mà lại không kém phần thú vị. Hay ta cũng thể nghĩ “bừng” ở đây là bừng
sáng lung linh, mặc khác cũng có thể hiểu là không khí tưng bừng, rộn ràng. Dù hiểu thế nào
thì câu thơ cũng đều mang đến một hình hết sức nhộn nhịp, sôi nổi bởi từ “bừng” này đã được
Quang Dũng dùng đạt đến sự chính xác trong việc sử dụng ngôn từ mà nói như Maia Cốp ski:
“Để có được một gam phải mất hàng trăm lao lực. Để có được một chữ phải mất hàng ngàn
tấn quặng ngôn từ”. Bên cạnh đó, ta còn bắt gặp hình ảnh mang dụng ý nghệ thuật “hội đuốc
hoa”. Nhìn nhận những bó đuốc cháy bập bùng được mọi người cầm trên tay, tác giả gọi đó là

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
74

đuốc hoa – ngọn đèn trong đêm tân hôn. Trong không khí ngập tràn ánh sáng lung linh từ
ngọn lửa đuốc cùng những âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật và con người như ngả
nghiêng, mê say, rạo rực. Điều này đã khẳng định được vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây
Tiến, họ là những con người đẹp từ trong chân lý sinh ra, đẹp trong chiến đấu và đẹp cả trông
cuộc sống đời thường. Người lính Tây Tiến sống hôm nay không biết ngày mai còn hay mất
nhưng họ vẫn luôn trẻ trung và xuân sắc, vẫn chờ đợi và tin tưởng vào một cuộc cách mạng
thành công thắng lợi. Từ sung sướng cho tới ngỡ ngàng, người lính Tây Tiến bị thu hút bởi
linh hồn của buổi văn nghệ - những cô gái nơi núi rừng Tây Bắc bất ngờ xuất hiện trong
những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn lại vừa tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ.
Bên cạnh đó, người lính Tây Tiến còn được đón tiếp nồng nhiệt bằng cả âm nhạc và điệu
múa:
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”
Tác giả ban đầu viết “em” nhưng sau đổi thành “nàng” bởi chính trong không gian của âm
nhạc và vũ điệu ấy đã chắp cảnh cho tâm hồn của Quang Dũng cũng như những người lính
Tây Tiến khác càng bay xa. Câu thơ sau, ta bắt gặp địa danh Viên Chăn – thủ đô của Lào bởi
người lính Tây Tiến không chỉ chiến đấu ở Tây Bắc Việt Nam mà còn ở cả nhiều vùng thuộc
các tỉnh Sầm Nứa, Xiêng Khoảng của Lào. Từ đó ta có thể thấy, đôi khi các anh phải chiến
đấu ở những nơi đất khách quê người, nhưng dù ở bất cứ đâu cũng đều được đón tiếp bằng
tình cảm quân dân nồng thắm. Mặt khác người đọc cũng thấy được mối mang giao hữu hào
lâu đời của Lào với Việt Nam – cùng chung một kẻ thù – thực dân Pháp. Nếu như bốn câu thơ
trên là những đêm giao lưu văn hóa văn nghệ của người đồng bào dân tộc miền cao với đoàn
binh Tây Tiến thì bốn câu thơ tiếp theo lại mang vẻ đẹp huyền hồ của thiên nhiên miền Tây:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Mở ra là không gian giăng mắc màu sương khói cứ thế trong cõi mộng cõi mơ hiện ra. Cái
thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của sương khói ban mai đã biến nơi đây trở thành một
miền cổ tích. “Lau” vốn là một loại cây vô tri vô giác vậy mà nhà thơ Quang Dũng lại sử
dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa để thối hồn mình vào cảnh vật tràn đầy sức sống. Phải là
một thi sĩ nhạy cảm và vô cùng tinh tế mới có thể nhận ra “lau” luôn trải rộng những bến bờ,
chỉ là người ta có để tâm hay không. Tác giả viết là “hồn lau” chứ không phải là “bông lau”,
cây lau”… Bởi chữ “hồn” đã khiến cho “lau” trở nên trừu tượng đến lạ lùng. Mà nhớ về một
thứ trừu tượng chắc hẳn tâm hồn đó phải sâu nặng lắm, phải thiết tha lắm. Trên dòng sông
đậm màu cổ tích, huyền thoại ấy nổi bật lên là dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô
gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ mà người cũng rất tình. Cảnh vật như cũng
là duyên với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm dáng trên sóng nước.
Dưới ngòi bút tinh tế của Quang Dũng không chỉ làm hiện lên vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn
gợi lên phàn thiêng liêng của cảnh vật. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
75

say. Trong không gian thơ ca của Quang Dũng, ta cảm nhận được rằng đây là thế giới của cõi
mộng, cõi mơ, cõi thơ, cõi nhạc. Bốn câu thơ ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự
tâm hồn ngây ngất. Trên nền hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng và duyên dáng, mỹ lệ của Tây
Bắc thì khi đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng đoàn binh Tây Tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đầy
bi tráng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Câu thơ đầu tiên của khổ thơ đã gây ấn tượng đậm nét chính bởi sự ngạo nghễ, ngang
tàng.Chiến tranh rồi sẽ qua đi, thời gian sẽ bù đắp những mất mát, đau thương, hình ảnh của
những chiến sĩ vô danh quyết tử cho tổ quốc sinh vẫn luôn còn mãi trong hàng triệu trái tim
con người Việt Nam. Nói như Banlzac: “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời
đại”. Bởi vậy, văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc vĩnh viễn vào tâm hồn
người đọc hình ảnh những người con anh hùng ngã xuống vì nền độc lập Tổ quốc trong suốt
trường kỳ lịch sử. Đọc câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” ta có thể thấy cái tài
trong ngòi bút của Quang Dũng. Tuy ông mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy
nhưng vẫn gợi ra được âm hưởng hào hùng bởi những trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”,
“mọc tóc” đều được gieo thanh trắc, mỗi từ, mỗi chữ đều như những nét khắc nét trạm, khắc
lên bức tượng đài người lính Tây Tiến. Ngay từ hai câu thơ đầu của đoạn, tác giả đã cho
người đọc nhớ lại về căn bệnh quái ác từng ám ảnh trong văn chương cả một thời kỳ kháng
chiến chống Pháp: bệnh sốt rét rừng. Trên thực tế, người mắc phải bệnh này tóc đều rụng
nhưng ở đây, khi được nhìn nhận qua lăng kính lãng mạn, nhà thơ xứ đoài Quang Dũng
chuyển từ bị rụng tóc thành “không mọc tóc”, biến tư thế của người lính Tây Tiến từ bị động
sang chủ động.
Tiếp đến, ta bắt gặp hình ảnh quân xanh màu lá, đáng lý đó là màu xanh của làn da bủng beo,
xanh xao, vàng vọt của người bệnh nhưng một lần nữa, khi được viết dưới ngòi bút lãng mạn
của Quang Dũng, màu xanh của lan da ốm yếu nay lại thành màu xanh của lá ngụy trang,
xanh biếc, xa lũy tre làng, là mùa xanh của lá cây rừng che trở cho các anh trên chặng đường
hành quân. Những người lính Tây Tiến “ốm” nhưng không hề “yếu”, dù trong bất cứ hoàn
cảnh nào, các anh vẫn luôn giữ vững tâm thế oai nghiêm, đứng lên làm chủ đất nước mình.
Cho nên Quang Dũng cũng miêu tả họ trong vẻ đẹp chủ động đến kiêu ngạo, không phải họ bị
rụng tóc, mà lại là không mọc tóc, không phải da xanh tái vì sốt rét mà là “dữ oai hùm”, sắc
xanh của núi rừng tự nhiên.
Nếu như hai câu thơ trước tác giả khắc họa lên vẻ đẹp của người lính Tây Tiến thì ở hai câu
thơ tiếp theo, nhà thơ Quang Dũng lách sâu ngòi bút của mình để thể hiện tâm thư tình cảm
của người chiến sĩ Tây Tiến, nét hào hoa của những người lính Tây Tiến:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Cùng một lúc cả hai hành động đều xảy ra trong lòng các anh đó là “mắt trừng” và “gửi
mộng”, khi chiến đấu các anh luôn đề cao cảnh giác, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ
nhưng dù ở nơi đất khách quê người, trái tim các anh vẫn không quên gửi gắm những yêu

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
76

thương, tâm tư của mình cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành. Không cần miêu tả về
vóc dáng, bóng hình, ba chữ “dáng kiều thơm” đã chan chứa, đong đầy dáng hình của Hà Nội
Thơ hay ý tại ngôn ngoại, dù hiểu theo ý nào cũng đều hay bởi đối với người lính Tây Tiến,
tuy nỗi nhớ “dáng Kiều thơm” không phải là một hình ảnh cụ thể nhưng trong trái tim họ luôn
luôn có hình ảnh của quê hương là thủ đô Hà Nội. Bất chợt ta nghĩ đến người lính đánh Pháp
năm nào trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi cũng từng có cùng cảm xúc “Những
đêm dài hành quân nung nấu, bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” ý chính sự hài hòa của
mộng và mơ đã cùng tiếp thêm sức mạnh cho các anh, vượt qua gian khổ, quyết tâm lập
những chiến công hiển hách. Quang Dũng nhìn nhận ở nhiều chiều, khắc hạ chân dung người
lính Tây Tiến không chỉ vẻ về ngoài mà còn cả tâm hồn lãng mạn của họ. Trong chiến tranh,
mất mát và hy sinh là không thể tránh khỏi, Quang Dũng cũng nêu lên hiện thực này không
che giấu theo cách của riêng ông:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Nhà thơ sử dụng những từ Hán Việt như “rải rác” là thưa thớt, “viễn xứ” là nơi xa. Tác giả tái
hiện một không gian lạnh lẽo, heo hút với hình ảnh những nấm mồ hoang của những người
con xa xứ ngoài biên ải, tuy không nhiều nhưng “rải rác” trên vạn nẻo đường hành quân. Đó
là những cảnh tượng nghiệt ngã đến ám ảnh mà các anh luôn phải đối mặt hàng ngày. Đi đâu
cũng thấy vài ba nấm bộ trên đường, qua mưa gió, thời gian của những người lính trẻ xa nhà
đã vĩnh viễn nằm lại ngoài biên cương. Những con người thà chết đường, chết bệnh chứ nhất
quyết không bao giờ có chuyện đào ngũ trở về. Họ ra đi khi ở ngưỡng tuổi đẹp nhất của đời
người. Các anh đã tham gia chiến dịch của những thanh niên yêu nước mà “chẳng tiếc đời
xanh”, dám từ bỏ tất cả, gác lại việc họp tập, ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc không hẹn ngày
trở về. Sự hi sinh thầm lặng mà anh dũng của những người lính vô danh đã tạo nên sự bất tử
cho Tổ quốc
Ở câu thơ tiếp theo, ta bắt gặp vẻ đẹp thứ ba trong bài thơ “Tây Tiến”, đó là cái bi, nỗi buồn
nhưng không phải bi quan, bi lụy mà là bi hùng, bi tráng:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Ra đi từ những năm đầu của cuộc chiến tranh trường kỳ gian khổ, người lính Tây Tiến thiếu
thốn rất nhiều về cơ sở vật chất, vậy mà ở đây ta nhận thấy Quang Dũng lại sử dụng hình ảnh
“áo bào” – loại áo dành cho vua chúa và quan võ. Mới nghe qua ta tưởng nghịch lý nhưng
nghĩ lại thấy hợp lý vô cùng. Nhà thơ Trần Lê Văn, đồng thời cũng là một người bạn thân của
Quang Dũng đã từng kể rằng: “Ngày ấy mỗi lần người lính ra trận thường được đồng bào địa
phương tặng cho chiếc chiếu, sống để đắp, chết bó thây. Và thực tế đã được nhiều người vận
dụng cho rằng : khi nằm xuống người lính chiến không có được cái hòm, chí có chiếc chiếu
liệm thân anh mà thôi! Nhưng căn cứ trên câu thơ “áo bào thay chiếu” thì khi chết người lính
không có cả chiếc chiếu để chôn thân, chiếc áo mặc lúc sống là chiếc quan tài che kín thân
anh! Hãy nghe Quang Dũng nói “ngay cả khi nằm xuống, người tử sĩ không có cả manh chiếu
liệm. Nói áo bào thay chiếu là cách nói của người lính chúng tôi, kiểu nói ước lệ. Câu thơ trên
đây để an ủi những đồng chí của mình ngã xuống giữa rừng”. Như thế đã rõ những người lính

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
77

chúng ta đã dâng hiến đời mình cho dân tộc đẹp đến chừng nào. Khi vĩnh viễn giã từ cuộc
sống, không có một tiếng khóc của người thân. Đồng đội cố nén dòng lệ phân li để giữ vững
tinh thần, chỉ có dòng sông Mã thay lời nước non đang gầm lên tiễn đưa người con ưu tú của
dân tộc về với đất mẹ. Khúc điều văn bi tráng của sông Mã đã nâng hình ảnh người lính lên
tầm vóc núi sông, ngang tầm với trời đất”. Tất cả những tấm áo, tấm chiều ấy được nhìn nhận
thông qua lăng kính lãng mạn của Quang Dũng đều được trở thành “áo bào”, mang dáng dấp
của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm nói tránh
“anh về đất” vơi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của
sông Mã. Một lần nữa hình ảnh sông Mã lại hiện lên và được nâng tầm để trở thành một
chứng nhân lịch sử ghi lại chiến công hiển hách của người lính Tây Tiến cùng sự hy sinh và
mất mát của họ. Không phải ngẫu nhiên, khi Quang Dũng mất, hội nhà văn Việt Nam đứng
trước linh cữu của Quang Dũng phải thốt lên rằng:
“Sông Mã xa rồi sông Mã ơi
Người yêu sông Mã cũng qua đời”
Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiếng Tây Bắc để
nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ vừa mang âm hưởng dữ dội, vừa hào
hùng khiến sự hy sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ
khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn thơ
vẫn toát lên vẻ hào hùng. “Tây Tiến” mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không
trở lại của lịch sử. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại một thời mơ mộng, lãng mạn hào
hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến vậy. “Có một bài ca
không bao giờ quên” – có một “Tây Tiến”, một Quang Dũng luôn ở trong trái tim của mỗi
con người yêu văn chương. Chiến tranh đã lùi xa nhưng âm vang vọng của nó thì còn mãi.
“Tây Tiến” chính là một trong những bài ca không thể nào quên của những năm tháng trường
kì chống Pháp. Ai đó đã từng nói rằng “Những gì không đọng lại trong đời, sẽ đọng lại trong
văn chương”, ta chưa một lần được tham gia vào đoàn binh tây Tiến, ta chưa một ngày phải
sống trong mưa bom bão đạn nhưng đọc những tác phẩm như này ta hiểu hơn về vẻ đẹp của
người lính trong thời chiến. Họ là những trí thức Hà thành, ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc.
Cũng khơi nguồn cảm hừng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây
Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể –
nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến ý chính niềm thương nhớ da diết và lòng tự hào
chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã khiến người đọc của nhiều thế
hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này”.
 Giá trị nghệ thuật
- Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng
- Nhiều sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu:
+ Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mỹ phong phú.
+ Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách, tên địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ
lẫm...

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
78

+ Giọng điệu: Khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi
trang trọng, khi trầm lắng...
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân
VD: Đọc “ Tây Tiến”, cái ta cảm nhận được không phải chỉ là vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, sự bi
tráng của người lính mà còn là vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của thiên nhiên. Tất cả hiện lên thật
rõ nét trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình. Có thể nói, Quang Dũng đã xây dựng thành công
bức tượng đài bất hủ về người lính trong kháng chiến chống Pháp. Khói lửa chiến tranh đã
qua đi, lịch sử dân tộc cũng đã bước sang trang mới, nhiều người thuộc đoàn quân Tây Tiến
năm xưa giờ đây đã trở thành thiên cổ. Thế nhưng, đúng như những gì mà Gian Nam từng
viết:
“ Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”.

VIỆT BẮC (TỐ HỮU)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
79

- Giới thiệu tác giả


- Giới thiệu tác phẩm
VD: Tố Hữu là nhà thơ gạo cội trong nền văn học Việt Nam, những sáng tác của ông đi sâu
vào xúc cảm mỗi cá nhân về tình yêu con người, yêu quê hương đất nước. Một trong số đó là
mảnh đất Việt Bắc ân tình – quê hương của kháng chiến, quê hương của những con người áo
chàm nghèo khó mà “đậm đà lòng son” khiến ai đã từng đặt chân đến nơi đây cũng phải bồi
hồi, xao xuyến.
 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý/ trích dẫn
- Giới thiệu tác giả- tác phẩm
VD: Tố Hữu đã từng nói : “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”, chính
những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc
để rồi thơ ca đã trào ra bao nỗi nhớ thương vô vàn. Việt Bắc chính là những rung động mạnh
liệt ấy của Tố Hữu. Bài thơ là kết tinh, là di sản của “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Tác phẩm là một khúc tình ca và cũng là khúc
hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Bài thơ được viết ra như lời hát tâm
tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc
được thể hiện qua lăng kính trữ tình – chính trị, đậm tính dân tộc và ngòi bút dạt dào cảm xúc
của thi nhân.
2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Tác giả
Mỗi mô ̣t nhà thơ họ luôn lựa chọn cho mình mô ̣t lối đi riêng trong sáng tác. Đối với Tố Hữu,
ông luôn được nhớ tới là cánh chim đầu đàn của thơ cách mạng Viê ̣t Nam, nhà thơ mang hồn
thơ của dân tô ̣c, trưởng thành trong giai đoạn thơ mới phát triển nhưng ông không đi theo con
đường ấy mà khẳng định tên tuổi của mình với phong cách thơ : Trữ Tình Chính Trị. Những
tác phẩm của ông luôn gắn liền với những mốc son trong lịch sử của dân tô ̣c, cũng như đọng
lại trong từng bài thơ ta cảm nhâ ̣n được sự chân thành, mô ̣c mạc tha thiết ân tình. Mô ̣t người
thư kí của của Cách Mạng, đem thơ ca viết lại trang sử vẻ vang của dân tô ̣c, những ngày
tháng không thể nào quên. Sở dĩ được gọi là Trữ Tình - Chính Trị là bởi những tác phẩm này
bày tỏ cảm xúc chân thành của bản thân tác giả nhưng lại tâ ̣p trung đề câ ̣p đến những vấn đề
to lớn, lớn lao, trọng đại của dân tô ̣c.Có thể nói Viê ̣t Bắc là đỉnh cao nghê ̣ thuâ ̣t trong sự
nghiê ̣p sáng tác của Tố Hữu.
- Hoàn cảnh sáng tác
Sau năm 1954, chúng ta lâ ̣p lại hòa bình ở miền bắc, chiến dịch Điê ̣n Biên Phủ kết thúc, hiê ̣p
định Giơ-ne-vơ được kí kết.Miền bắc xây dựng cuô ̣c sống mới tiến lên xã hô ̣i chủ nghĩa, cán
bô ̣ từ Viê ̣t Bắc trở về tiếp quản thủ đô Hà Nô ̣i chia tay nhân dân tại chiến khu Viê ̣t Bắc.Nhân
sự kiê ̣n có tính lịch sử - thời sự, Tố Hữu đã dồn cảm xúc của mình để gửi gắm cả vào tác

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
80

phẩm , vừa như ôn lại kỉ niê ̣m vừa là tri ân nhân dân tại chiến khu Viê ̣t Bắc trong những ngày
tháng đã qua trong kháng chiến chống Pháp.
- Ý nghĩa nhan đề
Không chỉ là tên gọi của đoạn trích trong tác phẩm trong sách giáo khoa, Viê ̣t Bắc còn là tên
của toàn bô ̣ tâ ̣p thơ này. Viê ̣t Bắc chính là căn cứ địa Cách Mạng ( từ năm 1941 sau khi khởi
nghĩa Bắc Sơn 9/1940 nổ ra, nơi đây được hình thành và đến năm 1954 thì hoàn thành sứ
mê ̣nh trong kháng chiến chống Pháp ) gồm 6 tỉnh: Cao Bằng- Bắc Kạn-Lạng Sơn-Hà Giang-
Tuyên Quang-Thái Nguyên.Viê ̣t Bắc trong kí ức của mọi con người Viê ̣t Nam luôn được nhớ
tới là quê hương cách mạng, thủ đô kháng chiến.
 Phân tích
Đă ̣c trưng về kết cấu của tác phẩm là cách hát đối đáp : Ta – mình
Người miền Bắc chúng ta vẫn có câu:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta níu vạt áo ta đề câu thơ.”
Hay như trong miền Nam khi những người thương, yêu nhau tiễn nhau bồi hồi cảm xúc cũng
có câu :
“Chàng về , em nắm vạt áo em la làng
Bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho ai?”
Tố Hữu sử dụng để thể hiê ̣n tình cảm của cán bô ̣ về xuôi với nhân dân, cũng như nhân dân với
người ra về. Ông mượn kết cấu lối hát đối đáp, ca dao viết về mô ̣t đề tài không mới là cuô ̣c
chia ly nhưng để ghi lại mô ̣t sự kiê ̣n lịch sử vừa mới diễn ra.Không phải là cá nhân chia tay
với cá nhân mà là của tâ ̣p thể với tâ ̣p thể của chiến sĩ ra về với nhân dân ở lại.Không phải
ngẫu nhiên ông được gọi là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn.Thơ ông đâ ̣m đà tính dân
tô ̣c. Hình thức đối đáp không chỉ là sự ướm hỏi mà đó chính là để bày tỏ tình cảm, tạo ra âm
thanh mang tính điê ̣p trùng cô ̣ng hưởng, đồng vọng không dứt, âm vang của thời đại.Mà cảm
xúc chủ đạo là nỗi nhớ xuyên suốt toàn bô ̣ tác phẩm.
4 câu thơ đầu : ( lời nhắn nhủ của người ở lại với cán bô ̣ về xuôi )

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
81

Mình về mình có nhớ ta Lời của nhân dân Viê ̣t Bắc dành cho người ra về.Hai
câu thơ 1-3 đều là câu hỏi tu từ không tìm kiếm câu trả lời,
Mười lăm năm ấy thiết mà chủ yếu là bày tỏ cảm xúc của nhân vâ ̣t trữ tình.Hỏi
tha mă ̣n nồng nhưng mục đích chính là để giãi bày tâm trạng của mình với
cán bô ̣ ra về , nhắc đi nhắc lại chỉ thay đổi mô ̣t từ "ta"” và từ
Mình về mình có nhớ
"không".Mười lăm năm là nhắn nhủ về khoảng thời gian
không
gắn bó của chiến sĩ với nhân dân Viê ̣t Bắc , từ năm 1940 khi
Nhìn cây nhớ núi, nhìn khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra cho đến năm 1954 khi miền Bắc
sông nhớ nguồn. dã hoàn toàn được giải phóng kết hợp với từ láy thiết tha và
mă ̣n nồng chủ yếu nói về tình cảm trước sau thủy chung như
mô ̣t trong những ngày tháng gắn bó máu cùng đổ, kề vai sát
cánh, chung lưng đấu câ ̣t.
Că ̣p câu thơ sau lại hướng về không gian khi tác giả
sử dụng những danh từ mang ý nghĩa bao trùm, cô ̣i rễ
“Sông” và “Nguồn” , “Cây” và “Núi”.Kết hợp với că ̣p đô ̣ng
từ là Nhìn và Nhớ.gợi nhắc về có núi thì mới có cây, có
nguồn thì mới có sông và có Viê ̣t Bắc mới có ngày Miền
Bắc hoàn toàn đô ̣c lâ ̣p. Cách bày tỏ cảm xúc của người ở lại
là bâ ̣t lên thành lời.

4 câu thơ sau: trả lời tấm lòng của nhân dân ( hành đô ̣ng của người ra về, chiến sĩ
Cách Mạng bô ̣c lô ̣ tâm tư tình cảm khi trở về thủ đô )

Tiếng ai tha thiết bên cồn Trong những câu thơ viết về tình cảm của người
cán bô ̣ ra về chủ yếu là những câu khẳng định.Khẳng định
Bâng khuâng trong dạ , bồn lại tình cảm của chiến sĩ với nhân dân.Tác giả sử dụng
chồn bước đi hàng loạt các từ láy Hán Viê ̣t để miêu tả nhiều cung bâ ̣c
cảm xúc của cán bô ̣ ra về.Tha thiết là canh cánh trong
Áo chàm đưa buổi phân ly
lòng, là khắc khoải khôn nguôi.Bâng khuâng không chỉ
Cầm tay nhau biết nói gì đơn thuần là mô ̣t trạng thái cảm xúc , mà đem tới nhiều
hôm nay những cảm xúc khác nhau : mô ̣t chút thương , mô ̣t chút
nhớ, mô ̣t chút bồi hồi, mô ̣t chút thương, mô ̣t chút bịn
rịn.Bồn chồn có thể hiểu là trở đi trở lại liên tục. Áo chàm
là nghê ̣ thuâ ̣t hoán dụ kép lấy bô ̣ phâ ̣n chỉ toàn thể. Áo
chàm là áo của người dân tô ̣c Tày, họ là người chiếm số
đông ở Viê ̣t Bắc. Nói áo chàm chính là để nói nhân dân
Viê ̣t Bắc. Để hoán dụ hay đến như vâ ̣y đòi hỏi đó phải là
người hiểu về nơi đây, Tố Hữu cũng là cán bô ̣ từng gắn bó
với Viê ̣t Bắc bởi vâ ̣y ông hoán dụ hay đến vâ ̣y. Hành đô ̣ng
được nhắc tới là cầm tay mang nhiều ý nghĩa. Cầm tay là
trao cho nhau hơi ấm, là trao cho nhau tình cảm, là trao

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
82

cho nhau sức mạnh.

Từ câu thơ 9 đến câu thơ 20, lượt lời thứ 2 của nhân dân nhắn nhủ tới cán bô ̣

- Mình đi, có nhớ những ngày Hàng loạt những câu thơ 6 chữ đều là những
Mưa nguồn suối lũ, những mây câu hỏi đồng dạng khơi gợi lại kí ức.
cùng mù?
Những câu thơ 8 chữ đều nhắc lại về những
Mình về, có nhớ chiến khu
khắc nghiê ̣t đă ̣c trưng về núi rừng Viê ̣t Bắc.Những
Miếng cơm chấm muối, mối thù
ngày tháng khó khăn nhất, “mưa nguồn, suối lũ” nỗi ám
nặng vai?
ảnh của những con người đã từng ở miền cao. Mây
Mình về, rừng núi nhớ ai
cùng mù khắc nghiê ̣t giăng kín lối, che đường đi và
Trám bùi để rụng, măng mai để
lạnh tới thấu xương.Ở mô ̣t góc đô ̣ khác ta cũng có thể
già
hiểu mây mù ẩn dụ cho mô ̣t tương lai mờ mịt trong
Mình đi, có nhớ những nhà
ngày đầu kháng chiến. Mă ̣c dù không gian thì khắc
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
nghiê ̣t nhưng tương phản hoàn toàn với con người Viê ̣t
Mình về, còn nhớ núi non
Bắc thủy chung, ân tình.
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn
Việt Minh ( tiểu đối )
Mình đi, mình có nhớ mình
miếng cơm chấm muối > < mối thù nă ̣ng vai
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình
cây đa? Hắt hiu lau xám > < đâ ̣m đà lòng son
( ăn uống đạm bạc thiếu thốn nhưng trách nhiê ̣m
lớn lao.Cuô ̣c sống hoang vu, khó khăn, tiêu điều thì tấm
lòng của con người Viê ̣t Bắc lại sâu đâ ̣m, đầy ắp những
yêu thương.
Bên cạnh đó tác giả vẫn không quên gợi nhắc
tới những giai đoạn lịch sử đầy tự hào như chống phát
xít Nhâ ̣t, chống thực dân Pháp.
Mái đình Hồng Thái
Đây là điểm dừng chân đầu tiên của Bác từ Cao
Bằng về căn cứ địa cách mạng Tân Trào ngày
21/5/1945.Đình Hồng Thái cũng là nơi đón tiếp các đại
biểu về dự Quốc dân đại hô ̣i tháng 8/1945, trong kháng
chiến chống Pháp nơi đây trở thành trạm đă ̣c biê ̣t quan
trọng của Ban bảo vê ̣ an toàn khu
Cây đa Tân Trào
Dưới gốc đa này, chiều 16/8/1945, đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã đọc bản quân lê ̣nh số 1 và ngay sau đó
quân Giải Phóng làm lễ xuất quân lên đường qua Thái
Nguyên tiến về giải phóng Hà Nô ̣i.

Từ câu thơ 21-câu thơ 25

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
83

( lời khẳng định tình cảm của chiến sĩ với nhân dân ở lại )

Ta với mình, mình với ta Câu thơ đầu về mă ̣t kết cấu gồm 2 vế với từ
ngữ là hoàn toàn giống nhau chỉ có chăng là sự thay
Lòng ta sau trước mặn mà đinh đổi về vị trí.Ta và mình tuy hai mà mô ̣t tuy mô ̣t mà
ninh hai.Tình cảm của nhân dân dành cho chiến sĩ nhiều
bao nhiêu thì tình cảm của chiến sĩ dành cho nhân dân
Mình đi mình lại nhớ mình
nhiều bấy nhiêu.Từ tình cảm quân dân nhưng qua cách
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình nhìn nhâ ̣n tinh tế của Tố Hữu lại chẳng khác nào tình
bấy nhiêu cảm của lứa đôi dành cho nhau.
Với chiến sĩ ra về họ luôn bô ̣c lô ̣ cảm xúc bằng
những lời khẳng định, Câu thơ “lòng ta sau trước mă ̣n
mà đinh ninh” là lời khẳng định, lời thề về tấm lòng
của họ dành người ở lại.Câu thơ thứ 3 không còn đại
từ “Ta” mà chỉ còn ba đại từ “Mình”.Vừa là nhớ người
ở lại nhưng cũng vừa diễn tả nhớ tới chính mình trong
những ngày tháng đã từng gắn bó với mảnh đất này.
Tình cảm ấy được cụ thể hóa ở câu thơ sau
cùng , ví von nỗi nhớ với nước trong nguồn chảy ra,
chỉ đầy vơi không bao giờ vơi cạn, ào ạt, dào dạt vô
tâ ̣n

Từ câu thơ 26 - câu thơ 33 ( Hồi ức đẹp về chiến khu Viêṭ Bắc của chiến sĩ ra về )

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
84

Nhớ gì như nhớ người yêu Vẫn biết rằng cảm xúc bao trùm lên toàn bô ̣
tác phẩm là nỗi nhớ.Nhưng đến với đoạn thơ ta
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng được cảm nhâ ̣n mô ̣t cách rõ rê ̣t về nỗi nhớ của cán
nương bô ̣ ra về. “Nhớ người yêu"
Nhớ từng bản khói cùng sương “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Sớm khuya bếp lửa người thương đi Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”.Bên cạnh đó
về tác giả sử dụng phép điê ̣p “Nhớ từng” như lâ ̣t giở
lại từng trang của ký ức về mảnh đất Viê ̣t Bắc đong
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
đầy nghĩa tình này.Hàng loạt những hình ảnh được
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy thi sĩ gợi lên với cảnh tượng Viê ̣t Bắc thanh bình :
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương.Trăng và
Ta đi ta nhớ những ngày nắng gợi lên về thời gian tuần tự, kết hợp với
khung cảnh đầu núi, lưng nương.Từ những hình
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi ảnh quen thuô ̣c bỗng trở nên thi vị, đâ ̣m chất nên
thơ trữ tình.Đó là hình ảnh những bản làng được
giăng mắc lên bằng màu sương khói.Vừa huyền ảo,
vừa thơ mô ̣ng.Trong những mái nhà những bản
làng là hình ảnh con người Viê ̣t Bắc chờ đợi , chờ
mong.Cho đến khuất tầm mắt là những rừng nứa bờ
tre, mô ̣t màu xanh mướt trải rô ̣ng khắp. Tất cả làm
nên mô ̣t khung cảnh Viê ̣t Bắc vừa thân quen mô ̣c
mạc nhưng lại nên thơ nên họa. Nếu như trong cách
liê ̣t kê của nhân dân là những chiến thắng vang dô ̣i,
thì trong lối nói của những người ra về, kí ức của
họ là những dòng sông, con suối ở Viê ̣t Bắc, cảnh
đẹp thiên nhiên nhưng cũng là đă ̣c trưng của nơi
đây.Gian khổ đắng cay nào cũng cùng nhân dân trải
qua, diễn tả cảm xúc nỗi thương nỗi nhớ chia sẻ
mọi điều trong 15 năm hoạt đô ̣ng tại Viê ̣t Bắc

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
85

Từ câu thơ 34 đến câu thơ 43


Kỷ niêm
̣ đong đầy và cụ thể về những ngày tháng khó khăn nhất nhưng luôn có người
dân Viêṭ Bắc ở cạnh bên

Thương nhau chia củ sắn lùi Liên tục tác giả sử dụng những hình ảnh thân
quen mà thiếu thốn trong kháng chiến như cơm sẻ nửa,
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp chia củ sắn lùi, chăn sui đắp cùng.Khó khăn chồng chất
cùng khó khăn, nhưng đối với chiến sĩ cách mạng luôn có
nhân dân đùm bọc, cưu mang, sẻ chia vượt qua những
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
khó khăn của nghịch cảnh.Tác giả sử dụng hàng loạt
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô những đô ̣ng từ như : Chia, sẻ, cùng... lúc nào cũng có
nhân dân chia sẻ đắng cay ngọt bùi. Trong những kí ức
Nhớ sao lớp học i tờ của người cán bô ̣ ra về có lẽ ấn tượng hơn cả là những
người mẹ ở Viê ̣t Bắc.Họ là những người mẹ kháng chiến
Đồng quê đuốc sáng những giờ ta bắt gă ̣p nhiều trong những tác phẩm :
liên hoan
Mẹ quạt con bằng gió nồm lòng mẹ
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Mẹ ấp con bằng lồng ngực không còn mùa đông
Gian nan đời vẫn ca vang núi
đèo Mẹ xoa đầu con
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Bằng bàn tay mẹ xoa cánh đồng
Chày đêm nê ̣n cối đều đều suối (Quê hương mă ̣t trời vàng – Thu Bồn )
xa
Cảm xúc mang ơn những bà mẹ kháng chiến
trong những ngày tháng khó khăn gian khổ nhất.Họ đã tự
nguyê ̣n lao đô ̣ng để nuôi kháng chiến , chăm chỉ để góp
phần san sẻ gánh nă ̣ng mưu sinh với cán bô ̣.
Không chỉ dừng lại ở cảnh vâ ̣t bình yên, Tố Hữu
nhắc lại về những ngày tháng sinh hoạt ở nơi đây của cán
bô ̣.Bình dân học vụ, là những đêm giao lưu văn hóa văn
nghê ̣.. là hình ảnh là âm thanh quen thuô ̣c trong đời
thường.Viê ̣c dạy học và tuyên truyền có ý nghĩa đă ̣c biê ̣t
quan trọng trong viê ̣c dẫn tới toàn thắng trong kháng
chiến chống Pháp.
Những đêm giao lưu văn hóa không hề xa lạ ta đã
từng bắt gă ̣p trong thơ ca Quang Dũng :
“Doanh trại bừng lên hô ̣i đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điê ̣u nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Chiến sĩ vẫn tin tưởng vào mô ̣t ngày mai nhất

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
86

định thành công thắng lợi, ý chí của họ vẫn cao hơn
những khó khăn trước mắt, gợi cảm hứng về tương
lai.Sống trong khó khăn vẫn yêu đời thắm thiết.

Từ câu 44 đến câu thơ 53 ( Bô ̣ tranh tứ bình về con người và thiên nhiên Viêṭ Bắc trong
kí ức của người chiến sĩ cách mạng về xuôi )

Ta về, mình có nhớ ta *Că ̣p câu thơ đầu tiên mang kết cấu “ta -
mình”.Người chiến sĩ đưa ra câu hỏi tu từ gieo vào lòng
Ta về ta nhớ những hoa cùng người ở lại, liê ̣u khi họ ra về, nhân dân nơi đây có nhớ
người mình hay chăng.Không tìm kiếm câu trả lời, câu 8 mô ̣t
lần nữa tác giả khẳng định lại về tình cảm của người ra
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
về.Đối tượng hướng đến trong nỗi nhớ của họ hướng đến
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt “Hoa” và "Người”.Hoa là ẩn dụ tượng trưng cho thiên
lưng nhiên Viê ̣t Bắc, người là con người Viê ̣t Bắc.Hai câu thơ
mở ra mô ̣t bô ̣ tranh tứ bình trong tác phẩm.Tứ bình là
Ngày xuân mơ nở trắng rừng mô ̣t bô ̣ tranh gồm bốn bức tranh, khác nhau về mă ̣t nô ̣i
dung nhưng lại có chung mô ̣t chủ đề.Tố Hữu bằng tài
Nhớ người đan nón chuốt từng văn của mình ông vẽ lên kí ức mô ̣t bô ̣ tranh bằng thơ về
sợi giang con người và thiên nhiên Viê ̣t Bắc cả bốn mùa trong
Ve kêu rừng phách đổ vàng năm.Khác với trình tự khi ta đề câ ̣p tới là Xuân – Hạ –
Thu – Đông.
Nhớ cô em gái hái măng mô ̣t
mình *Mùa đầu tiên được nhắc tới lại là bức tranh mùa
Đông. Trải lên toàn bô ̣ vùng địa bàn rô ̣ng lớn ở Viê ̣t Bắc
Rừng thu trăng rọi hòa bình là gam màu lạnh, gam màu xanh lá của núi rừng trầm
măc.Tố Hữu khéo léo sử dụng bút phát điểm xuyết, chủ
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy yếu là chấm phá. Đă ̣t lên trên khung cảnh núi rừng là
chung. những bông hoa chuối đỏ tươi,Với viê ̣c sử dụng những
gam màu tương phản làm nổi bâ ̣t lẫn nhau và tôn vinh
lên nhau. Bức tranh mùa đông không hề lạnh lẽo, mà trái
lại sinh đô ̣ng rực rỡ sắc màu. “Đèo cao” là cụm từ thể
hiê ̣n hình ảnh của thiên nhiên hùng vĩ, nhưng với góc
nhìn của mô ̣t nhiếp ảnh gia, tác giả chụp lại khoảng khắc
đẹp của người đi rừng Viê ̣t Bắc. Những tia nắng chiếu
vào lưỡi dao của người đi rừng Viê ̣t Bắc và lóe sáng.
Người Viê ̣t Bắc mạnh mẽ tự tin, đứng lên làm chủ quê
hương mình, làm chủ đất nước mình.Con người vượt qua
khó khăn , vượt lên trên nghịch cảnh.
*Bức tranh mùa xuân , không còn sử dụng những
gam màu nóng lạnh tương phản, thi sĩ sử dụng nghê ̣
thuâ ̣t đảo ngữ “trắng rừng” nhấn mạnh vào vẻ đẹp đă ̣c
trưng thiên nhiên Viê ̣t Bắc sang xuân. Ở đó là màu trắng
tinh khiết tinh khôi của hoa mơ. Màu hoa mơ trắng đã
nhiều lần bước vào trong bài thơ Theo Chân Bác, Tố
Hữu viết:

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
87

Ôi sớm xuân nay xuân 41


Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lă ̣ng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Hay như trong bài thơ : “hoan hô chiến sĩ Điê ̣n
Biên” Tố Hữu cũng dã từng viết :
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng”.Cứ câu thơ
lục viết về vẻ đẹp thiên nhiên thì câu thơ bát lại viết về
vẻ đẹp con người.Nhân dân Viê ̣t Bắc tài hoa , tinh tế
trong hoạt đô ̣ng sản xuất đời thường được thể hiê ̣n qua
hình ảnh “Chuốt từng sợi giang”.Khác với sự mạnh mẽ
tự tin, đứng lên làm chủ thiên nhiên như bức tranh mùa
đông.Bức tranh con người và mùa xuân lại toát lên sự tỉ
mỉ, cần cù , tài hoa, chỉ là mô ̣t công viê ̣c nhẹ nhàng,
quen thuô ̣c nhưng lại tinh tế , những công viê ̣c bình dị
đời thường nhưng họ thực sự trở thành người nghê ̣ sĩ
trong công viê ̣c của mình.Vẻ đẹp này ta cũng bắt gă ̣p
trong người lái đò sông Đà hay Huấn Cao trong chữ
người tử tù của Nguyễn Tuân.
*Bức tranh mùa hạ trước tiên đến với chúng ta
trước tiên không phải là màu sắc , lại là âm thanh đến với
bạn đọc. Tiếng ve kêu râm ran báo hiê ̣u mùa hè, âm
thanh đă ̣c trưng đã nhuô ̣m vàng cả rừng phách. Trong
vỏn vẹn 6 từ , vâ ̣y mà chinh phục bạn đọc bằng mô ̣t
chuỗi vâ ̣n đô ̣ng liên hoàn từ âm thanh đến hình ảnh.
Từ có lẽ ta quan tâm nhiều hơn là đô ̣ng từ mạnh
“đổ”. Về mă ̣t nghĩa đen đó là tốc đô ̣ chuyển mùa mau lẹ
của thiên nhiên từ màu trắng tinh khôi của hoa mơ, chỉ
sau những tiếng ve kêu đã đồng loạt đổ sang màu vàng
mỡ màng của rừng phách.Nhìn vào lịch sử mùa hạ năm
1954 chúng ta liên tục giành chiến thắng trên mọi mă ̣t
trâ ̣n.Chỉ mô ̣t từ đổ nhưng đạt tới đô ̣ chính xác mang
nhiều trường liên tưởng, dù hiểu theo cách nào cũng đều
đă ̣c sắc.
Màu sắc trong 4 bức tranh thay đổi linh hoạt.
Trong bức tranh mùa hạ thay vì viết về cách thức lao
đô ̣ng sản xuất thì tác giả viết về tinh thần trong lao đô ̣ng.
Điều này được thể hiê ̣n ở nhịp thơ 2/2/2/2 gieo vần ai
vần ái thể hiê ̣n niềm vui.Những cô gái lao đô ̣ng mô ̣t
mình , đóng góp âm thầm trong suốt những năm tháng
kháng chiến. Họ vui tươi, trẻ trung, hồn nhiên. Những
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
88

con người ta không thể nhớ mă ̣t đă ̣t tên nhưng họ làm


nên đất nước muôn đời.
*Sau cùng là bức tranh mùa thu, tuy nhiên là
không hề có bất cứ màu sắc nào cả thay vào đó là hình
ảnh của ánh trăng. Khác với xu thế bình thường là xuân-
hạ-thu-đông, mở đầu lại là mùa đông và kết lại bằng mùa
thu.Bởi trong 9 năm ấy là từ mùa đông năm 1946 Bác
đưa ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và khép lại
bằng tháng 10/1954. Đây là sự phá lê ̣ trong viê ̣c đảo lại
trâ ̣t tự các mùa của bô ̣ tranh tứ bình. Các bức tranh trước
chỉ viết về thiên nhiên vào ban ngày nhưng đến bức tranh
mùa thu lại là vẻ đẹp đă ̣c trưng núi rừng Viê ̣t Bắc vào
ban đêm.
Thay vì những đêm thao thức trăn trở về con
đường giải phóng dân tô ̣c của cán bô ̣, chiến sĩ giờ đây
chúng ta đã làm nên những chiến công hiển hách, giành
lại đô ̣c lâ ̣p cho miền bắc và ở đó là vẻ đẹp của hòa bình,
những tháng ngày bình yên.
Với viê ̣c sử dụng đại từ phiếm chỉ “Ai” , tác giả
nhắc tới mô ̣t truyền thống đẹp của con người Viê ̣t Nam.
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây , uống nước nhớ nguồn, những
con người thủy chung, yêu thương, nghĩa tình trong
những ngày tháng khó khăn nhất để làm nên những điều
kì diê ̣u nhất.Thời gian trôi qua nhưng tình cảm là mãi
mãi không chỉ là câu chuyê ̣n của cán bô ̣ với nhân dân và
là toàn thể nhân dân Viê ̣t Nam luôn nhớ tới Viê ̣t Bắc.

Từ câu 54 đến câu 64


tác giả kể lại những ngày tháng chiến đấu trường kì gian khổ

Nhớ khi giă ̣c đến giă ̣c lùng Trong hoàn cảnh khó khăn những ngày đầu
kháng chiến, thế giă ̣c mạnh và chúng liên tục reo rắc đau
Rừng cây núi đá ta cùng đánh thương.Tác giả sử dụng từ “cùng” để thấy thiên nhiên và
Tây con người hòa vào làm mô ̣t chiến đấu với quân
địch.Thâ ̣m chí với cách viết này ta cảm nhâ ̣n được ngay
Núi giăng thành lũy sắt dày
cả thiên nhiên cũng được trao nhiê ̣m vụ.Núi non cũng trở
Rừng che bô ̣ đô ̣i, rừng vây quân thành bức tường thành ngăn cả sự tấn công của quân
thù địch.

Mênh mông bốn mă ̣t sương mù Rừng cũng có vai trò quan trọng, có hồn, có
chính kiến, có tư tưởng, cùng lúc vây quân thù và che
Đất trời ta cả chiến khu mô ̣t chở cho bô ̣ đô ̣i ta.
lòng
Cùng với rừng già, sương mù Tây Bắc che chắn
tầm nhìn của kẻ thù, gây cản trở.Không chỉ có con người
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
89

Ai về ai có nhớ không mà cả thiên nhiên cũng góp phần vào thành công của
cuô ̣c kháng chiến.Sự thành công đến từ tinh thần đoàn
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo kết, hợp sức đồng lòng cả con người cả thiên nhiên.
Giàng
4 câu thơ sau tác giả sử dụng phép điê ̣p từ “nhớ”
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng kết hợp với thủ pháp nghê ̣ thuâ ̣t liê ̣t kê hàng loạt các địa
danh : “Phủ Thông”, “đèo Giàng”, “sông Lô”, “phố
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang
Ràng”…Báo tin thắng trâ ̣n trên khắp các nơi khi chúng
Nhị Hà…
ta đã vùng lên chiến đấu.

Từ câu thơ 63 đến câu thơ 74 : Cảnh ra quân

Những đường Viê ̣t Bắc của ta “Những đường Viê ̣t Bắc” ta vừa có thể hiểu
đó là những con đường ra trâ ̣n nhưng cũng có thể
Đêm đêm rầm râ ̣p như là đất rung hiểu đó là những con đường kháng chiến, con
đường giải phóng dân tô ̣c.Cụm từ “của ta” thể hiê ̣n
Quân đi điê ̣p điê ̣p trùng trùng
khát khao được đứng lên làm chủ quê hương mình
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nam làm chủ đất nước mình mà ta đã từng bắt gă ̣p đồng
điê ̣u trong “đất nước” của Nguyễn Đình Thi:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
“Trời xanh đây là của chúng ta
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Núi rừng đây là của chúng ta”.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Hàng loạt những từ láy được sử dụng như
Đèn pha bâ ̣t sáng như ngày mai lên “đêm đêm”, như “rầm râ ̣p” với thủ pháp so sánh và
phụ âm “rung” ta thấy được sự đông đảo của tất cả
Tin vui chiến thắng trăm miền những anh bô ̣ đô ̣i ngày đêm hành quân nung nấu
Hòa Bình, Tây Bắc, Điê ̣n Biên vui về với ý chí quyết chiến quyết thắng rung chuyển đất
trời.Câu thơ trên thể hiê ̣n âm thanh thì câu thơ sau
Vui từ Đồng Tháp, An Khê lại viết nhiều hơn về hình ảnh. “Điê ̣p điê ̣p trùng
trùng” thường được sử dụng miêu tả núi hoă ̣c sóng,
Vui lên Viê ̣t Bắc, đèo De , núi Hồng tác giả muốn thể hiê ̣n đoàn quân Viê ̣t Nam ta ra
trâ ̣n đông đảo người người lớp lớp, cuô ̣n lên như
sóng trào kéo dài vô tâ ̣n.
Nếu ánh sao đầu súng là nghê ̣ thuâ ̣t hoán dụ
chỉ các anh bô ̣ đô ̣i thì ta cũng có thể hiểu mũ nan là
hoán dụ với dân quân du kích, hợp sức chiến
đấu.Sự khác biê ̣t là từ hình ảnh nhìn nhâ ̣n ở tầm
rô ̣ng thì tới đây tác giả đă ̣c tả vào từng anh bô ̣ đô ̣i.
Trong cuô ̣c kháng chiến ấy không thể bỏ
qua mô ̣t lực lượng có vai trò quan trọng : “dân
công”.Họ là hâ ̣u phương vững chắc để anh bô ̣ đô ̣i
vào trâ ̣n đánh quân thù.Họ ủng hô ̣ hết mình cho
cuô ̣c kháng chiến của dân tô ̣c mang tầm vóc lớn lao

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
90

khi thi sĩ kết hợp với ngoa ngữ : “ Bước chân nát
đá, muôn tàn lửa bay”.Sự kì vĩ của những con
người mang tầm vóc khổng lồ, hết mình vì kháng
chiến, gánh trên đôi vai của mình là nhiê ̣m vụ lớn
lao.
Những con người làm nên huyền thoại của
Viê ̣t Nam ở thế kỉ XX.
Trong hai câu thơ tiếp tác giả có đề câ ̣p tới
thăm thẳm sương mù, nhìn về nghĩa tường minh thì
đó là những khắc nghiê ̣t về mă ̣t thời tiết, nhưng đă ̣t
trong hai câu thơ thì đó lại là ẩn dụ cho những khó
khăn thiếu thốn trong những ngày đầu quân và dân
ta chống Pháp.Chúng ta chỉ có vũ khí thô sơ, nhưng
quân ta càng đáng càng mạnh đã khắc phục được
hết những thiếu thốn khó khăn.Chúng ta đã có
những đoàn xe ra mă ̣t trâ ̣n, đã có pháo binh và ở đó
là mô ̣t bình minh huy hoàng và tráng lê ̣ vẫy gọi
toàn thể dân tô ̣c Viê ̣t Nam.
Nếu ta nhìn nhâ ̣n 8 câu thơ trên là cảnh ra
quân thì ở 4 câu thơ sau lại là khúc ca khải hoàn ăn
mừng chiến thắng.Với viê ̣c sử dụng phép điê ̣p từ
“vui” nhắc đi nhắc lại 4 lần cũng như liê ̣t kê ra hàng
loạt những địa danh trên khắp miền Bắc như Hòa
Bình, Tây Bắc, Điê ̣n Biên, Đồng Tháp, An Khê,
Viê ̣t Bắc, đèo De, núi Hồng…Tác giả thể hiê ̣n tiếng
reo vui từng hàng triê ̣u trái tim con người Viê ̣t Nam
khi chúng ta liên tục giành chiến thắng, chiến thắng
sau còn vang dô ̣i hơn chiến thắng trước.Ngày vui
chiến thắng chúng ta đã chờ đợi từ lâu, ngày hô ̣i
của cả dân tô ̣c.

Câu thơ 75 đến câu thơ 82


Viê ̣t Bắc là điểm đến của hy vọng của nhân dân, quê hương cách mạng, mang vai trò vị trí
trung tâm lãnh đạo của.

Ai về ai có nhớ không Tác giả đang miêu tả lại về những
cuô ̣c họp của Chính phủ.Chúng ta đều biết
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang rằng hang đô ̣ng luôn là nơi tăm tối thế
nhưng với hình ảnh lá cờ đỏ thắm và ngôi
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
sao vàng rực rỡ.Thay vì thấy âm u tăm tối,
Trung ương , Chính phủ luâ ̣n bàn viê ̣c công ta thấy rực rỡ sáng ngời lý tưởng.Tất cả đều
tâ ̣p trung cho những công viê ̣c vì nhân dân
Điều quân chiến dịch Thu – đông trong kháng chiến.Từ những cuô ̣c họp thế
này mà cuô ̣c cách mạng của chúng ta tiến

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
91

Nông thôn phát đô ̣ng, giao thông mở đường dần tới sự thắng lợi hoàn toàn.Từ điều đô ̣ng
chiến sĩ, cho tới phát triển nông nghiê ̣p, giữ
Giữ đê, phòng hạn, thu lương đê… Vai trò của Viê ̣t Bắc được thể hiê ̣n rõ
nét trong viê ̣c lãnh đạo, định hướng…
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu

Từ câu thơ 83 đến câu thơ 90


Viê ̣t Bắc không chỉ là căn cứ quan trọng của cuô ̣c Cách Mạng. Nơi đây còn trở thành mô ̣t địa
chỉ tin câ ̣y của toàn thể dân tô ̣c Viê ̣t Nam.

Ở đâu u ám quân thù Nhân dân đă ̣t trọn niềm tin vào Viê ̣t Bắc
khi trong những ngày tháng chiến tranh khó
Nhìn lên Viê ̣t Bắc: Cụ Hồ sáng soi khăn gian khổ nhất.Từ Viê ̣t Bắc chúng ta đã làm
nên chiến thắng lớn lao.
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Viê ̣t Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cô ̣ng
Hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào

3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân
VD: Qua việc vận dụng tài tình thể thơ lục bát truyền thống, cách xưng hô “mình” - “ta”, kết
cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao dân ca cùng giọng thơ tâm tình, ngọt ngào tha thiết và lối
nói giàu hình ảnh, tác giả Tố Hữu đã tái hiện thành công tình nghĩa của người chiến sĩ cách
mạng và đồng bào Việt Bắc trong sự quyện hòa, gắn bó giữa tình cảm yêu nước và đạo lí thủy
chung nghĩa tình, son sắt - mạch nguồn xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Những đặc sắc
về giá trị nghệ thuật và nội dung đó chính là yếu tố khiến “Việt Bắc” trở thành một bài thơ
mang đậm “tính dân tộc” và khẳng định tiếng thơ “trữ tình - chính trị” của Tố Hữu trên diễn
đàn văn học Việt Nam.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
92

SÓNG (XUÂN QUỲNH)

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
93

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả
- Giới thiệu tác phẩm
VD: Sóng của Xuân Quỳnh là câu chuyện cổ tích hay nhất về tình yêu mà ta từng đọc. Bằng
thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu, nhịp sóng và nhịp lòng – Xuân Quỳnh đã kể ta nghe về
những khát khao bình dị của người phụ nữ trong tình yêu. Thế gian đã tốn bao nhiêu giấy
mực, thậm chí cả máu để nói, viết, ca tụng cho Tình Yêu. Trong cuộc đời trần tục đầy biến ảo
này, mọi thứ đều thay đổi, nhưng có một thứ là bất biến, vĩnh hằng. Đó chính là sự thuần
khiết, lung linh của Tình yêu. Thế giới tình yêu vốn đã đẹp, thế giới tình yêu trong thơ ca lại
càng đẹp hơn. Mỗi vần thơ viết về tình yêu đều lung linh lãng mạn. Câu chuyện tình yêu nào
cũng là câu chuyện cổ tích đẹp đẽ
 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý/ trích dẫn
- Giới thiệu tác giả- tác phẩm
VD: Tình yêu là đề tài đầy ma lực với bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn muôn điệu làm rung
động bao trái tim yêu để từ đó ngân lên thành lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ đều có
những cảm nhận khác nhau về tình yêu: một Tago đầy triết lý ngụ ngôn; một Puskin nồng nàn
và cao thượng, một Xuân Diệu rạo rực, đắm say, vồ vập; một Hàn Mặc Tử say đắm mà bơ
vơ…Và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn
trở khát khao của một tâm hồn người phụ nữ luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị
đời thường.
2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Tác giả
Xuân Quỳnh(1942- 1988) quê ở làng lụa Hà Đông.
Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu tử.
Đặc điểm hồn thơ: tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh phúc đời
thường, bình dị nhiều âu lo, day dứt trăn trở trong tình yêu.
- Hoàn cảnh sáng tác
Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi
Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếp trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu
cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập "Hoa Dọc Chiến
Hào" (1968).
- Ý nghĩa nhan đề

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
94

Tác giả mượn hình ảnh “sóng” để thể hiện những cảm xúc,cung bậc tình cảm của trái tim
khao khát yêu thương. Nổi bật trong bài thơ là vẻ đẹp tâm hồn thiết tha nồng hậu và niềm
khao khát của người phụ nữ về một tình yêu thủy chung,bất diệt.
- Nội dung
Bài thơ là sự cảm nhận về tình yêu từ hình tượng sóng với tất cả những cung bậc sắc thái( nỗi
nhớ, sự thủy chung, trắc trở) và cả khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu của một tâm hồn phụ nữ
luôn chân thành, khát khao hạnh phúc.
 Phân tích

“Làm sao sống được mà không yêu


Không nhớ không thương một kẻ nào”
Tình yêu vốn là thứ tình cảm mãnh liệt nhất, nồng cháy nhất mà ai trong chúng ta đều đã,
đang, và sẽ trải qua. Tình yêu cũng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của các nhà thơ, nhà
văn để viết ra những tác phẩm để lại nhiều xúc động và chiêm nghiệm cho người đọc. Nhắc
đến thơ ca về tình yêu, ta thường nhớ đến Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình, một nhà thơ luôn
mang trong mình nỗi khao khát được sống tận hưởng và tận hiến cho cuộc đời, luôn say mê
và rạo rực trong tình yêu. Nhưng có lẽ, chúng ta không thể không nhắc đến Xuân Quỳnh, một
nữ sĩ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Mặc dù bấy giờ là những năm tháng
khốc liệt nhất của chiến tranh, nhưng tâm hồn người phụ nữ ấy luôn khát khao một hạnh phúc
bình dị. Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để thể hiện những cung bậc cảm xúc, những ước
nguyện của người phụ nữ trong tình yêu trong bài thơ “Sóng”
Khi nhắc đến tên tuổi của Xuân Quỳnh, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều
biết tiếng thơ chị là tiếng nói nhân hậu, thủy chung, giàu trực cảm và tha thiết khát vọng hạnh
phúc đời thường. Một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của Xuân Quỳnh phải kể đến tập
“Hoa dọc chiến hào” với linh hồn là bài thơ “Sóng” được tác giả viết nhân một chuyến đi thực
tế ở biển Diêm Điền năm 1967. Những người nghệ sĩ trong văn chương bao giờ họ cũng sống
bằng hình tượng, một tác phẩm có để lại dấu ấn trong lòng người đọc hay không phụ thuộc
vào hình tượng mà nhà thơ xây dựng và gửi gắm những thông điệp, tâm sự của mình vào
trong đó. Khi xây dựng hình tượng, họ biểu hiện trong đó một thái độ, một cảm xúc riêng,
nghĩa là họ hiện thân vào hình tượng. Hình tượng nghệ thuật là phương tiện đặc thù của nghệ
thuật để phản ánh hiện thực khách quan. Nó phản ánh tính khái quát, tính quy luật của hiện
thực qua hình thức cá thể, độc đáo, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, là đứa con tinh
thần của người nghệ sĩ trong quá trìnhnhận thức và tái hiện cuộc sống. Một hình tượng khi
bước từ đời thật vào trong văn chương tất yếu sẽ trở thành hình tượng nghệ thuật.Bài thơ là sự
vận động song hành của sóng và em, khi thì phân đôi để soi chiếu sự tương đồng, khi thì hòa
nhập để âm vang cộng hưởng. Sóng thực chất là hình ảnh ẩn dụ cho trái tim người phụ nữ
đang yêu. Sóng cũng giống như em, sóng cũng chính là em.
Trước hết, người phụ nữ ấy đã soi mình vào sóng để thấy được sự đồng điệu trong tâm trạng ,
những cung bậc trong tình yêu. Có người đã từng nói “Một bài thơ hay, một ca khúc hay, khi
nội dung ta còn chưa nắm rõ thì âm điệu đã xâm nhập hồn ta tự bao giờ”, tiếng sóng như thôi
thúc từng hồi vỗ vào lòng của người yêu văn chương bởi nhà thơ đã sử dụng thể thơ ngũ ngôn
liên hoàn giàu tính nhạc và được luân chuyển nhịp thơ rất linh hoạt, có đoạn là nhịp 2/3:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Nhưng có đoạn lại là nhịp 1/4:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
95

Sự thay đổi này đã làm cho “Sóng” của Xuân Quỳnh đi vào tâm hồn người yêu thơ với hình
ảnh êm đềm, du dương, khi trầm, khi bổng, khi giáng, khi thăng. Lúc dồn dập, khi thì lại miên
man. Hình ảnh sóng dần dần bị lộ ra cùng với âm điệu của tiếng sóng. Sóng trong bài thơ
cùng tên của Xuân Quỳnh là một hình ảnh ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của thi
nhân, nói cách khác hình tượng sóng đã mang một ý nghĩa biểu tượng. Đó là biểu tượng cho
tình yêu của người con gái, của tình yêu lứa đôi.
Xuân Quỳnh đã vượt qua mọi ước lệ của thi ca trung đại để làm nên một hình tượng của riêng
mình, Sóng - tượng trưng cho nỗi lòng của người con gái, là những khát vọng tình yêu của
người con gái khi yêu. Bởi vậy Sóng của Xuân Quỳnh vô cùng nữ tính. Xuyên suốt bài thơ là
những đợt sóng nối tiếp nhau, chạy dài toàn bộ tác phẩm. Có lúc Sóng và em hóa thân cho
nhau, khi lại song hành cùng nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Khi nhập vào nhau để tôn
vinh nhau, khi tách nhau ra thì cũng chiêm nghiệm và soi tỏ cho nhau.
Trước hết, trái tim người phụ nữ đang yêu đã soi mình vào sóng để cảm nhận được sự đồng
điệu. Viết về tình yêu là một nguồn cảm hứng bất tận trong thi ca, có nhiều nhà thơ đã viết về
tình yêu với sự nồng nhiệt của một trái tim đầy tươi trẻ như Xuân Diệu trong khao khát luôn
muốn hiến dâng cho tình yêu, Nguyễn Bính với trái tim luôn kiếm tìm, mơ màng về tình yêu
đồng đội… Nhưng chỉ khi đến với Xuân Quỳnh, tình yêu ấy bỗng trở nên đời thường hơn bao
giờ hết, bởi khi Xuân Quỳnh xây dựng nên hình ảnh sóng đã thể hiện khát vọng muôn thuở
của con người một cách dung dị, chân thành hơn bao giờ hết, nhất là đối với người con gái,
luôn khao khát hạnh phúc, tình yêu đích thực. Tình yêu với người con gái là một thứ gì đó vô
cùng phong phú, phức tạp, rạo rực và luôn cháy bỏng yêu thương.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Mở đầu bài thơ là cảm xúc trong tình yêu của một tâm hồn đang yêu, đang khát khao hạnh
phúc mãnh liệt. Xuân Quỳnh diễn tả một trạng thái khác thường, vừa phong phú lại vừa phức
tạp qua cách tổ chức ngôn ngữ một cách tương xứng, tương phản. Trái tim của người con gái
khi yêu cũng giống như Sóng, mang nhiều sự đối cực, trái ngược nhau, khi thì dữ dội, khi lại
dịu êm, lúc thì ồn ào, khi lại lặng lẽ…Sóng được miêu tả trong những trạng thái đối lập “dữ
dội”- “dịu êm”, “ồn ào”- “lặng lẽ”. Tình yêu cũng luôn bao hàm những cảm xúc đầy mâu
thuẫn, thất thường nhất là đối với trái tim của người phụ nữ. Nhưng có lẽ, tình yêu cũng là sự
hài hòa thống nhất đến kì diệu của những mâu thuẫn ấy, những trạng thái tưởng như đối
nghịch kia nhưng lại chuyển hóa lẫn nhau. Dữ dội, ồn ào cũng là sóng mà dịu êm, lặng lẽ
cũng là sóng. Và, người con gái trong tình yêu không chấp nhận những cái tầm thường, nhỏ
hẹp, luôn khao khát một tình yêu thực sự, một tình yêu chân chính. Nhà thơ đã mở rộng
không gian của bài thơ bằng cách sử dụng hình ảnh Sông để chỉ không gian nhỏ hẹp, bó buộc,
còn bể là một khung trời mới rộng lớn với bao điều mới mẻ, đồng thời cũng nhấn mạnh khát
vọng được tìm đến tình yêu của người con gái không bao giờ vụt tắt, dù phải trải qua bao khó
khăn. Người phụ nữ trong tình yêu cũng luôn khao khát một tình yêu lớn lao và phóng
khoáng, vượt lên mọi giới hạn và bờ cõi để họ được là chính mình, để tình yêu đúng nghĩa là
tình yêu. Đây cũng chính là quan niệm mới mẻ về tình yêu mà nhà thơ Xuân Quỳnh muốn gửi
gắm đến bạn đọc, người con gái trong thời hiện đại đã không còn bị phụ thuộc, không còn
cam chịu nữa, họ luôn có xu hướng chủ động vươn tới những gì tốt đẹp nhất dành cho bản
thân mình. Bởi vậy mà hình ảnh Sóng trở nên táo bạo biết nhường nào khi “tìm ra tận bể”.
Dù đi qua bao thăng trầm của thời gian thì khao khát về tình yêu với tuổi trẻ luôn luôn bồi
hồi, mãnh liệt nhất. Khi nhắc đến tuổi trẻ, bao giờ nó cũng đi đôi với tình yêu, bởi chính tình
yêu đã làm cho tuổi thanh xuân của con người trở nên có ý nghĩa biết bao. Đó có thể là những

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
96

rung động đầu đời, là những cảm xúc khác lạ mà con người không tài nào lí giải nổi, dù có lúc
nó làm cho ta cảm thấy đau đớn, nhưng vẫn luôn khát khao được có nó. Tình yêu là một thứ
gì đó khó giải thích và có thể minh bạch, nhưng bao đời nay con người vẫn luôn kiếm tìm,
ước ao:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Sóng được đặt trong cả quá khứ “ngày xưa” và tương lai “ngày sau” kèm với đó là hai chữ
“vẫn thế” như một lời khẳng định. Sóng, tình yêu luôn luôn vĩnh cửu, bất diệt bất chấp thời
gian. Nỗi khát vọng về hạnh phúc tình yêu đã có từ bao đời nay trong trái tim của những
người đang yêu, của người con gái. Tình yêu Xuân Quỳnh mang đến cho bạn đọc vẫn còn ẩn
hiện những nét truyền thống khi tác giả nhắc đến sự tuần hoàn chảy trôi của thời gian, và
dường như thời gian cũng không thể làm xoay chuyển những khát vọng ấy. Chỉ có trái tim
trong lồng ngực của những người trẻ mới đủ chỗ chứa đựng khát vọng ấy. Hình ảnh “ngực
trẻ” khiến ta lien tưởng đến mặt biển tựa như vùng ngực trẻ trung, còn những con sóng lại là
những nhịp đập phập phồng với một niềm khát khao được yêu, được hạnh phúc. Tình yêu
khiến con người ta trở nên mơ mộng, bay bổng hơn và đó là những khoảnh khắc sống trong
nỗi trăn trở, bâng khuâng, người ta luôn sợ đánh mất tình yêu ngay trong lúc mình trân trọng
nó nhất. Cũng như sóng, tình yêu chính là khát vọng muôn đời của con người.
Sự tương đồng của trái tim người phụ nữ đang yêu với sóng còn được nhà thơ bộc lộ rõ nét
hơn qua khổ thơ thứ ba:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”
Đứng trước cái mênh mông của biển, cái trùng điệp của sóng , “em” nghĩ về anh, về em, về
biển lớn và nghĩ cả về cội nguồn của sóng và tình yêu. Sóng “tìm ra tận bể” như để hiểu rõ
mình hơn, hiểu rõ chính tình yêu của mình nhưng dường như đã lại bất lực, dường như Sóng -
hay chính là Em đang cố giải thích về nguồn gốc của tình yêu hay định nghĩa tình yêu của
mình. Câu hỏi tu từ cuối khổ thơ đã thể hiện những suy tư, trăn trở, những khao khát khám
phá về tình yêu, về cuộc đời. Đây cũng là một câu hỏi từ bao đời nay được đề ra nhưng rồi
cũng bỏ ngỏ ở đó, người ta đi kiếm tìm nguồn gốc của tình yêu để định nghĩa nó, để rồi như
Xuân Diệu đã phải thốt lên rằng:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu”
( Yêu – Xuân Diệu )
Tình yêu là một thứ gì đó rất tự nhiên, nó có thể bất chợt ập đến mà con người ta không thể
nào chống đỡ kịp, rồi cũng có thể biến mất mà chẳng cần một lí do gì để giải thích.
Tựa như gió, như mây, độc chiếm tâm tư của con người để rồi người ta ngẩn ngơ nghĩ về nó
đến muôn đời mà vẫn không nắm bắt kịp. Xuân Quỳnh đã lí giải nguồn gốc về tình yêu theo
cách riêng của mình rất đáng yêu, hồn nhiên và nữ tính, và cuối cùng cũng chẳng thể tìm ra
một định nghĩa về tình yêu, đến rồi đi, tình yêu khó hiểu và luôn mang nhiều bất ngờ, bí ẩn:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
97

Một câu trả lời được đặt xen giữa hai câu hỏi đầy suy tư. Câu trả lời là sự bất lực của lí trí con
người, không thể lí giải về cội nguồn của sóng, cũng như chẳng thể hiêu được sự bắt đầu của
tình yêu.Những câu hỏi, những câu trả lời như đan xem trong tiềm thức của thi nhân, tình yêu
đã khiến con người ta thay đổi, làm con người ta thổn thức khôn nguôi. Con người chẳng thể
hiểu nổi mình trong tình yêu, cũng như chẳng thể hiểu được tình yêu là gì? Người ta yêu nhau
vì cái gì? Ánh mắt, nụ cười, giọng nói hay vì điều gì khác? Hay giống như nàng kiều yêu
chàng Kim chỉ vì sắc ngựa tuyết in, có pha màu áu (Truyện Kiều). Mọi thứ cũng chẳng còn
quan trọng nữa bởi chỉ cần hai người thuộc về nhau, bên cạnh nhau, yêu nhau là đủ. Tình yêu
luôn vượt thoát ra khỏi sự kiềm tỏa của lí trí, nó luôn bí ẩn, bất ngờ và có quy luật riêng. Đoạn
thơ sử dụng cấu trúc đảo: đáp trước, hỏi sau khiến câu thơ trở nên duyên dáng như một cái lắc
đầu. Tình yêu là thế, giản dị, hồn nhiên nhưng lại vô cùng lớn lao và đẹp đẽ, cũng như sóng.
Trái tim của người phụ nữ đang yêu không chi soi vào sóng để thấy được nét tương đồng mà
còn thông qua sóng để bộc lộ những cung bậc cảm xúc của tình yêu.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Xuyên suốt bài thơ vẫn là hình ảnh sóng, hình ảnh sóng được nhắc đến trong bài thơ hơn
mười lần, mỗi lần là một sắc thái, một cảm xúc khác nhau. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao,
như lời tâm sự, bộc bạch chân thành nhất từ cuộc đời của chính thi nhân. Nhịp thơ dồn dập
với những từ ngữ trùng điệp gợi ra hình ảnh con sóng như gối chồng lên nhau. Nỗi nhớ bờ
của sóng tràn ngập không gian, “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, đầy ắp cả thời gian “ngày”
“đêm”. Nhà thơ tiếp tục sử dụng những hình ảnh tương phản, tương xứng với nhau để làm nổi
bật những trạng thái, tình cảm của người con gái trong tình yêu. Đó là những thương nhớ
khắc khoải của một tình yêu chân thành, thắm thiết. Là mong ước luôn được hòa nhập, được
sống trong tình yêu. Sóng ở đây cũng như Em có một tình yêu thật nồng nàn và thủy chung.
Bài thơ được sáng tác năm 1967, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang trong giai
đoạn ác liệt, vì vậy người ta thường hay nhắc đến sự chia ly và xa cách mà ở đó con trai, con
gái ra trận với khí thế hào hùng của cả một dân tộc. Đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh của sự xa
cách, chia ly, ta mới càng hiểu thêm được những nỗi khát khao của người con gái trong tình
yêu. Yêu và nhớ chính là hai mặt của tình yêu. Yêu say đắm thì nhớ thiết tha. Khi phải xa
cách nhau, điều đọng lại duy nhất trong con người ta chính là nỗi nhớ. Khi yêu nỗi nhớ là
thường trực canh cánh trong lòng của người đang yêu. Một trái tim đang yêu là một tâm hồn
đang nhớ. Cũng đã có không ít các nhà thơ viết về nỗi nhớ trong tình yêu dưới nhiều phương
diện biểu đạt khác nhau, đâu đó nỗi nhớ ấy như một căn bệnh mà Nguyễn Bính đã từng viết
trong bài “Tương tư”
“Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Hay Xuân Diệu - hoàng tử thơ tình cũng đã từng viết:
“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm. Em ơi!”
(Tương tư chiều)
Trở lại với Xuân Quỳnh, có những nỗi nhớ cồn cào da diết thì chị gọi đó là những “Con sóng
trên mặt nước”. Còn những nỗi nhớ phải kìm nén trong lòng không tài nào bật ra được thành
tiếng chính là “Con sóng dưới lòng sâu”. Có sự đối nghịch, tương phản giữa dưới lòng sâu và
trên mặt nước nhưng giữa chúng lại vô cùng thống nhất bởi đó chính là nỗi nhớ mong trong

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
98

tình yêu, luôn hướng về người mình yêu dù có bộc bạch hay che dấu ở trong lòng. Ta cũng
thấy sự độc đáo ở khổ thơ khác với những khổ khác là khổ này có sáu câu thơ, trong khi các
khổ thơ khác chỉ có bốn câu. Bởi theo thi nhân, nếu chỉ viết một khổ gồm bốn câu có lẽ không
đủ bày tỏ nỗi nhớ của người con gái trong tình yêu.
Nhịp thơ của đoạn dào dạt, hăm hở, đằm thắm nhất tựa như tiếng sóng vô hồi vô hạn thể hiện
tiếng lòng của một trái tim tràn ngập nỗi nhớ. Đó là một nỗi nhớ thường trực ngay cả khi
thức, khi ngủ, bao trùm lấy không gian, thời gian. Sóng và em nhập vào nhau để bổ sung, đắp
đổi cho nhau nhằm diễn tả sâu sắc hơn tình yêu, nỗi nhớ và sự chung thủy của người con gái
khi yêu. Nỗi nhớ đi vào ngay cả trong giấc ngủ, giấc mơ tưởng chừng như mơ hồ, ảo ảnh
nhất:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Đó là nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu của thi sĩ. Mạnh mẽ, mãnh liệt đến nỗi nó đi xuyên qua không
gian, giữa cõi thực và cõi mơ chỉ để hướng về một người mà lòng ta yêu thương. Những đòi
hỏi, khát khao hướng về người mình yêu của người con gái được bộc lộ một cách giản dị
nhưng đầy xúc động và chân thành, sóng khao khát vỗ vào bờ như bản thân em luôn khao
khát được gần anh, dù ngay cả ở trong giấc mơ, trong tiềm thức. Bởi sóng vỗ là một quy luận
của tự nhiên, chừng nào sóng thôi không còn thao thức, không còn vỗ vào bờ nghĩa là lúc đó
trái tim yêu thương mới ngừng nhịp đập, ngừng nhớ. Mượn sóng để diễn tả về nỗi nhớ nhưng
có lẽ là chưa đủ, người con gái ấy phải trực tiếp xuất hiện để bộc bạch về nỗi nhớ của mình.
Người con gái ấy không kiêu kì, không cao ngạo, mà bộc bạch những tâm tư, tình cảm của
mình một cách rất tự nhiên. Nỗi nhớ ấy da diết cồn cào đến mức “cả trong mơ còn thức”, dữ
dội hơn cả sóng nhớ bờ. Bởi, sóng nhớ bờ chỉ trong cõi thực, còn em nhớ đến anh tận cả trong
cõi mộng, cõi mơ. Và trong nỗi nhớ ấy còn là những trăn trở, lo âu của một trái tim đầy nhạy
cảm. Thức không phải chỉ để nhớ, mà còn để nâng niu, gìn giữ mọi khoảnh khắc hạnh phúc
bởi trong lòng em luôn có dự cảm về sự mong manh của tình yêu. Câu chuyện của biển là thế
và dường như sẽ không bao giờ dừng lại, biển không có sóng thì biển chết, tình yêu không có
nỗi nhớ cũng sẽ tàn phai, mai một. Đã có lần ta bắt gặp Chế Lan Viên cũng thể hiện tình yêu
một cách mãnh liệt như vậy qua hình ảnh sóng:
“Anh xa em
Như đất liền xa cách bể
Nửa đêm sâu nằm
Lắng sóng phương em
Em thân thuộc sao mà xa lạ thế
Sắp gặp em rồi sóng lại đẩy xa thêm”
(Chùm nhỏ thơ yêu)
Tình yêu của người con gái cũng vậy, trong sáng, giản dị, thiết tha và đầy thủy chung. Đây có
lẽ là đoạn thơ hay nhất trên diễn đàn thơ Việt Nam hiện đại. Ở đây ta thấy Xuân Quỳnh vừa
kết hợp được nét truyền thống với phong cách hiện đại, tấm lòng thủy chung, tha thiết đã có
từ ngàn đời nay trong người phụ nữ Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh đã khéo léo để thể hiện nó
bằng một cách rất hiện đại, không hề dấu diếm khát vọng tình yêu sôi nổi ấy, sự hòa nhập ấy
dường như làm người đọc bị ám ảnh, trở đi trở lại khi đọc tác phẩm này chỉ có duy nhất hình
ảnh sóng trong tâm trí, và tác giả còn muốn để lại ít nhất một câu hỏi trong lòng người đọc:
“Liệu con sóng có tới được với bờ anh mà nó hằng mong ước hay không”?
Hình tượng sóng chân thực tiếp theo có lẽ cũng bởi nghệ thuật sắp xếp ngôn từ của bài. Dấu
biết rằng tổ chức ngôn ngữ thuộc vào hình thức nghệ thuật của bài thơ, ngôn từ chỉ là phương
tiện còn trái tim mới là người nghệ sĩ. Nhưng việc thể hiện tiếng nói trái tim thế nào lại vô
cùng quan trọng bởi Bạch Cư Dị đã từng nói “Lời là gốc, là cành, thanh là hoa, nghĩa là quả,

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
99

thơ ca là nghệ thuật sắp xếp ngôn từ” ý chính điều này mà bài thơ của Xuân Quỳnh trở nên
độc đáo. Đến gần cuối bài thơ, người ta vẫn thấy các cặp hình ảnh sóng đôi, tương xứng,
tương phản nhau:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Những câu thơ đối lập, sóng đôi nhau đuổi bắt nhau toàn bộ tác phẩm, có xuôi thì ở dưới sẽ
có ngược, có Phương Bắc ắt sẽ phải nói đến Phương Nam. Đặt sóng trong sự xuôi ngược của
khoảnh cách địa lí, Xuân Quỳnh muốn khẳng định rằng, mọi khoảng cách của không gian đều
vô nghĩa trước sóng và tình yêu. Bằng việc sử dụng những cặp từ trái nghĩa, tương phản
“xuôi”-“ngược”, “Bắc”- “Nam”, nhà thơ phần nào diễn tả được sự xa xôi, những thử thách
của hành trình tìm đến với tình yêu đích thực của một trái tim luôn khao khát hạnh phúc đời
thường. Dẫu có cách trở xa xôi, gian khó trăm bề nhưng lòng em vẫn hướng về anh, sóng vẫn
hướng về bờ Cách sắp đặt ngôn từ thế này đã tạo ra sự nhấn nhá, luyến láy, hô ứng trong toàn
bộ tác phẩm. Bởi vậy mà sóng của Xuân Quỳnh mang rất nhiều đặc điểm. Mỗi khổ thơ lại là
từng đợt sóng lớn với những hình ảnh được miêu tả khác nhau. Trong từng đợt sóng ấy lại có
hàng trăm con sóng nhỏ, gối đầu lên nhau, mải miết mang khát vọng hướng về bờ anh của nó.
Âm điệu của bài thơ cũng vì thế mà hối hả, thể hiện thành công nỗi niềm của người con gái
vào tình yêu của chính mình. Đến khổ thơ này, hình ảnh sóng lại tách Em ra để tự bộc bạch,
thổ lộ nỗi niềm, tâm sự riêng, không hề vòng vo hay úp mở mà bộc lộ tình cảm một cách trực
tiếp. Lời khẳng định “Nơi nào em cũng nghĩ / Hướng về anh một phương” đã thể hiện một
niềm tin mãnh liệt, bản lĩnh bất chấp mọi trở ngại để đến được “bờ anh” của cuộc đời mình,
gắn bó thủy chung sâu nặng như quy luật muôn đời của đất trời. Niềm tin và lòng thủy chung
son sắt là nét đặc trưng trong tâm hồn của người phụ nữ Việt Nama
Nếu tình yêu là quy luật luôn tồn tại trong cuộc sống thì sự thủy chung của em chính là quy
luật của tình yêu. Và nỗi nhớ ấy bất chấp vạn vật, khoảnh khắc gặp nhau, giao cảm giữa hai
tâm hồn là không có giới hạn. Những người đang yêu, chỉ cần hướng về nhau là sẽ có thêm
động lực để bước tiếp, để có thể sống tốt hơn.
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Xuân Quỳnh đã tiếp tục mạch cảm xúc của mình bằng cách trả lời câu hỏi ám ảnh trong lòng
bạn đọc mỗi khi khép lại những trang thơ của mình, đó là liệu con sóng có thể tới bờ anh của
nó được hay không, thì câu trả lời ở đây là Có. Nhưng lại là một câu trả lời đầy ẩn ý của tác
giả. Tình yêu lãng mạn, bay bổng là thế nhưng theo hiện thực của cuộc sống thì phải sóng gió
mới làm nên tình yêu. Vì thế, con sóng muốn tới được bờ của nó thì cần phải có nghị lực, có
niềm tin vào tình yêu và chính bản thân mình để có thể vượt qua được những thử thách,
những thử thách chỉ khiến tình yêu trở nên thăng hoa hơn, mãnh liệt hơn. Chỉ cần vượt qua
những khó khăn, thử thách thì nhất định con sóng nào cũng sẽ tới được với hạnh phúc mà bấy
lâu nó kiếm tìm. Cũng như Xuân Quỳnh, một người đã từng trải qua sự đổ vỡ trong tình yêu,
nhưng chị luôn có niềm tin phơi phới vào tình yêu, chị tin rằng hạnh phúc sẽ đến nếu chị có
niềm tin vào cuộc đời này, câu thơ cũng chính là những lời an ủi chính bản thân chị vào một
tình yêu lớn hơn và con sóng nhất định sẽ tới bờ. Tương lai và hạnh phúc dường như vẫn
đang còn ở phía trước. Ý thức về thời gian tuyến tính, chảy trôi không vì thế làm người con
gái lo sợ, ngược lại đó chính là niềm tin vào sự bất diệt của tình yêu:
“Cuộc đời tuy dài thế

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
100

Năm tháng vẫn đi qua


Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Thời gian trôi, cuộc sống vẫn tiếp diễn với những điều bất biến thuộc về tự nhiên. Vậy chẳng
có lẽ gì mà tình yêu phải nằm ngoài quy luật ấy. Cuộc đời và biển lớn đều thành hữu hạn
trước dòng thời gian vô thủy vô trung, giữa không gian mênh mông vô cùng tận. Nỗi âu lo
của con người khi cảm nhận sự hữu hạn của cuộc đời và tình yêu, của một con người luôn
khao khát sự dài rộng và vĩnh cửu của không gian và thời gian. Muốn vượt qua sự hữu hạn
ấy , thì tình yêu chỉ có thể hòa tan vào với thiên nhiên để có thể vĩnh cứu đến hàng vạn năm
sau, những con sóng của biển vẫn ca ngợi bài hát tình yêu bất diệt của riêng nó.
Những suy nghĩ về tình yêu thông qua hình ảnh sóng như thôi thúc tác giả có những âu lo
chính đáng, bởi có thể ngọt ngào, thiêng liêng nhưng tình yêu cũng mong manh và khó giữ.
Bởi vậy mà tác giả luôn trăn trở đến mức cảm thấy bức bối. Khổ thơ cuối đã thể hiện một
cách mạnh mẽ khao khát mãnh liệt của người phụ nữ :
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Những bức bối, day dứt, âu lo ấy được chuyển hóa thành khát vọng được dâng hiến cho tình
yêu. Khát khao của người con gái là được tan ra thành trăm ngàn những con sóng nhỏ. Là
khát khao cháy bỏng muốn được hòa nhập với tình yêu to lớn của đời mình, muốn hòa nhập
vào cuộc sống hạnh phúc, không phải chỉ riêng Xuân Quỳnh, người con gái mà là ước muốn
của toàn thể nhân loại. Câu thơ vừa mang sắc thái của câu hỏi, nhưng cũng vừa như một lời
cầu khiến tha thiết, mong mỏi một cách đầy thành thực. Tình yêu bé nhỏ, đơn lẻ ấy giờ đây
trở thành cái vĩnh hằng, vĩnh cửu và bất diệt khi con người ta nguyện hiến dâng, hy sinh vì nó
bởi cuộc đời tươi đẹp chính là cuộc đời được sống trong tình yêu. Chỉ một chữ “tan”, Xuân
Quỳnh đã thể hiện một khát khao được sống hết mình, sống mãnh liệt với tình yêu. Mong ước
ấy vừa chân thành, vừa táo bạo nhưng cũng đầy nữ tính. Tác giả muốn được vĩnh cửu hóa tình
yêu để tình yêu được sống mãi, trường tồn và bất diệt.
Giáo sư Trần Đăng Uyển đã từng nhận xét : “Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là cuộc hành
trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la, rộng lớn, cuối
cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu
muôn thuở”. Sóng thể hiện quan niệm rất mới mẻ về hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu. Sự
hiện đại trong tình yêu chính là việc vượt qua khỏi những quy định ngặt nghèo ràng buộc của
lễ giáo phong kiến để tự do khẳng định tình cảm, bộc lộ “cái tôi” khát vọng trong tình yêu
một cách chủ động và luôn luôn thể hiện niềm tin vào sức mạnh của tình yêu. Bên cạnh đó,
Sóng thể hiện về quan niệm tình yêu mang tính truyền thống. Sự truyền thống trong tình yêu
biểu hiện trong sự thủy chung, son sắt gắn liền với nỗi nhớ nhung da diết, một lòng hướng
đến người mình yêu. Vì thế bài thơ “Sóng” là tiếng nói chung, nói hộ nỗi lòng của người con
gái khi yêu.
 Giá trị nghệ thuật
Thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởng của những con sóng: lúc
dạt dào, sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gửi gắm tâm tư sâu kín và những
trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen
giữa hình tượng sóng- bờ, anh- em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
101

VD: Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân Miền
Nam đi vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước”, khi sân ga, bến đước, sân đình, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho
nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới thấy rõ khát khao của người con gái trong
tình yêu:
“Khi ta còn trẻ, thơ là người mẹ
Ta lớn lên rồi thơ là người yêu
Chăm sóc tuổi già, thơ là con gái
Lúc chết đi rồi, kỉ niệm hóa lưu thơ”
Đọc xong bài thơ Sóng, ta càng cảm thấy ngưỡng mộ hơn những người con gái Việt Nam,
những con người luôn sống thủy chung, luôn hết mình vì tình yêu, khát vọng hạnh phúc.
Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi khi đã thổi một làn gió mới
vào nền văn học thơ ca nước nhà.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
102

ĐẤT NƯỚC (NGUYỄN KHOA ĐIỀM)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả
- Giới thiệu tác phẩm
VD: Đất Nước - hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang
trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ
cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 - 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của
cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên
tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp.
 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý/ trích dẫn
- Giới thiệu tác giả- tác phẩm
VD: Hiếm có một giai đoạn văn học nào mà hình ảnh Tổ quốc – Dân tộc – Đất nước lại tập
trung cao độ như giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tố Hữu với “Ôi Việt Nam! Yêu
suốt một đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!” (Vui thế hôm nay), Chế Lan
Viên với “Sao chiến thắng”, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải phóng quân đã tạo nên
“Dáng đứng Việt Nam”. Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc qua “Đất Nước” – một
chương thơ trong trường ca “Mặt đường khát vọng”. Chương thơ đã thể hiện một cách sâu sắc
vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng lớn của thời đại “Đất nước của nhân dân”. 
2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Tác giả
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Thừa Thiên- Huế trong một gia đình cách mạng.
- Tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Năm 1964, trở về quê hương tham gia chiến đấu, từng bị địch bắt giam.
- Sau năm 1975 hoạt động văn nghệ và công tác chính trị tại thành phố Huế .
- Ông từng là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin.
- Hoàn cảnh sáng tác
Sáng tác vào mùa đông năm 1971, tại chiến trường Trị- Thiên. Đây là thời điểm mà cuộc
chiến tranh chống Mỹ đang hồi quyết liệt.
- Trích chương V trong trường ca" Mặt Đường Khát Vọng" (1971).

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
103

- " Mặt Đường Khát Vọng" là bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị
vùng tạm bị chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của Đế quốc Mỹ, hướng về nhân dân,
đất nước, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chung của dân tộc.
- Nội dung
Thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về Đất Nước của tuổi trẻ thành thị miền Nam
trong thời kỳ chống Mỹ. Trên nền văn hóa dân gian vững chắc, tác giả đã định hướng sự tìm
tòi, suy ngẫm tới nhiều bình diện như: lịch sử, địa lý, phong tục,... Để làm nổi bật tư tưởng
Đất Nước của Nhân Dân và gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người trước vận mệnh của Đất
Nước.
 Phân tích
Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân bảo vệ
và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý, chiều dài của lịch
sử và chiều sâu văn hóa. Đây là tư tưởng lớn, mang tính dân chủ. Nguyễn Khoa Điềm chính là
sự thể hiện tập trung toàn diện, sâu sắc, là “nhấn mạnh” tư tưởng lớn đó của thời đại. Tư
tưởng ấy đã được nhận thức và khám phá ở cả hai chiều của mối quan hệ: đất nước gắn bó,
hòa quện trong cuộc sống bình dị, đời thường và nhân dân với những đóng góp âm thầm, vĩ
đại làm nên đất nước muôn đời. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những câu hỏi “Đất nước
này là do ai làm ra? Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời? Để trả lời cho những câu hỏi ấy,
Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước. Bài
thơ là sự kết hợp hài hòa giữa mạch chính luận và mạch trữ tình.
Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là
những giá trị mà con người ở 1 vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần cũng có thể là giá
trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đi để bảo vệ đất
đai xứ sở mà còn truyền và bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, những vẻ đẹp mang đậm
cốt cách của con người Việt Nam được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người
già sang lồng ngực của người trẻ, đó là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ta. Đất
Nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển của đất
nước trong trường kì lịch sử, đất nước tựa như 1 sinh mệnh sống vs nội lực mãnh liệt. Nghệ
thuật liệt kê là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp phần khắc họa đất nước
bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, đất nước hài hòa trong mối quan
hệ gia đình, làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
Nhà thơ ngược dòng cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền
cổ tích diệu kì từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta những bài học
nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, đùm bọc, chở che nhau.
Một đất nước xa xưa từ “ngày xửa ngày xưa” trong quá khứ nhưng lại thật gần gũi qua lời mẹ
kể. Đó là những câu chuyện cổ tích với quả thị thơm và cô Tấm hiền, của con chim biết nói
của nghĩa cuả tình. Câu thơ vừa đánh thức ý thức thần tiên của tuổi thơ vừa gợi về những ước
mơ, khát vọng bao đời của nhân dân gửi gắm qua những câu chuyện cổ tích.
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn”
Đó là tục nhuộm răng, tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ
“miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất
Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện cao dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng
trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mỹ, là hiện thân của tình yêu thương,
lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc. Hình ảnh miếng trầu vừa gắn liền với phong tục tập
quán của nguời Việt, vừa là biểu tượng cho lối sống nghĩa tình thủy chung. Câu thơ có đến

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
104

hai trạng ngữ chỉ thời gian là”bắt đầu” và “bây giờ” khiến người đọc có cảm giác như đang
trôi trên dòng sông lịch sử, được chứng kiến bốn ngàn năm lịch sử với một bề dày truyền
thống văn hóa. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn đưa ta trở về làng Phủ Đổng
nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân.
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ được lặp lại 1 lần mà còn xuyên suốt 90 câu thơ
hình ảnh này được lặp lại tới ba lần, đó là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, đánh giặc
giữ nước của nhân dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến
tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh
giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ “lớn
lên” được dùng rất chính xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc. Giọng thơ thâm trầm,
trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ
tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã
khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu
thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến chúng ta nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của
người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đất nước nào cũng đều gắn liền với hình hài của người
phụ nữ: nhắc đến nước Nga ta sẽ nhớ đến người phụ nữ tết tóc đuôi sam, Thái và Lào ta ấn
tượng bởi những người phụ nữ búi tóc cao lộ gáy. Còn nhắc đến người phụ nữ Việt Nam, ta
xúc động trước hình ảnh người bà, người mẹ “tóc bới sau đầu”. Đất nước trưởng thành từ
những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa giãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, thấm nhọc nhắn
nuôi lớn biết bao những thế hệ. Đất nước lớn lên từ những gian khổ của cha và từ những lo âu
của mẹ, cái tình nghĩa của vợ chồng trải qua bao gian nan vất vả: “Cha mẹ thương nhau bằng
gừng cay muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ, đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng
đá, là lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam :” Muối ba năm muối
hãy còn mặn/ Gừng chín tháng gừng hãy còn cay.” Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên”
không chỉ nói đến tục đặt tên con mộc mạc cho dễ nuôi mà còn biểu hiện cho nếp nghĩ, nếp
nhà . Anh em trong gia đình cũng giống như cái kèo, cát cột, phải gắn kết với nhau thì mới tạo
nên được căn nhà vững chãi, nếp nhà bình yên. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ
8 “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo
- một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt
Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết,
ông cha truyền lại cho con cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ. Và chính nhân
dân là những người đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của
người Việt Nam. Dần dần tác giả nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó. Đất nước có từ lúc
những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán từ lúc dân
Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để
xây dựng đất nước. “Ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế
đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết
trồng tre đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương,
thủy chung.
Như đã nói ở trên, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, là một trong
những nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của mảnh đất hình tia chớp. Đất nước có từ xa xôi trong
quá khứ nhưng không hề xa lạ trừu tượng mà gắn với những gì bình dị, gần gũi, thân yêu vô
cùng trong đời sống vật chất và tinh thần. Đất nước gắn liền với những con người trong mối
quan hệ thân thiết, ruột già máu mủ. Đoạn thơ đã sử dụng nhuần nhuyễn chất liệu văn hóa dân
gian, sử dụng từ ngữ, hình ảnh đậm chất gợi nhắc về dân gian,… Câu thơ vì thế mà vừa thể
hiện ý nghĩa cụ thể, vừa gợi suy tưởng đến tầng nghĩa biểu tượng sâu xa, khơi gợi những xúc
cảm ở người đọc.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
105

Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” không chỉ được thể hiện và khám phá ở hình ảnh đất nước
gắng bó, hòa quyện trong cuộc sống bình dị, mà còn qua chiều thứ hai của mối quan hệ: nhân
dân với những đóng góp âm thầm nhưng vĩ đại đã làm nên dáng hình của đất nước:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Ấn tượng ban đầu của chúng ta khi đọc 8 câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ
tích diệu kỳ thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích như “núi vọng phu”, hay
“hòn Trống Mái”. Từ xưa đến nay, khi nói đến điều kiện tự nhiên, những danh lam thắng
cảnh, người ta thường gợi ca đó là một đặc ân của tạo hóa: “Trời đất cho nơi hiểm trở”.
Nhưng đối với Nguyễn Khoa Điềm, ông đã đem đến một cách nhìn, cách cảm khác: đất nước
chính là sự hóa thân của nhân dân. Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều
có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng điệp từ
“góp”. Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo tương quan đối
lập. Nửa trước nói về nhân dân, lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng,
xót thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy những sắc màu
muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca ngợi sự hy sinh của nhân
dân để tạo nên đất nước huy hoàng. Mở ra không gian đất nước với sự trải dài từ Bắc vào
Nam: đền Hùng, núi Vọng Phu, sông Cửu Long,… Điều đặc biệt, khi nhắc đến những sự tích,
những truyền thuyết, nhà thơ đã nhấn mạnh đóng góp của nhân dân để làm ra đất nước. Đoạn
thơ lien tiếp các động từ “góp cho”, “góp nên”, “góp tên… Đằng sau mỗi địa danh là một tên
gọi, đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền thoại là cuộc đời của những
con người. Nhân dân làm nên đất nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, là những anh
hùng, những người lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền
bút, là ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm… Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên
bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, con gà. Trong nhân dân còn có
những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn
dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đát tổ Hùng Vương” phục quanh
núi Hi Cương hay “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng
là thế, đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng để xây
dựng nên đất nước Việt Nam ta. Nhân dân đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương,
cả tính mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa.. Có thể nói, tám câu thơ đều đã giúp người đọc thấy
được sự kỳ diệu của thế hệ trước. Nó giống như một bông vàng chói lọi mà Tổ quốc gọi công
cho nhân dân – người đã hy sinh để làm nên tác phẩm kỳ diệu là nhân dân ta.
Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì
bốn câu thơ sau lại là những cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen lẫn
sự trầm ngâm của một trí thức.
Trước hết ta đến với hai câu thơ:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để khẳng định. Nó giống
như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hy sinh

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
106

to lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng
thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nối lòng mình, bộc
lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hy sinh vĩ đại của nhân dân. Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ
“bốn nghìn năm” –đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn nghìn lớp cha ông đều chiến đấu, đời
cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập dân
tộc. Trong cái nhìn ở tầm bao quát, đặt đất nước trong chiều dài bốn ngàn năm, nhà thơ khẳng
định vóc hình của đất nước chính là vóc hình của nhân dân. Cảnh vật không còn là cảnh vật
vô tri nữa mà chính là máu thịt, là tâm hồn nhân dân. Kết thúc đoạn thơ là một câu thơ vô
cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sống ta…” bởi có sự chuyển đổi. Những câu thơ
trước đó mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn
vẹn trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng.
Bên cạnh đó, nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu
vào âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ như một phút lặng của lòng người trước những
xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật hàm súc. Cuộc đời của những con
người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, gởi những cái hùng vĩ cô
hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi phi thường khẳng định nhân ta thật kỳ diệu!
Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên linh hồn đất nước.

Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử.
Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới
chiều Lê, ông là một nhà chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt
Nam là sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia
chính thống, ông nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu
sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Đoạn thơ mở đầu bằng tiếng gọi “em ơi em” đầy thiết tha, nhân vật trữ tình hướng về dòng
thời gian lịch sử. Nhà thơ đã khẳng định lịch sử dân tộc đã gắn liền với nhân dân, nhân dân
làm nên lịch sử. Đó là người người lớp lớp, là con gái con trai,… Nguyễn Khoa Điềm không
hề nêu ra một cái tên cụ thể nào, đó là những con người bình dị, vô danh, không ai nhớ mặt
đặt tên. Họ hiền lành, chịu thương chịu khó trong cuộc đời đầy những vất vả và gian lao.Ông
xoáy sâu và nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người
Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng
thành đồng chí chung câu quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt
Nam. Một con người có thể là bé nhỏ, một cá thể có thể là hữu hạn nhưng tất cả cùng đóng
góp, cùng xây dựng sẽ làm nên sự trường tồn, bất tử của đất nước.
Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ:
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
107

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Nhà thơ đã nói đến cách sống, cách nghĩ, khẳng định công lao của nhân dân, họ là bao người
con gái con trai trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi. Với những con người ấy, họ sống
hay chết đều giản dị và bình tâm, đơn sơ chất phác trong cuộc sống, cần cù làm lụng sau
những lũy tre làng nhưng cũng chính họ sẵn sàng hi sinh khi Tổ Quốc cần. Chính cách sống
và cách nghĩ ấy đã khiến nhân dân trở nên vĩ đại Nhờ đó mà thế hệ chúng ta mới có được một
đất nước hữu hình –đất nước của những anh hùng. Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức
sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gương đi mở cõi.
Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật
chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên
làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Tác giả đã sử dụng điệp từ “họ” gợi ra hình
tượng đông đảo, lớn lao – nhân dân. Kết hợp cùng với đó là một loạt các động từ “giữ”,
“chuyền”,… diễn tả cụ thể và sinh động vai trò, sức mạnh, công lao của nhân dân. Để rồi khi
đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của
Hoàng Trung Thông trong bài thơ “Báng súng”:
“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.
Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên
thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân. Từ nhận thức toàn diện, sâu sắc công lao
của nhân dân, nhà thơ khẳng định : “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân.” Hai từ “đất
nước” và “nhân dân” đều được nhà thơ viết hoa với tất cả niềm tự hào và lòng biết ơn vô hạn.
Nhân dân chính là những chủ nhân thực sự của đất nước, làm nên đất nước muôn đời.
Không một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con
người ấy vẫn, nguyễn ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát
ngát mùa xuân”. Hay như triết gia người Đức – Engels đã từng nói: “Nếu như không có máu,
mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng
cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là
Đất Nước của Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã trở về với
ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, vẻ đẹp
tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, truyện cổ : Đất
Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại. Câu thơ hai vế song song là một cách
định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt
Nam là nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, ca dao
thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, đặc biệt là đời sống tâm
hồn của nhân dân.
Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ
sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ,
một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó khẳng định: con người Việt Nam
say đắm trong tình yêu. Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng
những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm Mỹ
vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
108

tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng : vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện
thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm
nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư
tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.
 Giá trị nghệ thuật
Tất cả các kiến thức, tư liệu, sự kiện phong phú được đưa vào không chỉ tác động vào lý trí,
làm bừng sáng nhận thức mà còn lay thức tình cảm của người đọc, của mỗi người Việt Nam
chủ yếu nhờ vào sự thẩm thấu qua tâm hồn cảm xúc của Nguyễn Khoa Điềm. Từ đó, nhà thơ
đã tìm được một cách nói riêng giọng điệu tâm tình.
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân
VD : Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ những điều giản dị. Có một hình
ảnh đất nước được lý giải với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết ngày xửa ngày xưa. Có
những giá trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một không gian tình tứ như chuyện tình của
đôi lứa, uyên ương. Tất cả những điều này, được Nguyễn Khoa Điềm truyền tải trọn vẹn trong
trích đoạn “Đất Nước" của mình. Cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ đã làm con người xích
lại gần nhau, tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ Quốc. Tình yêu và
trách nhiệm cao cả ấy trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là quyết tâm của cả một thời
đại: “Thời đại của chúng tôi là thời đại của những thanh niên xuống đường chiếm lĩnh từng
tầng cao của mái nhà, của ngọn đồi, của nhịp cầu để bắn toả lương tâm lên bầu trời đầy giặc
giã” (Chu Lai).

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
109

ĐÀN GHI TA CỦA LORCA (THANH THẢO)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả
- Giới thiệu tác phẩm
VD: Lorca là người nghệ sĩ thiên tài, một nhà cách tân nghệ thuật vĩ đại, người đi đầu trong
phong trào đấu tranh vì dân chủ của đất nước Tây Ban Nha. Lorca có những đóng góp vĩ đại
cho nền nghệ thuật, chính trị Tây Ban Nha nhưng lại có một cuộc đời ngắn ngủi, bi thảm khi
ông bị chính quyền độc tài thủ tiêu khi mới 37 tuổi. Vốn có niềm say mê đặc biệt với thơ văn
của Lorca và nền văn hóa Tây Ban Nha, nhà thơ Thanh Thảo trong một cuộc nói chuyện với
những người bạn yêu thơ Lorca của mình đã viết bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” để bày tỏ sự
trân trọng, ngưỡng mộ với tài năng, xót xa cho cuộc đời ngắn ngủi của người nghệ sĩ thiên tài.
Qua bài thơ Thanh Thảo cũng kín đáo thể hiện niềm tin của mình đối với sức sống bất tử của
những giá trị tinh thần mà Lorca đã sáng tạo ra.
 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý/ trích dẫn

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
110

- Giới thiệu tác giả- tác phẩm


VD: Bằng sự trân trọng, nỗi niềm cảm mến của mình với người nghệ sĩ được mệnh danh là
con “chim họa mi của đất nước Tây Ban Nha” - Lorca, nhà thơ Thanh Thảo trong bài thơ
“Đàn ghi ta của Lorca” đã dựng lên bức tranh đầy sống động về con người và những cống
hiến vĩ đại mà thầm lặng của Lorca đối với nền nghệ thuật, chính trị của đất nước Tây Ban
Nha. Qua bài thơ, Thanh Thảo không chỉ tái hiện chân dung về con người, vẻ đẹp phẩm chất
của Lorca mà còn thể hiện thái độ trân trọng đối với những sản phẩm tinh thần mà Lorca đã
sáng tạo ra, đó là những sản phẩm vô giá, sức sống của nó lâu bền, có sức lan tỏa mạnh mẽ
như “cỏ mọc hoang” trong đời sống tinh thần của con người Tây Ban Nha cũng như những
độc giả yêu thơ trên toàn thế giới.
2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác
Trước đó, Thanh Thảo đã có cơ hội được đọc những bài thơ của Lorca, thậm chí chép lại
những bản dịch vào cuốn sổ tay và mang ra chiến trường nhưng chưa hiểu rõ về nhà thơ này.
+ Cho đến năm 1979, sau khi được nghe câu chuyện về cuộc đời và cái chết của nhà cách
mạng, người nghệ sĩ chân chính Lorca, vì ngưỡng mộ nhà thơ tài hoa Tây Ban Nha này,
Thanh Thảo đã viết bài thơ Đàn ghita của Lorca.
“Đàn ghi ta của Lorca” là một tập thơ tiêu biểu của Thanh Thảo theo phong cách thơ đó, được
in trong tập “Khối vuông ru-bích” xuất bản năm 1985. Tên tập thơ cũng chính là hình dung
của tác giả về cấu trúc thơ mới – một mô hình mở khước từ khuôn mẫu ổn định quen thuộc để
giải phóng cảm xúc và tưởng tượng. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” lấy cảm hứng từ nhân
cách cao đẹp cùng số phận oan khuất của Lorca – người nghệ sĩ Tây Ban Nha tài hoa và yêu
tự do nhưng đã bị chính quyền độc tài phát xít giết hại vào năm 38 tuổi.
- Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề bài thơ sử dụng một hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng: Đàn ghi ta (hay còn gọi là Tây
Ban cầm) là nhạc cụ truyền thống của đất nước Tây Ban Nha; mặt khác, nó cũng được sử
dụng nhằm khắc đậm hình ảnh nổi bật của Lorca lúc sinh thời là một nghệ sĩ kép: thi sĩ kiêm
nhạc sĩ, ông giống như một gã Digan đơn độc, một nghệ sĩ dan gian thường lang thang khắp
xứ trên yên ngựa với cây đàn ghi ta, dùng lời thơ và tiếng đàn để giãi bày nỗi đau buồn sâu
sắc và khát vọng tự do, khát vọng yêu thương của nhân dân mình. “Đàn ghi ta của Lorca” trở
thành một hình ảnh biểu trưng cho cuộc đời, nhân cách và số phận bi tráng của chính Lorca,
người nghệ sĩ tài hoa, phóng khoáng, yêu tự do của dân tộc Tây Ban Nha.
- Nội dung
Nội dung chính tác phẩm: Qua bài thơ, Thanh Thảo đã làm nổi bật hình tượng người nghệ sĩ
Lorca với khát vọng cải cách, cách tân nghệ thuật; một người chiến sĩ dành cả cuộc đời đấu
tranh cho tự do, công bằng, công lí. Cũng qua đây, tác giả cũng đã thể hiện nỗi xót thương, sự
cảm thông cũng như sự ngưỡng mộ đối với tài năng, nhân cách của người nghệ sĩ chân chính.
 Phân tích
Với thể thơ tự do, không viết hoa đầu dòng, Thanh Thảo đã khiến người đọc tò mò về cách
viết giàu sức gợi như thế này.
“Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
111

Li-la li-la li-la


Đi lang thang về miền đơn độc
Với vầng trăng chuếnh choáng
Trên yên ngựa mỏi mòn”
Nhịp thơ nhẹ nhàng, dàn trải nhưng giàu sức gợi, sức tả khiến người đọc mường tượng đến
đất nước xinh đẹp Tây Ban Nha với tiếng đàn ghi ta đắm say, những trận đấu bò tót hào hùng,
những mảnh đất thảo nguyên mênh mông, lãng mạn. Tuy nhiên cụm từ “tiếng đàn bọt nước”
dường như gợi lên sự mờ ảo, biến đổi khó lường, có thể vỡ tan ra bất cứ lúc nào không hay.
Có một dự báo nào đó chẳng lành, đầy bất an ở dâu thơ này.
Khổ thơ đầu gồm 6 câu, tập trung khắc họa chân dung của Lorca – người nghệ sĩ tự do và cô
đơn. Ngay câu thơ đầu tiên, hình ảnh “những tiếng đàn bọt nước” được tạo bởi một kết hợp
âm thanh đã gợi ấn tượng về sự trong trẻo nhưng mong manh, dễ vỡ của tiếng đàn hay cũng
chính là nhân cách và số phận của người nghệ sĩ trước các thế lực bạo tàn. Câu thơ thứ hai
thiên về màu sắc với chiếc “áo choàng đỏ gắt” khơi gợi hình ảnh của một đấu trường với
chàng đấu sĩ đấu bò tót của Tây Ban Nha. Ở nơi đấu trường, đấu sĩ thể hiện tài năng và dũng
khí của mình trong bối cảnh khắc nghiệt nhất và kề bên cái chết. Nói cách khác, tài năng và
khí phách của đấu sĩ được tạc trên lưỡi hái của tử thần. Nhưng, đấu trường ở đây chính là đấu
trường giữa một bên là khát vọng dân chủ, tự do của Lorca còn bên kia làn nền chính trị độc
tài phát xít, một bên là khát vọng cách tân nghệ thuật còn bên kia là sự bảo thủ nghệ thuật già
nua. Do vậy, “áo choàng đỏ gắt” vừa gợi được cái khí chất ngang tàng của người nghệ sĩ yêu
tự do, lại cũng vừa gợi được tính chất gay gắt, khốc liệt của cuộc đấu tranh giữa ánh sáng và
bóng tối, giữa chính và tà trong nền chính trị và nền nghệ thuật đương đại ở Tây Ban Nha. Và
trong cuộc đấy này, Lorca nổi bật trên cái phông văn hóa đặc trưng như một kị sĩ lẻ loi, một
nghệ sĩ tự do mà cô đơn, một ca sĩ dân gian ôm cây đàn ghi ta “hát nghêu ngao” cùng với
“tiếng đàn bọt nước”, “lang thang về miền đơn độc”, tháng tháng ngày ngày “chếnh choáng”
dưới “vầng trăng trên yên ngựa mỏi mòn”…
Mười hai câu tiếp theo diễn tả cái chết oan khốc của Lorca bởi các thế lực tàn ác. Người nghệ
sĩ đấu tranh cho tự do và khát vọng yêu thương của dân tộc Tây Ban Nha đang “hát nghêu
ngao”:
“Tây Ban Nha
Hát nghêu ngao
Bỗng kinh hoàng
Áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
Chàng đi như người mộng du”
Cái chết đột ngột của Lorca được diễn tả bằng tâm trạng bàng hoàng, đau đớn, bởi cái chết ấy
cũng đồng nghĩa với việc giết chết một khát vọng, một giá trị nhân văn cao đẹp. Câu thơ diễn
tả cảm xúc “bỗng kinh hoàng” và ba câu thơ tiếp theo diễn tả hình ảnh Lorca bị hành hình đều
được viết theo bút pháp hiện thực gợi nỗi tiếc thương đau đớn và niềm căm phẫn của tác giả
trước cái chết của người nghệ sĩ chân chính và tội ác của bọn phát xít đã kết liễu một con
người mà suốt đời chỉ biết ngợi ca tự do, yêu thương và sống vì Tổ quốc của mình. Cái dáng
đi “như người mộng du” của Lorca gợi nhiều liên tưởng, suy tư: vừa diễn tả tâm trạng ngỡ
ngàng, ngơ ngác của Lorca không thể hiểu nổi lí do cái chết của mình, vừa thể hiện thái độ
của người nghệ sĩ dám coi thường, chẳng thèm để tâm đến cái thứ cường quyền bạo lực đang
cướp đi mạng sống của mình, đồng thời cũng vừa góp phần bộc lộ niềm cảm thông, xót
thương và lòng ngưỡng mộ của tác giả đối với người nghệ sĩ không biết cúi đầu này.
Những câu thơ tiếp theo đưa ra một loạt hình ảnh và chi tiết với lối diễn đạt chuyển đổi cảm
giác và lối kết hợp tạo hình ảnh đồng hiện khá phổ biến ở thơ tượng trưng:

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
112

“Tiếng ghi ta nâu


Bầu trời cô gái ấy
Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
Tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”
Có thể suy luận và liên tưởng nhiều chiều về loạt hình ảnh biểu trưng siêu thực này. Tiếng ghi
ta nâu và bầu trời cô gái ấy phải chăng là một diễn tả ẩn dụ về tình yêu thương? Là khúc hát
ngợi ca bầu trời rộng mở của đất nước Tây Ban Nha và đôi mắt nâu huyền của người con gái
yêu thương. “Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy” phải chăng là vẻ đẹp và sức sống ẩn chứa trong
nghệ thuật của tiếng đàn. “Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan”/ “tiếng ghi ta ròng ròng”/ “máu
chảy” phải chăng là một biểu trưng về cái chết của nghệ thuật, và số phận mong manh của
người nghệ sĩ, của nghệ thuật trước các thế lực bạo tàn… Cũng có thể suy luận theo một
hướng khác: âm thanh tiếng đàn sau cái chết của Lorca không còn nguyên vẹn được nữa mà
vỡ tan ra thành màu sắc nâu, xanh; thành hình khối tròn, bọt nước, vỡ tan; thành dòng máu
chảy như sự đau đớn tiếc thương không thể diễn tả trọn lời. Tác giả không nói đến thân xác
Lora không còn nguyên vẹn mà nói tiếng đàn ghi ta tan chảy, “vỡ tan” đã cho thấy một sự
tương giao giữa các yếu tố vật chất và tinh thần. Cái chết và nỗi đau thể xác là của riêng
Lorca, còn cái chết của nghệ thuật, cái chết của khát vọng tự do và cái đẹp là nỗi đau tinh thần
của cả dân tộc Tây Ban Nha và của nhân loại tiến bộ trước tội ác của các thế lực bạo tàn.
Đoạn thơ còn lại tập trung diễn tả sự bất diệt, vĩnh hằng của Lorca và nghệ thuật chân chính.
Các câu thơ giàu chất suy tưởng và biểu trưng được viết theo lối liên kết kề của nghệ thuật
tượng trưng siêu thực:
“Không ai chôn cất tiếng đàn
Tiếng đàn như cỏ mọc hoang
Giọt nước mắt vầng trăng
Long lanh trong đáy giếng”
Hai câu thơ trên có thể được hiểu rằng cái chết của Lorca là một mất mát lớn cho nghệ thuật
không còn dai dẫn đường, hành trình cách tân nghệ thuật mà Lorca theo đuổi giờ đây không
còn người tiếp bước. Mặt khác, cũng có thể hiểu đấy là những hình ảnh biểu trưng cho sự bất
diệt của nghệ sĩ và nghệ thuật chân chính. Bởi lẽ Lorca đã ra đi nhưng nghệ thuật thì không
thể bị chôn vùi, không ai có thể chôn cất được “tiếng đàn”, nghệ thuật vẫn sẽ sống mãi, giản
dị, kiên cường như cỏ dại: “Tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Hai câu thơ tiếp ít nhiều gọi nhớ
đến chi tiết Lorca bị thủ tiêu và ném xác xuống giếng. Giọt nước mắt kia phải chăng là biểu
trưng cho nỗi đau, niềm tiếc thương vô hạn, còn vầng trăng phải chăng chính là hình ảnh ngời
sáng của Lorca – người chiến sĩ hy sinh cho tự do, người nghệ sĩ chân chính đã hiến dâng cả
cuộc đời mình cho cái đẹp nghệ thuật. Nhưng không chỉ có vậy, bởi vì cách phốt kết liền kề
không sử dụng quan hệ từ, lại có thể gợi ra các tầng ý đa nghĩa đa chiều do các phát sinh
nhiều quan hệ liên kết. Đó là quan hệ so sánh: giọt nước mắt với vầng trăng; quan hệ sở hữu:
giọt nước mắt của vầng trăng; quan hệ đồng nhất: giọt nước mắt của vầng trăng… ý nghĩa về
niềm đau xót tiếc thương và vẻ đẹp cùng với sự bất tử của Lora dường như là sự giao thoa
lung linh của tất cả các tầng nghĩa ấy.
Vẫn mạch suy tưởng về sự vĩnh hằng của nghệ thuật chân chính, ở những câu thơ cuối bài,
Thanh Thảo đã tạo ra những tương phản, đối lập và chuyển hóa giàu ý nghĩa:
“Đường chỉ tay đã đứt
Dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
Trên chiếc ghi ta màu bạc”

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
113

Cái chết phũ phàng của Lorca đã cắt đứt thiên mệnh của đời anh, ném nó vào cõi tạo hóa vô
biên. Sự đối lập giữa cái hữu hạn của cuộc đời với cái vô cùng của tạo hóa đã chuyển tải một
ý nghĩa mới về cái chết của Lorca: Lorca chết đồng nghĩa với việc giã từ cái hữu hạn để bước
sang địa hạt của cái vô cùng vô tận và phương tiện cho sự siêu thoát ấy chính là đôi cánh nghệ
thuật “Lorca bơi sang ngang”/ “Trên chiếc ghi ta màu bạc”. Thi sĩ bơi trên chiếc ghi ta chính
là bơi trên con thuyền thi ca để vượt bến bờ sinh tử. Và cao hơn cái chết oan nghiệp ấy, Lorca
đã tiến dần đến sự giải thoát và mang tính triết học: giã từ cái hữu hạn để đến bến bờ của cái
vô cùng bằng phương tiện thơ ca, nghệ thuật:
“Chàng ném lá bùa cô gái Digan
Vào xoáy nước
Chàng ném trái tim mình
Vào lặng yên bất chợt.”
Là bùa cô gái Digan là một vẻ đẹp huyền bí mang màu sắc tôn giáo, xoáy nước là tai họa định
mệnh trên dòng sông số phận. Cho nên, hành động ném lá bùa và ném trái tim mình đều hàm
ý tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát khỏi vòng tục lụy của Lorca. Nhưng sự giải thoát ấy
của Lorca còn mang đến một ý nghĩa lung linh hơn: Nghệ sĩ chân chính cần phải ý thức về cái
chết của bản thân để thế hệ sau tiến lên và để cho nghệ thuật được tái sinh mạnh mẽ.
“li-la li-la li-la”
Kết thúc bài thơ lại vang lên âm thanh “li-la li-la li-la” của ghi ta như tiếng ca về sự bất tử của
thi ca Lorca, của tâm hồn thanh cao yêu tự do, yêu cái đẹp, yêu đất nước Tây Ban Nha mà
chàng nghệ sĩ Lorca cho đến khi bước đến bên họng súng kẻ thù vẫn cất cao. Dòng cảm xúc
xót xa, tiếc nuối về một nhà thơ thiên tài được chảy trôi theo những suy tư đa chiều, vừa sâu
sắc vừa mãnh liệt của một hồn thơ cùng nét độc đáo trong phong cách thể hiện đã gây dấu ấn
sâu sắc trong lòng người đọc.
Trước khi chết, Lorca để lại di chúc: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. “Cây đàn” được
hiểu là biểu tượng nghệ thuật của Lorca là những đóng góp của ông trên lĩnh vực nghệ thuật.
Cây đàn cũng như Lorca chỉ có giá trị khi gắn với Lorca. Lorca không còn nữa thì sự sống của
cây đàn, của những sáng tạo nghệ thuật cũng chấm dứt. Nhà thơ Thanh Thảo đã lấy câu nói
đó làm lời đề từ cho bài thơ, như một thứ chìa khóa nhằm hướng tới người đọc hiểu thông
điệp sâu xa của bài thơ chăng? Lời đề từ là tình yêu say đắm của Lorca với nghệ thuật, tình
yêu tha thiết của ông với xứ sở Tây Ban Nha thì chưa đủ. Có lẽ ý nghĩa và ước nguyện sâu xa
mà nhà thơ muốn gửi gắm qua đó là sự cách tân nghệ thuật. Nhà thơ không muốn thơ ca cách
tân của mình trở thành vật án ngữ trong sáng tạo của thế hệ sau. Nghệ thuật phải được đổi mới
không ngừng. Người cầm bút phải biết nối tiếp và nhân lên, vượt qua những sáng tạo của
Lorca để vươn tới chân trời nghệ thuật sáng tạo hơn. Đừng để thần tượng của mình đổ bóng
xuống tương lai, nền nghệ thuật sẽ đi dần vào lạc hậu, già cỗi.
 Giá trị nghệ thuật
- Kết cấu:
+ Sự liên kết các dòng thơ không có dấu ngắt câu, các chữ không viết hoa, thể hiện quan
niệm:
+ Cảm xúc liền mạch, không mở không kết như chính cuộc sống bất tận
+ Lorca và nghệ thuật của Lorca là bất tử.
- Hình ảnh:
+ Thể hiện đặc điểm, tâm hồn, văn hóa Tây Ban Nha
+ Lạ hóa

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
114

- Nhịp điệu, nhạc điệu:


+ Nhịp điệu tự do, phù hợp với cảm xúc
+ Điệp khúc “li-la li-la li-la” du dương làm cả bài thơ vang trong tiếng nhạc.
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân
VD: Như vậy, bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” rút từ tập “Khối vuông Ru - bích” xứng đáng là
một trong những sáng tác tiêu biểu thể hiện rõ đặc trưng thơ của Thanh Thảo. Qua những vần
thơ đầy ám ảnh về số phận và cuộc đời bi kịch của người nghệ sĩ tài ba Lorca cùng âm vang
tiếng đàn “li-la li-la li-la” ngân vang xuyên suốt bài thơ , chúng ta có thể thấy được tư duy
tượng trưng, siêu thực, lối viết phóng túng, tự do trong thơ Thanh Thảo. Đồng thời, bài thơ
còn thể hiện sự đồng cảm, đau xót của tác giả trước số phận ngắn ngủi của người nghệ sĩ
Lorca cùng niềm tin mãnh liệt vào sự bất tử của các giá trị nghệ thuật chân chính.

TÙY BÚT NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả
- Giới thiệu tác phẩm
VD: Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ ngay đến “chủ nghĩa xê dịch”. Ông tới miền
Tây Bắc rộng lớn, xa xôi không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến miền đất lạ cho thoả niềm
khát khao “Xê dịch” mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên và ở tâm hồn của
người lao động. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu,
thác nước dữ dội hoặc những cảnh thiên nhiên đẹp một cách tuyệt đỉnh, tuyệt vời. “Người lái
đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của nhà văn. Tác phẩm là những trang văn
miêu tả rất tinh tế vẻ đẹp hình tượng con sông Đà vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình
và lãng mạn.
 Gián tiếp:

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
115

- Liên hệ tư tưởng đạo lý/ trích dẫn


- Giới thiệu tác giả- tác phẩm
VD:
Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Thì xa xôi gấp mấy vẫn lên đường.
Sống ở thủ đô mà dạ để mười phương.
Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn.”
( Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
    Hòa chung với không khí sôi nổi của cả nước khi Miền Bắc tiên lên xây dựng Chủ nghĩa xã
hội với xu hướng đi đến những vùng cao để phục hồi kinh tế với tiếng hát đầy sông, đầy cầu
thì Nguyễn Tuân đã lựa chọn Tây Bắc làm miền đất hứa để viết lên tuyệt tác của đời mình.
Ông không đi theo lối mòn khi viết về những “cái tôi”còn buồn như Huy Cận, Chế Lan Viên
– Những “cái tôi” luôn cô đơn trước vũ trụ, cô đơn giữa dòng đời. Nguyễn Tuân đã khéo léo
để “cái tôi” cá nhân của mình hòa chung với “cái ta” của cộng đồng và mở ra một trào lưu văn
học mới để rồi tất cả được kết tinh trong tập “Tùy bút Sông Đà” mà linh hồn của nó chính là “
Tùy bút Người lái đò Sông Đà”. Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời say mê đi tìm cái đẹp,
cái đẹp ở đây chính là nghệ thuật, mà khi nói đến nghệ thuật cũng chính là cái đẹp, với
Nguyễn Tuân, con người chính là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời nhất mà tạo hóa đã ban tặng.
Cái đẹp ấy được Nguyễn Tuân phát hiện ra trong “ thứ vàng mười đã qua thử lửa” của Tây
Bắc, ở những con người đang gắn bó với công cuộc xây dựng quê hương, đất nước. Chất vàng
mười ấy chính là vẻ đẹp của người lái đò sông Đà, dưới ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Tuân
đó vừa là người anh hùng, vừa là nghệ sĩ tài hoa trên chính nghề nghiệp của mình.

2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Tác giả
+ Nguyễn Tuân(1910- 1987)
+ Quê quán: quê ở thôn Thượng Đình, Xã Nhân Mục( tên nôm là làng Mọc), nay thuộc
phường Nhân Chính, quận Thanh xuân, Hà Nội.
+ Ông trưởng thành trong một nhà Nho khi Hán học đã tàn.
+ Ông là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo. Là nhà văn lớn của nền văn học
Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại song đặc biệt thành công ở loại tùy
bút.
- Hoàn cảnh sáng tác
" Người lái đò sông Đà" được Nguyễn Tuân sáng tác sau những chuyến đi thực tế gian khổ và
hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn. Bài tùy bút được in trong tập" Sông Đà" xuất

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
116

bản năm 1960. Nội dung bài tùy bút là miêu tả con Sông Đà và hình ảnh người lái đò vượt
thác.
- Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề “Người lái đò sông Đà” trước hết gợi cho người đọc về nhân vật trung tâm của tác
phẩm đó là ông lái đò - một người lao động tại vùng sông nước Tây Bắc. Ông lái đò vừa có
những vẻ đẹp của một người lao động bình thường, vừa có phẩm chất của một người nghệ sĩ
tài hoa.Đồng thời, nhan đề cũng nhấn mạnh đến một hình tượng không kém phần quan trọng
của tác phẩm: con sông Đà. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Đà hiện lên đầy hùng vĩ nhưng cũng
đầy thơ mộng.
Qua nhan đề trên, Nguyễn Tuân muốn khẳng định vẻ đẹp của con người lao động ở vùng núi
Tây Bắc trong công cuộc chinh phục thiên nhiên để kiến thiết quê hương đất nước.
- Nội dung
Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu dất nước say đắm, thiết
tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kỳ vĩ, hào hùng, vừa trữ
tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
+ Một con sông" Hung bạo" và " Trữ tình".
+ Một người lái đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người Tây Bắc tài trí, dũng cảm trong lao
động.
 Phân tích
- Hình tượng con sông Đà
Sông nước quê hương bao đời nay vốn là đề tài, là nguồn cảm hứng đi về trong văn chương từ
cổ chí kim. Không ít các thi nhân, văn nhân đã chọn viết về những dòng sông thiên nhiên đất
trời để gửi gắm tâm tư, tình cảm cũng như dẫn người đọc “bước vào xứ sở của cái đẹp”, và
trong đó, Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ được mệnh danh là “một định nghĩa của cái đẹp”
cũng là một cây bút tiêu biểu, nổi bật với bài kí “Người lái đò sông Đà”.Tác phẩm là kết quả
của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân, bằng một nguồn cảm hứng đặc biệt, ông
đã tự nhận mình là “người đang đi tìm vàng quanh sông Đà”. Đó là thứ vàng có sẵn trong
thiên nhiên, đất trời, màu sắc sông núi của Tây Bắc, và hơn cả, đó còn là thứ vàng mười có
sẵn trong những con người đang ngày ngày nhiệt tình gắn bó với công cuộc dựng xây cho Tây
Bắc ngày một sáng sủa, tươi vui, vững bền.
Nếu như Nguyễn Minh Châu gọi đó là “Viên ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm hồn
con người” thì Nguyễn Tuân lại gọi đó là “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Toàn bộ vẻ đẹp ấy
lấp lánh lên trong tập “Tùy bút sông Đà” sáng tác năm 1958 – 1960 với linh hồn là bài kí
“Người lái đò sông Đà". Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ còn là thiên
nhiên vô tri vô giác mà là một sinh thể có hồn và tràn đầy sức sống. Nhà văn đã thành công
khi thể hiện được hình ảnh của con sông Đà vừa dữ dội khác thường nhưng cũng rất nên thơ
nên họa. Lúc hung bạo nó như kẻ thù số một của con người, lúc trữ tình nó lại đầy chất thơ và
thân thiết với con người như một cố nhân xa cách thì nhớ nhung lưu luyến. Cho nên hai câu
thơ đề từ có thể được xem là đã thâu tóm được hình tượng sông Đà “Đẹp vậy thay tiếng hát
trên dòng sông” và “Chúng thuỷ giai đông tẩu –Đà giang độc bắc lưu”. Mà nói như Nguyễn
Tuân, đối với ông cái đẹp đó phải là “Đã dữ dội phải dữ dội đến khác thường tột đỉnh và đã
đẹp phải đẹp đến tuyệt Mỹ giai nhân”. Đồng thời, Nguyễn Tuân cũng phát hiện ra hình ảnh
của người lái đò Lai Châu, mặc dù tuổi đã ngoài 70 nhưng thực sự là một người nghệ sĩ trên
sông nước, tay lái của ông lão nở hoa trên dòng sông Đà. Với tác phẩm “Người lái đò sông
Đà”, ngòi bút của Nguyễn Tuân đã thực sự được thăng hoa trên dòng sông văn chương của
mình.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
117

Khi trở về với mảnh đất cực Tây của Tổ quốc, ngòi bút của Nguyễn Tuân được đắm mình vào
trong thiên nhiên hoang vu, nhà văn đã xây dựng lên những cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp.
Nhưng Nguyễn Tuân chỉ chọn con sông Đà vì chỉ có sông Đà mới hội tụ được đầy đủ vẻ đẹp
của thiên nhiên Tây Bắc. Hơn nữa, Nguyễn Tuân còn là một người đi theo chủ nghĩa xê dịch,
ông thích viết về xe cộ, thác dữ và thường hay đi đây đi đó để thay đổi thực đơn cho nhãn
quan của mình. Khi viết về sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng chủ yếu là thủ pháp nghệ thuật
nhân hóa. Nguyễn Tuân không viết sông Đà được khơi nguồn từ Trung Quốc mà ông viết
sông Đà được khai sinh.Ông không viết là sông Đà chảy vào lãnh thổ Việt Nam, mà ông viết
là “Sông Đà xin nhập quốc tịch Việt Nam”. Ông không viết sông Đà mở rộng dần ra, mà ông
viết “Sông Đà trưởng thành dần lên”. Với nghệ thuật nhân hóa tài tình, Đà giang thực sự trở
thành 1 sinh thể có hồn, có cá tính. Không phải ngẫu nhiên trong văn giới cùng thời Nguyễn
Tuân được mệnh danh là “người có sợi tóc chẻ làm tư”, Nguyễn Tuân xứng đáng là một nhà
ngôn ngữ.
Trước tiên, ta đến với vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà. Vẻ đẹp ấy được hiện lên qua cảnh đá
bờ sông dựng vách thành. Những chi tiết tưởng như tản mạn bang quơ đã gợi tả gián tiếp độ
hẹp của lòng sông, độ cao của vách đá. Hình ảnh so sánh đầy bất ngờ: “vách đá thành chẹt
lòng Sông Đà như một cái yết hầu…” miêu tả chân thực và sinh động độ hẹp của lòng sông,
bị đá chèn đến mức như ngạt thở. Tác giả còn sử dụng hình ảnh quen thuộc “đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa
sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Nhà văn vận dụng rất nhiều kiến
thức để tái hiện lên vẻ đẹp của sông Đà ở khúc thượng nguồn. Nguyễn Tuân chẳng khác nào 1
nhà quay phim lão luyện đang tác nghiệp. Ở khúc thượng nguồn, sông Đà hiện lên như một
cơn thác dữ, như một mụ dì ghẻ, một hiểm họa môi trường đến từ thiên nhiên. Để khắc họa
tính cách của sông Đà, tác giả đã sử dụng hơn 300 động từ mạnh và từ những góc nhìn khác
nhau. Nhìn từ trên cao, lấy toàn cảnh sông Đà, sông Đà hiện ra như một sợi dây thừng dài
loằng ngoằng. Tiếp đến, ta không thể bỏ qua đoạn mặt ghềnh Hát Loóng, sông Đà hiện lên
với tốc độ dòng chảy lớn, những câu văn ngắn, ngắt nhịp liên tục “nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xu bất cứ người
lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy”. Nhịp điệu câu văn nhanh, mạnh, dồn dập gợi tả sự
chuyển vần của cả một quần thể tự nhiên. Với những câu văn đầy sinh động thế này, Nguyễn
Tuân thật sự đã buộc ngôn từ phải tạo nên ghềnh thác”. Hay như ở quãng Tà Mường Vát, phía
cuối Sơn La, ở đó có những xoáy hút nước mà chỉ cần người lái đò lơ là tay chèo, lập tức sẽ bị
hút xuống “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược
rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷnh sông dưới”. Đó quả thực là những cái bẫy chết người. Miêu tả cảnh những cái hút
nước trên sông, Nguyễn Tuân đã sử dụng đến độ thành thạo nghệ thuật so sánh “những cái hút
nước như cái giếng bê tong thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “thở và kêu như cửa
cống bị sặc”. Ví hút nước như cái giếng bê tong, nhà văn đã gợi ra một ấn tượng mạnh mẽ về
độ sâu và bề dày. Rồi ví những cái giếng sâu nước “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Tất cả
đều đem đến hình dung cụ thể về những cái hút nước vừa rộng mà lại rất sâu với những âm
thanh dữ dội và bí hiểm. Sông Đà quả thực như một con quái vật đang trong một cơn cuồng
nộ đầy ghê sợ.
Nét hung bạo của sông Đà còn được khắc họa đậm nét hơn, dữ dội hơn ở cảnh thác và đá
ngầm trên sông. Ở cảnh này, sông Đà thực sự mang cả diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số
một. Khi ở xa âm thanh của tiếng nước cứ “réo”, “réo to”. Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ
hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. Tiếng thác giống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
118

tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng”. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng thú vị, Nguyễn Tuân
đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, hung bạo, đầy đe dọa ngay cả khi rất xa. Con
sông bấy giờ như một loài thủy quái không chỉ hung hãn mà còn nham hiểm đầy tráo trở. Lần
đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt
rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có
nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó. Nguyễn Tuân đã lấy lửa để tả nước, lấy
hình ảnh để tả âm thanh, lấy rừng để tả sông. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy! Phối hợp với
sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ
ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào
cũng nhăn nhúm, méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Hình ảnh quân đá bằng nghệ thuật
nhân hóa đã trở nên hùng hậu, nham hiểm, hung hãn hơn ngàn lần . Sông Đà đã giao việc cho
mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi thạch trận nguy hiểm đe dọa tất cả những
người lái đò trên sông. Toàn bộ vẻ đẹp sông Đà khúc thượng nguồn tựa được miêu tả tựa như
kẻ thù số một, khủng khiếp, nham hiểm ngay từ cả diện mạo đến tâm địa. Cuộc vượt thác
chẳng khác nào vượt thoát khỏi một trận hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên.
Trôi về hạ lưu, ta biết đến một vẻ đẹp hoàn toàn khác của con sông. Đó là một vẻ đẹp trữ tình,
rất nên thơ nên họa. Nếu phần thượng nguồn của sông Đà được sử dụng rất nhiều những thể
loại nghệ thuật khác nhau thì ở phần hạ lưu của sông Đà, nhà văn sử dụng chủ yếu là kiến
thức về văn chương và du lịch. Dưới ngòi bút cua Nguyễn Tuân, sông Đà gợi bao cảm xúc mê
say lòng người. Khi trữ tình, sông Đà mềm mại, huyền ảo như mái tóc người con gái kiều
diễm, duyên dáng: “con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi người Mèo
đốt nương xuân”. Sông Đà đã gom nhặt tất cả những gì là đẹp đẽ nhất, thơ mộng nhất, huyền
ảo nhất của mây trời Tây Bắc, những gì trẻ trung của hoa ban trắng và nét gần gũi và ấm áp
của cuộc sống đời thường.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há
Dương Châu” làm cho người đi rừng dài ngày “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm,
vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Ở hạ lưu, lòng sông mở rộng, độ dốc không còn, nước
chảy hiền hòa giữa đôi bờ tiền sử. “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời
Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sông Đà hiện ra với màu sắc và
diện mạo hoàn toàn khác, yên tĩnh và có âm hưởng của thi ca nghệ thuật như một bài thơ trữ
tình viết bằng văn xuôi.
Bên cạnh đó, nhà văn còn bộc lộ tình yêu quê hương, tình yêu đất nước, ông nhận thấy bọn
thực dân Pháp đổ mực tây vào sông Đà và gọi bằng cái tên láo lếu là “con sông Đen”. Bằng
hiểu biết của mình, Nguyễn Tuân chỉ ra rằng, sông Đà không phải lúc nào cũng là màu đen,
sông Đà thay đổi màu theo mùa, mùa nào màu nào cũng đẹp cả. “Vào mùa thu, sông Đà lừ lừ
chín đỏ như một người bầm đi vì bữa rượu” Câu văn không chỉ gợi ra sắc màu, mà còn gợi ra
tốc độ chậm rãi của dòng sông đỏ nặng phù sa khi thu về. “Vào mùa xuân, sông Đà có màu
xanh ngọc bích chứ không phải xanh canh hến như sông Gâm, sông Lô”, một sắc xanh trong
đặc biệt. Nhà văn này đã phải bám gót anh liên lạc, trở về, nhìn thấy sông Đà, bao nhiêu ký ức
và kỷ niệm lại ùa về và ngòi bút của Nguyễn Tuân một lần nữa thực sự thăng hoa. Cảnh sông
Đà thơ mộng là thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần
tiên, để rồi tiếng đập nước của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc
rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái
động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
119

Không những thế, sông Đà còn mang một sắc thái lặng lờ và hoang dại ‘Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử…”. Sông Đà thật sự đã khiến con người chìm đắm trong nét trong trẻo, an
lành và thuần kiết. Đứng trước dòng sông ấy, con người có thể tìm lại những gì trong trẻo
nhất, yên bình nhất.
Khi miêu tả nét đẹp trữ tình của sông Đà, Nguyễn Tuân đã trực tiếp bộc lộ những trạng thái,
cảm xúc, bộc lộ cái tôi của mình trong những câu văn đầy sinh động và giàu chất thơ. Hai nét
tính cách hoàn toàn đối nghịch nhưng lại đồng hiện trong một dòng sông.Qua đó ta có thể
thấy được tài hoa, vốn văn hóa uyên bác và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân,
nhờ đó đã phần nào tái hiện lên một khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng cũng thật
trữ tình làm ta thêm tự hào về Tổ quốc, quê hương Việt Nam. Nhà báo Genevieve Sarah Loh
của kênh News Asia đã nhận xét: Việt Nam tuyệt đẹp và khác biệt với thế giới, đồng thời có
hẳn một bài phỏng vấn các nhân vật trong phim để lý giải tại sao Việt Nam là địa điểm hoàn
hảo của Kong. Trong đó, bản thân đạo diễn Jordan Vogt-Roberts đã từng chia sẻ: “Tôi đã yêu
khung cảnh tại Việt Nam từ cái nhìn đầu tiên và lựa chọn nơi tuyệt đẹp này cho bộ phim của
mình. Rồi các bạn sẽ thấy, ngoài khung cảnh, bạn sẽ yêu cả ẩm thực, con người và văn hoá tại
đây như cách tôi đã phải lòng”.
- Hình tượng người lái đò sông Đà
Trong những năm 58 - 60, Tây Bắc trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật khi miền Bắc
tiến lên xây dụng chủ nghĩa xã hội. Ta biết đến Tây Bắc với tập "Truyện Tây Bắc" của Tô
Hoài, "Mùa Lạc" của Nguyễn Khải và "Tùy bút Sông Đà" của Nguyễn Tuân. Nhà văn
Nguyễn Tuân thăng hoa trên mảnh đất Tây Bắc với linh hồn là bài kí "Người lái đò Sông Đà".
Là một nhà văn đi theo "chủ nghĩa xê dịch", trong tác phẩm ông dùng những ngôn ngữ điêu
luyện để làm nổi bật những đoạn đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội, cảnh thiên nhiên đẹp
tuyệt đỉnh nhưng trên cả đấy là vẻ đẹp con sông Đà. Nhưng tác phẩm không chỉ thành công ở
việc khắc họa hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách đối lập, mà còn gây ấn tượng đậm
nét trong lòng người đọc về hình tượng người lái đò – một người nghệ sĩ trên sông nước.
Khi nhắc đến tên tuổi của Nguyễn Tuân, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương
đều biết đến ông là một nhà văn tài hoa, uyên bác, hơn đời hơn người. Sự tài hoa, uyên bác ấy
làm nên cá tính văn chương của riêng ông mà đã được giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh gói gọn
trong một chữ “Ngông”. Chữ “Ngông” của một người tài hoa, nghệ sĩ cả đời luôn đi theo chủ
nghĩa duy Mỹ, luôn đi tìm cái đẹp. Bởi vậy, Nguyễn Tuân đã thành công khi khắc họa lên
được phong cảnh, thiên nhiên Tây Bắc qua hình ảnh con sông Đà vừa dữ dội khác thường
nhưng cũng rất nên thơ nên họa. Đồng thời, nhà thơ cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ
cùng sự tài ba, trí dũng của con người lao động mới “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Đó là
hình ảnh của người lái đò Lai Châu, mặc dù tuổi đã ngoài 70 nhưng thực sự là một người
nghệ sĩ trên sông nước, tay lái của ông lão nở hoa trên dòng sông Đà. Với tác phẩm “Người
lái đò sông Đà”, ngòi bút của Nguyễn Tuân đã thực sự được thăng hoa trên dòng sông văn
chương của mình.
Trước cách mạng tháng 8, Nguyễn Tuân đề ra cái tôi của mình thì sau cách mạng, cái tôi của
nghệ thuật ấy lại hòa quyện với cái ta chung của cộng đồng quần chúng nhân dân. Đó chính là
hình tượng của ông lão lái đò, là đại diện cho những con người đẹp từ trong chân lý sinh ra,
như những bông hoa nở rực rỡ trong vườn hoa của xã hội chủ nghĩa, đây chính là xu thế văn
chương thời kỳ này chứ không phải riêng Nguyễn Tuân thay đổi.
Nhà văn chỉ ra rằng, người lái đò sông Đà cũng như biết bao những con người khác, mặc dù
chỉ lao động bình thường nhưng lại chính là anh hùng trong thời đại mới. Điều này được thể

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
120

hiện ở việc ông lão lái đò là một nhân vật không tên, là một nhân vật điển hình trong văn
chương mà nói như Pie-linski “Điển hình trong văn chương là những người lạ mà ta đã từng
quen biết từ rất lâu”. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân đã tìm ra được những nét cá tính đặc biệt trong
nhân vật này.
Ngay từ trang đầu tiên của tác phẩm, Nguyễn Tuân đã viết về khoảng thời gian người lái đò
đã từng gắn bó trên sông nước. Mười năm - đối với một ông lão 70 tuổi đầy kinh nghiệm,
từng trải đó vốn dĩ cũng chỉ là một chặng đường. Nhưng trong suốt 10 năm ấy, ngày ngày đều
phải cưỡi trên sông Đà như cưỡi hổ, ngày ngày phải đối mặt với biết bao con thác dữ và
chẳng ngày nào là không phải đương đầu với thạch trận thủy chiến, xuyên suốt từng đấy năm
tháng không ngày nào là không đối diện với cái chết, bởi vậy 10 năm ấy tưởng chừng dài như
cả một đời người, dài cả trăm năm ý chính Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào trong
hoàn cảnh khó khăn mà ở đó, tất cả những phẩm chất đều bộc lộ. Nói như nhà văn H.Balzac:
“bản chất của con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt
hay xấu, tự nó bộc lộ “. Ở ông lão, người đọc có thể dễ dàng thấy rằng đó thực sự là một
người nghệ sĩ trên sông nước với đầy kinh nghiệm đò giang, có bản lĩnh phi thường, lòng
dũng cảm, sự gan dạ, vô cùng mưu trí, nhanh nhẹn và rất quyết đoán dù đã ở tuổi gần đất xa
trời.
Trước hết, Nguyễn Tuân miêu tả ngoại hình của ông lão rất đặc biệt. Nhà văn nhận ra được
dáng vẻ riêng mà chỉ ông lão lái đò mới có. Hai tay của ông lão “dài lêu nghêu như hai cái
sào”, “hai chân lúc nào nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cái cuống lái trong tưởng
tượng”. Dù đã bỏ nghề chục năm nay rồi nhưng lúc nào cũng cứ ngỡ mình đang chèo đò, vượt
thác ý chính công việc đặc biệt này đã tạo nên những nét cá tính độc đáo trong người nghệ sĩ
trên sông nước. Tiếng gầm của sông nước dường như lúc nào cũng âm vang trong giọng nói
của ông, hay như nhà văn đã viết “tiếng nói ào ào của sông nước”. Đôi mắt của ông nửa thực
nửa mơ như đang mơ về một bến bờ xa xăm trong sương mờ. Dù đã ngoài 70 tuổi nhưng thân
hình của ông lão vẫn khỏe mạnh và lực lưỡng “Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của
ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun...”. Lời của ông lão
như một người ăn sóng nói gió. Dường như thời gian cũng phải bất lực trước vẻ đẹp tràn đầy
sức sống của người đàn ông này. Bởi thường khi làm một công việc nặng nhọc như vậy,
người ta sẽ chóng già so với tuổi, vậy mà người lái đò ấy từ gương mặt cho tới nụ cười đều là
của tuổi trẻ nhiệt huyết, đúng với những gì Nguyễn Tuân đã viết: “Khuôn mặt của ông he hé
mở, nở miệng cười, tay lái của ông lão chẳng khác nào một chàng trai”.
Bên cạnh bản lĩnh phi thường, ông lão dù tuổi đã cao nhưng còn sở hữu một trí nhớ siêu
phàm. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược
hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én
sau chèo”. Có lẽ bao tình cảm, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân đều được gửi gắm ở nhân
vật ông lão lái đò, để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà như máu thịt, hiểu và yêu dòng
sông đến mức thuộc lòng hơn một nghìn tên thác, tên ghềnh dù dễ hay khó đều hội tụ và lắng
đọng thành một dòng chảy trong trái tim của ông lão hay chính là trái tim người nghệ sĩ tài ba
Nguyễn Tuân. Người lái đò của Nguyễn Tuân thuộc dòng sông như thuộc một bản trường ca,
thuộc đến từng dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm than và cả từng đoạn xuống dòng. Đó chính là
cái tài của ông lão lái đò mà như Emile Zola từng nói: “Người nghệ sĩ chẳng là gì nếu thiếu
tài năng, nhưng tài năng chẳng là gì nếu không có lao động”.
Để có thể khuất phục và chế ngự trước sự hung bạo của sông Đà, ông lão lái đò không chỉ có
một bản lĩnh phi thường, một trí nhớ siêu phàm mà còn là một trí dũng song toàn. Và điều này
được thể hiện rõ nhất khi ông lão vượt thác chèo đò, vượt qua cả ba tầng trùng vi thạch trận.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
121

Vẻ đẹp của ông lão lái đò chính là vẻ đẹp của một người nghệ sĩ chèo đò vượt thác,
cũng chính là vẻ đẹp của người anh hùng trên sông nước.Không chỉ đẹp về ngoại hình mà còn
đẹp về phẩm chất, tâm hồn. Ông luôn phải đối mặt với những luồng sinh luồng tử, những
trùng vi thạch trận, bởi vậy ta có thể thấy bản lĩnh phi thường trong con người ấy. Ông lão lái
đò dám gắn bó cả 10 năm đời mình với sông Đà, ngày nào cũng phải dành lại sự sống từ cái
chết, bản lĩnh ấy được bộc lộ thông qua những hành động của ông lão. Nếu như sông Đà được
hiện lên như một con mãnh thú thì ông lão lái đò lại gọi con sông Đà chỉ đơn thuần là một
người bạn lắm tật nhiều chứng. Nếu như Sông Đà là một bản anh hùng ca thì người lái đò
thuộc từng dấu chấm, dấu phẩy của bản hùng ca ấy. Nguyễn Tuân vận động kiến thức của cả
hai lĩnh vực thể thao và quân sự, ở đây, “trùng” là điệp trùng, “vi” là nhỏ, “thạch” là đá và
“trận” là trận đồ. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên quãng thủy
chiến ở mặt trận sông Đà. Đó là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi,
nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương chính là kẻ thù số một của con người. Bằng cái
nhìn sắc sảo của một nhà quân sự, Nguyên Tuân đã chỉ rõ sự chênh lệch lớn về cả thế và lực
giữa ông lái đò và thác dữ. Nếu thác dữ đông đảo hùng hậu, hiếu chiến với những “boong ke
chìm”, “pháo đài nổi”, “đá tướng”, “đá quân”, “luồng ống”, “luồng chết”… đã giăng sẵn trận
địa với những vòng mai phục thì ông lái đò đã 70 tuổi, đơn độc trên con thuyền độc mộc chỉ
có mái chèo là vũ khí. Nhưng kì lạ thay, đối mặt với thác dữ, người lái đò ấy vẫn chẳng hề
nao núng: “Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào
mình”. Đó cũng là bản lĩnh cứng cỏi hiên ngang, là cái gan góc bình tĩnh của một người lao
động Tây Bắc. Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc ấn tượng trước những câu văn tả đá
được nhân hóa như một đội quân “đá tảng đá hòn”, “đá tiền vệ” bày ra thạch trận với năm cửa
ải gồm một cửa sinh và bốn cửa tử. Cửa sinh nằm ở phía tả ngạn, ở đây có hai hòn đá tiền vệ
với nhiệm vụ dẫn dụ con thuyền đi vào vùng sơ hở. Mỗi hòn đá, tảng đá nơi ải nước hiểm trở
đều như có hình hài, tính cách của một tên địch quân nham hiểm hiếu chiến. Trận cận chiến
được mở đầu bằng những hành động có vẻ tràn đầy tinh thần thượng võ “một hòn ấy trông
nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một
hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Thiên nhiên thực
sự giữ vai trò chủ động trong việc mai phục con người, như được thể lấn tới “sóng nước như
thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”, “ùa vào
bẻ gãy cán chèo vũ khí trên cánh tay” rồi có lúc “chúng đội cả thuyền lên”. Một chiếc thuyền
đơn độc không biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận đại sẵn. Sóng trận
địa phóng thẳng, mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò
nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm,
sấn sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng
ông lái đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất với
đối phương, ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy
cuống lái, mặt móc bệch. Ông xử lý hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ
huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Hình ảnh người lái đò hiện ra kiên cường,
bản lĩnh như một chiến binh thực thụ
Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất, ông phá luôn trùng vi thạch trận thứ hai.
Trùng vi thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn
năm thủy ngân không ngớt khiêu khích” để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí
lệch qua bờ hữu ngạn thật nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.
Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một chút nghỉ

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
122

tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy
luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá đầy
điêu luyện. Bằng vốn kiến thức uyên sâu, tác giả đã sử dụng hơn ba trăm động từ mạnh để
miêu tả về sự hung bạo của sông Đà, cộng hưởng cùng phép tu từ so sánh, nhân hóa độc đáo
giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, tăng thêm sức mạnh cho Đà giang và càng
làm nổi bật tư thế hào hùng, hiên ngang của ông lão lái đò.
Không một chút nghỉ tay, người lái đò giữ vững tâm thế tiếp tục với cuộc chiến đấu của mình
tiến vào trùng vi thạch trận thứ ba. Nếu như ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai, Nguyễn
Tuân cực tả về vẻ đẹp trí dung song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lão lái đò thì ở
chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy được sự khéo léo, tài hoa của ông
lái đò. Lần này, tuy ít cửa hơn nhưng “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lão lái
đò phải vận dụng mọi tài năng và kinh nghiệm của mình để đương đầu. Một ông lái đò và sáu
tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một thiên
nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày dặn kinh nghiệm, ông lão
phóng thẳng thuyền trọc thủng cửa giữa. Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. “Vút,
vút”, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho
qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được. Một loại những hành động nhanh mạnh như:
“Phóng nhanh”, “phóng thẳng”, “lái miết một đường”, “chọc thủng”, “xuyên nhanh”, “vút”
hay “xuyên” lặp đi lặp lại kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng thẳng, câu văn dồn dập
gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Không chỉ vậy, chính những động
từ mạnh độc đáo ấy đã phần nào nhấn mạnh tốc độ lái thuyền của người lái đò, cùng với nhiều
phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh nhưng cũng vừa
thấy được sự khéo léo qua hướng đi luồn lách, tránh đội quân đá hùng hậu của con thuyền.
Hơn nữa, thủ pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác phẩm
đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con
người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu.
Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng thác” nhưng vẫn
hiện lên như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải. Sau những lần chèo đò
vượt thác, khi Sông nước trở lại cảnh thanh bình, “dòng sông vặn mình vào một cái bến cát cò
hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ” người lái đò trở về cuộc sống thường ngày,
“nướng ống cơm lam” và kể chuyện về những loài cá quý hiếm ở Sông Đà. Người lái đò
không bàn thêm về chiến thắng vừa dành được của mình trên Sông Đà. Bởi thế mới thấy, con
người Tây Bắc là thế, họ xem những cuộc chiến đấu như cuộc sống thường ngày của mình để
rồi khi nhìn lại đó là những kỉ niệm, những niềm vui chứ không hề là khó khăn thử thách. Với
họ, cuộc chiến đấu và chiến thắng sông Đà chỉ là một câu chuyện thường ngày. Ông lão lái đò
tài hoa, nghệ sĩ trên chính nghề nghiệp của mình đã đại diện cho con người Tây Bắc, họ anh
hùng trong lao động và ngay trong cả cuộc sống thường ngày.
 Giá trị nghệ thuật
+ Đậm chất tài hoa uyên bác.
+ Tác phẩm giàu chất thông tin, thời sự. Tác giả đã huy động vốn tri thức chuyên môn của
nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau.
+ Lối so sánh liên tưởng độc đáo.
+ Ngôn ngữ giàu có, tinh tế hiện đại, giàu cảm xúc, đậm chất tạo hình, rất sắc sảo.
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
123

VD: Một Sông Đà, một Nguyễn Tuân - một thiên nhiên dữ dội, một người nghệ sĩ tài hoa.
Tùy bút của Nguyễn Tuân chân thực mà hấp dẫn là vậy. Đọc từng dòng văn, ta như được tự
mình trải nghiệm trong không gian Tây Bắc, được gặp và chiêm ngưỡng cái tài hoa của những
con người nơi đây. “Người lái đò Sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất
nước thiết tha, say đắm của một người nghệ sĩ muốn dùng văn chương để khắc họa vẻ đẹp kì
vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng, và nhất là tài năng của những người lao động bình dị. Sự
đầu tư nghiêm túc, công phu và tâm huyết cho nghệ thuật của Nguyễn Tuân thật khiến ta
khâm phục. Phải chăng đó chính là cái độc đáo tài hoa của Nguyễn Tuân - cái điều mà ông
vẫn quan niệm “đã viết văn thì phải viết cho hay, cho đúng cái tạng riêng của mình. Văn
chương cần sự độc đáo hơn bất kì một lĩnh vực nào khác....”.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG( HOÀNG PHỦ NGỌC


TƯỜNG)

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


1. Mở bài
 Trực tiếp:
- Giới thiệu tác giả
- Giới thiệu tác phẩm
VD: Đến với những trang văn đậm chất trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích
bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, ta sẽ bắt gặp ở đó một sông Hương xinh đẹp, diệu kì với
vô vàn nét đẹp phong phú bên xứ Huế thân thương dưới ngòi bút của ông. Dòng sông ấy đã
trao cả nhan sắc, tâm hồn của mình cho Hoàng Phủ Ngọc Tường.
 Gián tiếp:
- Liên hệ tư tưởng đạo lý/ trích dẫn
- Giới thiệu tác giả- tác phẩm
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
124

VD:
“Sao thèm hát một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.”
(“Vọng Huế” – Nguyễn Trọng Tạo)
Những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo khiến tôi không khỏi nhớ đến một Huế đầy mộng mơ,
yên bình và dịu dàng phản chiếu qua dòng sông Hương trong văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Một Hương giang đầy mãnh liệt và phóng khoáng nơi thượng nguồn, lại tình tứ lãng mạn nơi
ngoại vi thành phố Huế; dòng sông ấy trở nên dịu dàng e ấp khi vào trong lòng kinh thành để
rồi thắm thiết chung tình khi rời xa nơi đây. Chính những nét đẹp ấy đi sâu vào tâm trí ta,
khắc ghi ấn tượng mạnh mẽ, khó phai nhất để rồi nhắc đến “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là ta
ngay lập tức nghĩ đến Hương giang.
2. Thân bài
 Khái quát về tác phẩm
- Tác giả
Hoàng Phủ Ngọc Tường quê ở Quảng Trị nhưng sinh ra ở, lớn lên và học tập tại Huế. Nét đặc
sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa
nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học,
văn hóa, lịch sử, địa lý,... Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm
và tài hoa.
- Hoàn cảnh sáng tác
Bài kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông" in trong tập bút kí cùng tên. Tập sách gồm tám bài kí,
viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đang bừng bừng cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa
anh hùng cách mạng. Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường lòng yêu nước, tinh thần dân tộc
thường gắn với tình yêu thiên nhiên và truyền thống văn hóa sâu sắc.
- Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông đã dẫn dắt người đọc đến với cội nguồn tên gọi của
dòng Hương thơ mộng.
Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã lí giải tên dòng sông bằng một huyền thoại mĩ lệ
của người dân làng Thành Chung.
Lấy tên nhan đề cho bài bút kí dưới hình thức của một câu hỏi nhằm mục đích dẫn dắt, gợi
mở người đọc về nguồn gốc tên gọi của dòng sông, nói lên những khát vọng, niềm tự hào của
con người khi muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng, vun đắp cho văn hóa, lịch sử của
xứ Huế.
Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông” cũng thể hiện được niềm biết ơn đối với những con
người đã khai phá vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của đất nước.
- Nội dung
+ Bài kí ngợi ca dòng sông Hương và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế đẹp thơ mộng hữu tình,
ca ngợi lịch sử vẻ vang của Huế, ca ngợi văn hóa và tâm hồn người Huế.
+ Tác giả coi sông Hương là biểu tượng cho tất cả những gì là vẻ đẹp của cảnh và người đất
đế đô này.

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
125

+ Bài kí chứng tỏ sự gắn bó máu thịt, tình yêu thiết tha với Huế và một vốn hiểu biết sâu sắc
về nền văn hóa đất cố đô của tác giả.
 Phân tích
Dòng Hương giang được nhìn nhận qua nhiều góc độ khác nhau mà ở đây nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã kể ra ở nhiều góc độ như lịch sử, địa lý, văn hóa, văn chương. Đất nước Việt
Nam với sông nước hữu tình, hoa trái quanh năm đã thêu dệt nên một áng văn tuyệt đẹp. Sông
Hương, xứ Huế là nguồn cảm hứng say mê bất tận với tâm hồn người nghệ sĩ. Không phải
ngẫu nhiên mà ở phần đầu của tác phẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết: “Trong những
dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ có sông Hương là thuộc
về một thành phố duy nhất.”
Thủy trình của sông Hương từ góc nhìn địa lí được nhà văn miêu tả qua các chặng từ thượng
nguồn về đến châu thổ rồi từ đó Sông Hương vào với Thành phố Huế và chảy ra biển cả. Nói
đến sông Hương, xứ Huế người ta thường nghĩ đến sự êm đềm, phẳng lặng của dòng sông
trong cảnh thanh bình. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không dừng lại ở ngắm nhìn
“khuôn mặt kinh thành” của nó mà ngược dòng cảm xúc để trở về với thượng nguồn của nó
để khai phá vẻ đẹp bí ẩn của dòng sông. Giữa lòng Trường Sơn hùng vĩ, Sông Hương hiện ra
trong vẻ đẹp man dại đầy cá tính, mạnh mẽ phóng khoáng nhưng vẫn giữ được nét dịu dàng
đắm say. Nhà văn đã so sánh Sông Hương như một “bản trường ca của rừng già” gợi ra một
con sông với chiều dài hùng vĩ và có dòng chảy mãnh liệt. Rừng già là hình ảnh hoang sơ, bí
ẩn và mênh mông trong đó mang các sắc thái với nhiều tiết tấu trầm bổng: “rầm rộ giữa
những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những
đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh kết hợp với tính từ gợi tả đã thể hiện rất rõ sức mạnh
man dại mang vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ. Người đọc từ đó có thể khám phá ra nét tính
cách mới mẻ, độc đáo của sông Hương mà không chỉ ngắm nhìn bộ mặt kinh thành của nó.
Trường Sơn đã hun đúc cho “cô gái Digan” ấy một bản lĩnh gan góc lạ thường, tính cách
mạnh mẽ, tâm hồn trong sáng trẻ trung nhưng cũng rất hoang dại. Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ
ấy, Hương giang dường như vẫn giữ được nét duyên dáng của dòng sông khi Hoàng Phủ
Ngọc Tường trở thành người họa sĩ phối màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng với màu xanh mênh
mang của rừng già, sông nước. Bằng cảm quan thẩm Mỹ tinh tế, tác giả đã có những liên
tưởng bất ngờ và thú vị khi biến sông Hương trở thành một sinh thể có hồn,có cá tính, có cuộc
sống riêng với dòng chảy hoang dại thu hút mọi ánh nhìn.
Khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ. “với cuộc hành
trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng
sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những
hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Sông Hương giờ đây đã mang vẻ đẹp kinh thành mà
người ta vẫn thường thấy để phù hợp với xứ Huế. Từ cô gái Digan man dại, phóng khoáng
nhà văn đã nâng tầm cho sông Hương trở thành người mẹ của vùng văn hóa xứ sở đất đế đô.
Một người mẹ từng trải, trí tuệ, dịu dàng. Cái dịu dàng mà người ta thường mong sau những
thác ghềnh, trí tuệ ở những con người từng trải, bản lĩnh. Qua những hình ảnh so ánh, liên
tưởng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái hiện thành công vẻ đẹp của sông Hương ở khúc thượng
nguồn, đó là những phát hiện độc đáo và đầy bất ngờ của tác giả. Bút kí cuốn hút người đọc ở
sự việc lạ, tri thức mới và cách viết hay. Thường người ta chỉ nghĩ đến sông Hương với vẻ
đẹp dịu dàng, êm đềm nhưng có mấy ai biết rằng “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời
mình trong dãy Trường Sơn hùng vĩ”. Rồi nhiều thế kỉ qua đi, sông Hương như một người
con gái đẹp nằm ngủ mơ màng ở cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại và đợi chờ người tình
trong mộng của mình là xứ Huế đến để đánh thức. Trước khi trở thành người tình chung thủy

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
126

của cố đô, Sông hương đã trải qua một cuộc hành trình đầy thử thách trong cái nhìn tinh tế,
lãng mạn của nhà văn. Khi được Huế đánh thức, sông Hương bắt đầu cuộc hành trình của
mình, đó là một cuộc tìm kiếm có ý thức. Nó chuyển dòng đột ngột theo hướng Nam Bắc rồi
sang Tây Bắc, vòng giữa những khúc quanh đột ngột và uốn mình theo những đường cong
thật mềm để vẽ một cánh cung thật tròn rồi ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Ta
bắt gặp ở đây hàng loạt những động từ gợi cảm cùng với nghệ thuật kể kết hợp tả đã thể hiện
vẻ đẹp duyên dáng của sông Hương khi về Châu Thổ.
Ở ngoại vi của Thành phố Huế, sông Hương thay đổi tính cách của mình, nó uốn mình thành
những đường cong mà người ta thường thấy “dòng sông mềm như tấm lụa”, có khi lại trầm
mặc, có lúc lại xôn xao rạo rực. Phải là một con người gắn bó đến mức máu thịt và am tường
sâu sắc, có năng lực khám phá cái đẹp của sông Hương thì mới có được những câu văn độc
đáo và cách so sánh, ví von đầy trữ tình như thế. Sông Hương chảy qua những thành trì lăng
tẩm của vua chúa thời trước được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, sông Hương
giờ đây mang một vẻ kiêu hãnh, trầm mặc, vẻ đẹp sang trọng và đầy bí ẩn và chứa đựng vẻ
kiêu hãnh của một vùng thượng lưu .

Dòng sông đã vượt qua bao gian truân, trắc trở cuối cùng cũng như một người đi xa tìm đúng
lối về, nó náo nức bồi hồi giữa quê hương, xứ sở, không còn vẻ băn khoăn, trầm mặc hay
kiếm tìm điều gì nữa. Giáp mặt thành phố ở Cồn Dã Viên, nó uốn một cánh cung rất nhẹ sang
Cồn Hến làm cho “dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.”
So sánh là một thủ pháp nổi trội của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhưng ông luôn biết làm mới nó
bằng cách ví von với tiếng “vâng” của người con gái trong tình yêu còn bao e lệ, e ấp, đó là
nét kín đáo, dịu dàng trong giọng nói Huế ngọt ngào, thân thương. Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã có những phát hiện mới mẻ từ những gì đặc trưng nhất của Sông Hương trong lòng xứ
Huế. Cách diễn đạt hết sức gợi cảm, tinh tế khi nhìn từ phía xa, cầu Tràng Tiền in bóng xuống
dòng sông mà ngỡ như một “vành trăng non”. Tác giả vừa vẽ lên dáng mềm mại, cong cong,
thanh mảnh của cây cầu, vừa hòa sắc lấp lánh của dòng sông trong không gian thơ mộng, êm
đềm,
Cây cầu như một tín hiệu mà nhìn từ xa như đang vẫy gọi sông Hương hòa làm một cùng
Huế. Sông Hương là người con gái đang yêu gặp được người tình trong mộng của mình, đó là
một cuộc hội ngộ của tình yêu. Huế là một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông để che chở và gắn bó
cho “người con gái của mình”, còn sông Hương được chia ra làm nhiều nhánh, tỏa nước ra
khắp các ngõ ngách trong thành phố như ôm trọn lấy tình yêu của đời mình.
Con sông khi nằm trong Huế, vận tốc của dòng nước như giảm hẳn, “cơ hồ chỉ là một mặt hồ
yên tĩnh”. Tác giả gọi đó là “một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Càng yêu quý điệu
nhảy lặng lờ của dòng sông, tác giả càng muốn so sánh nó với những dòng sông lớn nổi tiếng
trên Thế giới như Sông Xen của Paris, Sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Le-nin-
grat…chảy băng băng như một chuyến tàu tốc hành. Nhà văn còn đưa vào đó chi tiết phong
tục, lễ hội và biến chúng thành hình tượng nghệ thuật. Để miêu tả dòng sông, ông mượn lại tư
tưởng của nhà triết gia người Hy Lạp Hê-ra-clit: “không ai tắm hai lần trên một dòng sông” để
tô đậm vẻ đẹp lặng lờ của nó mà có lần ta bắt gặp trong dòng sông của nhà thơ Thu Bồn:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Sông Hương đã đến lúc phải rời xa Huế để đổ ra biển nhưng nó bỗng “ngập ngừng như muốn
đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Rời khỏi kinh
thành, con Sông chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng sương
khói, lưu luyến ra đi trên màu xanh mướt của thôn vườn Vĩ Dạ. Sông Hương đột ngột chuyển
dòng để gặp lại thành phố như muốn nói lời thề trước khi về với biển cả. Cảnh chia tay rất lạ

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
127

và tự nhiên nhưng rất giống với con người: Có cử chỉ bịn rịn, có tâm trạng lưu luyến, có địa
điểm chia tay, có lời thề tiễn biệt nhắn nhủ. Lối liên tưởng của tác giả hết sức độc đáo và được
nhân hóa lãng mạn, nhà văn cho rằng đó là nỗi vương vấn và một chút lẳng lơ kín đáo của
tình yêu. Nó cứ chùng chình như muốn nói lời thề với Huế, lời thể thủy chung, son sắc. Sông
Hương ra đi trong cảm xúc bịn rịn, như một người tình chung thủy, như nàng Kiều trong đêm
Tự tình trở về tìm Kim Trọng nói lời thề: “Còn non, còn nước, còn dài.” Vẻ đẹp ấy chính là
vè đẹp thủy chung, đằm thắm của sông Hương. Ở đây ta nhận ra ba thái độ chí tình: Chí tình
của sông Hương với Huế, chí tình của người Huế trong tình yêu và cuối cùng là tình yêu của
Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương, xứ Huế. Nếu như tách sông Hương ra khỏi xứ Huế,
nó chỉ là một dòng chảy vô thức chảy trôi giữa đôi bờ. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thổi hồn
vào sông Hương, gắn nó với cánh sắc Huế, con người Huế để rồi sông Hương mang một cá
tính riêng, phong phú và độc nhất : Có lúc như cô gái Digan phóng khoáng đầy man dại, có
lúc lại như người mẹ của vùng văn hóa xứ sở, hay lại là người thiếu nữ với vẻ đẹp nhẹ nhàng,
trầm lắng sâu sắc và kín đáo. Lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức nhưng lại
không phô trương
Dưới lăng kính sử thi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không quên tô đậm niềm vinh quang mà
sông Hương có được trong lịch sử lâu dài của dân tộc. Đó là dòng sông của những chiến công
hiển hách, của sử thi được viết dưới màu cỏ lá xanh biếc. Nó là bản trường ca ghi dấu những
kỉ niệm quang vinh, là chứng nhân lịch sử phải chịu nhiều những mất mát, hy sinh cùng với
các thế hệ nhân dân Huế. Từ hồi vua Hùng dựng nước cho đến khi Nguyễn Trãi viết “Dư địa
chí”, dòng sông mang tên Linh Giang - Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ Đại Việt.
Đi qua thế kỉ trung đại, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân gắn với tên tuổi của người
anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Nó bầm da tím máu, sống hết lịch sử đau thương, bi tráng của
thế kỉ 19 với máu của những cuộc khởi nghĩa. Sông Hương đi vào thời đại Cách Mạng tháng
8 với chiến công rung chuyển như tiếng trống của cuộc khởi nghĩa Mậu Thân 1968. Nó oằn
mình lên để hứng chịu những trận bom dội của không quân Hoa Kì tàn phá những di sản của
cố đô. Suy cho cùng, sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, là biểu tượng của bề
dày văn hóa Huế, là tình yêu bất tận của Hoàng Phủ Ngọc Tường- Một nhà văn đã có hơn 40
năm gắn bó với nơi đây.
Trong cái nhìn đa diện và nhiều chiều của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên với
vẻ đẹp có sức hấp dẫn mê hồn bởi nó gắn liền với phong tục tập quán ở xứ Huế. Nhà văn
dường như thấm thía rằng, tất cả mọi thứ rồi cũng sẽ bị lãng quên, chỉ có văn hóa là tồn tại
mãi mãi. Nhà văn đã từng tâm sự “Sông Hương là nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa
đạt tới” ý chính bởi điều đó ông khao khát khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương bằng cả
tâm hồn mình. Từ góc nhìn văn hóa, nhà văn đã gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế.
Từ trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước, nhà văn liên tưởng đến hình ảnh người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya để thấy được đây là nơi sinh thành ra nền âm nhạc kinh thành Huế, là
cái nôi của nền âm nhạc truyền thống. Đây là so sánh rất lạ và độc đáo nhưng vô cùng chính
xác, nó thể hiện cái nhìn đồng nhất hóa, nâng sông Hương lên trở thành cái đích thực của tâm
hồn. Lắng nghe âm thanh của dòng sông mà thấy được những thổn thức của cha ông, đó là đại
thi hào Nguyễn Du: “Bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu và từ
đó là những bản đàn đi suốt cuộc đời Kiều”. Không phải ngẫu nhiên trong bài kí mà tác giả
nhiều lần nhắc đến Truyện Kiều khi nói đến sông Hương. Đối với người Việt Nam, Truyện
kiều là một kiệt tác đại thành của dân tộc, và trong truyện Kiều luôn soi bóng hình ảnh của
dòng sông Hương. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận dòng sông âm nhạc ở nhiều
không gian, thời gian và địa điểm bằng sự quan sát và vốn kiến thức uyên bác. Ông đã làm
sống dậy mảnh đất của nhã nhạc cung đình Huế từ giai điệu âm vang của Hương giang, tới
những bản nhạc nổi tiếng như “Tứ đại cảnh”

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
128

“Trong như tiếng hạc bay qua


Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã không quên khắc họa một Hương giang với sức mạnh trong
thi ca kì diệu. Ta dễ dàng nhận thấy sông Hương không tự lặp lại mình trong cảm hứng của
những người nghệ sĩ vì nó là nguồn cảm hứng bất tận để bao thế hệ lãng tử chìm mình vào
sông Hương. Trong đôi mắt của Tản Đà, sông Hương xanh biếc chuyển thành “dòng sông
trắng, lá cây xanh”. Là dòng sông Trăng của Hàn Mặc Tử, và từ một Linh giang đang mơ
màng với bóng hoàng hôn bảng lảng trong nỗi quan hoài vạn cổ của Bà Huyện Thanh Quan.
Dòng sông còn trở thành “thanh kiếm dựng trời xanh” trong những lời thơ hào hùng của Cao
Bá Quát. Rồi nó trở thành sức mạnh phục sinh trong tầm hồn của những người con gái trong
thơ ca của Tố Hữu. Ta nhận thấy sông Hương được thể hiện qua nhiều góc độ khác nhau
mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ nhờ cách viết tài hoa và đầy mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã thể hiện được vẻ đẹp của sông Hương từ cảnh sắc thiên
nhiên cho đến bề dày lịch sử, văn hóa và tâm hồn con người vùng đất cố đô. Qua đó tác giả ca
ngợi dòng sông Hương và bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng với xứ Huế. Nó gợi lên trong
lòng người đọc tình yêu quê hương xứ sở và niềm khao khát khám phá những vùng đất mới
lạ. Tác phẩm được viết dưới dạng bút kí, thiên về thể loại tùy bút đã thể hiện những nét đặc
sắc về nghệ thuật trong lối viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cách viết của ông tài hoa,
phong phú bởi những liên tưởng ẩn dụ, so sánh, nhân hóa bất ngờ và thú vị. Ông đã dệt nên
những trang văn đẹp bởi kho từ vựng phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, kết hợp linh
hoạt giữa kể và tả làm nổi bật vẻ đẹp của Hương giang, vẻ đẹp riêng của xứ Huế.
Sông Hương cứ lặng lờ và tình tự như thế đi vào những tác phẩm nghệ thuật, đi vào lòng
người. Đọc tác phẩm xong, chắc hẵn những ai chưa từng một lần đến với Huế mộng mơ thì
hình ảnh dòng Hương giang vẫn sẽ in đậm trong tâm trí. Bằng ngòi bút đầy tinh tế và một tình
yêu Huế dạt dào, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã để lại một ấn tượng đậm nét trong lòng người
đọc về dòng sông Hương, về Huế. Đất nước ta vẫn luôn có những cảnh đẹp, danh lam thắng
cảnh nổi tiếng làm thổn thức biết bao trái tim. Chúng ta hãy cùng nhau gìn giữ và tự hào về
cảnh sắc thiên nhiên của đất nước mình, hãy tự hào là người con đất Việt!

 Giá trị nghệ thuật


+ Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Nét đặc sắc làm nên
sức hấp dẫn của đoạn văn là những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết
phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý, và một trí tưởng tượng sáng tạo độc đáo.
+ Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
3. Kết bài
- Tóm tắt nội dung- nghệ thuật
- Cảm xúc cá nhân
VD: Có thể nói “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã mang đến những phát hiện mới lạ và độc
đáo của sông Hương cho độc giả cả nước. Nó là một dòng sông man dại, hoang tàn ở khúc
thượng nguồn rồi lại trở nên mê đắm, thủy chung khi gặp được người tình trong mộng của
mình là xứ Huế. Sông Hương đi vào trong trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường không vô
tri vô giác mà nó còn có cảm xúc, có tình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được tình yêu quê
hương, xứ sở nồng nàn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một kí giả nặng lòng với Huế:
“ Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế mãi không quên
Xa con sông mang bao nhiêu nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ”

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683
129

Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi Đại học 11,12 Hotline: 037 255 0683

You might also like