You are on page 1of 145

LỜI NÓI ĐẦU :

Chào các học trò yêu quý của thầy Phạm Minh Nhật!
Khi cầm trên tay cuốn sách này có nghĩa là các em
thực sự quan tâm tới kì thi TNTHPTQG năm 2021

Thầy mong rằng với cuốn “Cửu Âm Chân Kinh –


Tổng ôn ngữ văn 12” trên tay em mà thầy đã biên soạn. Các em sẽ thành
công trên con đường mà mình đã chọn, chinh phục mọi đề văn dù khó nhất…
Chúc cho các học trò sở hữu cuốn sách này đỗ đại học
và vào được các trường mà mình hằng mơ ước.

Nhưng các em cũng cần hiểu rằng nếu tặng sách cho học trò khác cũng đồng
nghĩa với việc em đang tự tạo thêm cho mình nhiều đối thủ đấy, hãy cất giữ
và luôn tuyệt mật cuốn bí kíp này.

***

Facebook: Phạm Minh Nhật ( anh tũn dạy văn )


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12
Hotline: 037 255 0683
Add: Số 8 ngõ 17 Tạ Quang Bửu – Hà Nội
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

PHẦN 1: DÀN Ý ĐỂ TRIỂN KHAI 1 BÀI VĂN


PHẦN 2: TÁC PHẨM
1. Vợ Nhặt – Kim Lân 3
2. Vợ Chồng A Phủ - Tô Hoài 20
3. Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành 32
4. Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi 40
5. Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu 48
6. Hồn Trương Ba – Da Hàng Thịt – Lưu Quang Vũ 66
7. Tuyên Ngôn độc lập – Hồ Chí Minh 73
8. Tây Tiến – Quang Dũng 79
9. Việt Bắc – Tố Hữu 89
10. Sóng – Xuân Quỳnh 103
11. Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm 112
12.Đàn ghi ta của Lorca – Thanh Thảo 121
13.Tùy bút người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân 126
14.Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng Phủ Ngọc Tường 135
PHẦN 2: TỔNG HỢP KIẾN THỨC ĐỌC HIỂU
Phong cách ngôn ngữ 141
Biện pháp tu từ 142
Phương thức biểu đạt 143
Các thao tác lập luận 144

2 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

VỢ NHẶT ( Kim Lân)

----------------------------------------------
Nhà văn Pháp Napoluye từng nhận định: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên,
gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm không cần tìm nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa,
nó là cuốn sách hay do người nghệ sĩ có thực tài viết ra”. Quả thật, một tác phẩm hay luôn biết cách
đưa tâm hồn con người tới địa hạt mới – địa hạt của những yêu thương, những sẻ chia và những
khát khao. Viết “Vợ nhặt”, Kim Lân đã thể hiện niềm cảm thương trước số phận của con người
cùng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ khi bị đẩy đến mức đường cùng.

- Tác giả: -Hoàn cảnh sáng tác

Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh " Vợ nhặt" viết năm 1955 được in trong
năm 1920. Quê quán: Phù Lưu, Từ Sơn, Bắc tập truyện ngắn " Con chó xấu xí"(1962)
Ninh. Sở trường về truyện ngắn. Thế giới nghệ
thuật của ông là làng xóm quê với người dân
cày Việt Nam. Ông viết rất hay về những thú Truyện ngắn có tiền thân là tiểu
chơi dân dã đồng quê như: chọi gà, thả diều, thuyết"Xóm ngụ cư"- tác phẩm viết sau CMT8
nuôi bồ câu, chơi núi non bộ,...mà ông gọi là nưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi
thú"phong lưu đồng ruộng". hòa bình lập lại(1954), tác giả dựa vào cốt
truyện cũ để viết truyện ngắn "Vợ nhặt"
Tác phẩm , hai tập truyện ngắn:" Nên vợ
nên chồng"(1955) và "Con chó xấu xí"(1962).

- Nội dung: - Nghệ thuật:

Truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân không - Tình huống truyện độc đáo: Vừa lạ vừa
chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông éo le
dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp 1945 mà
- Cách kể chuyện hấp dẫn
còn thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp và
sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của - Miêu tả tâm lí khá tinh tế, dựng đối
cái chết, họ vẫn hướng về sự sống , khát khao tổ thoại sinh động.
ấm gia đình và yêu thương đùm bọc lẫn nhau

- Chủ đề: Lên án tội ác của bọn thực dân,


phát xít, phát hiện và khẳng định niềm khát
khao hạnh phúc gia đình, niềm tin mãng liệt của
người dân lao động.

3 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

1, Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề gợi lên tình huống éo le, kích thích trí tò mò của người đọc. Thông thường, người
ta có thể nhặt thứ này, thứ khác chứ không ai “nhặt” vợ. Bởi dựng vợ gả chồng là việc thiêng liêng
với mỗi con người, không thể qua quýt như trò đùa.
- Vợ nhặt là điều trái khoáy, oái oăm và bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Bởi
đúng thực tế, anh cu Tràng trong câu chuyện này đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa
của Tràng mà cũng đã có người chịu theo anh về làm vợ. Điều này đã khiến một sự việc nghiêm
túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là thật. Từ đây, bản
thân nhan đề tự nó đã gợi ra sự éo le, rẻ rúng giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói
lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945.
2, Phân tích tình huống truyện đặc sắc trong tác phẩm
Còn nhớ sinh thời tác giả của Bỉ vỏ - nhà văn Nguyên Hồng từng “phán” về đồng nghiệp
của mình rằng: Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên
thuỷ” của cuộc sống nông thôn. Quả thật không chê vào đâu được lời “truyền thần” ấy của nhà văn
Nguyên Hồng! Sự nghiệp và những quan niệm về văn chương của Kim Lân qua những tác phẩm
của ông đã để lại rất nhiều những ấn tượng đẹp trong lòng độc giả, và càng chứng minh nhận định
của nhà văn Nguyên Hồng không thể bỏ đi từ nào được. Đọc “Vợ nhặt” - tác phẩm tiêu biểu trong
sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, ta càng hiểu rõ và thấm nhuần hơn điều ấy.
Nhắc đến truyện ngắn, yếu tố quyết định của nó không gì khác ngoài tình huống truyện.
Tình huống truyện đặc sắc bao nhiêu thì tác phẩm càng thành công và để lại dấu ấn bấy nhiêu. Bởi
tình huống truyện là một lát cắt về thời gian, một khoảnh khắc của câu chuyện mà ở đó nhân vật
được bộc lộ tính cách một cách sắc nét, bởi có ý kiến cho rằng “Nhân vật trong văn chương đôi khi
thật hơn con người thật”. Tình huống truyện còn giúp cho nhà văn tổ chức được mạch truyện và
giải quyết những nút thắt về mâu thuẫn trong truyện. Truyện kể về một gia đình trong xóm ngụ cư
mà lăng kính của nhà văn ở đây tập trung vào anh cu Tràng và mẹ anh là bà cụ Tứ. Tràng vốn là
một gã trai lông bông, xấu xí, dở hơi, thô kệch và ế vợ. Bỗng một hôm, Tràng nhặt được vợ. Điều
đáng nói ở đây là Tràng nhặt được vợ ngay trong lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết
hết sức mong manh ý chính điều này đã gây ra một chuỗi ngạc nhiên và làm xáo trộn thế giới
truyện Vợ Nhặt. Tình huống không chỉ tạo ra một hoàn cảnh có vấn đề cho câu truyện mà còn nén
trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn để gợi mở ra những giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực cho
tác phẩm.
Tình huống truyện trước hết mang tính chất nửa đùa, nửa thật để rồi nên vợ, nên
chồng.
Một lần Tràng kéo xe bò lên tỉnh, Tràng bỗng buông ra câu hò chơi, tầm phơ, tầm phào, hò
cho đỡ mệt:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây cùng đẩy xe bò với anh nì”

4 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để miêu tả cái đói khủng khiếp của năm 1945,
tiếng quạ đàn bậu đen đặc trên những gốc cây gạo, ở đâu có quạ, ở đó có xác người, “ngoài chợ
người chết nằm la liệt như ngả rạ”. Để rồi tấm lòng nhân ái của ông đồng cảm, xót thương cho
những kiếp người lầm than, bằng cách ông đã tung ra một chiếc phao cứu sinh để cho họ có thể bám
trụ lấy qua những ngày đói khát. Kim Lân quả thật là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy. Vẫn biết
đó chỉ là một câu hò tầm phơ, tầm phào nhưng họ vẫn đẩy một cô gái ra để đẩy xe bò với anh cu
Tràng. Thế đấy, trong lúc đói người ta có thể bấu víu vào bất cứ cái gì. Rồi bám vào câu hò, cô gái
chờ đợi Tràng đã ba bốn ngày sau mới gặp lại được Tràng ngồi trong quán nước ở cổng chợ tỉnh. Vì
quá đói, lại phải chờ đợi lâu, giữa ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, người đàn bà trở
nên cong cớn, chao chát, chanh chua, đanh đá lạ thường. Trông thấy Tràng, thị sầm sập chạy đến,
sưng sỉa nói:
- Điêu ! Người thế mà điêu!

- Vài câu qua lại, Tràng vẫn không nhận ra cô gái là ai, sở dĩ bởi vì hắn cũng là một người cạn
nghĩ, lơ đãng, nói rồi quên ngay. Nhưng cũng bởi một lẽ, mới chỉ có vài ba ngày mà sao trông cô
gái lại tiều tụy thế này? “Cô gái ăn mặc rách rưới như tổ đỉa”, “khuôn mặt tối đen xạm lại”, “mặt
cong như lưỡi cày”. Kim Lân mô tả cái đói thật tinh tế. Cái đói đang gặm nhấm vào sâu trong tâm
hồn và thể xác của người đàn bà này từng giờ từng phút. Mới có mấy ngày, trông cô gái “gầy sọp
hẳn đi”, khiến Tràng không thể nhận ra. Dăm câu ba điều, Tràng mới nhận ra và mời cô gái ăn trầu.
Cô nói ngay:
- “Có ăn gì thì ăn! Chả ăn giầu”

5 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Tràng cứ ngỡ chỉ là chuyện đùa nhưng cô gái kia lại coi lời rủ rê đó như một lời hứa hôn
chính thức. Thế là chuyện đùa thành chuyện thật. Đến tận khi cô gái đứng dậy, Tràng mới thấy
chợn. Tràng nhận ra mình đã đùa hơi quá, nhưng cảm xúc ấy chỉ diễn ra trong thoáng chốc. Tràng
giải quyết một việc cực kì hệ trọng ấy bằng một cái “Chậc, kệ” thật dễ dãi. Đâu ai biết được, đằng
sau cái chậc lưỡi đầy dễ dãi ấy là sự lựa chọn nghiêm túc.
Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên
ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một
người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ
dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục và kính
trọng, phải chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nòi sẽ tiếp nối
sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói.
Rõ ràng, cái đói làm cho nhân phẩm của con người ta không còn nghĩ đến cái sĩ diện bình
thường nữa. Qua đó ta còn thấy được anh cu Tràng dở hơi, xấu xí là thế nhưng cũng là một người
có tấm lòng nhân hậu, bao dung và tốt bụng, một người luôn biết đồng cảm với nỗi khổ của người
khác. Đó cũng chính là tình cảm của Kim Lân dành cho nhân vật của mình.
Mô tả tình huống truyện đặc sắc như vậy, trước hết Kim Lân muốn tố cáo tội ác của
phát xít Nhật, kẻ đã gây ra nạn đói khủng khiếp này. Kim Lân viết truyện vào năm 1960 nhưng lại
lấy bối cảnh nạn đói năm 1945, hơn hai triệu đồng bào Việt Nam chết đói. Người ở Thái Bình, Nam
Định lũ lượt kéo nhau chết như ngả rạ. Nhưng điều đáng nói ở đây Kim Lân không mô tả việc cái
đói làm cho con người bị hủy diệt, ông lách sâu ngòi bút của mình để mô tả phương diện khác của
cái đói ý chính cái đói đã làm cho giá trị, nhân phẩm con người trở nên thấp kém.
Chưa bao giờ phẩm giá của con người lại bị rẻ rúng như giai đoạn này. Hôn nhân vốn là một
việc hệ trọng, là việc thiêng liêng cả cuộc đời vậy mà người ta có thể nhặt được vợ như nhặt được
cọng rơm, cọng rác ngoài đường. Chưa bao giờ, phẩm giá của người phụ nữ trở nên mạt hạng thế
này, đồng nghĩa với việc người vợ trong tác phẩm này là một sự đèo bòng, một miệng ăn và là một
gánh nặng. Để làm tăng thêm giá trị tố cáo, Kim Lân đã cực khéo léo khi để cho vợ của Tràng là
một nhân vật không tên, gọi cô ta là thị, “thị” là từ chung để chỉ người phụ nữ. Điều đó chứng tỏ
không phải chỉ mình vợ Tràng bị rẻ rúng, thấp kém, mà là giá trị chung của tất cả những người phụ
nữ trong xã hội. Tất cả những điều ấy đều do bọn phát xít Nhật gây ra. “Vợ Nhặt” của Kim Lân
xứng đáng là một bản cáo trạng đanh thép để kết tội Phát xít Nhật. Khác với các nhà văn cùng thời
khác như Nam Cao, Ngô Tất Tố lên án bọn thực dân Pháp, Kim Lân đã “khơi những nguồn chưa ai
khơi, sáng tạo những gì chưa có”, tập trung theo quan niệm của tác giả Nam Cao trong tác phẩm
“Đời thừa” : “Văn chương không cần những người thợ khéo tay, chỉ biết làm theo một vài kiểu mẫu
đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai
khơi, sáng tạo những gì chưa có”
Như một nghịch lý, chuyện Tràng có vợ đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người trong xóm
cụ cư, cho bà cụ Tứ - mẹ Tràng và cho cả chính bản thân anh, người trực tiếp nhặt được vợ. “…
người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán..”. Đến khi hiểu ra Tràng có
vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “Cười lên rung rúc”. Người lại lo dùm
6 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

cho anh ta “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được
cái thì này không?”. Nếu để ý ta sẽ thấy, khi Tràng chưa về, cả xóm ngụ cư chìm trong âu lo và
bóng tối, mọi người đều có gương mặt tối om vì đói. Nhưng khi Tràng về thì như có luồng gió tươi
mát thổi vào từng gương mặt người. Họ cố cắt nghĩa xem Tràng đi với ai, sự ngạc nhiên khiến họ
quên đi cái đói. Chi tiết này lại một lần nữa thể hiện Kim Lân là một nhà văn Nhân đạo. Ông đã đưa
Tràng vào như một chiếc phao tinh thần để cho cả thế giới này, cả xóm ngụ cư mà “cái đói đã tràn
về tự bao giờ” không bị cái đói cuốn trôi đi đến chìm nghỉm.
Bà cụ Tứ - Mẹ anh là người hiểu thằng con mình hơn ai hết lại càng khó tin Tràng có vợ.
Xưa nay, mọi việc trong cái nhà này đều do một tay bà cụ cắt đặt. Bà đã già lắm rồi, hẳn cũng mong
thằng con trai mình có thể yên bề gia thất, đây chính là nỗi mong mỏi của những người làm cha làm
mẹ. Bà cụ mong mỏi nhưng cũng chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện Tràng lấy vợ. Hôm nay, thấy
Tràng ở ngoài ngõ đợi mẹ, tấm lòng của người mẹ yêu thương con mách bảo bà là đã có chuyện gì
bất thường xảy ra trong nhà này.. Vào đến nhà, bà thấy có một người đàn bà lạ đang ngồi ở đầu
giường con trai mình. Đó là chuyện xưa nay chưa từng có.
Người ngạc nhiên cuối cùng trong tình huống này lại là chính Tràng. Nhìn vợ, ngồi ngay
đầu giường mình, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Cho
đến tận sáng hôm sau, khi mặt trời đã lên mấy cái sào, Tràng thức dậy, thấy nhà cửa gọn gàng,
tươm tất, anh ta cũng vẫn chưa hết ngạc nhiên. Bởi hẳn chưa bao giờ nghĩ rằng chỉ bằng một câu hò
tầm phơ, tầm phào như vậy mà lại có thể chóng vánh để rồi trở thành thật. Tràng cứ ngỡ đó chỉ là
mơ!
Người vợ trong tác phẩm không hề ngạc nhiên, nhưng ở cô gái này lại có sự dần dần lột xác.
Giữa đám đông, cô sưng sỉa, chao chát, đánh đá, kể cả ăn xong bốn bát bánh đúc chẳng chút e dè,
cầm đôi đũa quệt ngang miệng rất tự nhiên. Vậy mà sau khi nghe Tràng lửng lơ nói về “lời hứa
hôn” thì những cái đanh đá, chanh chua, hồn nhiên bỗng biến đổi theo từng bước khi về đến nhà
Tràng. Thị đi sau ba bốn bước, đầu hơi cúi, nón che khuất mặt. Chỉ là Thị đang đối diện với chính
lòng mình: chuyện số phận chứ chẳng phải chơi. Không có nước mắt, nhưng cứ rón rén, e thẹn đích
như cô dâu vừa bước khỏi nhà mẹ theo chồng. Cho đến khi ngồi trong mép giường nhà Tràng, tay
ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. thì ra đến giờ phút này cô mới nghĩ tới tình cảm của mình.
Đây là nơi quyết định cuối cùng cho thân phận của cô. Bà cụ chưa về, biết ý bà ra sao? Chuyện
thành vợ chồng mà như thế này sao? Lấy chồng, hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái lại trơ
trọi, lủi thủi như thế này sao? Cũng may bà cụ Tứ là một người nhân hậu, bao dung, cùng sự an ủi,
thương cảm, nên cô cũng đã cảm thấy yên lòng.
Bên cạnh giá trị tố cáo, Vợ Nhặt của Kim Lân còn tập trung vào để ngợi ca sự sống
của con người. Câu chuyện viết về nạn đói năm 1945, khi con người ta chỉ biết sống vì chính mình,
ai lại sống cho người khác, có ai tự dưng lại nghĩ đến chuyện dựng vợ gả chồng? Người ta chỉ dựng
vợ gả chồng trong lúc “ăn nên làm nổi”. Cái chết bủa vây, Tràng vẫn đưa vợ về xóm ngụ cư. Thông
qua câu truyện nhà văn muốn mang đến thông điệp : Sự sống là tích cực và cuộc sống không bao
giờ là chán nản. Vợ Nhặt ra đời trong những năm nạn đói nhưng người đọc vẫn thấy ở đó là niềm
tin phơi phới, là sự lạc quan, yêu đời của những con người dám bước qua tăm tối với lòng ham

7 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

sống. Điều đó được thể hiện ở hành động theo không Tràng về làm vợ của Thị. Kề cái chết, người
đàn bà ấy không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, Thị vẫn vượt lên trên cái ảm đạm, cái tăm tối để
mong muốn được xây dựng hạnh phúc. Tinh thần lạc quan với niềm khao khát được sống và hạnh
phúc chính là nét vẽ đẹp nhất trong tâm hồn người vợ nhặt, được sống giữa thảm cảnh của cái đói
cái chết, được hạnh phúc giữa biết bao tang tóc đau thương do nạn đói năm Ất Dậu ấy. “Khoảnh
khắc” ấy chính là một tình huống rất bất ngờ, bất ngờ với cả độc giả và bất ngờ cả với chính cu
Tràng. Đó là một hành động liều mình của Thị, nhưng xuất phát cũng bởi sự xô dạt của số phận,
dồn ép của cái đói chứ không hề là bản chất của người phụ nữ ấy. Cái nghèo cái đói khiến Thị đã
quên mất đi cái thể diện của một người con gái: “ngồi sà xuống, ăn thật”, “cắm đầu ăn một chặp
bốn bát bánh đúc liền chẳng hề chuyện trò gì”. Nhà văn Kim Lân đã kể cho chúng ta nghe về thân
phận của một kiếp người vì đói mà chấp nhận theo không người đàn ông xa lạ về làm vợ chỉ với
một câu nói đùa: “Này, nói đùa chứ, có về với tớ thì ra khuôn hàng lên xe rồi cùng về.” Thị bám
vào một câu nói đùa tầm phơ tầm phào để mong tìm thấy một chốn nương thân, với một hi vọng
chạy trốn cái đói, làm “vợ nhặt” theo kiểu cho không. Thị đánh liều trao thân gửi phận cho một
người đàn ông xa lạ mà không biết bến nào trong, bến nào đục, không biết cuộc đời sẽ hạnh phúc
hay vẫn nghèo nàn và cơ cực. Đó là hành động liều lĩnh nhưng lại không hề toan tính, nó có thể
xuất phát từ cái nghèo cái đói, nhưng nhất định không phải là cái ác và cái xấu. Những hành động
của Thị đều thể hiện chân thực những nét diễn biến tự nhiên của một con người hoàn toàn ý thức.
Có cái nhục nhã và xấu hổ khi phải lăn sà vào miếng ăn, khi không thể chế ngự được sự giày vò của
cái dạ dày đói khát, cái khát vọng có được một bữa no lại trỗi dậy như bản năng, như một nét tâm lí
quá đỗi bình thường của con người. Giá trị và nhân cách của một con người có lẽ chưa bao giờ rẻ
rúng và thê thảm đến thế. Nhưng người phụ nữ ấy chao chát, chỏng lỏn là thế, nhưng không hề lẳng
lơ và trơ trẽn mà tất cả những hành động và lời nói chỉ càng làm tô đậm thêm những vẻ đẹp, những
thanh âm trong trẻo trong lòng Thị giữa biết bao ngổn ngang và ngặt nghẽo của cuộc đời.
Để câu truyện trở nên hấp dẫn bạn đọc hơn, Kim Lân còn mô tả tình huống truyện trong
sự giao tranh lấn át giữa ánh sáng và bóng tối. Ban đầu trùm lên xóm ngụ cư là không khí u ám,
chết chóc, âu lo, nhưng đôi trai gái đi đến đâu thì ở đó bừng lên ánh sáng. Không chỉ hiện về ở
những con người trong xóm ngụ cư. Ánh sang còn hiện về trong túp lều nhà bà cụ Tứ. Khi đưa vợ
về đến nhà, Tràng nhấc cành dong lên để giới thiệu về gia cảnh. Hiện ra trước mắt cô gái bấy giờ là
một túp lều lụp xụp ở góc vườn. Căn nhà tăm tối quá, cỏ dại mọc đến tận cửa nhà, đám mùn cưa
trong bãi thì vương vãi bẩn thỉu, cái ang nước ngoài vườn thì khô cong, bước chân vào trong nhà thì
đầy những sống áo luộm thuộm. Ta có cảm giác như biết bao gia đình khác trong xóm ngụ cư này,
cái chết đã bò vào tận cửa. Sau một đêm trăn trở, thì dường như đã có sự giao tranh mãnh liệt giữa
ánh sáng và bóng tối, khi cô gái nhận thức, trăn trở được “thân gái như hạt mưa sa”, mình đã là dâu
con nhà này thì phải có trách nhiệm với gia đình. Cô dậy từ sớm với bà cụ Tứ và dọn dẹp nhà cửa,
đám mùn cưa được quét dọn sạch sẽ vô cùng, cái ang nước hôm nay thì đầy ăm ắp. Túp lều trở nên
sáng sủa, quang quẻ hẳn. Cái chết được đẩy lùi ra tận ngoài ngõ. Sự sống mới hồi sinh ngay trong
gia đình bà cụ Tứ ngay sáng hôm sau.

8 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Ánh sáng và bóng tối còn được thể hiện ở trong tâm trạng của bà cụ Tứ. Mặt bà lão tối sầm
lại với dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bà
tủi phận, so sánh người ta với mình “người ta thì dựng vợ gả chồng cho con những lúc ăn nên làm
nổi,còn mình thì..” Bà lão chua chát. Tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà càng
tủi phận bấy nhiêu. Bã đã khóc, những giọt nước mắt của tình thương đã gieo vào lòng người đọc
biết bao thương xót, tủi buồn. Bà đã chấp nhận nàng dâu không chỉ bằng tình mẫu tử mà còn bằng
tình thương người, bằng sự đồng cảm giữa những người cùng là phụ nữ. Tình thương của bà làm
cho cuộc hôn nhân ấy không còn là nhặt nhau giữa đường, giữa chợ nữa mà là duyên phận. Cách
nói giản dị của bà “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” đã làm ấm
lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn trước kinh nghiệm
của người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên con trai và con dâu bước
qua những ngày đói khổ mà lòng đầy thương xót. Mới đêm qua khuôn mặt bà cụ bủng beo là thế,
vậy mà sáng hôm nay khuôn mặt bà rạng rỡ hẳn lên. Bà nói nói cười cười toàn chuyện vui, toàn
chuyện tương lai, bà xăm xắn đi làm mọi việc cùng con dâu.
- “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái
chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy có đàn gà cho mà xem..”
Câu nói của bà mở ra một chuỗi những tương lai, bà đang gieo vào lòng đôi vợ chồng trẻ
niềm tin và hi vọng, từ đàn gà mà có tất cả. Đó chính là khát vọng sống mãnh liệt được bộc lộ trong
hoàn cảnh khốn cùng nhất. Đó là khát vọng của những con người nghèo khổ luôn lạc quan, tin
tưởng vào cuộc sống đầy đủ, tốt đẹp hơn.
Ánh sáng và bóng tối còn được thể hiện ở chi tiết hai hào dầu đèn. Ngày cưới vợ, Tràng mua
lấy hai hào dầu đèn. Đêm hôm ấy túp lều nhà bà cụ Tứ được thắp sáng lên bằng ngọn đèn ấy. Kim
Lân nhắc đến ngọn đèn không dưới ba lần. Lần đầu là khi Tràng quyết mua hai hào dầu đèn, Thị
bảo Tràng hoang phí, Tràng đáp lại:
- “Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc vào
ngay, hì hì..”
Rõ ràng ở đây, Tràng không còn là một gã lông bông, cạn nghĩ. Việc Tràng mua hai hào dầu
đèn vốn đã là dụng ý nghệ thuật của Kim Lân. Tràng muốn bắt đầu từ hôm nay cuộc đời mình sẽ
bước sang một trang mới, một cuộc sống sáng sủa hơn. Lần thứ hai xuất hiện là khi bà cụ Tứ vỡ lẽ
ra mọi chuyện. Bà rất thương con, nhất là thương cho nàng dâu mới.
Đỉnh cao của tình thương là bà sợ ngọn đèn sẽ soi tỏ khuôn mặt mình, để bọn trẻ nhìn thấy
những giọt nước mắt, giọt nước mắt của tình mẫu tử, của những người nghèo biết nương tựa vào
nhau. Lần thứ ba ngọn đèn xuất hiện là khi chuẩn bị đi ngủ, ngọn đèn soi tỏ khuôn mặt thị, nhìn Thị
mà Tràng buồn không sao cắt nghĩa được. Ba lần ngọn đèn xuất hiện đã nhen nhóm lên ngọn lửa
sống trong gia đình bà cụ Tứ, là khát vọng của tất cả thành viên trong gia đình. Ta cũng đã từng bắt
gặp ngọn đèn của khát vọng sống ấy trong hình ảnh cô Mị “xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho thêm
sáng” trong “Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài. Hơn thế nữa, ngọn đèn cũng chính là biểu tượng về cả
một dân tộc, bởi mỗi gia đình là một tế bào của xã hội, dân tộc ta đang đứng lên giành lại quyền
sống, đang liên kết với nhau để châm bùng ngọn đuốc của sự đoàn kết để chấm dứt chiến tranh. Đến

9 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

cuối cùng, ngọn đèn ấy được Kim Lân hóa thân thành hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng ở cuối tác phẩm.
Với cách kết truyện ấy, Kim Lân đã để cho nhân vật của mình giác ngộ với lí tưởng cách mạng.
Hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc về Việt Minh, về Cách mạng
Tháng 8 vĩ đại, về sự vùng lên của những người khốn khổ, đập tan xiềng xích để giành lại cơm áo,
giành lại độc lập tự do cho tác phẩm.
Qua tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã truyền cho
người đọc một tinh thần lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Chúng ta không còn phải
hứng chịu nạn đói khủng khiếp ấy, nhưng cuộc sống vẫn có những khó khăn, thử thách, và chỉ khi
chúng ta có niềm tin vào bản thân mình, vào tương lai tốt đẹp thì chúng ta sẽ vượt lên tất cả. Chúng
ta hãy cứ luôn khao khát được sống, được tận hiến hết mình cho cuộc đời này. Bởi, sự sống có thể
đứng ngoài mọi sự hủy diệt, giống như Xuân Diệu đã từng nói rằng: “Đã là sự sống, chẳng bao giờ
chán nản”.

3, Giá trị hiện thực của tác phẩm


- Truyện dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, là
khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945.
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi
+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào…
+ Âm thanh tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết
+ Xóm ngụ cư với những khuôn mặt hốc hác, u tối
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm rõ, xẹo xệch, rách nát
+ Trên khuôn mặt của chị vợ nhặt
+ Bữa cơm ngày đói
- Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói
năm 1945
Giá trị hiện thực còn được thể hiện trong thân phận rẻ rúng của những người nông dân
nghèo. Người đàn bà chết đói, người gầy sọp đi, hai mắt trũng sâu vào, vì cái đói, vì miếng ăn đã
đồng ý lấy Tràng một cách nhanh chóng. Chính cái đói đã khiến người đàn bà ấy mất đi danh dự, sự
e thẹn vốn có của một người con gái, mà trở thành một kẻ chỏng lỏn, chao chát vì miếng ăn sẵn
sàng liều lĩnh đi theo không Tràng về. Trong hoàn cảnh bị cái đói, cái chết dồn đuổi, thị sẵn sàng
bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi tiết mà Kim Lân miêu tả đã cho thấy,
người vợ nhặt là một người nông dân khốn khổ, bị đẩy đến bước đường cùng nên nhân cách và lòng
tự trọng đã bị tha hóa.

4, Giá trị nhân đạo của tác phẩm


- Kim Lân đã đồng cảm xót thương với số phận của con người lao động nghèo khổ.
- Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
- Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.

10 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương mẹ
con Tràng dành cho người vợ nhặt. Tràng mặc dù có ngoại hình xấu xí nhưng lại có tấm lòng nhân
hậu, yêu thương con người. Dù chỉ làm công việc tạm thời, không có ruộng đất nhưng Tràng sẵn
sàng mua đồ ăn cho người đàn bà không quen biết. Tràng thương cảm cho người đàn bà khi nhìn
thấy hình dáng tiều tụy hẳn đi của thị. Và nhất là Tràng còn đồng ý đem người đàn bà ấy về nhà làm
vợ của mình, dù trong Tràng lúc ấy cũng thoáng chút lo âu. Việc lấy vợ của Tràng không phải là
một chuyện ngẫu nhiên mà đó là cả một mạch vận động hợp lí. Lần đầu gặp gỡ, Tràng lần đầu tiên
nhận được sự quan tâm, đó là cái híp mắt cười tình của một người con gái. Đến lần thứ hai, Tràng
xót xa khi người đàn bà phốp pháp lần trước đã biến mất, thay vào dó là một kẻ quần áo rách như tổ
đả, gầy hẳn đi. Sự thay đổi bất ngờ nhanh chóng ấy đã dấy lên trong Tràng lòng thương cảm, với
bản chất lương thiện và sự đồng cảm của những người đồng cảnh ngộ, Tràng đã nhanh chóng quyết
định đưa người phụ nữ đó về nhà để làm vợ của mình. Quyết định nhanh chóng, bất ngờ đó vừa thể
hiện khát khao hạnh phúc của Tràng, vừa là sự cứu mang, nghĩa cử cao đẹp mà Tràng dành cho
người phụ nữ khốn khổ, bất hạnh hơn mình.
Hơn nữa, tình huống còn thể hiệ khát vọng chân chính của con người: Trong tình cảnh thê
thảm ấy, Thị vẫn khát khao được sống, luôn tin tưởng vào điều tốt đẹp sẽ đến. Và mặc dù chỉ “nhặt
vợ” nhưng Tràng vẫn mua dầu, thắp đèn, đưa Thị vào chợ tỉnh mua những vật dụng cần thiết thể
hiện một niềm tin, niềm hi vọng và mong muốn được thay đổi cuộc sống.

- Dự báo cho người nghèo khổ con đường để đấu tranh, đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.

5. Phân tích vẻ đẹp nhân vật anh Tràng – Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân

Về tác giả Kim Lân :


Nhắc tới nhà văn Kim Lân là ta nhớ đến ông là tác giả của đồng quê Việt Nam. Một cây bút
chuyên về thể loại truyện ngắn, ông đã từng thử viết tiểu thuyết nhưng chưa thành công, mà có biệt
tài ở thể loại truyện ngắn.Ngoài Kim Lân ta còn biết tới nhà văn Thạch Lam. Nếu như trong danh
sách 10 nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học hiện đại, ta sẽ thấy không có tên Kim Lân bởi số
lượng tác phẩm không nhiều. Thế nhưng nếu như nói đến 10 tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu nhất,
xuất sắc nhất của văn học hiện đại thì chắc chắn sẽ có hai kì bút là : “Làng” và “Vợ Nhặt”.

Cả cuộc đời sáng tác của ông chỉ có hai tập truyện là : “nên vợ nên chồng” và “con chó xấu
xí”. Nếu như Làng là một tác phẩm viết về tình yêu đất nước quê hương của người nông dân thời
chống Pháp.Vợ nhặt lại là hi vọng đổi đời của người nông dân trong những năm nạn đói 1945

Tác phẩm đã được viết từ những năm 45 ở thể loại tiểu thuyết có tên là xóm ngụ cư và bị
mất bản thảo.Những năm 1954 ông lấy một phần của tiểu thuyết xóm ngụ cư viết lại theo thể loại
truyện ngắn, viết theo không khí của thời đại.

Nếu ta bàn về đặc điểm của tác phẩm Vợ Nhặt, nhân vật rất ít, câu chuyện rất ngắn, chỉ là
một lát cắt không phải xoay quanh cuộc đời nhân vật như những Chí phèo, hay Mị trong vợ chồng
A Phủ.Có ba nhân vật trong tác phẩm , không nhân vật nào là chính, cũng không nhân vật nào trở
11 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

thành phụ.Ba nhân vật bà cụ Tứ, Tràng, Thị đều quan trọng tạo thành thế kiềng ba chân với mạch
truyện là khi con người ta đi vào chỗ chết nhưng vẫn hướng đến sự sống với tình yêu thương, đùm
bọc nhau, niềm tin và hi vọng mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng.

Về nhan đề : Vợ nhặt, chúng ta hiểu rằng vợ là người sẽ ở bên ta suốt cuộc đời, lấy vợ là
chuyện trăm năm hạnh phúc, vợ chồng là những khái niệm vô giá, thiêng liêng.Ai cũng cần, và việc
lấy chồng, lấy vợ, đánh giá sự trưởng thành của mỗi con người. Nhặt lại là động từ chỉ sự cầm nắm
tuy nhiên lại thường gắn với những thứ không ra gì, những thứ đã bị bỏ đi. Giá trị thiêng liêng nhất
cũng trở nên rẻ mạt, trong thời buổi mà mọi người đều chỉ còn nghĩ tới miếng ăn và sự sống.

Khi phân tích nhân vật trong một tác phẩm truyện chúng ta đều phải tóm tắt tình huống.
Tình huống là một lát cắt của thời gian, ở đó sẽ xảy ra những biến cố và mâu thuẫn, từ đó tác giả sẽ
phát triển được mạch của truyện, nhân vật cũng sẽ bộc lộ tính cách. Tình huống sẽ khắc họa tính
cách nhân vật, phát triển cốt truyện cũng như thể hiện chủ đề tác phẩm.
Tràng là một nhân vật có hoàn cảnh éo le : xấu xí, nghèo khổ, làm nghề culi kéo xe lao động
chân tay chở thóc thuê, người xóm ngụ cư, trong thời điểm nạn đói, mọi người chỉ nghĩ tới việc tìm
đến miếng ăn, không ai nghĩ tới chuyện lấy vợ. Thế nhưng tràng lại lấy được vợ một cách vẻ vang,
lấy được một cô gái theo không , chẳng mất một xu sính lễ.Anh lấy được vợ chỉ sau hai lần gặp gỡ
tầm phơ tầm phào.
Ngoại hình của anh Tràng trong nguyên tác ( đã được lược bỏ trong sách mới nhưng ta vẫn
được sử dụng )
Tràng là nhân vật trung tâm , anh có đầy đủ đặc điểm của người Việt Nam trước Cách mạng
tháng 8.
Tràng một anh nông dân xấu trai ế vợ, quá lứa : Cái đầu thì trọc lốc, cái lưng thì to vập vạp
như con gấu, hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, mặt thì bạnh ra.Hắn có một thói quen là
ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch.Gia cảnh thì neo đơn nghèo khổ, có em gái mất tích trong nạn đói,
mẹ già ốm yếu già nua, ăn cháo loãng với muối, ở thì trong một túp lều vắng teo, bé tí, quần áo rách
vắt khươm mươi niên trong nhà, rách như tổ đỉa, một mảnh sân lổn nhổn những búi cỏ dại.Dân ngụ
cư , dân tứ xứ, không có nhà cửa ruộng đất, dân cấp thấp nhất của làng xã thời xưa.Nghề nghiệp
mưu sinh vô cùng lam lũ cực nhọc, kiếm sống qua ngày bằng việc kéo xe bò.
5 điểm thiệt thòi của anh Tràng:

Xấu xí , thô kệch , ế vợ, quá lứa

Công việc bấp bênh, lao động chân tay vất vả

Gia đình neo đơn

Nghèo khổ lại trong những năm nạn đói khủng khiếp 1945

Dân ngụ cư , dân mạt hạng nhất


12 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Đối với Tràng hạnh phúc gia đình khó mà với tới được.Nỗi khổ của Tràng khác với những
nhân vật cùng thời, có thể có nhà, còn người thân nhưng lại gần như không thể có được hạnh
phúc.Đây là cách khai thác khác biệt giữa Kim Lân và Nam Cao. Qua nhân vật Tràng nhà văn cũng
muốn nói lên khát khao của người lao động trong những năm nạn đói.
Xét về phẩm chất của nhân vật Tràng :
Tràng là một thanh niên nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái :
Hoàn toàn trái ngược với vẻ bề ngoài thô kệch xấu xí, nhưng Tràng lại là một nhân vật có
trái tim ấm áp.
Biểu hiện : Mỗi ngày đi làm về, trở lại xóm ngụ cư, trẻ con lại ùa ra để trêu Tràng, đứa thì
đòi leo lên cổ, đứa lại đòi được bế, đứa túm đằng trước, đứa lại giậm chân anh Tràng ơi bế em
mấy.Người Việt Nam ta có câu “Yêu trẻ trẻ đến nhà , quý già già để tuổi cho.” Trẻ con yêu thương
ai, người đó là người có tâm hồn trong sáng, giàu lòng nhân ái.
Tác giả phát triển tính cách của Tràng qua hai lần gặp gỡ tầm phơ tầm phào với cô vợ Nhặt.
Lần thứ nhất hắn không có ý trêu đùa cô gái nào ở đây, hắn chỉ vu vơ hò một câu cho đỡ nhọc:
“muốn ăn cơm trắng mấy giò này, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”.Thị còn liếc mắt cười tít, Tràng
thích lắm, từ thủa cha sinh mẹ đẻ chưa có đứa con gái nào cười với hắn tình tứ đến thế. Một con
người không có ai chia sẻ quan tâm, chính điệu bộ của Thị đã đánh thức ở anh những xúc cảm rất
con người rất đáng được trân trọng.
Đến lần gặp gỡ thứ 2: Hệ quả của tấm lòng nhân ái. Tràng mời cô gái ăn không phải vì cô đã
đẩy xe giúp anh, cũng không phải vì câu hò tầm phơ tầm phào. Anh mời cô gái ăn là xuất phát từ
tình thương, bởi trước mắt anh bây giờ, cô gái là hiện thân của thần chết “ Hôm nay trông thị đói
kém quá” ( gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn nhìn thấy hai con mắt, quần áo rách rưới như tổ đỉa,
người gầy sọp đi…)
Tất cả những điều này đều được thể hiện qua tài năng miêu tả tâm lý tâm trạng nhân vật của
tác giả Kim Lân.
Thay vì đánh giá vì một cô gái chỏng lỏn, cong cớn, đanh đá, anh mời cô gái ăn, đó là sự
đồng cảm với người có hoàn cảnh kém hơn mình.
Kết quả là thể hiện khát vọng về hạnh phúc gia đình : “Chậc, kệ” đánh cược với cả cuộc đời,
số phận với hạnh phúc, nuôi thêm một miệng ăn đó chính là nguy cơ dẫn đến cái chết.Khát vọng
sống vẫn lớn hơn là những lo âu về mưu sinh. Tràng rất nghiêm túc với quyết định của mình, sau
khi nhặt được vợ, dẫn thị ra ngoài chợ tỉnh đánh chén một bữa , mua thúng con, hai hào dầu đèn về
thắp và một ít kim chỉ. “Thúng con” là biểu tượng cho sự nữ tính, khéo léo, đảm đang, Tràng mua
cho Thị cái thúng bởi anh coi trọng, trân trọng thị, người phụ nữ anh lấy làm vợ không phải chỉ đơn

13 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

thuần là một người qua đường.Gia cảnh éo le, nhưng lại là một nhân vật có suy nghĩ chín chắn,
hành động đúng đắn.
Tràng là một chàng trai hiếu thảo, có nề nếp suy nghĩ trước sau :
Vẫn biết dẫn vợ về đột ngột ra mắt mẹ là một hành động sai với gia cảnh, với mẹ trong
những năm nạn đói, bởi vậy Tràng thấy lo lắng khi dẫn vợ về, thấy sợ…Bà cụ Tứ đã là người
truyền cho anh lòng nhân ái trong tính cách của Tràng.
Tràng ngóng mẹ, mong mẹ chia vui vì mình đã có vợ, với khát vọng sống mãnh liệt :
“Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau người ta về làm bạn với tôi đấy u ạ”.Khi được mẹ đồng
tình thì Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.Tràng biết việc làm của anh không phải với mẹ, chắc chắn
sẽ làm cho mẹ buồn, anh là một người con chí hiếu, biết nghĩ cho mẹ biết nghĩ cho người khác. ( tác
giả xây dựng theo hình thức tương phản, xấu xí nhưng lại có bản chất tốt đẹp )
Tràng có khát vọng sống mãnh liệt:
Thời điểm sáng ngày hôm sau, đêm tâm hôn đã làm Tràng thay đổi hoàn toàn, trong người
lửng lơ như một người từ trong mơ bước ra.Khi có vợ anh nhìn nhận xung quanh mình đã có sự
thay đổi.Cảnh vật vẫn thế : bát địa sứt mẹ, nhà vẫn là một túp lều rách…Nhưng Tràng nghe thấy
tiếng chổi quét sân của Thị, mẹ nhổ cỏ.Tràng vẫn vậy nhưng tinh thần đã thay đổi, “Tràng thấy
mình nên người”.Tràng muốn sinh con đẻ cái ở đây, Tràng muốn thay đổi cuộc sống của chính
mình, sự thay đổi giữa bất hạnh và hạnh phúc ( cuộc thay đổi về chất ngoạn mục trong tác phẩm ).
Mẹ sinh ra mới là người, còn lấy vợ mới là Con người hoàn thiện, hoàn hảo.Hai chữ “nên người”
đánh dấu sự trưởng thành , dù chỉ là vợ nhặt nhưng chính anh cũng nhận ra điều đó.
Trong bữa cơm thảm hại chỉ có rau chuối thái rối, niêu cháo loãng lõng bõng, cháo cám…
Tràng cảm thấy nuối tiếc vì đã từng nhìn thấy đoàn người đang đói, họ đi theo lá cờ to lắm, đi phá
kho thóc Nhật.. Trong tâm trí Tràng hai lần hiện lên hình ảnh đoàn người đang đói, anh hướng tới
một ngày nào đó chính anh sẽ hòa mình vào đám người đang đói, được giác ngộ đi theo Việt Minh,
khát vọng của Tràng, khi cuộc sống vật chất chưa có gì thay đổi, anh đã hướng tới một tương lai
tươi sáng hơn. Đó là lí do tại sao nhân vật Tràng cùng thời với Lão Hạc, Chí Phèo nhưng lại hướng
tới ánh sáng đấu tranh, bởi ngòi bút của tác giả Kim Lân đã được giác ngộ lý tưởng cách mạng.
Nét đặc sắc về nhân vật Tràng

Nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật một cách đầy tình tế, đối thoại ngôn ngữ trong sáng
gần gũi , hóm hỉnh với đồng quê Việt Nam.Tác phẩm phản ánh đời sống của người nông dân, thuần
túy nông thôn, tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Kim Lân.

6. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Thị

Nhà văn Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1-8-1920, tại thôn Phù Lưu, xã
Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh,là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn
học Việt Nam thế kỉ XX. Sự nghiệp văn học của ông tuy không đồ sộ nhưng lại rất đặc sắc và khó

14 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

trộn lẫn.Một số truyện ngắn của ông được xếp vào hàng kinh điển trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ
XX như Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí…
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm
1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không
buổi sáng nào người trong làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên
đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm
ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm.Tác phẩm Vợ nhặt
xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên
chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy
chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng
quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức
nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không
đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?
Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta
thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ
Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về
nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt
rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật
rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
Khi mới gặp Tràng,Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng
phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh
nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai,
khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà xưng xỉa nói:
Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có
miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống ăn như chết đói. Thị
cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt
ngang miệng mà khen ngon.Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ
đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị
làm tất cả chỉ để có được miếng ăn.
Khi đã chấp nhận làm vợ của Tràng,trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn.
Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì hớn hở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì
sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa khuôn mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn
bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là một con người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong
cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng. Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận của
mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành
chấp nhận thuận theo số phận khi đã đến bước đường cùng.

15 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Tuy nhiên, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên
đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ
rất khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa tay lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo
còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng và xấu hổ, chân nọ díu cả vào chân
kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi
đến nỗi đi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người xung
quanh.
Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò bẽn lẽn của nàng dâu
mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá, ngheo xơ xác. Thị nén tiếng thở dài. Anh
Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục vợ ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép
giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị
càng rụt rè sợ sệt, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của
thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu,
bà nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng đón nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả
hai đều hoàn toàn xa lạ.Sáng ngày hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ
Tứ, thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng
vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người
đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh.
Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã
ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khe khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên
kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa
mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.
Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có cơ hội làm như thế
mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có
khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh
Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát
và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không
muốn làm người khác phải buồn tủi hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ
ứng xử đầy chất nhân văn và tinh tế như vậy.
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói
do khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống
với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành
công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được
tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng
như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật
chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống

16 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

truyện. Qua nhân vật này người đọc cũng thấu hiểu được tài năng cũng như tấm lòng của nhà
văn.Vợ nhặt – một nhân vật vô danh nhưng không vô nghĩa.
7. Phân tích vẻ đẹp nhân vật bà cụ Tứ

Trước hết ta đi vào vai trò của ba nhân vật : Tràng, bà cụ Tứ và Thị là một vòng tròn đồng
tâm, vai trò của ba nhân vật đều quan trọng như nhau trong việc xây dựng truyện ngắn Vợ Nhặt
cũng như thể hiện tư tưởng của nhà văn về nạn đói khủng khiếp năm 1945 và giá trị nhân đạo sâu
sắc.
Từ xưa tới nay từ cổ chí kim, bên cạnh đề tài đất nước thì vẻ đẹp của phụ nữ , người mẹ là
một đề tài lớn văn học Việt Nam (Kiều, chị Dậu, em Liên,Người con gái Nam Xương…) những con
người tần tảo, chịu thương chịu khó. Nằm trong dòng chảy văn học về đề tài người mẹ, người nông
dân, người phụ nữ ấy ta bắt gặp hình ảnh bà cụ Tứ trong vợ nhặt của Kim Lân.Một nhân vật xuất
hiện ở khoảng giữa của tác phẩm nhưng thực sự là điểm sáng của toàn bộ truyện ngắn.

 Tâm trạng đầu tiên là bất ngờ khi thấy có người đàn bà ngồi trên đầu giường con trai mình
(Giàu tình yêu thương)

 Thứ hai bà cụ tủi thân tủi phận cho chính hoàn cảnh của mình và các con.( Đức hi sinh

 Thứ ba , bà cụ vượt qua những khó khăn cuộc sống, bỏ qua những éo le nghịch cảnh, bà
đồng tình và khích lệ các con. ( Tinh thần lạc quan )

Sự xuất hiện của bà cụ Tứ đặc biệt, xuất hiện khá muộn trong tác phẩm , chỉ sau khi anh con
trai đưa vợ về ra mắt, không phải nhân vật trung tâm nhưng vai trò quan trọng và không thể thiếu
trong tác phẩm. Tại sao nhà văn lại để cho sự xuất hiện nhân vật muộn đến như vậy ?
Bà xuất hiện trong một hoàn cảnh thê thảm.Không gian rộng là nạn đói khủng khiếp, không
gian hẹp là một túp lều với mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, ngôi nhà rách nát. Tràng
đang làm việc tày trời, dắt một cô vợ về ( một cô vợ không tông tích,xấu xí rách rưới, không tên,
theo không..) vượt quyền của bậc làm cha làm mẹ, một điều không thể chấp nhận.Anh dắt vợ về
trong tình cảnh vô cùng nhếch nhác, nhưng từ tình huống của bà, càng éo le bao nhiêu ta lại càng
thấy được tác giả tô đậm vào tình yêu thương bao la của bà nhiều bấy nhiêu.Đồng thời tác giả tôn
lên những phẩm chất của người mẹ Việt Nam trong những năm nạn đói.
Nếu như ở Tràng và vợ nhặt được xây dựng chủ yếu bằng hành động thì với bà cụ Tứ - Kim
Lân lại khai thác vào thế giới tình cảm, thế giới tâm lý tâm trạng. Người già là thể hiện sự giàu trải
nghiệm, hơn nữa bà là một người mẹ nghèo khổ cho nên những trang văn miêu tả về tâm lý của
nhân vật này được xem như là hay nhất tác phẩm cũng như của văn học Việt Nam.Có thể nói nếu
thiếu đi nhân vật bà cụ Tứ thì tác phẩm sẽ không thể thấy được hết giá trị.
Bà không được xây dựng về ngoại hình nhiều mà chủ yếu là ở những diễn biến tâm lý .Bà
cụ Tứ cũng là một nhân vật già cả, ốm yếu ( xuất hiện với dáng người lọng khọng, tiếng ho húng
17 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

hắng, lẩm bẩm tính toán, đôi mắt kèm nhèm…) Bà được khắc họa không còn tinh anh, không còn
nhanh nhẹn hoạt bát.Vì cuộc sống khó khăn đè nặng cuộc đời bà khiến bà trở nên chậm chạp nhiều
suy tư.Hoàn cảnh neo đơn : chồng mất sớm, con gái mất tích, ở với con trai cả, xấu xí thô kệch
không bình thường, Bà còn là dân ngụ cư, tủi thân tủi phận , khi nạn đói và chiến tranh đẩy con
người ta vào tình cảnh trôi dạt.Ở nhân vật ta thấy được những uẩn ức cuộc sống.Bà còn bị đứa con
trai đẩy vào tình cảnh vô cùng éo le.Dắt vợ về không xin phép đưa về một cô vợ xấu xí, không hẳn
là xin phép mà là thông báo quyết định của bản thân anh, không thể từ chối.Một tình cảnh trớ trêu,
nghiệt ngã và khó xử. Bậc cha mẹ nào cũng mong con của mình có những đám vừa ý, có tương lai,
còn con trai bà thì đem về nhà là hiện thân của thần chết,một con người đang đi vào cõi chết, thêm
một miệng ăn nữa trong tình cảnh đói kém. Càng thấu hiểu hoàn cảnh trái ngược ấy của nhân vật,
bạn đọc càng cảm phục và ngưỡng mộ vẻ đẹp của bà cụ.
Toàn bộ vẻ đẹp của nhân vật được thể hiện rõ nét qua những diễn biến tâm trạng.Đầu tiên là
sự ngạc nhiên, khi bà đi chợ về thấy anh con trai rối rít, mừng rỡ, bà thấy sự bất thường của con trai,
bà càng thấy phấp phỏng hơn khi theo Tràng vào nhà.Bà cụ Tứ nhìn thấy người đàn bà xa lạ ngồi
trên đầu giường.Trong tiềm thức của bà xuất hiện biết bao nhiêu những câu hỏi băn khoăn thắc mắc
: Sao lại chào bà bằng u?, sao lại ngồi trên đầu giường con trai mình?...Sự xuất hiện của người đàn
bà , con trai bà thì xấu xí, kèm theo đó là thể hiện sự nhạy cảm, có thể chưa nói rõ nhưng bà đã
ngầm hiểu đây là vợ của con trai mình.Bà hỏi nhưng không tìm kiếm câu trả lời, bà đang lo lắng với
sự nhạy cảm, từng trải của mình.Một nhân vật nhạy cảm về cảm xúc, khác với những cuộc đấu
tranh khốc liệt trong từng trang văn của Nam Cao, Kim Lân đi sâu vào thế giới tâm hồn của nhân
vật.
Từ bất ngờ, cảm xúc của người mẹ nghèo dần tủi thân tủi phận cho hoàn cảnh éo le của
mình và các con, khi được Tràng giới thiệu cô vợ của anh.Bà cảm thấy ai oán xót thương cho chính
số kiếp của mình : “Người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc nhà đang ăn nên làm nổi, còn
mình thì…” Bà tủi thân trước hết là vì mình nghèo tới mức độ không thể dựng vợ gả chồng cho
con, bà là cha là mẹ mà không làm tròn được trách nhiệm để cho con phải ra ngoài đường nhặt
vợ.Dấu ba chấm hàm ý là sự xúc động không nói lên thành lời.Bà xót xa cho bậc làm cha mẹ mà để
con nhặt vợ, nỗi tủi thân khiến bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.Đó là giọt nước mắt của người mẹ
hiểu được tận cùng được giá trị con người.Bà thì không thể lấy vợ cho con, con trai bà thì đi nhặt
vợ, còn cô vợ thì rách rưới thảm hại, không thể ngẩng mặt lên với đời.
Vượt lên trên nỗi xót xa ai oán cho thân phận, đó là lòng thương yêu và khích lệ các con.Bỏ
qua những ích kỉ của người mẹ, bà nghĩ cho con trai, bà thương chúng nó nuôi nổi nhau sống qua
cơn đói khát này không.Suy nghĩ của bà thương con trai , trên hết bà còn thương người đàn bà xa lạ,
bởi người đàn bà này đã lấy con mình : “Người ta có đến gặp bước đói khổ này mới lấy con
mình”.Bà đã hạ thấp chính mình và con trai bà, bà vượt qua sự đói rách thê thảm nghèo khổ, trân
trọng thị.Trong con mắt người đọc đó có thể là không thể chấp nhận, người phụ nữ trơ trẽn, theo
không.Bà bao dung độ lượng đón nhận thị , điều này rất khó xảy ra nhưng Kim Lân đã khai thác
được tấm lòng bao dung của người mẹ nghèo.Trên nữa bà biết dẹp qua những đói nghèo, đau khổ,
xót xa bà động viên các con. Bà đồng tình với quyết định của con : “Các con phải duyên phải kiếp

18 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

với nhau.U cũng mừng lòng.” Bà hiểu cho nỗi khổ và đồng cảm cho cả hai đứa con của mình.Người
nông dân Việt Nam với tính cách chân chất, cho nên khi họ bày tỏ cảm xúc ở mức độ sâu đậm nhất
sẽ không sử dụng từ “ đồng tình” mà là “mừng lòng”.Bà thể hiện sự tin tưởng : “không ai giàu ba
họ, không ai khó ba đời…”Rõ ràng bà cụ Tứ là biểu hiện rõ nét nhất suy nghĩ của tác giả, cái đói cái
chết vẫn không thể chiến thắng được khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người.
Sáng hôm sau, khuôn mặt bà rạng rỡ hẳn lên, bước đi “xăm xắn” nhanh nhẹn, mạnh mẽ,
bước đi sảng khoái, đó là niềm vui khi con mình đã có vợ, bà tin rằng nhà cửa sạch sẽ thì cuộc sống
sẽ thay đổi, khác đi. Bà cụ Tứ với tinh thần lạc quan, ánh sáng giao tranh ngay trên khuôn mặt
bà.Bà là người già nhất mâm cơm nhưng lại nói nhiều nhất, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung
sướng về sau, hình ảnh bà nhắc tới là “đôi gà”.Trong cuộc sống của người nông dân họ thường nói
tới hình ảnh con gà, hình ảnh thể hiện của sự sinh sôi nảy nở, một cuộc sống đông đúc vuông
tròn.Tâm hồn bà đã được sưởi ấm và hướng đến tương lai.Hiện tại ước mơ ấy chưa xảy ra, nhưng từ
đó ta thấy được sự tin tưởng lạc quan của bà, ta thấy được Tràng giàu có hơn, cuộc sống sáng sủa
hơn trước hết là về tinh thần.
Tấm lòng yêu thương con và tinh thần lạc quan còn được thể hiện ở nồi chè khoán mà bà
chiêu đãi các con.Bà đổi tên thành chè khoán, bà trêu các con vui vẻ chè đấy, chè khoán đấy, bà xua
đi nỗi tủi hờn trong tâm trí của các con, thổi vào không khí ảm đạm chết chóc ấy là ấm áp của tình
người, của tình mẹ con.Nhân vật bà cụ Tứ đã giúp nhà văn nói lên chủ đề của tác phẩm.Dù cận kế
cái chết, người lao động Việt Nam vẫn yêu thương đùm bọc lẫn nhau, khát khao tổ ấm gia đình,
hướng tới sự sống và tương lai tươi sáng.Qua nhân vật bà cụ Tứ , Kim Lân ca ngợi người phụ nữ
Việt Nam nói chung, tuy nghèo khổ , thiệt thòi, bất hạnh nhưng giàu đức hi sinh, giàu tình thương
yêu và tinh thần lạc quan.

19 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

VỢ CHỒNG A PHỦ (TÔ HOÀI)


----------------------------------------------
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói rằng: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để
làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc
số phận đen đủi dồn đến chân tường…. Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con người
không có ai để bênh vực”. Quả thực, Tô Hoài đã trở thành “kẻ nâng giấc” cho những số phận khổ
đau thê thảm ấy. Điều đó được thể hiện rõ nét và sâu sắc qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”- linh hồn
của tập “Truyện Tây Bắc”.

- Tác giả: -Hoàn cảnh sáng tác

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn Truyện" Vợ chồng A Phủ" được nhà văn
của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập"
hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của Truyện Tây Bắc". Tác phẩm gồm hai phần:
nhiều vùng văn hóa khác nhau trên đất nước ta. phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục của Mị và A
Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ nhà thống lí Pá Tra;
phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người phần sau kể về Mị và A Phủ ở Phiềng Sa, họ
vùng Tây Bắc. thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ
cách mạng, A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du
kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn
trích trong sách giáo khoa là phần thứ nhất của
tác phẩm.

- Nội dung: - Nghệ thuật:

- Qua tác phẩm, tác giả lên án bọn thực - Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Khắc họa
dân, chúa đất độc ác dã man tàn bạo; bày tỏ sự nhân vật sinh động, có cá tính rõ nét. Hai nhân
cảm thông thấu hiểu nỗi thống khổ của người vật Mị và A Phủ có số phận giống nhau nhưng
dân nghèo miền núi và khẳng định sức sống tính cách khác nhau đã được tác giả thể hiện
ngoan cường , khát vọng tự do tiềm tàng ở bằng bút pháp thích hợp.
người lao động
- Ngòi bút tả đặc sắc
- Qua tác phẩm, nhà văn còn phản ánh quá
- Nghệ thuật trần thuật rất thành công với
trình đấu tranh từ tự phát đến tự giác, chỉ ra con
giọng kể trầm lắng đầy cảm thông, yêu mến,
đường đấu tranh để giải phóng của người dân
nhịp kể chậm xúc động có khi hòa vào dòng
miền núi dưới ách áp bức của bọn thực dân
tâm tư của nhân vật, vừa bộc lộ nội tâm của
phong kiến.
nhân vật vừa tạo được sự đồng cảm.

20 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

1. Tóm tắt truyện


- Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ,
xinh đẹp, nết na, có tài thổi sáo. Cô bị bắt làm vợ A Sử - Con trai của thống lí Pá Tra để trừ một
món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn
lá ngón tự tử nhưng vì thương cha, vì nỗi đau của gia đình nên Mị không thể chết. Mị đành tiếp tục
sống tủi cực, kiếp trâu ngựa trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật, khổ hơn con trâu con ngựa
trong nhà “lúc nào Mị cũng lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng
sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói
đứng Mị trong buồng tối.
- A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khỏe mạnh, lao động giỏi, vì đánh lại A Sử mà bị
bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do mải bắt nhím
A Phủ làm lạc mất bò, A Phủ bị thống lí trói đứng ở cột nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản
nhiên nhưng rồi lòng thương người và sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo
A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…

2. Làm rõ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ

Nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ: “Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi
nhiều,không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét,
thành người, thành việc trong tâm trí tôi”, bởi vậy mà tác phẩm “Truyện Tây Bắc” nói chung và
đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” nói riêng như một món nợ lòng mà nhà văn dành cho Tây Bắc, dành
cho con người nơi đây. Tác phẩm không chỉ là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác
của Tô Hoài, không chỉ thể hiện sở trường của ông trong ngòi bút viết về mảng đề tài miền núi mà
còn làm sáng lên khả năng nắm bắt, miêu tả đầy tinh tế quá trình diễn biến tâm lí nhân vật, từ đó
đưa tác phẩm lên đỉnh cao văn chương, trở thành một sáng tác xuất sắc của nền văn nghệ kháng
chiến nước nhà.
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc dài 8 tháng, ghi dấu sự trưởng thành của
ngòi bút Tô Hoài trong sự chiếm lĩnh mảng đề tài miền núi, mảng đề tài tới nay vẫn còn nhiều mới
lạ với bạn đọc. Tác phẩm được tổ chức chặt chẽ, rất sinh động và tự nhiên, không cần những nút
thắt quá biến động những vấn thu hút được bạn đọc là bởi tác giả đã có cái nhìn hiện thực sắc bén.
Nhà văn Nga Sê-khốp nói: “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”.
Thông qua lăng kính đầy tình yêu thương, lòng nhân ái, tác giả đã thể hiện được chủ nghĩa nhân đạo
tích cực, mới mẻ chưa từng có trên diễn đàn văn chương Việt Nam. Được thể hiện thông qua cuộc
đời, số phận 2 nhân vật Mị và A Phủ. Hai nhân vật trung tâm từ trong bóng tối đau khổ, ô nhục đã
vươn ra ánh sáng của hạnh phúc, tự do.
Mị là một cô gái xinh đẹp, nết na, có tài thổi lá hay như thổi sáo, được nhiều người yêu mến,
theo đuổi, lẽ ra cô phải được sống một cuộc sống tự do, hạnh phúc, thì trái lại Mị lại khổ từ trong
trứng nước. Bố mẹ nghèo, cưới nhau không có tiền, phải vay nợ nhà thống lí 100 đồng bạc trắng,
đến khi mẹ Mị mất, cha Mị đã già, số nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con
dâu gạt nợ. Lợi dụng tục lệ cướp vợ của người Mèo, cho cướp Mị về. Vậy là không cần cưới hỏi,
21 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

không cần tình yêu vẫn là hợp lẽ. Đáng nói ở đây, chúng bắt Mị về để cúng trình ma nhà thống lí,
Mị sẽ chết rũ ở trong cái nhà này, sống không bằng chết. “Con ma nhà thống lí” là một nỗi ám ảnh
suốt cuộc đời Mị, bọn phong kiến đã cao tay đến mức “ngu dân” để dễ trị. Chẳng ai dám lên tiếng
bênh vực cô Mị xinh đẹp, nết na, vậy mà Tô Hoài đã phanh trần bản chất bóc lột ẩn sau những
phong tục, tập quán. Mị sống cuộc sống địa ngục trần gian, bị bóc lột như nô lệ, thứ nô lệ người ta
không phải mua mà vẫn có quyền hành hạ. Dần dần Mị cũng quên luôn cả việc mình là người. Kết
quả trong hoàn cảnh sống tù túng ấy thật chua xót “ở lâu trong cái khổ, Mị khổ quen rồi” cố nhẫn
nhục để rồi tê liệt về ý thức, chai lì về cảm xúc.. Nỗi khổ nhục của Mị thật đã có thể so sánh với bi
kịch cuộc đời Chí Phèo khi “Đánh mất cả nhân tính lẫn nhân hình”, Chí Phèo đôi khi còn có thể
nghênh ngang, dọa nạt người khác, nhưng cô Mị của chúng ta đã thật sự không còn sức mạnh để
chống cự lại điều gì. Nếu xem giá trị hiện thực của một tác phẩm là phản ánh chân thực cuộc sống
thì “Vợ chồng A Phủ” là bản cáo trạng hùng hồn về người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của
phong kiến miền núi, vừa bị chói chặt trong xiềng xích của thần quyền.
Nhà văn đã sử dụng những chi tiết rất sinh động, mang giá trị bóc trần bản chất xã hội vô
nhân đạo đạt đến mức đỉnh điểm. Ở đó thân phận những con người lao động mới mong manh làm
sao! Ta sao có thể làm ngơ trước hình ảnh cô gái trẻ đẹp ngồi quay sợi trước cửa nhà bên cạnh tảng
đá và cái tàu ngựa, hình ảnh cô Mị lặng lẽ ngồi hơ lửa trong những đêm đông buốt giá, ngay cả khi
sức sống tiềm tàng của người con gái trỗi dậy mãnh liệt nhất, Mị muốn đi chơi nhưng chồng cô đi
chơi về khuya đánh Mị ngã dúi xuống đất và trói đứng cô vào cột nhà trong buồng tối. Sự bất lực
của Mị chảy ra theo dòng nước mắt mặn chát, những giọt nước mắt Mị không có cách gì lau đi
được. Những chi tiết ấy làm cho câu chuyện được nới rộng thêm, sinh động thêm.
Sự xuất hiện của A Phủ đã tạo thêm tình huống để hoàn chỉnh bức tranh đó. Cuộc đời nô lệ
của A Phủ cũng chính là sự lặp đi lặp lại những bi kịch như chính cuộc đời Mị. Lí do mà thống lí Pá
Tra buộc A Phủ trở thành nô lệ không công thực chất cũng không phải hẳn do cuộc ẩu đả với trai
làng, ở đây nói lên một thực trạng đáng buồn lúc bấy giờ khi quan lại quá lợi dụng quyền lực của
mình, pháp luật không có quyền định đoạt. Vậy nên mới xuất hiện cảnh xử kiện quái gở nhất trên
đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà thống lí. Kết quả là người con trai khỏe mạnh vì lẽ công
bằng mà phải đem cuộc đời mình đi trả nợ oan. Cảnh ngộ của Mị và A Phủ ít nhiều đã gợi cho
chúng ta liên tưởng đến cuộc đời của Chí Phèo, chị Dậu,… là những hình tượng nghệ thuật được
đúc kết từ chính cuộc đời đau khổ trong xã hội cũ.
Nhưng, nếu chỉ dừng lại ở việc phân tích giá trị hiện thực, nhân đạo dưới khía cạnh phơi
bày, tố cáo, lên án, phê phán qua cảnh ngộ bi thảm của hai nhân vật thì chưa đủ. Nhiều tác phẩm
hiện thực phê phán xuất sắc vẫn bị xem là có hạn chế trong tầm nhìn khi chỉ thương xót mà không
tìm được lối ra cho nhân vật của mình. Giá trị hiện thực lúc ấy chưa được toàn vẹn. Tô Hoài, trong
khi đào sâu vào hiện thức đã tìm ra tất yếu con đường mà ông dành cho nhân vật của mình. Sự đè
nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra sẽ dồn tới sự phản kháng tất
yếu. Và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được thắng lợi. Nhà văn cũng là một người đã
được lí tưởng của cách mạng soi đường, giác ngộ lí tưởng cách mạng một cách nhanh chóng nên
chính ông đã có con đường riêng cho sự giác ngộ chân chính ấy. Với sở trường xấy dựng nhân vật

22 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

bằng cách miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài tìm ra logic của sự phát triển tính cách, và đã tạo ra một
giá trị hiện thực vô cùng mới mẻ, độc đáo cho tác phẩm và nó mang sức thuyết phục cao nhất. Tô
Hoài chỉ ra quá trình tha hóa nhân cách của nhân vật Mị thời kì đầu, Mị làm việc nhiều quá, bị đày
đọa khổ sở quá, mãi rồi cũng thành quen, rồi cam chịu. Mị không còn muốn ăn lá ngón để tự tử nữa,
Mị như một cái máy, không cảm xúc, không ước ao… Liệu rằng cô ấy có thể thức tỉnh nữa không?
Câu trả lời giăng mắc, ám ảnh trong tâm trí bạn đọc để rồi chính tác giả đã trả lời câu hỏi ấy “Có”.
Nếu đã có một hoàn cảnh tha hóa con người Mị thì tất yếu cũng sẽ có một hoàn cảnh mang Mị trở
lại, khôi phục sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong người con gái này. Đó là tiếng sáo Mị chợt nghe
được trong một đêm mùa xuân đầy hương sắc. Tất cả như sống lại, Mị có khái niệm trở lại về thời
gian, Mị thấy lòng mình “thiết tha bồi hồi” và lập tức sống lại quãng đời niên thiếu tươi đẹp. Tiếng
sáo gọi bạn yêu khơi dậy trong Mị ao ước, khát khao về hạnh phúc, tình yêu còn dang dở. Tiếng sáo
lay động sức mạnh bền vững nhất, Mị thấy rằng “mình vẫn còn trẻ lắm” rằng “bao nhiêu người có
chồng vẫn đi chơi xuân”. Để rồi những suy nghĩ chực chờ bung ra thành hành động. “Mị lén lấy hũ
rượu uống ừng ực từng bát”. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi trước nhà, ngọn lửa của sức sống tiềm tàng
đang cháy hừng hực. Mị quả quyết thay váy áo để đi chơi, điều mà bao năm nay Mị không nhớ tới.
Đây là một bước ngoặt tâm lí trong cuộc đời Mị, và chính tác giả cũng đã dành sự ưu ái ấy cho nhân
vật của mình dưới lăng kính nhân văn, nhân đạo. Sự trỗi dậy của Mị tuy bị A Sử dập tắt ngay sau
đó, A Sử đánh Mị, trói đứng cô vào cột nhà, nhưng ý chí Mị lúc này đang ý thức về quyền sống, về
khát vọng tự do, hanh phúc. Mị lại biết khóc, những giọt nước mắt trong khoảnh khắc tàn nhẫn này sẽ
lưu giữ mãi như một vết thương trong lòng cô.
Để rồi đến khi bắt gặp những dòng nước mắt chảy lấp lánh trên gò mà hốc hác của A Phủ,
nó đã biến thành sự đồng cảm giữa những người đồng cảnh ngộ. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị
hiện lên trong một hình ảnh sáng rõ “Người kia việc gì phải chết?” Mị quyết định trong khoảnh
khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn để tự giải thoát cho mình. Hai
kẻ bỏ trốn cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Cuộc đời họ trở thành con đường
với hai bước ngoặt, kiếp sống nô lệ và chống trả kẻ thù. Chắc chắn, họ thà chết còn hơn lại sống nô
lệ, lầm than. Nhưng muốn chống lại kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ trong
giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo ánh sáng của Đảng, thủy chung với Đảng là một lẽ tất yếu! Bằng
sự am hiểu cuộc sống, phân tích vấn đề xã hội sâu sắc và miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Tô Hoài đã
tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của
những người dân lao động miền núi, trong chế độ phong kiến. Ngoài ra đó còn là nhận thức đúng
đắn về con đường cách mạng cho bạn đọc.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn với con người. Ngay giá
trị hiện thực của tác phẩm, Tô Hoài đã để lại cái nhìn đầy sự ưu ái. Khi cô đúc nỗi khổ của hai nhân
vật dưới ý thức một bản cáo trạng đanh thép. Tô Hoài gợi lên trong chúng ta sự đau xót, cảm thông.
Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm gần như hòa trộn với nhau. Nhưng rõ ràng phải
là một người biết thông cảm, trân trọng và nâng niu con người mới có thể xét đoán tâm hồn người
ta tinh tế như vậy. Nhà văn trước sau vẫn tin rằng hoàn cảnh dù có khắc nghiệt đến mấy, cũng
không bao giờ có thể tiêu diệt hoàn toàn nhân tính con người. Mị đã sống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi

23 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

day dứt về thân phận của mình, bằng tình yêu thương, đồng cảm nhân hậu thông qua khát vọng
sống mãnh liệt. Cả hai nhân vật đã đi đến con đường có ánh sáng của Đảng, thoát khỏi trốn địa ngục
trần gian để làm lại cuộc đời như một con người.

Ngoài ra, giá trị hiện thực của truyện còn được gia tăng bằng màu sắc địa phương rất đậm
nét với cảnh sắc, phong tục, sinh hoạt của người Mèo, bản sắc tâm hồn độc đáo của các nhân vật.
Cùng một số phận, một cảnh ngộ nhưng diễn biến tâm lí của Mị rất khác A Phủ. Nếu A Phủ mạnh
mẽ, bộc trực, dứt khoát thì Mị dường như chín chắn nhưng lại yếu đuối hơn. Tô Hoài đã dành cho
nhân vật của mình những cái nhìn nhân đạo và tích cực. Ông cảm thông cho nỗi đau của Mị và A
Phủ, mặt khác lại trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tự tin làm chủ cuộc đời
mình. Phải chẳng cái nhìn đó đã tạo nên giá trị của tác phẩm?
 Các em có thể đúc rút thành các ý như sau
 Giá trị hiện thực
- Miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới
ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi (dẫn chứng 2 nhân vật Mị và A Phủ)
- Phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi (dẫn chứng cha
con thống lí Pá tra)
- Tái hiện bức tranh sống động đầy chất thơ về vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc, phong tục tập
quán của người dân miền núi (Đêm tình mùa xuân, xử kiện a Phủ)
 Giá trị nhân đạo

24 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

- Thể hiện lòng yêu thương, đồng cảm sâu sắc với nhân vật đau khổ của người lao động
nghèo miền núi.
- Phê phán thế lực chà đạp con người.
- Khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do cháy
bỏng của con người. Dù hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào cũng ko mất đi khát vọng tự do và
hạnh phúc.
- Tác giả chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những con người khổ đau nói
chung về con đường giải thoát khỏi bất công, làm chủ cuộc đời mình. Đề cao vai trò của Đảng với
cách mạng trong thời kì bấy giờ.
3, Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm
Có người đã từng nói rằng: “Nhà văn chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”.
Viết về những số phận cùng đường tuyệt lộ, khổ đau và bị chà đạp về thể xác lẫn tâm hồn vốn là
một đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam. Ta biết đến chị Dậu quằn mình trong cái đói cái
nghèo, nhớ lại Chí Phèo đã ngật ngưỡng bước vào trang văn của Nam Cao với một nỗi hằn học, hận
thù cuộc đời đã không cho hắn làm người,… Và sau Cách mạng, chắc hẳn trong mỗi chúng ta sẽ
chẳng thể nào quên được hình ảnh cô Mị đáng thương, bất hạnh nhưng mang một sức phản kháng
tiềm tàng trong con người tưởng như yếu đuối ấy. Tô Hoài đã rất thành công trong việc xây dựng
hình ảnh nhân vật Mị với sức sống mãnh liệt trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” – linh hồn của tập
“Truyện Tây Bắc”.
Đầu tiên, ta cần phải hiểu sức sống tiềm tàng là gì? Sức sống tiềm tàng được hiểu là toàn bộ
những sức mạnh về thể chất lẫn tinh thần, là sức sống vốn có của con người nhưng bị hoàn cảnh
bên ngoài tác động làm che khuất đi, nhưng luôn thường trực và chờ cơ hội trỗi dậy. Ở nhân vật
Mị, đó là khát khao được sống một cuộc đời tự do trong hạnh phúc. Khát khao ấy âm ỉ cháy trong
tâm hồn Mị như một ngọn lửa chưa bao giờ tắt hẳn, như một chồi cây đâm sâu trong lòng đất chờ
ngày gặp ánh sáng để vươn lên. Trong cuộc sống, sức sống tiềm tàng chính là sự phản kháng, chống
lại những thế lực bạo tàn, nhăm nhe tiêu diệt thế lực độc ác.
“Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc”, cũng là một trong
những truyện ngắn hay nhất của văn xuôi Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm
là bức tranh chân thực về cuộc sống và khát vọng tự do của con người miền núi, là hình ảnh con
đường giải phóng và cuộc đổi đời của họ khi đến với Cách mạng. Đoạn trích mà chúng ta biết là
phần nửa đầu của truyện: quãng đời ở Hồng Ngài của Mị và Phủ, khoảng thời gian khổ cực và gian
truân nhất trong cuộc đời của hai con người nhưng đó cũng chính là phần thành công nhất của tác
phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tô Hoài đã viết tác phẩm vào một thời đại mà nói như Nguyễn Đình Thi
là thời đại của “đất nước rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Nhưng đó là không khí ở đồng bằng, hay
những vùng đất cách mạng, còn ở mảnh đất Tây Bắc vẫn là một thế giới vô cùng mới mẻ. Tô Hoài
là một trong những người đầu tiên vén lên tấm màn bí ẩn về số phận của những con người khốn
cùng nơi vùng cao dưới chế độ cường quyền và thần quyền.
Trở lại với tác phẩm, để thấy được sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị thì ta nên đi theo sự
vận động liên hoàn trong cuộc đời của nhân vật Mị, là những sự kiện mà ta không thể chia cắt hay

25 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

phân tách nó. Sức sống tiềm tàng cũng chỉ được bộc lộ khi gặp được hoàn cảnh lớn, điều kiện lớn
khiến nó trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết. Bởi một nhân vật điển hình bao giờ cũng có một hoàn
cảnh điển hình. Mị là một nhân vật như thế. H.Balzac đã từng nói: “bản chất của con người thường
bị bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ”. Tô Hoài quan
niệm về con người rất giản dị, đó là con người như nó vốn có trong đời thường, con người với ý
nghĩa đích thực, có thể hàm chứa trong bản thân cả cái tốt lẫn cái xấu, cái cao cả và cái tầm thường.
Cuộc đời của Mị từ khy sinh ra cho đến khi vượt thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra cũng được chia ra
làm những hoàn cảnh, sự kiện đặc biệt.
Trước hết, sức sống tiềm tàng lần đầu tiên được bộc lộ khi Mị biết tin mình trở thành con
dâu gạt nợ nhà thống lí. Nó được bộc lộ thông qua thái độ phản kháng và phản ứng của Mị. Như đã
nói, Mị là cô gái có ngoại hình xinh đẹp và có nhiều phẩm chất tốt, có tài thổi lá hay như thổi sáo,
một cô gái chăm chỉ lao động không quản ngại khó khăn đáng lẽ ra sẽ được sống cuộc sống tự do
trong hạnh phúc, nhưng trái lại Mị lại khổ ngay từ trong trứng nước. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị
không có tiền đã phải vay của bố thống lí Pá Tra - là ông của thằng A Sử 100 đồng bạc trắng, nhưng
cho đến khi mẹ Mị đã mất, cha Mị đã già mà món nợ ấy vẫn chưa được trả hết. Thống lí bắt bố Mị
phải gả con gái cho con trai hắn là A Sử về làm con dâu gạt nợ. Biết được tin này, Mị phản ứng
ngay : “Con nay đã lớn, biết cuốc nương làm ngô, về nhà làm nương ngô trả nợ thay cho bố, bố
đừng bán con cho nhà giàu”. Câu nói toát lên khí chất của cả một con người, một con người có sức
sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong câu nói của Mị là sự đánh tráo, đánh đổi, Mị thà làm việc cực nhọc
chứ quyết không làm dâu gạt nợ, sống kiếp trâu ngựa nô lệ. Thể hiện sự mạnh mẽ, tự tin của tuổi
trẻ, của một người không ham giàu sang, phú quý, biết quý trọng danh dự và nhân phẩm của mình.
Mị quyết không chấp nhận cuộc hôn nhân không tình yêu ấy.

26 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Tuy nhiên, trái với những gì cô mong muốn, bi kịch đã đến với Mị một cách phũ phàng bởi
bạo lực, và thần quyền hủ tục. Mị đã từng hồi hộp nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước
theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ rơi vào cạm bẫy nhà thống lí. Chúng bắt cóc Mị dựa
vào tục cướp vợ của người Mèo, vậy là cuộc hôn nhân không tình yêu cũng trở thành hợp lẽ. Bị bắt
cùng trình ma cho nhà thống lí, vậy là Mỵ đã trở thành “con ma nhà thống lí”, có lẽ đó là bi kịch ám
ảnh suốt cả một đời của cô gái trẻ, còn sống mà như đã chết. Tô Hoài đã sử dụng ngòi bút chân
thực, sinh động của mình để phơi bày tội ác của chế độ phong kiến miền núi, của tiền quyền, thần
quyền và cường quyền. Bị bắt về nhà thống lý, Mị toan ăn lá ngón để tự tử. “Suốt mấy tháng ròng
đêm nào Mị cũng khóc”. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người
có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. Mị trốn về nhà cầm theo một
nắm là ngón để tạ lỗi với cha ý chính khát vọng được sống cuộc sống như một con người đúng
nghĩa khiến Mị không chấp nhận bị chà đạp, tủi cực, bị đối xử bất công như những con vật. Tô Hoài
nhắc đến cái chết, bởi với những số phận như Mị thì cái chết cũng là sự lựa chọn đầy dũng cảm để
chống chọi lại những gì khổ đau và đắng cay. Về đến nhà để chào cha, nhưng Mị không đành lòng
đi chết bởi câu nói đẫm nước mắt của người cha “Mày chào tao để mày đi chết đấy à? Mày mà chết
nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ, mày chết rồi lấy ai làm nương ngô trả nợ người ta? Tao thì
già rồi, không được đâu con ơi!” Mị chợt nhận ra nỗi đau của gia đình mình, Mị không thể vì bản
thân mình mà làm ngơ trước nỗi đau của gia đình. Điều ấy cũng toát lên ở Mị là một người con hiếu
thảo, ân tình.
27 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Bề ngoài là con dâu thống lí, là vợ của A Sử nhưng Mị chỉ là nô lệ để bù đắp cho khoản tiền
cha mẹ mình nợ. Tái hiện lên bức tranh về bi kịch của Mị tác giả đã vẽ lên hình ảnh nhân vật chính
hiện lên trong sự đối lập với hoàn cảnh xung quanh.. Chẳng phải ngẫu nhiên Tô Hoài mở đầu câu
chuyện của mình bằng một câu văn đầy ám ảnh: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thấy
một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa canh tàu ngựa”. Giữa cảnh giàu có tấp nập
của nhà thống lí Pá tra “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” thì Mị lại được đặt
bên “tảng đá và cái tàu ngựa”. Câu văn mở đầu một tác phẩm thường được coi là một câu chủ âm
thì “Vợ chồng A Phủ” đã được mở đầu bằng một âm thanh đầy ám ảnh và xót xa. Nỗi buồn, nỗi tủi
của Mị cứ đậm dần lên theo những câu văn: “Cô ấy lúc nào cũng cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”.
Cuộc sống của một kiếp đời tối tăm, im lìm, cực nhọc, đọa đày Tâm hồn cô đã chai sạn như gỗ đá,
cô đang phải sống cuộc sống lầm than, nô lệ. Bi kịch bị bóc lột sức lao động tưởng như là đã quá dã
man với một người con gái, nhưng không, đối với Mị, sự chèn ép và hủy hoại tinh thần còn đáng sợ
hơn nhiều. Cuộc sống của Mị thu hẹp lại bên một ô cửa sổ bé bằng lòng bàn tay “mờ mờ trăng
trắng, không biết là sương hay là nắng, là ngày hay đêm”. Căn phòng của người phụ nữ vốn dĩ phải
là nơi sáng sủa, yên ấm, hạnh phúc nhưng căn phòng của Mị như một thứ ngục từ giam hãm, chôn
vùi cả tuổi thanh xuân. Mị dường như bị tê liệt về lòng yêu đời, yêu cuộc sống lần tinh thần phản
kháng. “Ở lâu trong cái khổ, Mị khổ quen rồi.” Cha Mị đã chết, Mị cũng không muốn tự tử nữa. Mị
sống âm thầm như một cái bóng, như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian. Nhà văn không chỉ
gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn phản ảnh sự thật đau
xót: Người dân lao động nghèo khổ bị chúng đẩy đến bước đường cùng, chà đạp đến mức tê liệt về
cảm xúc, cuộc sống xung quanh, mất dần ý niệm về cuộc đời. Chúng đang cai trị theo cách “ngu
dân”. Từ những người có lòng ham sống mãnh liệt, giờ đây chỉ như cái bóng cái xác không hồn,
không ước ao. Một sự hủy diệt về ý thức sống thật đáng sợ. Cuộc sống của Mị tiêu biểu cho số phận
bi thảm, bất hạnh của những người dân nghèo miền núi.
Nếu như truyện ngắn chỉ dừng lại ở việc khắc họa số phận bi thương của những con người
bị dồn đường cùng thì đã là một thành công rất lớn. Nhưng tác phẩm của Tô Hoài được ra đời vào
những năm sau Cách mạng, một thời đại mới, một trang sử mới, bởi vậy tác giả không hề để cho
nhân vật của mình lao vào bóng tối như chị Dậu, cũng chẳng để nhân vật giết người, rồi giết mình
trong một tiếng kêu đầy ai oán như Chí Phèo. Ông đã để cho nhân vật Mị thực sự trỗi dậy, sống với
một sức phản kháng mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân. Đọc tác phẩm ta thấy có ngọn núi quanh
năm đọng trong tuyết, nơi có sương mù bao phủ, những cánh rừng bát ngát bạt ngàn nương rẫy, khi
thì xanh mướt lúa ngô, khi thì sặc sỡ ẩn hiện. Nơi có làng bản tụ quanh nguồn nước, chiều về cảnh
vật hiện ra trong hơi sương, tối đến lại bập bùng quanh ánh lửa. Ở Hồng Ngài, bao giờ cũng thế, cứ
gặt hái xong là người ta chuẩn bị ăn Tết. Nhà văn Tô Hoài đã khéo léo kết hợp tính trữ tình đậm
chất thơ vào trong tác phẩm, thể hiện vốn hiểu biết phong phú, những bản sắc riêng của người dân
tộc vùng cao để người đọc có thể hình dung rõ hơn về cuộc sống của họ, về đề tài mà ít ai từng
chạm đến trên diễn đàn văn chương lúc ấy. Nhà văn đã lấy việc miêu tả tâm lý nhân vật làm nền
tảng, khi mùa xuân đến nhà văn để nhân vật của mình vùng dậy, sức sống tiềm tàng trỗi dậy trước
hết là nhờ những đổi thay bên ngoài. Trên bản của những người Mèo đỏ, trai gái đem váy áo ra phơi

28 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

trên những mỏm đá, nhìn xa xa như những chú bướm sặc sỡ khổng lồ đầy màu sắc. Mùa xuân cũng
làm thay đổi những đóa hoa thuốc phiện khiến chúng trở nên sặc sỡ hơn. Trai gái rủ nhau ném pao,
tung còn, hát những câu hát giao duyên quen thuộc :
“Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương Ngô
Tao không có con trai con gái
Tao đi tìm người yêu”
Tất cả làm cho người đàn bà đã từng chịu nhiều khổ đau phải lay động, có sự vận động. Tiếp đó là
“tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình vọng vào tâm hồn Mị “thiết tha bồi hồi”
Nhà văn lách sâu vào đêm tình mùa xuân để khơi dậy sức sống tiềm tàng trong nhân vật này. Thiên
nhiên của Hồng Ngài, không khí của mùa xuân năm ấy khiến cho Mị không khỏi xao động, khiến
cho lòng Mị không thể lặng yên mà cứ mãi xao xuyến, xốn xang. Và trong không khí mùa xuân
tưng bừng và nô nức ấy, tiếng sáo chính là âm thanh tác động mạnh mẽ nhất đến tâm hồn Mị. Tiếng
sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị như đã nguội tắt. Tác giả đã dụng công miêu tả chi tiết
tiếng sáo rất nhiều lần. Âm thanh ấy khiến Mị nhớ lại những bài hát ngày xưa. Mị đâu còn là con
người “chết dần chết mòn về nhân tính” như Chí Phèo. Tiếng sáo thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự
câm lặng bấy lâu. Tiếng sáo ấy chính là tiếng sáo của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa.
Nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để đánh thức miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị. Đánh
thức sức sống vẫn được bảo lưu đâu đó trong cõi lòng thiếu nữ Tây Bắc này. Bữa cơm Tết cúng ma
đón năm mới rộn rã, “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa, trong cái nồng
nàn của bữa rượu, Mị nhẩm lại bài hát của người đang thổi, Mị dần có khái niệm về thời gian, về
cuộc sống. Những suy nghĩ trong tâm trí bỗng chốc bật ra thành hành động, rồi “Mị cũng uống
rượu”. Để ý kĩ ta sẽ thấy rằng, Mị uống rượu “ực từng bát”, đó đâu phải là cách người ta vẫn thường
hay thưởng rượu. Mị uống rượu như nuốt bao cay đắng tủi hờn, như để quên, quên đi hiện tại để
nhớ về quá khứ và sống trong quá khứ ấy, lấy cái đắng cay của men rượu để mà quên đi cái đắng
cay của đời. Men rượu chính là tác nhân cuối cùng để Mị trở lại với chính con người mình, để trở
lại với sự sống: “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày
trước” Mị cảm thấy mình vẫn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi. Mị thấy cái vô nghĩa của cuộc sống hiện tại
: “nếu có nắm là ngón trên tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Niềm khao
khát được sống như đang nhảy múa trong lòng Mị. Đối với cô gái người Mèo ấy, cái chết lúc ấy
thật sự là một sự giải thoát chứ không phải là sự hèn nhát. Mị muốn vượt thoát ra khỏi căn buồng
nhưng chẳng khác nào cái phòng gia, giam hãm tâm hồn và tuổi trẻ của mình. Biết bao năm trời
tưởng như sức sống và khao khát được sống trong Mị đã bị vùi lấp mất, tưởng Mị đã an phận trong
cái kiếp nô lệ đày đọa nhưng không phải vậy. Mị đã ý thức được về sự bất công phi lí, “không có
lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”, ý thức về quyền sống và hạnh phúc của chính mình. Người
con gái ấy đã thực sự vượt thoát ra khỏi trạng thành chai lì vô cảm của một “con rùa nơi xó cửa”.
Quá trình hồi sinh của Mị không được nói đến một cách dễ dãi, hời hợt. Tâm trạng nhân vật
được miêu tả theo trình tự rất logic, nếu có hoàn cảnh làm nó tha hóa thì ắt sẽ có hoàn cảnh làm nó
thức tỉnh. Con người tưởng như đã chết từng bước được hồi sinh, Mị như một đóa hoa ban Tây Bắc

29 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài mỏng manh, yếu đuối nhưng bên trong sức sống tiềm tàng vẫn
luôn âm ỉ và mãnh liệt. Tô Hoài đã thực hiện một cuộc giải phẫu tâm lí đê tìm ra một sự vận động
biện chứng trong tâm hồn Mị. Nghe thấy tiếng sáo, tất cả cứ đang bồi hồi rộn ràng trong Mị. Hạnh
phúc như đang ở ngay trước mắt, Mị vào trong căn buồng tối tăm của mình, xắn một miếng mỡ bỏ
vào đĩa đèn cho thêm sáng. Đây là một chi tiết có chiều sâu về nghệ thuật, Mị đang tự tay thắp lên
ngọn lửa trong tim mình, ngọn lửa của tình yêu cuộc sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc. Trong
đầu Mị vẫn rập rờn những tiếng sáo. Tiếng sáo như thôi thúc Mị quấn lại tóc, “với tay lấy cái váy
hoa vắt phía trong vách” để đi chơi hội. Những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị chính là sức
sống tiềm tàng mãnh liệt bấy lâu bị vùi lấp. Nó đang chuyển hóa thành hành động và kéo theo
những hành động tiếp theo. A Sử hỏi nhưng Mị không nói. Hành động không nói ấy chắc hẳn là vì
Mị đang sống trong quá khứ, cả tâm trí đang nghe tiếng gọi của tiếng sáo. Mị dường như đã quên
hết thực tại, quên đi cả nỗi sợ cố hữu của mình. Rõ ràng, khát vọng sống trong Mị vẫn đang được
bảo lưu ở đâu đó. Nó giống như hòn than đang cháy âm ỉ dưới lớp tàn nguội lạnh và chỉ cần trận gió
thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh làm nên cuộc
nổi loạn trong Mị là không nhỏ. Nhưng sức mạnh tiềm ẩn không thể nào dập tắt mới là mấu chốt
quyết định sức sống của mỗi cá nhân. Tô Hoài đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình
khi dành cho nhân vật sự ưu ái. Ông thương cảm, đồng cảm xót xa với những số phận bị chà đạp về
phẩm chất, tâm hồn, những con người là nạn nhân của chế độ phong kiến.
Tưởng rằng sức sống mãnh liệt của Mị sẽ bị vùi dập lần nữa, nhưng trong bóng tối, Mị mơ
màng theo tiếng sáo, Tiếng sáo có lần đã đưa Mị theo những cuộc chơi, đám chơi. Nhưng rồi quá
khứ ra đi, hiện tại ở trước mắt. Mị chỉ thấy xung quanh toàn bóng tối, không một tiếng động, “Cô
vùng bước đi” nhưng chân tay đau không cựa được, Mị không nghe tiếng sáo nữa. Nỗi đau thể xác
đã kéo Mị trở về thực tại. Mị sống trong sự giằng xé và đau đớn giữa những khát khao cháy bỏng
với một thực tại nghiệt ngã đang hiện hữu.
Sức sống tiềm tàng của Mị không chỉ được khắc họa trong đêm tình mùa xuân mà còn
dữ dội và mãnh liệt trong chính đêm đông cứu A Phủ. Mị đã gặp được một người mà không ngờ tới
rằng đó là người sẽ giải phóng cuộc đời mình, đó là A Phủ. Đó cũng là lí do tại sao tác phẩm có
nhan đề “Vợ chồng A Phủ”. Thời gian cũng trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây
cọc gỗ giữa mùa đông lạnh giá vì để hổ bắt mất bò. A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, phóng
khoáng, vì đánh lại con quan mà bị phạt vạ hết sức vô lí và trở thành nô lệ không công cho nhà
thống lí, còn Mị thì làm dâu gạt nợ. Hai con người này đang cùng chung hoàn cảnh, số phận. A Phủ
bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản nhiên như không có gì
bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng
không nói gì. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. ” bởi người con gái ấy đã chai
sạn, chai lì cảm xúc, sự thản nhiên đến lạnh lùng ấy xét đến cùng cũng là bởi đã chịu quá nhiều
đắng cay và khổ đau. Cái chế độ ấy đã bóp nghẹt sự sống của con người, khiến cho con người ta trơ
lì và vô cảm đến tột cùng, khiến cho con người ta dửng dưng trước mọi nỗi đau và sự nhức nhối.

Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa” bởi tâm hồn Mị đã khép kín và
câm lặng rồi ý chính dòng nước mắt lấp lánh của A Phủ đã làm tan chảy sự vô cảm trong lòng Mị,
30 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Mị bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. “Ngọn lửa vừa bập bùng lóe sáng, Mị lé mắt trông sang,
thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen sạm”.
Mị chợt nhớ cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ không lau đi được. Nhưng vào đêm ấy, Mị đã trở dậy thổi lửa và trông thấy “một
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng nước mắt của một
người con trai ương bướng, gan góc, tưởng chẳng hề sợ hãi bất cứ điều gì ở đời. Dòng nước mắt
như hình ảnh của sự uất ức trước một nỗ lực bất thành trong một quá trình chống trọi lại thực tại cay
đắng. Và cũng chính dòng nước mắt ấy cũng đã kéo Mị về quá khứ, và rồi một nỗi cảm thương vô
hạn dâng ngập lên trong lòng của người con gái ấy. Mị thương mình, rồi thương cả người đàn bà bị
nó trói ba ngày, trói đến chết. Và vì thế, cảm giác dửng dưng dường như đã biến mất hoàn toàn, Mị
đã có cảm giác rất rõ về sự đồng cảm và đồng cảnh. Sức phản kháng trỗi dậy mạnh đến mức đã chi
phối toàn bộ cả suy nghĩ. Mị đã nghĩ một cách rành rọt là Mị sẽ chết nếu cởi dây trói cứu A Phủ, rồi
phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng “Mị làm sao cũng không thấy sợ”, đó chính là sức mạnh của tình
thương. Mị đã không sợ chết, nhất là cái chết ấy có gắn với sự giải thoát, dám chết đê cho người
khác được sống.

Từ suy nghĩ đó đã dẫn đến hành động của Mị. Có một điều thú vị ở đây là Mị đã hành
động trong bóng tối, khi “đám than đã vạc hẳn lửa” và tối như bưng. Lần này, sức sống trong Mị
mãnh liệt đến mức chẳng cần men rượu, chẳng cần những cơn say để bùng lên. Lần này cũng chẳng
cần ngọn lửa hơ tay bởi ngọn lửa của sức sống, của khao khát được tự do và hạnh phúc trong lòng
Mị đang rừng rực cháy. Mị “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Một câu văn ngắn với dấu
phẩy khiến hành động của Mị dứt khoát và cảm giác rõ nét hơn về tốc độ nhanh thoăn thoắt. Đó là
đỉnh cao của đời Mị và cũng là nơi tập trung giá trị nhân văn. Hành động của Mị, tuy không thể
đoán trước nhưng vẫn nằm trong mạch chảy của nội tâm nhân vật. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã
cát dây trói tinh thần trói buộc mình bấy lâu nay. Nhưng, tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn
gây cho ta sự bất ngờ, ngạc nhiên thú vị. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng
khi A Phủ chạy đi, “Mị nghẹn lại”, “đứng lặng trong bóng tối”, một sự im lặng đầy giông bão. Đó
chính là sự giằng xé đấu tranh âm thầm nhưng dữ dội. Ở lại hay chạy đi, sự sống hay cái chết? Và
khi đứng trước cái chết. Mị đã ‘vụt chạy” theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng chưa bao giờ lòng Mị
sáng như thế, chưa bao giờ ngọn lửa của khát vọng sống trong Mị lại cháy mãnh liệt đến thế. Mị
băng đi với tất cả sức sống trẻ trung của mình, sức sống bị kìm hãm bấy lâu nay được bung ra, được
tuôn chảy. Mị đã vượt qua nỗi sợ cố hữu với thần quyền và cường quyền để chọn con đường sống.
Một kết cấu chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại không tự cứu mình ? và “hai người lẳng lặng
đỡ nhau lao xuống núi”. Nhìn bề ngoài ta tưởng hành động của Mị là sự liều lĩnh. Thực chất, quá
trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ xuất phát từ yếu tố bên trong, là logic tâm lí hoàn toàn hợp
lí, là một quá trình tự nhận thức : Nhận thức tại xã hội tàn bạo, lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy
sự bất công, phi lí sắp giết chết một con người vô tội và nhận thức “người” cũng là để qua đó nhận
thức, soi sáng “mình”. Mị không hề bồng bột, không hề ngẫu hứng, Mị đã cảm nhận được sự đồng
điệu trong tâm hồn của Mị và A Phủ. Hai mảnh ghép khổ đau và cùng cực tựa vào nhau để vượt lên
sự nghiệt ngã của số phận. Mị đã tự vùng lên, tự giải phóng cho chính cuộc đời mình khỏi áp bức
31 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

và bất công. Tô Hoài đã để nhân vật mình được con đường sáng ngay trong đêm đông tối tăm trên
núi cao, tự cứu lấy đời mình, sống với cuộc sống xứng đáng với con người. Ấy chính là giá trị nhân
đạo sâu sắc và mới mẻ mà nhà văn muốn gửi gắm. Đó cũng là khẳng định và khao khát của nhân
dân Tây Bắc về khát vọng tự do cháy bỏng. Tác giả Tô Hoài đã lách sâu ngòi bút nhân đạo của
mình để tìm ra cho nhân vật con đường đúng đắn nhất, để nhân vật đi theo ánh sáng của cách mạng
cũng chính là để cho nhân vật làm chủ cuộc đời mình, tự mình thoát ra khỏi xiềng xích, đồng thời
đây cũng là giá trị hiện thực mới mẻ khi tác giả đề cao vai trò của Đảng trong việc giải phóng nhân
dân.

Bằng cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên, cách dẫn dắt câu chuyện chặt chẽ và
nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế bậc thầy thì Tô Hoài đã vẽ nên bức chân dung cô Mị tĩnh lặng
nhưng ẩn chứa sau bức tranh ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch ngầm
trong mắt. Làm ta yêu thêm hình ảnh về một cô Mị ở Hồng Ngài thoát khỏi cảnh đọa đầy để vươn
đến tương lai hạnh phúc. Môt cô Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt để có thể du kích ở Phiềng Sa
sau này.

32 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành)


----------------------------------------------

Mảnh đất Tây Nguyên kì vĩ và anh hùng đã trở thànhnguồn cảm hứng chủ đạo nuôi dưỡng
trang văn của nhiều người nghệ sĩ, trong đó người tiên phong, mở ra cánh cửa bước vào đề tài này
chính là Nguyễn Trung Thành. Chính nguồn cảm hứng đặc biệt ấy đã khiến cho những sáng tác của
ông đạt tới tầm vóc của những khúc sử thi hào hùng mà vẫn mang đậm vẻ đẹp lãng mạn, trong đó
nổi bật lên là truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm ra đời như là một thứ lịch của thời đại chống
Mĩ, trở thành biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và
của dân tộc Việt Nam nói chung.

1) Nhan đề tác phẩm


- Nhan đề tác phẩm là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là
linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo cũng như dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi
nguồn từ trong hình ảnh này.
- Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất
và tinh thần của người dân Tây Nguyên. Biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người
Tây Nguyên: Sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do.
- Nhan đề còn gợi lên chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.
2) Phân tích hình tượng cây xà nu
Mỗi nhà văn đều có cho mình một mảnh đất nghệ thuật riêng để ươm mầm cảm xúc, để
sáng tạo nghệ thuật. Mảnh đất Tây Nguyên – mảnh đất đỏ bazan với tiếng cồng chiêng âm vang và
vô số những hạt bụi vàng lấp lánh đã đi vào trong văn chương và làm nên tên tuổi của tác giả
Nguyễn Trung Thành. Nếu lần đầu tiên, ông mở cánh cửa sáng tác văn chương của mình bằng tiểu
thuyết nổi tiếng “Đất Nước đứng lên” với hình ảnh anh hùng Núp đi vào lịch sử. Thì mười năm sau,
khi có dịp trở lại chiến trường Nam Trung Bộ, Nguyễn Trung Thành lại trung thành với với mảnh
đất Tây Nguyên và viết truyện ngắn “Rừng Xà nu”. Nhắc đến tác phẩm, thành công của “Rừng xà
nu” không chỉ được thể hiện qua sự khắc họa vẻ đẹp hình tượng nhân vật Tnú- một người “anh
hùng” của dân làng Xô man mà còn được thể hiện ở việc xây dựng một hình tượng nổi bật xuyên
suốt – cánh rừng xà nu rộng lớn.

Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết vào giữa năm 1965, lúc cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam ở một bước ngoặt chuyển từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược
“chiến tranh cục bộ”. Nguyễn Trung Thành bấy giờ đang hoạt động trong Quân giải phóng miền
Trung Trung Bộ. Bằng tất cả tình yêu sâu nặng với mảnh đất Tây Nguyên, nhà văn đã viết nên
“Rừng xà nu”- một câu chuyện về cuộc “đồng khởi” cua làng Xô Man ở Tây Nguyên cùng với đó là
câu chuyện về cuộc đời của Tnú- tiêu biểu cho con người Tây Nguyên. Nhưng bên cạnh đó,
Nguyễn Trung Thành đã tập trung bút lực của mình để xây dựng hình tượng cánh rừng xà nu – hình
ảnh tưởng như chỉ làm phông nền để làm nổi bật con người nhưng thực chất lại mang ý nghĩa rộng
lớn và sâu sắc. Đặt tên nhan đề, khắc họa ngay từ mở đầu, rồi xuyên suốt gần hai mươi lần và cuối
33 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

cùng là cả đoạn kết của tác phẩm đều là rừng xà nu, nhà văn đã tạo ra một ấn tượng đậm nét, đặc
sánh trong tâm trí độc giả.

Trước hết, xà nu chính là một hình ảnh quen thuộc của núi rừng Tây Nguyên và gắn bó,
thân thiết như người bạn chí cốt của dân làng. Xà nu là một loài cây phổ biến nơi núi rừng Tây
Nguyên, dẻo dai, kiên cường và bất khuất, “trong rừng có ít loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như
vậy”,”cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế”. Xà nu đã gắn liền với cuộc sống sinh
hoạt đời thường của con người Tây Nguyên “khói xà nu xông bảng nứa đen kịt” để Tnú và Mai học
chữ, dầu xà nu, nhựa xà nu được sử dụng làm chất đốt trong những đêm sinh hoạt cộng đồng ở nhà
ưng,.. Không những thế, xà nu còn còn tham gia đánh dấu nhiều sự kiện lịch sử đặc biệt của làng
Xô man : ngọn đuốc xà nu đã cháy sáng dẫn đường cho dân làng đi rừng chuẩn bị vũ khí để nổi dậy
chống phá kẻ thù, rồi chính đôi bàn tay của Tnú cũng bị đốt bằng giẻ tẩm nhựa xà nu, và ngọn đuốc
xà nu bập bùng soi rõ xác mười tên tính bị giết “đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ, xác mười tên
lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đỏ”,...

Không những thế, xà nu đã được nâng lên trở thành biểu tượng cho cuộc sống và vẻ đẹp
phẩm chất của con người Tây Nguyên.. Số phận đau thương của rừng xà nu cũng giống như số phận
bi thương của con người Tây Nguyên, đó cũng chính là nét hiện thực tàn khốc trong những năm
tháng kháng chiến chống Mỹ. Nhưng nhờ có sức sống mãnh liệt và bền bỉ, xà nu cũng như con
người của mảnh đất đỏ bazan đã chiến đấu và chiến thắng sự tàn phá của kẻ thù Sức sống mãnh liệt
không gì tàn phá nổi “cạnh một cây ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên...lao thẳng lên bầu
trời” của xà nu cũng chính là sức sống mãnh liệt trường tồn, phẩm chất kiên cường bất khuất của
biết bao thế hệ dân làng Xô man, thế hệ con người Tây Nguyên. Hết lớp này rồi đến lớp khác đứng
lên, vùng lên giành lại tự do. Anh Quyết hi sinh thì còn Tnú và Mai, Mai nằm xuống sau trận mưa
cây sắt của lũ kẻ thù tàn ác thì có Dít – cô bé nhỏ dũng cảm, “bình thản lạ lùng” “chùi nước mắt”,
“im bặt” đứng trước mưa đạn, còn bé Heng cũng đang lớn lên từng ngày, theo bước của những thế
hệ trước gìn giữ độc lập cho dân tộc. Dòng máu Tây Nguyên được truyền từ lồng ngực của những
người già sang trái tim của thế hệ trẻ, dòng máu anh hùng từ thời Đăm Săn - Sinh Nhã. Nó giúp cho
Nguyễn Trung Thành khẳng định chân lý “Sức sống của người dân Tây Nguyên” là bất diệt. Lớp
lớp người Tây Nguyên mang trong mình ngọn lửa yêu nước, tinh thần ấy được truyền từ đời này
qua đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác:

“Tôi muốn viết bài thơ trên báng súng


Con lớn lên viết tiếp thay cha
Người đứng lên viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”
(Bài ca trên báng súng – Hoàng Trung Thông)
Khi đạn bác rơi xuống ngọn đồi xà nu ở Xô man thì lòng yêu nước bất khuất của đồng
bào Tây nguyên như sức vươn xa của cây xà nu ấy, phát triển rộng ra cả xứ sở Tây Nguyên, ra cả
Miền Nam thành đồng tổ quốc. Số phận đau thương của rừng xà nu cũng giống như số phận bi
34 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

thương của con người Tây Nguyên, đó cũng chính là nét hiện thực tàn khốc trong những năm tháng
kháng chiến chống Mỹ. Nhưng nhờ có sức sống mãnh liệt và bền bỉ, xà nu cũng như con người của
mảnh đất đỏ bazan đã chiến đấu và chiến thắng sự tàn phá của kẻ thù. Trong khi miêu tả rừng xà nu,
cây xà nu, nhà văn đã sử dụng biện pháp "nhân hóa như một phép tu từ chủ đạo. Ông luôn lấy nỗi
đau và vẻ đẹp của con người làm chuẩn mực để nói về xà nu khiến xà nu trở thành một ẩn dụ cho
con người, một biểu tượng của Tây Nguyên bất khuất, kiên cường. Ngược lại, khi miêu tả con
người, tác giả cũng thường so sánh với xà nu. Cụ Mết có bộ ngực “căng như một cày xà nu lớn”,
tay “sần sùi như vỏ cây xà nu”. Vết thương trên lưng Tnú thì “ứa ra từng giọt máu đậm, từ sáng đến
chiều thì đặc quyện lại, tím thẫm như nhựa xà nu”. Đây chính là thủ pháp “ứng chiếu” giữa thiên
nhiên và con người, tạo nên một sự đồng điệu, gắn bó, trở thành một bản hòa ca đậm chất sử thi
nhưng vẫn dào dạt chất thơ về sức sống bất diệt của nhân dân Tây Nguyên.

Mặc dù đồi xà nu nằm dưới tầm đại bác của giặc, mặc dù hầu hết ngọn đại bác rơi xuống đồi
xà nu ấy nhưng đồi xà nu ấy vẫn không hề bị tiêu diệt. Ngược lại nó vẫn luôn xanh tốt bạt ngàn để
rồi đến cuối tác phẩm, tác giả tự hào viết câu văn:”Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm
mắt cũng không thấy gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Mới nghe qua ta
tưởng đó là câu văn lặp lại phần mở đầu nhưng thực chất ở đây đã có sự thay đổi về cú pháp. Đó là
sự phát triển của xà nu về cả số lượng và chất lượng. Để hiểu được hết kết cấu của tác phẩm thì ta
đặt nó vào sự phát triển của không gian, thời gian. Ở phương diện thời gian, từ đồi xà nu ở câu văn
thứ nhất thì giờ đây đã trở thành cả rừng xà nu. Đó là quãng thời gian chiến đấu trường kì gian khổ
của người dân Tây Nguyên. Trong hai mươi mốt năm kháng chiến chống Mỹ ấy là 21 lứa xà nu đã
ngã xuống để rồi 21 thế hệ xà nu sau mọc lên, nhìn rộng ra đó là 21 thế hệ người dân Tây Nguyên,
người dân Việt Nam lên đường ra trận ào ạt quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh. Lớp lớp người Tây
Nguyên mang trong mình ngọn lửa yêu nước, tinh thần ấy được truyền từ đời này qua đời khác, từ
thế hệ này sang thế hệ khác, từ lồng ngực của người già đến trái tim của thế hệ trẻ:
Khi đạn bác rơi xuống ngọn đồi xà nu ở Xô man thì lòng yêu nước bất khuất của đồng bào
Tây nguyên như sức vươn xa của cây xà nu ấy, phát triển rộng ra cả xứ sở Tây Nguyên, ra cả Miền
Nam thành đồng tổ quốc. Được thể hiện qua câu văn : “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn, suốt
đêm nghe cả rừng Xô man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng”. Hình ảnh rừng xà nu nối tiếp
nhau cuối chân trời ở cuối tác phẩm chính là tinh thần yêu nước bất khuất của cả dân tộc. Nói cách
khác, đó là sức mạnh tổng hợp để có thể đánh đuổi quân thù khỏi đất nước ta. Bởi vậy mà nhà phê
bình Chu Văn Sơn đã từng nói: “Rừng xà nu” chính là sự thu nhỏ, chưng cất của tiểu thuyết “Đất
Nước đứng lên”
Cuối cùng, Nguyễn Trung Thành đã biến hình ảnh cây xà nu thể hiện tinh thần đoàn kết, là
biểu tượng của con người Tây Nguyên cũng như tất cả những thế hệ người Việt Nam yêu nước.
“Trong rừng có hàng vạn cây”, nhưng ở đây Nguyễn Trung Thành đã nhận thấy ở đó có ba lứa cây
Xà Nu, tượng trưng cho ba thế hệ của làng Xô Man. Đầu tiên là những cây xà nu cổ thụ mà ở đó cụ
Mết được ví như một cây Xà nu đại thụ, một pho sử vĩ đại của làng Xô Man. Cụ Mết là một già
bản, vai trò của Cụ Mết thường xuất hiện trong sinh hoạt cộng đồng trong những đêm ở nhà Rông,
bên ánh lửa xà nu bập bùng. Cụ là chỗ dựa tinh thần cho cả dân làng Xô man. Kế đó là nhưng cây
35 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

xà nu trưởng thành mang trên mình đầy thương tích nhưng sức vóc lớn mạnh của nó đã làm mờ vết
thương. Những cây xà nu trưởng thành ấy vươn lên che chở cho cả buôn làng, tương ứng với thế hệ
xà nu này ta phải kể dến Mai, Tnu. Bên cạnh hai lứa xà nu kể trên tác giả còn tập trung miêu tả hình
ảnh cây xà nu non vừa nhú khỏi mặt đất, lập tức lao thẳng lên bầu trời để tiếp lấy ánh nắng. Tiêu
biểu cho thế thệ xà nu này là thế hệ thiếu niên của làng Xô Man mà tiêu biểu là bé Heng, Dít. Vượt
qua mưa bom bão đạn của kẻ thù nhưng không hề bị tiêu diệt, phát triển xanh tốt bạt ngàn, chạy tít
xa tận chân trời. Vì ba lứa xà nu bền chặt lẫn nhau là ba thế hệ người dân Tây Nguyên đoàn kết, gắn
bó với nhau. Sức mạnh đoàn kết cũng chính là sức mạnh nội lực của cả dân tộc. Dòng máu Tây
Nguyên được truyền từ lồng ngực của những người già sang trái tim của thế hệ trẻ, dòng máu anh
hùng từ thời Đăm Săn - Sinh Nhã. Nó giúp cho Nguyễn Trung Thành khẳng định chân lý “Sức sống
của người dân Tây Nguyên” là bất diệt, nó cũng trở thành triết lí của câu chuyện này. Nguyễn
Trung Thành gửi gắm điều đó vào lời của cụ Mết, chỉ có cụ Mết mới có toàn quyền để phát ngôn
cho sức mạnh của Xà Nu. Và khi người Xô Man đã cầm lấy vũ khí nhất tề đứng lên khởi nghĩa, thì
đó cũng là sự nổi giận của rừng già, của xà nu khi đã chịu quá nhiều đau thương.
Tác giả đã kết hợp tỉ mỉ giữa tả và kể dựng lên hình tượng cây xà nu với vóc dáng tràn đầy
sức lực vừa chân thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối
chiếu xuyên suốt với hình ảnh con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, so sánh đều được vận
dụng linh hoạt nhằm thể hiện sự hùng vĩ của thiên nhiên, gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con
người, đời sống.
Tập trung khắc họa hình tượng rừng xà nu, tác giả Nguyễn Trung Thành đã rất thành công
tạo dựng một phông nền đậm chất Tây Nguyên cho tác phẩm của mình. Thiên nhiên và con người
đồng điệu trong những nét đẹp ẩn sâu, đồng lòng quyết tâm chiến thắng kẻ thù. Có thể nói, hình
tượng xà nu là một mô típ chủ đạo, góp phần không nhỏ làm nên thành công và sức Tinh thần yêu
nước, bất khuất, sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến với kẻ thù còn
được biểu hiện thông qua cách tổ chức sắp xếp hình tượng cây xà nu của tác giả. Nó gắn liền với
kết cấu của truyện, đó là kết cấu đầu cuối tương ứng. Ở phần đầu tác phẩm ta bắt gặp câu văn:
“Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những đồi xà nu nối
tiếp tới chân trời”
3, Phân tích hình tượng nhân vật Tnu

Nguyễn Trung Thành hay còn có bút danh là Nguyên Ngọc là một trong những nhà thơ nổi
tiếng trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, không chỉ sáng tác văn chương phục vụ cách
mạng mà ông còn trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam, đặc biệt là những năm
giặc Mỹ bắn phá ác liệt nhất. Quá trình sống và chiến đấu nhiều năm trên mảnh đất Tây Nguyên
đầy nắng và gió, gắn bó cùng với những con người nơi đây đã để lại trong trái tim tác giả nhiều ấn
tượng sâu sắc. Điều đó trở thành tiền đề giúp tác giả viết nên nhiều tác phẩm xuất sắc về đề tài
“chiến tranh cách mạng - lực lượng vũ trang” dựa trên hình tượng chiến trường Tây Nguyên đầy
máu, lửa cùng những người con anh hùng, mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Trong tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của mình - Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành xung
quanh việc khắc họa hình ảnh dân làng Xô-man đánh Mỹ và hình tượng cây xà nu kiên cường giữa
36 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

mưa bom bão đạn, thì nhân vật Tnú chính là điểm sáng rực rỡ mà tác giả tập trung khai thác, khắc
họa thông qua nhiều hình thức khác nhau, để làm nổi bật nên những phẩm chất anh hùng của con
người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ.
Những năm tháng đánh Mỹ của con người Tây Nguyên đã khơi nguồn cho cảm hứng bất tận
của nhiều nhà văn nhà thơ, trong số đó có Nguyễn Trung Thành. Nếu Rừng Xà Nu là một biểu
tượng của dân làng Xô Man bất tử thì trong rừng xà nu ấy, ta bắt gặp một cây xà nu có sức sống
mãnh liệt hơn bất cứ cây nào hết, đó chính là Tnu. Tnu - người con yêu, niềm tự hào của dân làng,
gắn bó với cách mạng, dũng cảm tuyệt vời, căm thù giặc sâu sắc và có tình yêu quê hương, đất nước
sâu sắc. Đó là vẻ đẹp lí tưởng của người Việt Nam trong mưa bom bão đạn. Thông qua tác phẩm
này, Nguyễn Trung Thành muốn gửi gắm nghị quyết 15 của Đại hội Đảng thông qua lời nói của cụ
Mết: “Chúng nó có súng thì mình phải cầm giáo mác. Phải biết lấy bạo lực Cách mạng để đánh lại
bạo lực phản Cách mạng”
Trước tiên ta đến với lai lịch và ngoại hình của Tnu. Anh là một nhân vật điển hình trong
văn chương, một nhân vật điển hình bao giờ cũng gắn với một hoàn cảnh điển hình. Tnu là một đứa
trẻ mồ côi lớn lên trong tình yêu thương của buôn làng Xô Man. Lớn lên trong sự dẫn dắt của Cụ
Mết, cũng giống như những thế hệ đi trước, Tnu được giác ngộ lí tưởng cách mạng ngay từ khi còn
nhỏ. Khi trưởng thành, anh giống với chị Út Tịch trong tác phẩm “Người Mẹ cầm súng” của nhà
văn Nguyễn Thi, chị Tư Hậu trong “Một truyện chép ở bệnh viện” của Bùi Đức Ánh… Họ là những
con người đang viết lên huyền thoại của thế kỉ 20. Tnu được tác giả xây dựng trên hai nguồn cảm
hứng là lãng mạn và sử thi. Tác phẩm chủ yếu không mô tả nhiều về ngoại hình của Tnu mà chỉ tập
trung chủ yếu vào hình tượng đôi bàn tay của anh.
Nhà văn ví hình tượng của Tnu như một cây xà nu trưởng thành trong rừng “như những con
chim đã đủ lông mao, lông vũ” và “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho buôn làng”. Cái nét
Tây Nguyên thấm đẫm trong anh, từ ngôn ngữ đến hành động. Ngôn ngữ của Tnu chủ yếu là ngôn
ngữ đối thoại. Nói chắc như đinh đóng cột, nói sắc như dao chém đá, thân đi ào ạt như thác núi Tây
Nguyên. Chảy trong huyết quản của anh là dòng máu có từ thời Đăm Săn – Sing Nhã.
Tnu là một người vô cùng gan dạ, dũng cảm. Nét tính cách này đã xuyên suốt cả cuộc đời
của anh từ khi còn nhỏ cho đến khi đi theo Cách mạng. Giặc giết bà Nhan, Anh Xút nhưng Tnu vốn
dĩ chỉ là một đứa trẻ lại không sợ. Vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ. Khi làm
giao liên, Tnu không bao giờ chịu đi đường mòn, cứ xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các vòng vây, qua
sông Tnu không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi qua “vượt băng băng như con
cá kình”. Nói như H.Balzac: “Bản chất của con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, và
khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ.” đó là khi Tnu đối diện với cái ác, cái xấu và khi
anh cận kề với cái chết, cái ác trong tác phẩm này được hiện lên với rất nhiều diện mạo như mũi
dao, họng súng, cây gậy sắt… Nhưng Tnu chưa bao giờ đầu hàng hoàn cảnh. Một lần Tnu đang
vượt sông Đắc Năng, Tnu bị giặc phục kích và bắt được. Chúng dí họng súng lạnh ngắt vào đầu
Tnu và hỏi “Cộng sản ở đâu”. Tnu nuốt lá thư vào họng, chỉ tay vào bụng mình và trả lời đầy quả
cảm “Cộng sản ở đây này”. Dẫu biết sau câu nói ấy dọc ngang lưng anh toàn những vết chém của
kẻ thù.

37 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Thằng Dục hiểu được rằng Tnu trở về rừng sẽ làm loạn núi rừng, nó bắt mẹ con Mai đứng
giữa sân làng để tra tấn bởi chúng nghĩ “bắt được con cọp cái và cọp tất sẽ dụ được cọp đực trở về”.
Tnu đã phải chứng kiến một trận mưa gậy sắt giáng xuống mẹ con Mai. Anh nhìn ra sân làng rõ
mồn một, mắt anh giờ đây là những cục lửa lớn, tay anh đã dứt hàng chục trái vả từ lúc nào không
hay. Dù trong tay không còn một tấc sắt nhưng anh vẫn nhảy ra cứu vợ con mình.
Tnu còn là người giàu tình cảm thương yêu. Anh tha thiết yêu quê hương mình. Sinh ra và
lớn lên giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, giữa những con người thuần hậu, Tnu gắn bó thân thiết
với cảnh và người quê hương mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản làng, khi trở về Tnu vô cùng xúc
động.
Anh nhớ rõ từng hàng cây, con đường, từng dòng suối mát. Anh đau đớn khi gặp lại cây to
chắn ngang đường, nơi mà ngày xưa Mai đã thổ lộ tình cảm mến yêu ngay khi anh từ nhà tù trở về.
Anh cũng bồi hồi khi nghe tiếng chày giã gạo của dân làng đến nỗi vấp châp ngã đến hai lần, tiếng
chày chuyên cần, rộn ràng của người dân bản, những cô gái Stra, của mẹ anh ngày xưa mà suốt đời
anh vẫn nhớ.
Anh yêu thương vợ con tha thiết ý chính vì yêu thương rất nhiều nên anh căm thù sâu sắc
bọn giặc đã dùng cây gậy sắt đánh chết vợ con anh. Anh cũng rất yêu thương dân làng. Người dân
làng Xô Man đã dành cho anh một tình cảm đặc biệt nồng hậu, thân thiết. Những cặp mắt tròn xoe,
rồi những tiêng reo của mọi người khi đón mừng Tnu về làng.
Bên cạnh đó, ta còn thấy Tnu là người ngay thẳng trung trực. Vẻ đẹp này được bộc lộ rõ
ngay từ khi Tnu còn nhỏ anh học chữ cùng Mai. Ngày còn nhỏ, Tnu và Mai được anh Quyết dạy
cho cái chữ, được Đảng dạy cho cái chữ và toán hai con số. Học chữ thua Mai, Tnu đập vỡ bảng, bỏ
ra suối ngồi vì quên chữ a, chữ b, chữ y dài. Tnu tự lấy đá ghì vào đầu mình cho đến khi chảy máu.
Anh hiểu được rằng chỉ có con chữ mới giúp cho anh trở thành người cán bộ giỏi, viết được những
gì trong bụng của mình. Đọc toàn bộ tác phẩm thì đây chỉ là một tiểu tiết nhỏ nhưng bộc lộ được
Tnu là một con người trung trực, ngay thẳng với chính lòng mình. Để rồi Cụ Mết phải thốt lên rằng
“Cái bụng của thằng Tnu sạch như nước suối làng ta”
Tnu là một con người trung thành với cách mạng và có tình yêu quê hương đất nước sâu sắc.
Tình yêu quê hương đất nước được chuyển hóa từ tình yêu thương vô bờ bến với vợ con anh, với
dân làng.
Tình yêu nước ấy được thể hiện ở lòng căm thù giặc cao độ, đậm chất Tây Nguyên: Tnu
mang trong tim ba mối thù, thù của bản thân, thù của gia đình, và thù của buôn làng. Khi Tnu bị tẩm
dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và châm bùng lên là mười ngọn lửa, đây là đòn roi tra tấn dã man
nhất của kẻ thù. Chúng nhằm tiêu diệt hệ thần kinh của Tnu: Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi, răng
anh cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên. Anh Quyết nói “Người cộng sản không thèm kêu van”.
Tnu không thèm, không thèm kêu van. Rõ ràng bom đạn có thể cày xới, băm vằm mảnh đất hình tia
chớp nhưng không bao giờ khuất phục được những con người như thế.
Mặt khác đó cũng là biểu hiện của lòng trung thành tuyệt đối với Cách Mạng. Sự dũng cảm,
gan góc của Tnu khiến ta liên tưởng đến những câu thơ trong bài “Mùa thu mới” của Tố Hữu:
“Yêu biết mấy, những con người đi tới 

38 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Hai cánh tay như hai cánh bay lên 


Ngực dám đón những phong ba dữ dội 
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!”

Khi nói đến vẻ đẹp của Tnu, người yêu văn sẽ bị ám ảnh bởi hình tượng đôi bàn tay. Nếu ai
đó đã từng đọc tiểu thuyết “Hòn Đất” của nhà văn Anh Đức chắc hẳn sẽ không thể nào quên được
vẻ đẹp của chị Sứ, người anh hùng trong cả một tập thể anh hùng ở Hang Hòm, ta sẽ nhận thấy nhà
văn miêu tả lách sâu ngòi bút để miêu tả suối tóc của chị. Suối tóc của chị là nơi gặp gỡ giữa chị với
chồng chị, giữa chị và má Sáu, là nơi gặp gỡ của chị với cái Thúy - Con chị. Bởi vậy suối tóc chính
là linh hồn của chị. Trở lại với tác phẩm “Rừng Xà nu” ta nhận thấy Nguyễn Trung Thành sử dụng
nhiều bút lực của mình để mô tả đôi bàn tay của Tnu. Trước khi bị giặc tra tấn, đó là đôi bàn tay yêu
thương, đôi bàn tay nghĩa tình. Đôi bàn tay mà khi anh từ ngục Kon Tum trở về Mai đã nắm chặt
lấy. Đôi bàn tay biết lấy đá ghì vào đầu mình sao cho chảy máu vì không nhớ chữ, đôi bàn tay đã
từng biết cầm phấn học bài… Cũng là đôi bàn tay mà chính anh đã không thể cứu được vợ con
mình dưới trận mưa gậy sắt.
Sau khi bị giặc tra tấn, thì đó lại là một chứng tích của giai đoạn đau thương, của lòng sục
sôi dâng trào. “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe tiếng lửa trong lồng
ngực, cháy trong bụng”. Đôi bàn tay trở thành biểu tượng cho tất cả các dân tộc anh em, của tình
đoàn kết giữa các dân tộc chống lại kẻ thù. Là tội ác của giặc đổ xuống nhân dân Việt Nam ta. Bởi
súng đã nổ, người dân sẽ phải đổ máu, chiến tranh không phải trò đùa.
Đôi bàn tay cháy bùng lên như mười ngọn lửa, là 10 ngọn lửa đồng khởi của tất cả dân tộc
anh em đứng lên chống lại chiến tranh phi nghĩa của Mỹ. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, khi chỉ còn

39 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

lại hai ngón, đôi bàn tay ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải
phóng. Đó cũng là quy luật của ác giả ác báo, nợ máu phải trả bằng máu.
Hình tượng Tnu điển hình cho con đường đấu tranh đến với Cách mạng của người dân Tây
Nguyên. Hơn thế nữa còn làm sáng tỏ chân lí của một thời Đại đánh Mỹ “chúng nó đã cầm súng thì
mình phải cầm giáo”. Bi kịch của Tnu khi chưa cầm vũ khí cũng là bi kịch của người dân làng Xô
Man khi chưa giác ngộ chân lí. Tnu là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau
đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ
được vợ con và chính bản thân mình. Tnu chỉ cứu được dân làng Xô man khi biết cầm vũ khí đứng
lên. Cuộc đời bi tráng mang ba mối thù của anh đã chứng minh cho chân lí mà cụ Mết đã nói :
“Phải dùng bạo lực Cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản Cách mạng”.
Truyện ngắn Rừng xà nu là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về người anh hùng
dân tộc Tây Nguyên trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tnú là nhân vật tiêu biểu
nhất cho hình tượng người anh hùng cách mạng, ở nhân vật này hội tụ đầy đủ các vẻ đẹp của cộng
đồng, mang khuynh hướng sử thi của thời đại bao gồm lòng yêu nước, yêu quê hương sâu sắc, sự
trung thành với cách mạng, có tấm lòng gắn bó, yêu thương gia đình sâu sắc, một lòng chiến đấu vì
mục tiêu lý tưởng chung của dân tộc, báo nợ nước trả thù nhà. Dù năm tháng đã đi qua, chiến tranh
đã kết thúc những cho đến hôm nay tác phẩm Rừng xà nu và nhân vật Tnú vẫn giữ nguyên những
giá trị và ấn tượng trong tâm hồn độc giả về một mảnh đất đầy nắng và gió anh hùng.

4, Biểu hiện của tính sử thi và cảm hứng lãng mạn trong tác phẩm (Gợi ý)
- Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân VN trong cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ, số phận và con đường giải phóng của nhân dân làng Xô Man không chỉ là
vấn đề sinh tử của một ngôi làng mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
- Hệ thống nhân vật như Cụ Mết, Tnu, Heng.. đều là những nhân vật anh hùng kết tinh cao
độ vẻ đẹp của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí là của con người Việt Nam trong
kháng chiến (yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với Cách
Mạng).
- Không gian nghệ thuật: Rộng lớn: ban đầu là đồi xà nu, tiếp sau đó mở rộng ra là cả rừng
xà nu.
- Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo– hình tượng câu xà nu thể
hiện chủ đề của thiên truyện, đem lại chất sử thi và lãng mạn bay bổng.
- Giọng điệu: Ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.

40 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (Nguyễn Thi)


----------------------------------------------
Viết về lòng yêu nước, sự chuyển giao thế hệ cầm súng để đánh giặc có lần ta bắt gặp trong thơ Tố
Hữu ở hình ảnh:
“Lớp cha trước lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành”
(Tiếng hát xuân sang)
hay Nguyễn Quang Sáng với tác phẩm “Chiếc lược ngà” với hình ảnh cô giao liên Thu nhanh nhẹn,
thông minh, vào chiến trường để vưa trả thù cho cha vừa đánh giặc cứu nước. Thì đến với tác phẩm
“Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi tác giả đã viết về một gia đình lớn với nét
tính cách không giống nhau nhưng cùng chung một lý tưởng lớn:
“ Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ chồng ta”
Nhân vật của Nguyễn Thi hiện ra như nhũng bức chân dung rõ rệt, sống động qua bút pháp
miêu tả nhân vật điêu luyện. Đó là những người nông dân Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, nghĩa tình,
họ là những con người yêu nước nồng nàn, có lòng căm thù giặc cao độ, họ đẹp trong chiến đấu, họ
đẹp trong đời thường, họ đẹp như những dòng kênh nước bạc nơi đây. Toàn bộ vẻ đẹp ấy được kết
tinh trọn vẹn nhất ở hai nhân vật Chiến và Việt.
1. Nhan đề của tác phẩm
Nhan đề “Những đứa con trong gia đình” không chỉ có giá trị thông báo về vị trí thế hệ của
hai nhân vật chính Việt và Chiến mà còn gợi nhiều ý nghĩa. Đó là những con người được nuôi
dưỡng và trưởng thành trong gia đình có nhiều truyền thống tốt đẹp, đáng tự hào. Họ là những con
người đã tiếp nối xứng đáng truyền thống cách mạng tốt đẹp của gia đình. Hơn thế nữa là họ đã đi
theo truyền thống yêu nước của toàn dân tộc Việt Nam. Họ là những đứa con trong gia đình Việt
Nam ruột thịt.
Khẳng định, ngợi ca mối liên kết bền chặt, thiêng liêng giữa các thế hệ trong gia đình, giữa
con người với gia đình và giữa gia đình với xã hội, đất nước.
2. Phân tích nhân vật Chiến và Việt
Nguyễn Thi là nhà văn được mệnh danh là “Nhà văn Nam Bộ”. Tên tuổi của ông đã gắn liền
với những tác phẩm tên tuổi như “Người mẹ cầm súng”, “Những đứa con trong gia đình”… Nhân
vật của Nguyễn Thi là những con người yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm
thù bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và có tinh thần chiến đấu rất cao – con
người dường như sinh ra để đánh giặc. Việt và Chiến trong tác phẩm “Những đứa con trong gia
đình” là những con người như thế.
Những đứa con trong gia đình của nhà văn Nguyễn Thi gắn liền với không khí của những
ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ quyết liệt và hào hùng. Câu chuyện kể về những đứa con

41 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

trưởng thành trong gia đình lớn cách mạng, hun đúc những vẻ đẹp truyền thống của quê hương. Mỗi
một nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện một cách đặc sắc phẩm chất, cá tính của con người Nam
Bộ trung dũng kiên cường, gắn bó với gia đình, quê hương, trung thành với cách mạng. Tác phẩm
được xây dựng theo kết cấu truyện ngắn hiện đại: là mạch hồi ức của anh tân binh Việt, đan xen
giữa quá khứ và hiện tại, nối kết một cách tự nhiên tình cảm gia đình – quê hương – cách mạng.
Không gian giàu kịch tính và thời gian nghệ thuật của tác phẩm tạo nên sự đan cái của những câu
chuyện kể không theo trình tự tuyến tính mà có sự sắp xếp hợp lý, tạo ra sự liên tưởng nhiều chiều.
Xoay quanh nhân vật trung tâm là hai chị em Chiến và Việt còn là hệ thống hình tượng nhân vật
gắn bó với nhau trong tình ruột thịt, có những nét bản chất thống nhất như chảy ra trong cùng huyết
thống, nhưng mỗi người một vẻ không ai giống ai ý chính những nét tiêu biểu đó đã góp phần tái
hiện thành công phẩm chất đáng quý của những con người quê hương Nam bộ giàu lòng yêu nước,
căm thù giặc.
Trong tác phẩm này, nổi bật nhất là hai nhân vật Việt và Chiến. Cả hai nhân vật đều xuất
thân trong một gia đình, tuổi tác cũng gần nhau nhưng do đặc điểm về giới tính và thứ bậc trong gia
đình nên giữa hai người vừa có nét chung vừa có nét riêng biệt để lại nhiều dư âm trong lòng bạn
đọc.

Trước hết, ở hai chị em Việt và Chiến có những nét tính cách chung vì cùng chung huyết
thống: hai chị em cùng sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Ông Nội, chú Năm,
ba má Việt, chị Hai của Việt đều là những người cán bộ cách mạng trung kiên. Gia đình của chị em
Việt được ví như một dòng sông mà Việt và Chiến là khúc sông sau của đại gia đình cách mạng ấy.
Họ đều có tình cảm gia đình sâu nặng. Việt nhiều lần ngất đi tỉnh lại nhưng mỗi lần tỉnh lại anh lại
nhớ về gia đình. Hai chị em Chiến – Việt có chung mối thù với bọn Mỹ – Ngụy. Bởi gia đình họ

42 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

phải chịu nhiều mất mát đau thương do bọn ác ôn gây ra. Ông nội hy sinh trong chiến đấu, ba Việt
thì bị giặc chặt đầu, má Việt chết vì bom đạn của giặc. Tuy còn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thôi thúc
hai chị em cùng một ý nghĩ và có cùng nguyện vọng: “được cầm súng đánh giặc để trả thù cho ba
má”. Vì vậy, đêm ghi danh tòng quân, cả hai đều giành nhau đi bộ đội. Sau khi được ghi tên tòng
quân, tối về, cả hai chị em đều chung nhau quyết tâm đánh giặc. Đều quyết tâm “Đi xa nhà thì ráng
học chúng bạn… thù ba má chưa trả” thì không được bỏ về. Chị Chiến thì thề thốt dữ dội hơn “Nếu
giặc còn thì tao mất”. Hai chị em Chiến – Việt đều có những nét rất ngây thơ thậm chí có phần trẻ
con vì cả hai chị em chênh nhau có một tuổi nên vẫn còn giành nhau bắt ếch nhiều hay ít, giành
nhau thành tích bắn tàu chiến của giặc và giành nhau ghi tên tòng quân.
Nam bộ chính là miền đất điển hình của những người phụ nữ mà trong tác phẩm của mình
Nguyễn Đình Thi đã ca ngợi như : “Chị Út Tịch” trong tác phẩm “Người mẹ cầm súng”, nhân vật
Chiến trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”. Rõ ràng, Nguyễn Thi là một trong những
nhà văn thành công nhất khi viết về hình tượng người phụ nữ Nam bộ “giỏi việc nước, đảm việc
nhà” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ anh dũng, kiên cường trước kẻ thù, nhân hậu đảm đang
trong gia đình. Nhân vật Chiến cũng vậy, cô sinh ra và lớn lên trong mối thù nhà, nợ nước: ông nội,
ba má đều chết trong chiến tranh. Ba của Chiến bị kẻ thù chặt đầu, má Chiến đã mang rổ đi đòi đầu
chồng ý chính bà cũng chết khi đi lấy đầu đạn làm thuốc súng cho du kích. Một hoàn cảnh éo le, bất
hạnh khiến Chiến phải thay ba má trông nom các em. Bởi vậy, tinh thần cách mạng, lòng căm thù
giặc của Chiến lại càng mạnh mẽ hơn. Đó cũng là tính cách điển hình của người phụ nữ Việt Nam
nói chung và người phụ nữ Nam Bộ nói riêng.
Không những vậy, Nguyễn Đình Thi còn xây dựng ở nhân vật Chiến một tính cách trẻ con,
được thể hiện như tranh đi bộ đội với em, tranh bắt ếch nhưng hơn hết cô là một người không chỉ
giỏi việc nước, là một nữ du kích có tiếng mà còn đảm đang việc nhà. Chiến cùng một lúc đã vừa
làm ba, vừa làm má để chăm lo, lấp đày khoảng trống ấy cho các em. Trong truyện ngắn, nhân vật
Chiến hiện lên với vóc dáng của một con người lao động “hai bắp tay tròn vo xạm màu đỏ cháy
nắng”. Trong kí ức của Việt, chị Chiến dường như là sự hiện thân, sự kế tục của má. Chị Chiến
cũng mang vóc dáng y như mẹ mình: “thân người to và chắc nịch”. Đã ba lần Việt thấy chị Chiến
giống mẹ, giống ở điệu bộ, cử chỉ, lời nói cách lo liệu công việc, chính chị cũng cảm giác hòa vào
với mẹ. Theo lời chú Năm, cô “không khác mẹ một chút nào”. Cô có đức tính kiên trì, chịu khó, chỉ
nội một việc bỏ ăn để ngồi đánh vần cuốn sổ gia đình suốt từ trưa cho tới lúc trời chạng vạng đã đủ
chứng tỏ điều đó. Ở đây, hình tượng cuốn sổ gia đình được nhắc tới nhiều lần trong truyện có ý
nghĩa nghệ thuật rất quan trọng. Nó hé lộ cho ta thấy ý đồ nghệ thuật của nhà văn muốn qua câu
chuyện một gia đình mà đề cập những vấn đề khái quát hơn. Hình tượng cuốn sổ ngầm chứa chức
năng lí giải chiều sâu hành động hiện tại của các nhân vật. Cuốn sổ ghi chép đủ những sự việc đáng
nhớ xảy ra với gia đình lớn của chị em Chiến – Việt, từ chuyện người nào bị giặc giết vào ngày nào
đến chuyện ai bị chúng nhục mạ ra sao. Đặc biệt, cuốn sổ kể khá tỉ mỉ từng chiến công đánh giặc
của các thành viên gia đình, trong đó có chiến công của Chiến và Việt theo du kích bắn tàu Mỹ trên
sông Định Thuỷ. Cuốn sổ – ấy là lịch sử một gia đình, nó cho thấy truyền thống và sự tiếp nối. Nó

43 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

là một hình thức giáo dục lòng tự hào về truyền thống mà chú Năm rất có ý thức xây dựng cho thế
hệ con cháu.
Cô cũng thừa hưởng ở mẹ đức tính gan góc. Trong ngày tòng quân, cô nói với em: “Tao đã
thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất,
vậy à!”. Ở cô, khả năng vun vén, thu xếp gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trước khi cùng em đi bộ đội,
mọi chuyện nhà đã được cô xếp đặt đâu vào đó, tỉ mỉ, chu đáo, “nói nghe thiệt gọn” khiến cho chú
Năm cũng phải có chút sững sờ, “nhìn hai cháu thiệt lâu” rồi nói: “Khôn ! Việc nhà nó thu được
gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh
giặc này khôn hơn chú hồi trước”. Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của thế hệ trước đối
với lớp người sau. Rõ ràng, họ đã trưởng thành, có thể gánh vác được những việc lớn của đất
nước.Còn nữa, trước khi tòng quân, Chiến còn lo lắng, thu xếp việc gia đình, Chiến nói với Việt:
“năm công ruộng...mần nghen”. Có ai đời bàn thờ cũng mang đi gửi? Ấy vậy mà trông truyện ngắn
này Nguyễn Thi đã đẩy cái cùng cực, tội ác của lũ cướp nước lên đến đỉnh điểm khi để hai chị em
Chiến đem gửi chú Năm bàn thờ của ba má. 
Chiến tham gia du kích từ khi còn nhỏ, mọi công lao đều có thể nhường cho em nhưng
cương quyết tranh đi tòng quân với em không phải là vì Chiến sợ em đi sẽ cướp hết công của mình
mà Chiến biết, chiến ý thức được sự tàn khốc của chiến tranh và hơn hết là tình thương dành cho
em. Chiến sợ súng đạn vô tình, sợ nguy hiểm đến với Việt, lại một lần nữa đức tính tốt đẹp của
người phụ nữ được nâng lên. Hai chị em đều là những chiến sĩ dũng cảm, tuy tuổi đều còn nhỏ
nhưng so với Việt, Chiến lớn hơn hẳn. Chiến gắn bó với lớp người đi trước nhiều hơn. Chị có thể
bỏ cả ăn để đánh vần cuốn sổ truyền thống của gia đình. Không chỉ giống má, Chiến còn học được
cả cách nói “trang trọng” của chú Năm, ví truyền thống cách mạng của gia đình là một dòng sông
và mỗi con người là một khúc sông của dòng sông ấy thì so với lớp người đi trước, Chiến là một
khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ cũng chảy được xa hơn khúc sông trước. Đấy cũng là chỗ để
Chiến khác với mẹ mình. Người mẹ trước nỗi đau mất chồng đã không có dịp nào được cầm súng,
còn Chiến đã được đi bộ đội để được đánh giặc trả thù nhà với một quyết tâm như dao chém đá:
“Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao
mất, vậy à!”. Câu nói này của Chiến làm chúng ta nhớ đến câu nói của chị Út Tịch trong “Người mẹ
cầm súng” của Nguyễn Thi:
“Còn cái lai quần cũng đánh!”
Và với ý chí đó, Chiến đã lập được chiến công lớn, bắn chìm tàu chiến địch trên sông Dịch
Thùy, trở thành một tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương tỉnh Bến Tre.
Hiện lên thật bình dị, Chiến đã để lạ nhiều xúc cảm trong lòng bạn đọc. Hình ảnh với tính
cách đặc trưng của nguòi phụ nữ Việt Nam nói chung và người phụ nữ Nam bộ nói riêng “đảm việc
nước, giỏi việc nhà” và ý chí quyết đấu của cả dân tộc Việt Nam:
“Giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh!”
Nguyễn Thi đã khéo léo chọn nhân vật Việt làm điểm nhìn trần thuật cho tác phẩm này. Câu
chuyện về các thế hệ trong gia đình được kể theo dòng hồi ức của Việt khi anh bị thương, lạc đơn
vị, nằm lại một mình giữa chiến trường. Dòng tâm tư ấy cứ đứt rồi lại nối qua những lần Việt bị

44 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

ngất đi rồi tỉnh lại. Nó cho phép nhà văn đan cài các sự kiện quá khứ và hiện tại, đồng hiện các
khoảng thời gian và không gian. Qua đó, không chỉ hiện thực khách quan được nắm bắt ở nhiều
hương diện mà thế giới chủ quan cũng được soi sáng từ nhiều góc độ khác nhau. Lối tự sự độc đáo
này đã giúp nhà văn thể hiện được vẻ đẹp tự nhiên, phong phú trong tính cách, tâm hồn nhân vật.
Việt chỉ kém chị Chiến một tuổi nhưng là con trai nên tính cách vẫn rất hồn nhiên, vô tư.
Trong các cuộc tranh giành với chị, Việt bao giờ cũng đòi phần thắng, cũng muốn chú Năm bênh
mình. Đêm ngay trước ngày lên đường đi bộ đội, Việt chỉ biết vui, chưa biết lo lắng việc nhà. Cậu
chỉ “ừ” và phó mặc hết cho chị: “Tôi nói chị tính sao cứ tính mà”. Chị Chiến bảo viết thư cho người
chị gái lớn đã lấy chồng dưới miền biển, cậu cũng ngại: “Sắp đi tới nơi mà còn bắt viết thư”. Thấy
chị thu xếp chuyện nhà chu đáo, Việt lại ngỡ hồi xưa má dặn dò chị sẵn rồi. Trong lúc chị Chiến lo
trước tính sau, Việt lúc thì “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, lúc nói ngang ngang “Sao không chịu?”,
lại còn chụp một con đom đóm úp trong lòng tay rồi “ngủ quên lúc nào không biết”. Nguyễn Thi đã
miêu tả thật tài tình cái vẻ vô tư của một cậu con trai lộc ngộc “ăn chưa no, lo chưa tới”, nhất là khi
cậu ta có mội người chị gái đảm đang, tháo vát.
Đi đánh giặc, Việt nhỏ tuổi nhất tiểu đội nên được anh em coi là cậu út. Cậu lén mang theo
cả chiếc ná thun ra trận. Một mình giữa chiến trường, khi đêm xuống, Việt không sợ giặc, không sợ
chết nhưng lại sợ những bóng ma đang hiện về đâu đó: “Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao trùm
lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay
nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vòm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà”. Lúc
thì Việt ước được gặp má, được trở lại làm đứa con bé bỏng để má yêu chiều: “má sẽ ghé lại, xoa
đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn”. Lúc
thì Việt muốn chạy trốn khỏi bóng tối và sự im ắng đáng sợ kia để tìm anh Tánh “níu chặt lấy các
anh mà khóc như thằng em út ở nhà vẫn níu chân chị Chiến”. Thậm chí, Việt hình dung về cái chết
đúng kiểu trẻ con: chết có phải là một người thì nằm đó, còn một người thì biến lên nóc nhà? Lúc
cận kề bên cái chết, cậu lại thèm được làm nũng chị “má áp vào báng sung như gối đầu trên tay
chị”. Gặp lại anh Tánh và đồng đội, Việt khóc đó, cười đó chẳng khác gì em út trong nhà. Những
nét hồn nhiên, thơ ngây ấy khiến cho hình ảnh Việt trở nên gần gũi, thân thuộc, dễ mang lại thiện
cảm với người đọc. Và có lẽ đó còn là cái nền để nhà văn tô đậm tính cách anh hùng của chàng trai
chưa hai mươi ấy.
Khi đối diện với những vấn đề thiêng liêng, trọng đại của gia đình, quê hương, Việt không
hề non nớt, vô tư. Trái lại, cậu cảm nhận một cách sâu sắc tâm tư, tình cảm của những người thân
và luôn có ý thức về trách nhiệm của một đứa con với truyền thống gia đình. Việt không chỉ gắn bó,
yêu thương mà còn rất hiểu má, hiểu chú Năm. Má thường xuyên hiện về trong kí ức của Việt với
bao nỗi vất vả, cực nhọc và lòng cản đảm phi thường. Má lặng lẽ vượt lên những mất mát, đau
thương dữ dội của gia đình, để nuôi con và góp phần vào cuộc chiến đấu. Việt cũng hiểu niềm trông
đợi thầm lặng mà tha thiết, cháy bỏng của người mẹ: “Má trông ngày trông đêm cho con mau lớn”.
Đêm trước ngày ra trận, Việt mường tượng như má đã về đâu đây: “Má biến theo ánh đom đó trên
nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt? Đêm nay dễ gì má vắng mặt, má
cũng phải về dòm ngó coi chị em Việt tính toán việc nhà làm sao chớ?”. Việt cảm nhân được tấm

45 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

lòng yêu thương thầm lặng mà sâu sắc của chú Năm qua việc chú nâng niu cuốn sổ gia đình. Nghe
tiếng hò, Việt đón nhận được lời nhắn gửi chú dành cho những đứa cháu sắp lên đường giết giặc:
“Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ảnh nắng chói chang, rồi kéo
dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội”. Việt đã
mang theo giọng hò ấy ra trận, đã nhớ về nó trong những khoảnh khắc khó khăn nhất của người
lính.
Sự trưởng thành của Việt thể hiện ngay trong hành động tưởng như bồng bột của tuổi trẻ:
giành nhau với chị Chiến đi bộ đội. Nguyên nhân thôi thúc Việt chính là tình thương yêu với ba má,
ý thức trách nhiệm với truyền thóng cách mạng của gia đình. Khi chị Chiến ngăn không cho Việt đi
tòng quân, cậu nóng nảy “đá trái dừa rụng xuống mương cái đùng” mà căn vặn chị: “Bộ mình chị
biết đi trả thù à?”. Bới vì, đối với Việt, cầm súng đánh giặc trước hết là thực hiện ước nguyện của
má: “Dường như cả cuộc đời vất vả của má… cả những nguy hiểm gian lao mà má đã trải qua một
cách không hề sợ hãi đó, tất cả đều được gom lại và dồn vào trong ý nghĩ cuối cùng này”. Đó cũng
là trách nhiệm cuối cùng nối tiếp dòng sông truyền thống mà các thế hệ ông cha đã khơi nguồn.
Sáng ngày lên đường, chàn trai trẻ ấy như đã lớn bổng lên khi cùng chị khiêng bàn thờ ba má đi gửi.
Lần đầu tiên, Việt thấy được lòng mình rõ ràng trong tình yêu thương chị Chiến một cách lạ lùng và
“mối thù thằng Mỹ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Hơn bao giờ hết, Việt
cảm nhận được những bước chân của hai chị em trên con đường mà má đã đi. Đó không chỉ là con
đường ngang qua lối xóm “thoảng mùi hoa cam” mà còn là con đường chiến đấu “hồi trước má vẫn
đi”.
Phẩm chất anh hùng ở Việt cũng được biểu lộ một cách hồn nhiên, tự nhiên như bản tính
của chàng trai này. Vào bộ đội, Việt là “cậu Tư” được các anh cưng chiều nhưng đã chiến đấu rất
dũng cảm, lập được nhiều chiến công. Chàng tân binh ấy đã thật kiên cường khi đối mặt với những
thử thách lớn. Bị thương nặng, hai mắt không còn nhìn thấy, chân không thể đi nổi, lạc đơn vị, nằm
lại một mình giữa chiền trường nhưng Việt không hề sợ hãi. Nghe tiếng súng giặc vây bốn bề, cậu
vẫn nghĩ: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì
tao cũng bắn được mày… Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”.
Với Việt, chúng chỉ là những kẻ tàn bạo mà hèn nhát. Bất chấp những đau đớn trên thân thể, vượt
lên cảm giác chỉ có một mình, Việt hướng về nơi có tiếng súng của đồng đội. Suốt ba ngày trải qua
cái đau, cái đói và kề bên cái chết, Việt vẫn cầm chắc cây súng. Ngay cả lúc kiệt sức, ngón tay chỉ
còn hơi nhúc nhích, Việt vẫn không rời vũ khí, vẫn sẵn sàng trong tư thế chiến đấu: “Việt vẫn còn
đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng”. Lúc tìm được
Việt, nếu anh Tánh không nhanh miệng lên tiếng, thì chắc sẽ “ăn đạn của cậu Tư rồi”.
Điều thú vị là Nguyễn Thi không chỉ miêu tả, ngợi ca mà còn giúp người đọc nhìn thấy
được ngọn nguồn của tính cách anh hùng trong con người Việt. Nó được hình thành, nuôi dưỡng
trong truyền thống, nề nếp gia đình. Ba má, bác Hai, chú Năm, chị Chiến – những người đang sống
và cả những người đã khuất luôn ở bên Việt, là điểm tựa và nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho
Việt. Khi nằm giữa chiến trường còn mù mịt khói lửa và ngổn ngang xác giặc, trong dòng ý nghĩ
của Việt lúc nào cũng thấy hiện lên hình ảnh của những người thân trong gia đình, những kỉ niệm

46 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

tuổi thơ. Có kỉ niệm êm đềm của những ngày sống trong vòng tay của má, có kỉ niệm đau thương và
dữ dội khi gia đình phải chịu những tổn thất lớn lao. Nhưng dù là niềm vui hay nỗi buồn thì điều
quan trọng nhất vẫn là tình cảm gắn bó, yêu thương, tự hào của Việt về gia đình. Nó thôi thúc Việt
lên đường chiến đấu trả thù nhà, nợ nước. Ra trận, Việt muốn giết thêm nhiều tên giặc, vì với cậu,
đó là cách “tính đếm” tình thương dành cho má. Niềm yêu thương và ý thức tiếp nối truyền thống
cách mạng của gia đình chính là cội nguồn làm nên sức mạnh của Việt.
Có thể nói, trong dòng sông gia đình, Việt là “khúc sông” chảy được xa nhất. Chưa đầy hai
mươi tuổi, Việt đã lập được nhiều chiến công, có thể vững vàng, mạnh mẽ trước những thử thách
lớn. Người thanh niên sớm trưởng thành trong hoàn cảnh gia đình, quê hương phải trải qua nhiều
mất mát, hy sinh ấy đã trở thành biểu tượng cho thế hệ trẻ Nam Bộ thời chống Mỹ. Họ đã tiếp nối
một cách xứng đáng truyền thống cách mạng của các thế hệ cha anh, góp phần to lớn vào cuộc đấu
tranh thống nhất đất nước.
Với “Những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Thi đã triển khai một kĩ thuật tự sự vượt xa
các truyện ngắn đã có. Về mặt kết cấu, tác phẩm đã lắp ghép những đoạn hồi ức rời rạc trong trạng
thái nửa tỉnh nửa mê của nhân vật với những đoạn cảm nhận về thực tại. Vì thế, các chi tiết trong
cốt truyện không xuất hiện tuần tự theo trình tự thời gian. Thời gian thực tế và thời gian được tái
hiện lại nhờ hồi ức đan xen lẫn nhau, không gian thực tế và không gian hồi ức cũng vậy. Nhân vật
được chiếu rọi từ các tầng phức tạp trong vô thức, tiềm thức kết hợp với nhận thức và hành động.
Vì thế đời sống tâm lí được tái hiện sinh động với cả những quá trình, những hiện tượng liên quan
chặt chẽ và chi phối lẫn nhau.
Qua nhân vật Chiến và Việt, Nguyễn Thi đã thể hiện những vẻ đẹp của con người trong một
gia đình cách mạng. Cũng qua truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình”, nhà văn còn lí giải
nguồn gốc sức mạnh của con người đó là gia đình, là cội nguồn sâu thẳm nhất của người anh hùng.
Có thể thấy, tác phẩm của Nguyễn Thi chứa đựng tư tưởng triết lí sâu sắc: Mỗi người chỉ xứng đáng
với truyền thống gia đình cũng như là một hiện tượng đặc sắc trong các truyện ngắn sử thi anh hùng
thời chống Mỹ.
3. Khuynh hướng sử thi trong “Những đứa con trong gia đình” và “Rừng xà nu”
- Trong hai tác phẩm Rừng Xà nu của Nguyễn Trung Thành và Những đứa con trong gia
đình của Nguyễn Thi, khuynh hướng sử thi thể hiện trước hết là ở đề tài sáng tác.
+ Nguyễn Trung Thành viết về câu chuyện của một ngôi làng người dân tộc-làng Xô man.
Cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm là hình tượng cây Xà nu. Tác giả đã lấy ngọn đồi Xà nu làm biểu
tượng cho những con người làng Xô man anh dũng kiên cường trước bom đạn của giặc Mỹ. Ông
viết chuyện về một ngôi làng nhưng qua đó đã nói lên cuộc kháng chiến trường kì của cả dân tộc.
Màu sắc sử thi chi phối toàn bộ tác phẩm, biến câu chuyện riêng thành câu chuyện chung mà qua đó
người đọc phần nào hình dung được tính ác liệt, những tổn thất về người và của cùng một ý chí kiên
cường, tấm lòng yêu nước nồng nàn, trung thành với Cách Mạng của người dân Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ.
+ Những đứa con trong gia đình lại là câu chuyện khác về một gia đình Nam Bộ giàu truyền
thống Cách Mạng. Giống như vùng Tây Nguyên, Nam Bộ cũng là nơi diễn ra cuộc chiến chống Mỹ

47 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

ác liệt. Câu chuyện xoay quanh các thành viên trong một gia đình có truyền thống yêu nước, căm
thù giặc. Qua Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi đã vẽ nên một bức tranh chân thật về cuộc
kháng chiến chống Mỹ và số phận của những người con trong gia đình Cách Mạng. Câu chuyện tuy
riêng mà mang một tinh thần chung ý chính điều này đã mang tới màu sắc sử thi cho tác phẩm.
- Bên cạnh lối chọn đề tài, cách xây dựng nhân vật cũng góp phần thành công cho hai tác
phẩm
+ Trong Rừng Xà nu, Nguyễn Trung Thành vẽ nên hình tượng Tnú là một anh hùng Cách
Mạng chân chính. Tnú không còn là một nhân vật cá biệt mà đã là hình tượng, đại diện cho các anh
hùng chiến sĩ Việt Nam. Tnú hiện lên với nhiều mất mát cả về tâm hồn và thể xác nhưng trên hết là
tinh thần chiến đấu kiên cường, là một nhân cách, một bản lĩnh mà ai ai cũng phải ngưỡng mộ.
Phẩm chất đáng quý ấy đã được cụ Mết nhận định: “Đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối
làng ta” Anh đã trở thành một nhân vật oai hùng như thần thoại, mang đầy đủ tinh hoa của tinh thần
dân tộc.
+ Việt và Chiến cũng là những anh hùng trong truyện ngắn Những đứa con trong gia
đình. Việt và Chiến là những con người, những thanh niên đại diện cho tuổi trẻ Việt Nam thời
kháng chiến.
- Không chỉ ở hình tượng những người anh hùng mà cả mối quan hệ giữa họ với quần chúng đã góp
phần làm nên chất sử thi cho hai tác phẩm. Dưới ngòi bút của Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành,
truyện ngắn không chỉ khắc họa hình ảnh người anh hùng mà còn là bức tranh về một tập thể, một
cộng đồng, một dân tộc Việt Nam anh hùng.
- Tính sử thi trong hai tác phẩm còn được thể hiện rõ qua ngôn ngữ kể chuyện đầy hào hùng
và mạnh mẽ, dứt khoát. Nguyễn Trung Thành tả ngọn đồi xà nu với một quy mô hoành tráng,
cường đại. Nguyễn Thi cũng ưu ái miêu tả hai nhân vật Việt Chiến thành những anh hùng lý tưởng
qua các lời thoại sục sôi ý chí của nhân vật. Phương thức miêu tả và cách sử dụng từ ngữ mạnh mẽ,
dứt khoát đã góp phần làm tăng chất sử thi cho hai tác phẩm.
4. Trọng tâm nghệ thuật:
a. Nghệ thuật trần thuật
- Truyện kể theo điểm nhìn và giọng điệu của nhân vật
- Tác dụng:
+ Câu chuyện đứt nối nhưng lại hợp lý
+ Câu chuyện được kể tự nhiên và chân thực
+ Câu chuyện giàu tình cảm.
b. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Nhân vật được khắc họa qua ngôn ngữ đối thoại và diễn biến tâm lí
- Tính cách nhân vật đậm màu sắc Nam Bộ
c. Ngôn ngữ giàu sắc thái địa phương.

48 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)


----------------------------------------------
Nguyễn Minh Châu là một người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, tha thiết kiếm tìm “hạt
ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm hồn con người”. Trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu được biết
với những tác phẩm đậm chất sử thi như: “Cửa sông”, “Miền cháy”, “ Dấu chân người lính”. Thế
nhưng, sau 1975, chính Nguyễn Minh Châu lại là người đi đầu trong công cuộc đổi mới văn học. “
Chiếc thuyền ngoài xa” được in năm 1983 là một bước dài đáng trân trọng trong hành trình khám
phá vào tầng chìm, vào chiều sâu của cuộc sống và con người của văn xuôi Nguyễn Minh Châu.

- Tác giả: -Hoàn cảnh sáng tác

- Nguyễn Minh Châu(1930-1989), quê ở Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến
làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, quê(1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung
tỉnh Nghệ An. cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987)

- Sau 1975, Nguyễn Minh Châu là một


trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi
Truyện in đậm phong cách tự sự- triết lí
mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình
của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho
diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám
hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của
phá nghệ thuật của ông là con người trong
nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.
cuộc mưu sinh, trong hành trình tìm kiếm hạnh
phúc và hoàn thiện nhân cách.

Nội dung: Nghệ thuật:

Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật Truyện xoay quanh tình huống tự nhận
và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh , truyện thức nhân vật từ lầm lẫn, ngộ nhận đến" giác
ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" mang đến cho ngộ", tình huống truyện đã chi phối:
người đọc nhiều suy ngẫm:
+Giọng điệu thay đổi linh hoạt: lúc say sưa
+ Cần có một cái nhìn đa diện, nhiều hùng biện, lúc hài hước tự trào, lúc khách quan
chiều để có thể phát hiện ra bản chất thật sau tiết chế, lúc trầm lắng suy tư
vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
+ Diễn biến tình tiết giàu kịch tính, chi tiết
+ Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đối lập...
đời: Nghệ thuật phải gắn với cuộc đời- " NT vị
+ Sắc thái tư duy, chiêm nghiệm, suy tư-
nhân sinh"
triết lí nổi bật hơn cả với những câu văn miêu tả
giàu chất trữ tình, nhịp chậm, ngữ điệu trầm.

49 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

1, Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”


- Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thuật, là thứ nghệ thuật đạt tới sự
hoàn Mỹ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được
thanh lọc
- Chiếc thuyền khi vào gần thì đó chính là hiện thực, là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó
nhọc, thậm chí là của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
- Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng hiện thực thì lại ở rất gần. Đó chính
là quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Người nghệ sĩ cần có những khoảng cách nhất
định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thuật nhưng cũng cần bám sát vào hiện
thực cuộc sống để có thể phát hiện ra những sự thật.
=> Vậy nên, có thể nói hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” đích thực là một ẩn dụ nghệ
thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc
sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn muốn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái
đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần
có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí
ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với đời, đi vào bên trong cuộc đời và
sống cùng cuộc đời.

Ý tưởng này ta đã từng bắt gặp trong thơ ca của Tố Hữu


“Nhân dân là bể, văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy, sóng đẩy thuyền lên”
2, Phân tích
Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nói : “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc
thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng
sau này”. Những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu luôn mang đậm tính triết lí khiến mỗi chúng ta

50 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

không khỏi suy ngẫm về cuộc sống. Những tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến “Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành”(1983), “Bến Quê” (1985),... Và đặc sắc hơn cả có lẽ vẫn là tác phẩm
“Chiếc Thuyền Ngoài Xa”(1987), Những tác phẩm như thế này của Nguyễn Minh đã đưa ông lên vị
trí “Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) và chúng sẽ mãi là những bản tuyên
ngôn trong thời kí đổi mới.
Là nhà văn trưởng thành từ quân đội sau những năm 1975, Nguyễn Minh Châu dần khẳng
định được vị thế của mình trên bầu trời văn chương bằng ngòi bút bóc tách những khía cạnh của
cuộc sống. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, tiếng súng chiến tranh ngừng nổ trên bầu trời Việt
Nam, đất nước ta đã hoàn toàn được thống nhất, thời thế đã thay đổi tất yếu tư tưởng của các nghệ
sĩ cũng phải đổi thay. Nguyễn Minh Châu là người đã đi đầu trong công cuộc lột xác văn chương,
khép lại cảm hứng lãng mạn – sử thi và mở ra cảm hứng thế sự. Đặc điểm của tác phẩm mang cảm
hứng thế sự là hướng về sinh hoạt hàng ngày của con người khẳng định giá trị thẩm Mỹ của cái đời
thường đi sâu khám phá hành trình của con người giữa một thực tại ngổn ngang nhằm tìm kiếm
hạnh phúc và khẳng định nhân cách..
Trong mỗi truyện ngắn thì thường có ba kiểu tình huống : tình huống hành động, tình huống
tâm lí - tâm trạng và tình huống nhận thức. Thành công của tác phẩm là đã xây dựng lên được một
tình huống nhận thức có tính luận đề mới mẻ, khác với các tình huống trong các tác phẩm văn
chương trước năm 1975. Bởi như Nam Cao đã từng nói trong tác phẩm “Đôi Mắt”: “Hãy rũ bỏ đôi
mắt cũ khi nhìn cuộc đời mới, bởi càng đi nhiều, càng quan sát lắm anh sẽ chỉ cảm thấy chán nản
hơn mà thôi”. Sẽ rất thú vị nếu ta đọc Chiếc thuyền ngoài xa trong sự so sánh thường xuyên với
những truyện khác của Nguyễn Minh Châu hay của một số nhà văn khác được sáng tác trong không
khí sử thi của những ngày đánh Mỹ trước đây. Trong một tác phẩm truyện ngắn, tình huống bao giờ
cũng là yếu tố quyết định đến sự thành công của tác phẩm. Tình huống truyện là một lát cắt về thời
gian, là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên
đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Ngoài ra tình huống
truyện còn giúp tác giả tổ chức mạnh truyện linh hoạt và xây dựng thành công tính cách của các
nhân vật. Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật,
tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật thì tình huống
nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí nhân vật.
Sự tự nhận thức đầu tiên có lẽ bắt nguồn từ anh chàng nhiếp ảnh gia tên Phùng. Anh được
cấp trên giap cho nhiệm vụ chụp ảnh cảnh biển vào buổi sớm, thực chất chính tác giả Nguyễn Minh
Châu cũng là một người con của miền biển nên câu chuyện của ông được kể và miêu tả khá sinh
động, chi tiết và có phần mặn mòi. Hiện thực của “Chiếc thuyền ngoài xa” không phải bức tranh
hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa ghi lại tội ác kẻ thù cũng như bao chiến công lừng lẫy
từng đi vào lịch sử. Sau bao nhiêu ngày trở về chiến trường xưa, lang thang ở bãi xe tăng hỏng,
Phùng đã phát hiện ra vẻ đẹp của bức tranh thời cổ mà anh chụp được, đó chính là hình ảnh một
chiếc thuyền ngoài xa đang được tưới thẫm lên bằng màu của sương khói. Đó là một bức ảnh “đắt”
như được ông trời ban cho vậy. Bức ảnh mang nét tráng lệ thời cổ “bức tranh mực tàu của một danh
họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào mầu sương mù trắng như sữa có pha đôi

51 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như
tượng trên chiếc mũi khum khum”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét cho đến ánh sáng đều hài
hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản mà toàn bích”. Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác
của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối, và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Bức ảnh
đã khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung động, cảm xúc thẩm mỹ đang cháy lên trong lòng anh.
Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn “Khám phá thấy cái chân lí cựa toàn thiện, khám phá
thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nguyễn Tuân đã từng nói “Cái đẹp cảm hóa lòng
người” và cũng không phải ngẫu nhiên, ông được mệnh danh là một người cả đời đi tìm cái đẹp.
Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, anh đã cảm thấy cái Chân, cái thiện của cuộc
đời, tâm hồn người nghệ sĩ như được gột rửa, trong trẻo, tinh khôi. Phùng bấm liên thanh một hồi
hết một phần tư cuốn phim để có thể thu lại khoảnh khắc tuyệt đỉnh của chiếc thuyền ngoài xa.
Tất cả những hình ảnh tuyệt vời ấy có lẽ sẽ không bị phá vỡ và Phùng có lẽ cũng sẽ không
kinh ngạc khi con thuyền trở vào gần bờ và bắt đầu xuất hiện những tiếng quát tháo. Bước ra từ
chiếc thuyền Ngư phủ đẹp như mơ ấy là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi “Người đàn bà trạc
ngoài bốn mươi,. . cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụn rỗ mặt…” và người đàn ông to lớn
dữ dằn “Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát,
bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ..”. Một
cảnh tượng thật tàn nhẫn: Gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo “trút cơn giận như lửa cháy bằng
cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, vừa đánh lão vừa thở hồng hộng, hai
hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi lần quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn
“Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”“ Mâu thuẫn được đẩy lên rõ nét
khi người đàn bà kia bị đánh mà không hề chạy trốn, cũng không kêu van nửa lời. Đứa con vì
thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai ngã dúi xuống cát. Ta nhận thấy đứa con
trong gia đình này được miêu tả chẳng khác nào một viên đạn, nó đập vào hình ảnh của người cha
và đâm xuyên qua trái tim của người mẹ. Ta đã nhận ra khoảng lặng của tác phẩm khi thấy sự trăng
trở của người nghệ sĩ. Có lẽ ít ai hình dung và tưởng tượng được rằng không hiểu sao cảnh tượng
phũ phàng ấy lại xảy ra khi con người ta đang xây dựng cuộc sống mới trong thời đại mới, thời đại
mà Tố Hữu đã từng viết : “Người yêu người, sống để yêu nhau”
Nhiếp ảnh gia Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc
đến mức trong mấy phút đầu tối cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như chết lặng. Những
điều bất công xảy ra trước mắt người chiến sĩ từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước,
giải phóng con người đã bùng lên một cơn giận dữ. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia là một
kẻ độc ác, tàn nhẫn nhất thế gian, còn người đàn ba kia là nạn nhân đáng thương nhất trong nạn bạo
hành gia đình. Sở dĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu
kì của tạo hóa kia lại có cái ác, cái xấu đến mức không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn
cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, là cái “toàn thiện” của cuộc đời. Phùng xót xa khi
nhận thấy cái xấu xa, ngang trái, bi kịch trong gia đình người dân chài đã làm cho bức ảnh của anh
chụp được như nhuốm màu đau thương ghê sợ! Chao ôi ! Nghệ thuật không thể là màn sương mờ
ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai mà che đi nỗi đau thương ghê rợn, khiếp người kia.

52 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Qua hai phát hiện của Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn người đọc nhận thức mối quan hệ
giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật không nên chỉ dừng lại ở vẻ đẹp ngoài, nhất là cái tuyệt vời
thơ mộng, mà còn phải nhìn vào bề sâu, bề sâu của cuộc đời không hề đơn giản, mà tâm điểm chính
là số phận con người đa đoan, với mọi nhọc nhằn và khổ đau, không hiếm những ngang trái bi kịch.
Cuộc đời đâu phải chỉ toàn màu hồng, cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, mà còn chứa đựng
nhiều nghịch lí. Cuộc sống luôn luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn giữa đẹp – xấu,
thiện –ác,… Vì thế mà nhà văn có dụng ý khi để cảnh tượng “trời cho” hiện ra trước mắt như là vỏ
bọc bên ngoài để hòng che giấu bản chất thực của đời sống bên trong. Nhà văn khẳng định : Đừng
nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong vì không phải
bao giờ chúng cũng thống nhất. Đừng vội đánh giá con người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài, phải phát
hiện ra bản chất thực sau vẻ đẹp của nó. Bởi xuất phát của văn chương và đích đến của nó là cuộc
đời con người. Từ đó ta còn thấy được Nguyễn Minh Châu muốn nhắn gửi đến những người cầm
bút viết văn chân chính, nhiệm vụ của họ là phải kéo nghệ thuật ở ngoài xa kia để nó lại gần hơn
với cuộc sống. Và không phải ngẫu nhiên chính ông đã từng nói rằng : “Văn chương và cuộc sống
là những vòng tròn đồng tâm, tâm của nó chính là con người”
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là một người có lòng tốt, không thể chấp nhận những bất công
nhưng anh đã quá đơn giản khi nhìn nhận cuộc sống để rồi đi đến tình huống vỡ lẽ thứ hai trong tác
phẩm này. Chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập dã man không lí do như thế, nghệ sĩ
Phùng đã đánh nhau với gã chồng để bảo vệ chị ta, để rồi bị thương, vết thương trên mặt đã lên da
non nhưng vẫn sẽ để lại những dấu tích. Người đàn bà bị mời đến tòa án huyện để giải quyết công
việc gia đình, từ đây đã có một cuộc tranh luận giữa ba người là Phùng, Người đàn bà và Chánh án
Đẩu. Được mời đến tòa án huyện lần này là lần thứ hai, “chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở chỗ chốn
công đường để ngồi”, tuy không phải lần đầu nhưng chị ta có vẻ rất sợ sệt và lúng túng, “Dáng vẻ
thì nhấp nhổm, mụ xoay người trên ghế như bị kiến đốt”, cái sợ sệt mà ta không hề thấy có khi chị
ta bị chồng đánh ở bãi xe tăng. Chị thấy sợ hãi khi phải đối diện với một không gian lạ, chị ta thật
tội nghiệp, cái dáng vẻ ngồi “nép vào mép ghế” và cố “thu người lại”, để có thể tự về dù Đẩu đã nói
những lời rất thân mật, chia sẻ và cảm thông. Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay
đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi nói chuyện và tiếp xúc với chánh
án Đẩu, chị còn xưng “Con” với “quý tòa” có lúc đã van xin “Con lạy quý tòa, quý tòa bắt tội con
cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi
gục mặt bỗng người đàn bà hàng chái ngẩng lên, nhìn thẳng và lại đổi cách xưng hô thành “chị’” và
“các chú”. “chị cảm ơn các chú…Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho
nên các chú đâu hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc” Cái vẻ sợ sệt cũng không
còn, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho Phùng và Đẩu hết sức ngạc nhiên. Người đàn bà hàng
chài đó không hề đơn giản như Phùng và Đẩu nghĩ. Mới bước vào cuộc tranh luận thì ta nhận thấy
nhân vật người đàn bà hàng chài có vẻ đáng trách, rung túng cho bạo lực gia đình diễn ra một cách
thường xuyên “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước ta không có người nào như
hắn”. Thế nhưng đọc kĩ và ngẫm nghĩ lại thì đó lại là những điều mà Phùng và Đẩu phải vỡ lẽ ra.
Đẩu vốn là một chánh án, được mệnh danh là Bao công phố huyện vùng biển, là người có kiến thức

53 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

về luật pháp còn Phùng là người hiểu biết về nghệ thuật, chuyên săn lùng cái đẹp vậy mà cũng đã bị
người đàn bà thuyết phục hoàn toàn. Người đàn bà hàng chài với lời lẽ thuyết phục ấy đã lộ ra cái
sắc sảo của mình, người đàn bà không tên này càng ngày càng thể hiện mình là một người từng trải,
hiểu biết về cuộc sống. Thì ra, cái nghề hài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênh không thể
thiếu bàn tay, sức lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức
lại mà làm quần quật để nuôi một đàn con mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa ý chính người đàn
bà còn khẳng định người chồng của chị ta vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”,
nhưng chỉ vì hoàn cảnh khắc nghiệt, đói nghèo mà anh ta trở nên vũ phu, tàn nhẫn và ích kỉ. Đó là
cả một câu chuyện về kế sinh nhai, về những người làm ăn lam lũ khó nhọc.
Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình của người đàn bà hàng chài, người đàn bà khẳng
định chị ta sống cho những đứa con chứ không phải cho mình. Ở đây lẽ đời đã chiến thắng, Người
lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con, thấu
hiểu lẽ đời cũng là một thứ uy quyền có sức công phá lớn. Nó đã làm cho nghệ sĩ Phùng và Đẩu vỡ
lẽ ra nhiều điều, nhận ra nỗi nhọc nhằn vất vả của cư dân vùng biển, Nhận ra mối quan hệ giữa bản
chất và hiện tượng bên ngoài, cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận nghịch cảnh, những
ngang trái và người đàn bà không chịu đòn roi một cách vô lí. Cả Đẩu và Phùng đều chua chát nhận
ra rằng : Trên thuyền cần có một người đàn ông… dù hắn có man rợ, tàn bạo, thì vẫn cần có một
người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp. Và cái bản chất ở đây là cuộc sống sinh
nhai, không thể một mực áp dụng luật pháp, kiến thức sách vở được mà đôi khi đó phải là những sự
trải nghiệm và hiện thực cuộc sống phản ánh lại. Họ còn nhận thức được rằng, với người phụ nữ,
với người đàn bà kia họ vẫn luôn tìm thấy cho mình niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong
cuộc sống còn đầy rẫy những khó khăn, vẫn luôn tin vào một sự lạc quan và tình yêu cuộc sống.
Hành trình kiếm tìm hạnh phúc với họ không đơn giản nhưng họ vẫn thấy hạnh phúc khi nhìn thấy
những đứa con của mình được ăn no. Tình yêu thương gia đình của người đàn bà đã khiến cho “Một
cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị bao công phố huyện vùng biển này”. Đó là sự vỡ lẽ về quan niệm
tình yêu, hạnh phúc, lòng nhân ái và sự khoan dung mang giá trị nhân bản sâu sắc. Bước ra khỏi
cuộc chiến tranh, không còn phải đương đầu với quân xâm lược nhưng người Việt Nam lúc bấy giờ
cần phải tổ chức lại nhịp sống của mình, khôi phục lại kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh,
đây không phải công việc có thể thực hiện một sớm một chiều. Dù là một người đàn bà ít học, suốt
ngày lênh đênh trên biển, chỉ là một nhân vật luận đề am hiểu về cuộc sống cũng khiến cho Phùng
và Đẩu vỡ lẽ. Ta biết rằng lí thuyết sách vở luôn đúng nhưng cuộc sống cũng sẽ có những lí lẽ riêng
của nó. Những kết hợp ấy mang lại cho tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cái nhìn đa diện về số
phận con người.
Kết thúc truyện, người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà hàng chài. Sở dĩ đây cũng là
dụng ý nghệ thuật của tác giả để ông có thể bộc lộ được hết ý tưởng của mình. Không có tên là bởi
lẽ hình ảnh người đàn bà hàng chài ấy tượng trưng cho biết bao người phụ nữ khác nơi vùng biển
xa, số phận của những người phụ nữ làng chài sẽ còn mãi bị phụ thuộc nếu như cuộc sống mưu sinh
còn nhiều vất vả, nhưng ở họ luôn luôn toát lên một tư tưởng về tình yêu gia đình, tình yêu cuộc
sống của tình mẫu tử thiêng liêng cao quý, là động lực để họ vươn lên ngay cả khi không thể chịu

54 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

đựng được nữa, những con người từng trải, cam chịu và nhẫn nhịn. Tác giả muốn bạn đọc có cái
nhìn đa diện, nhiều chiều, để có thể đối chứng các vấn đề lại với nhau từ đó rút ra bài học cho riêng
mình.
“Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc
lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có, quê hương bản quán cả chục
cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. Đã có những bi kịch tiềm ẩn khiên con
người ta phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng chưa đựng nhiều những phát hiện mới
mẻ bởi tình huống nhận thức làm ló ra những chân lí về đời sống, chân lí về nghệ thuật hướng đến
con người. Nếu chỉ suy nghĩ một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ
khiến người dân lao động đổi đời, sẽ xóa tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng
Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ ra rằng : Cách mạng không thể giải quyết bi kịch trong một sớm một
chiều, con người vẫn phải đối diện với bi kịch và dung hòa với nó. Cách lí giải của Nguyễn Minh
Châu còn chứa đựng suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua khổ đau để đối diện với hiện thực
còn nhiều thách thức. Điều thống nhất trong hành trình sáng tạo của Nguyền Minh Châu luôn vẫn là
“nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người” về cuộc sống. Đây cũng là lí do mà
Nguyễn Minh Châu một đời cầm bút với hi vọng. “Văn học sinh ra đời để gìn giữ trong từng con
người - một cái gì hết sức mong manh và luôn luôn run rẩy... một cái gì đó thật là như vậy, nhưng
thiếu nó trong con người thì y rằng con người ấy không thể sống giữa quần thể loài người được, và
trở thành một tại họa cho loài người (Nhật kí - Nguyễn Minh Châu).
Nếu như trước kia, giai đoạn văn học 45 - 75 khi viết về con người bao giờ các nhà văn cũng
nói về sức sống mãnh liệt để vượt qua nghịch cảnh, của tác động môi trường, xã hội như ta tìm thấy
ở anh Cu Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân, hay anh Chí Phèo của Nam Cao bị tha hóa cả nhân
hình lẫn nhân tính vẫn trải qua sóng gió để có thể trở về chết trên con đường lương thiện… Khi diễn
tả con người các nhà văn thường đi theo hướng tích cực, vượt lên hoàn cảnh và hồi sinh tâm hồn thì
những minh họa ấy trở nên phiến diện vô cùng trong thời đại đổi mới. Nguyễn Minh Châu đã không
đi theo con đường mòn ấy, trong Chiếc thuyền ngoài xa, tác giả khẳng định nghịch lí xuất hiện như
một điều hiển nhiên trong cuộc sống con người. Trước sau, Nguyễn Minh Châu vẫn là người đi săn
tìm cái đẹp, tìm cái hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người. Đó phải chăng là ý nghĩa của những
biểu tượng như “mảnh trăng cuối rừng”, “chiếc thuyền ngoài xa”? Có sự đổi thay trong cách nhìn
của nhà văn bởi thực tế và tâm thế sáng tạo của nhà văn đã khác trước, bởi cuộc sống hòa bình khác
với cuộc sống chiến tranh. Bằng thái độ cảm thông và những hiểu biết sâu sắc về con người, kết hợp
với điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đã diện ông đã cung cấp cho bạn đọc cái nhìn toàn diện về cuộc
sống khi đi từ bề nổi đến bề sâu. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn luôn hướng về con người và có
khả năng giải mã tất cả những gì phức tạp nhất của cuộc đời. Bức tâm thư về mối quan hệ giữa nghệ
thuật và cuộc sống chính là nhận thức thấm thía nhất : “Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp
của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có
một khoảng cách để có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật, và nếu muốn khám phá những bí
ẩn đằng sau thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc
đời và sống cùng cuộc đời” ( Lê Ngọc Chương )

55 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Với cách xây dựng tình huống truyện đặc sắc, độc đáo có ý nghĩa khám phá kết hợp với lời
văn giản dị, đầy tính dư ba, Nguyễn Minh Châu đã làm nổi bật chủ đề của tác phẩm Chiếc Thuyền
Ngoài Xa. Từ câu chuyện về bức ảnh nghệ thuật và sự thật về cuộc đời tác giả đã mang đến bài học
đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống, cách phát hiện ra bản chất thật sâu vẻ đẹp bên ngoài của
hiện tượng. Chiếc Thuyền Ngoài xa sẽ mãi là tuyên ngôn nghệ thuật của tác giả với những nhà văn
cùng thời.
3, Phân tích nhân vật

Nhà văn Nguyễn Minh Châu được mệnh danh là vị khai quốc công thần của triều đại văn
học mới, là “người mở đường tinh anh và tài năng”. Sinh thời, ông từng quan niệm rằng: “Thiên
chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Nếu
trước năm 1975, nhà văn đi tìm hạt ngọc ấy trong chất sử thi anh hùng với những tác phẩm tên tuổi
như“Mảnh trăng cuối rừng”, “Dấu chân người lính”, “Cửa sông”,…thì sau năm 1975, bằng tâm
huyết và tài năng, bằng khát vọng sáng tạo chân chính và bản lĩnh dũng cảm, ông vẫn tiếp tục hành
trình tìm kiếm không ngừng nghỉcủa mình về cảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức, nhân
sinh, để từ đó khám phá ra vẻ đẹp của những “hạt ngọc ẩn giấu” trong những con người đời thường
lam lũ, nhọc nhằn. Và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện tài
năng và tấm lòng của Nguyễn Minh Châu – một người nghệ sĩ mang trong mình mối quan hoài sâu
sắc trước những vấn đề của đời sống, của con người.

“Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật
chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”. Vì vậy, văn chương không chỉ
được tạo nên bởi sự mĩ miều với những giá trị tuyệt đích mà phải là những tác phẩm mang đến cho
người đọc một nội dung ý nghĩa có tính thông điệp, và hơn hết phải làm rung động hàng triệu tâm
hồn, có chỗ đứng qua thời gian và năm tháng. Điều này đòi hỏi ở các văn nhân sự chú trọng khai
thác mọi khía cạnh và phản ánh cuộc sống đa chiều, muôn màu muôn vẻ, từ đó khơi sâu và làm hiện
lên cả những góc khuất của đời sống xã hội, của bản chất con người, hơn thế là làm nổi bật những
vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn con người, mang một niềm tin cao cả, hướng người tiếp nhận tới
những chân – thiện – mĩ, những chân giá trị đích thực.. Và “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là một
minh chứng rõ nét, tiêu biểu cho tất cả những điều ấy.

“Chiếc thuyền ngoài xa” bắt đầu bằng một tình huống độc đáo và bất ngờ. Nếu nói mạch
cảm xúc và cấu tứ là cái để người ta vịn vào tìm hiểu nội dung của một văn bản thơ, thì tình huống
truyện chính là một khởi điểm chắc chắn để khai thác, tìm tòi những cái đặc sắc của một tác phẩm
văn xuôi. Đó là những sự kiện éo le, bất ngờ, khác lạ để mở ra một câu chuyện dài ở phía sau, mà
theo như ý của Nguyễn Minh Châu thì tình huống truyện là “cái tình thế mà ở đó sự sống hiện ra
một cách đậm đặc, cái khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người”. Từ tình huống truyện, tính cách,
số phận của nhân vật được gợi mở, cũng từ tình huống truyện mà chủ đề cũng như những giá trị mà
tác giả xây dựng được hé lộ một cách tinh tế và độc đáo.

56 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh một người nghệ sĩ Phùng bắt gặp được cảnh "đắt trời cho" vào
một buổi sớm mai. Từ xa xa, trong từng làn sương mờ ảo, huyền diệu, bóng một con thuyền thấp
thoáng tiến vào bờ, trong khoảnh khắc ấy, ánh mặt trời bình minh mang màu hồng nhạt đang chiếu
vào con thuyền tạo nên vẻ toàn bích. Trong con mắt của người nghệ sĩ khát khao đi tìm kiếm cái
đẹp lúc ấy thật hạnh phúc khi được ngắm nhìn một vẻ đẹp "xưa nay chưa từng có". Cảnh sắc thiên
nhiên hữu tình, hài hoà trong vẻ đẹp lao động của người ngư phủ, cả sắc màu, ánh sáng, đường nét
đều hoàn mỹ. Trước bức tranh tuyệt đẹp ấy, người nghệ sĩ đã vô cùng rung động, vô cùng cảm xúc
và vẫn không quên nhiệm vụ của mình, bấm máy ảnh liên tục ghi lại khoảnh khắc ấy. Đây là một
bức tranh đẹp mà tạo hóa đã ban tặng, những không phải lúc nào cũng có thể bắt gặp được, một
người nghệ sĩ như Phùng phải mải miết mà tìm kiếm, phải đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ, phải lao
động nghiêm túc trên hành trình đi tìm cái đẹp ấy mới có thể gặp gỡ và tạo ra sản phẩm đáng tự
hào.

Nghịch lí cuộc đời bắt đầu từ đây, khi chiếc thuyền tiến gần vào bờ, hình ảnh một cặp vợ
chồng đang rời thuyền, họ lội qua một quãng bờ phá, nước ngập tới tận đầu gối. Trong giây lát tiếng
người đàn ông cất lên văng vẳng quát tháo những đứa con đang ở trên thuyền. Hình ảnh cặp vợ
chồng lam lũ bước ra từ chiếc thuyền vốn đẹp như thiên đường, người chồng cao to, thô lỗ, vẻ mặt
dữ tợn, còn người đàn bà khuôn mặt thô kệch toát lên đầy sự mệt mỏi. Chỉ bằng một vài câu văn
miêu tả ngoại hình tác giả phần nào đã khiến cho người đọc vỡ mộng, đằng sau vẻ hào nhoáng kia
của chiếc thuyền thì con người lại hiện ra chân thực, chẳng hề mang vẻ đẹp hoa mĩ nào. Nhưng
nghiệt ngã hơn chính là cảnh bạo hành vợ của gã đàn ông thô bạo kia, hắn rút ra “một chiếc thắt
lưng của lính nguỵ ngày xưa”, chẳng ai nói với nhau lời nào, hắn trút cơn giận như lửa cháy dùng
hết sức lực quật tới tất vào lưng người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, răng nghiến ken két. Mỗi
một nhát quất xuống hắn lại cất lên những câu chửi nguyền rủa bằng cái giọng “rên rỉ, đau
đớn”:“Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Người đàn bà vẫn ngồi im
“cam chịu, nhẫn nhục”, không một lời van xin hay oán trách, chẳng chống trả cũng không hề chạy
trốn. Sự việc xảy đến quá nhanh, quá bất ngờ đến nỗi nghệ sĩ Phùng không thể tin vào chuyện gì
đang diễn ra trước mắt. Anh bàng hoàng, sửng sốt trong mấy phút đầu chỉ biết “đứng há mồm ra mà
nhìn”. Thằng Phác từ đâu lao đến nhanh hơn cả mũi tên, giật lấy chiếc dây lưng quất vào “tấm ngực
trần vạm vỡ cháy nắng” của cha nó. Cảnh tượng người chồng đánh đập vợ dã man, người vợ cam
chịu, đứa con đánh lại cha trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp của con thuyền ngư phủ. Tác giả đã vẽ
nên bức tranh hiện thực cuộc sống ẩn sau vẻ đẹp hào nhoáng bằng một hiện thực nghiệt ngã. Qua
những gì được chứng kiến, Phùng như được giác ngộ về những nghịch lí vẫn còn tồn tại trong cuộc
sống. Từ chiếc thuyền ngoài xa rất đẹp, rất thơ mộng, cho đến khi con thuyền tiến lại gần, khi
khoảng cách không còn nữa, bản chất cuộc đời mới được biểu hiện một cách rõ ràng và chân thực.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã xây dựng hình ảnh người đàn bà hàng chài hiện lên là một
nạn nhân khốn khổ của bạo hành gia đình. Đó là một người đàn bà không tên, lẫn vào trong đám
đông vất vả, lam lũ, khốn khổ của đời sống hiện thực, một con người không hề cá biệt, một cuộc
đời tiêu biểu cho nhiều cuộc đời khác. “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen
57 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch” với khuôn mặt rỗ đầy mệt mỏi.
Chân dung người đàn bà hàng chài là một chân dung rất khác với các nhân vật nữ trong các tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1980. Những người phụ nữ trong tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu nhìn chung thường mang vẻ đẹp thánh thiện, trong sáng. Đó là Nguyệt trong “Mảnh
trăng cuối rừng”, là Quỳ trong “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”,… Bước vào thế giới ấy,
chân dung người đàn bà hàng chài là một dị biệt. Chị vốn dĩ đã không đẹp ngay từ nhỏ, lại phải chịu
di chứng của trận đậu mùa với vô vàn nốt rỗ trên gương mặt xấu xí. Ngoại hình ấy còn tiều tuỵ
thêm vì cuộc sống lam lũ, vất vả, phải đối mặt với phong ba bão táp hàng ngày trong khi họ chỉ có
một con thuyền nghèo túng, chật chội mãi thêm vì đàn con ngày một đông đúc. Không chỉ có vậy,
người đàn bà ấy còn phải chịu đực những trận đòn thô bạo như cơm bữa của lão đàn ông hàng chài
độc dữ. Tất cả những nét chân dung ấy đã hé mở cho người đọc về một cuộc sống nghèo đói, lam
lũ, một thân phận đàn bà khốn khổ, nhọc nhằn.

Không chỉ qua nét chân dung về ngoại hình, nhà văn Nguyễn Minh Châu còn khắc hoạ nỗi
đau của người đàn bà hàng chài qua hành động, cử chỉ của chị khi bị chồng đánh. Trước những trận
đòn trời giáng của người chồng, người đàn bà không hề kêu than, không hề chạy trốn, cũng không
hề chống trả mà chỉ quỳ xuống cầu xin. Phải chăng vì đòn roi nhiều quá, phải chịu đựng nhiều quá
khiến chị u mê, hay phải chăng do thất học mà chị không hiểu quyền sống của mỗi người? Với
chồng là vậy, còn với con, chị cũng có những hành động thật trái với lẽ thường: “người đàn bà ngồi
xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm
chầm lấy”. Tâm trạng của người đàn bà hàng chài được thể hiện rõ nhất qua “những giọt nước mắt
chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Dòng nước mắt ấy như được chắt ra từ những vết thương
đau đớn trong tâm hồn chị, đó là những giọt tủi thân, tủi phận. Chỉ khi khóc, chị mới thấm thía cả
nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần.

Mặc dù là một nạn nhân khốn khổ của nạn bạo hành gia đình nhưng thực chất, ẩn sâu bên
trong vẻ bề ngoài xấu xí ấy là một người phụ nữ trải đời sâu sắc, giàu lòng vị thi và đức hi sinh. Đó
chính là một “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” được nhà văn khám phá qua hành
trình nhận thức của Phùng và Đẩu. Khi bị đưa về toà án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát
khỏi cuộc hôn nhân không hạnh phúc ấy, vậy mà chị chỉ xin quan toà: “Quý toà bắt tội con cũng
được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó". Đến tận cùng nỗi đau, thế nhưng, khi được
quyền lựa chọn giải thoát khỏi số kiếp ấy, chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó
hiểu và nực cười cho người bà dại dột. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ
lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Cái nhìn của người đàn bà hàng chài như lời minh oan
cho lão đàn ông, rằng lão cũng là một nạn nhân, một số phận khốn khổ khác. Bản tính của lão
không xấu, lão hiền lành, chất phác, nhưng cái nghèo đã khiến lão trở thành một con người vũ phu,
cộc cằn. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, thấu hiểu lòng người, khác hẳn với cái nhìn của
Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng người phụ nữ thân gái dặm trường cần một người đàn
ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Những con người

58 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

lênh đênh bốn bề là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày.
Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho môt người phụ nữ.

Đối với con cái, người đàn bà tự nhận thiên chức của mình là sinh ra để đẻ con, nuôi con.
Người đọc dường như hiểu vì sao người đàn bà phải gửi thằng Phác lên bờ. Chị gửi con đi, một
phần vì đói nghèo, phần nhiều vì đó là đứa chị yêu thương nhất trong đàn con của mình. Chị gửi
con đi vì mơ hồ nhìn thấy trước tai hoạ, rằng nếu cứ để nó trên thuyền thì những điều tồi tệ nhất
cũng có thể xảy ra. Hơn nữa, chị không muốn làm tổn thương con, không muốn con mang những ấn
tượng xấu về gia đình, về người cha, không muốn điều gì ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách
của con. Với chị, niềm vui nhỏ bé nhà được nhìn đàn con ăn no, dù cho mình có bị đánh đập tàn
nhẫn đến thế nào, chị vẫn cam chịu. Dù chân dung ngoại hình có khác với những nhân vật nữ trong
các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài vẫn là người phụ nữ muôn thuở mang
vẻ đẹp mẫu tính sâu đậm. Đó là người sinh ra với thiên chức của người mẹ.

Trong cuộc đời cầm bút của mình, điều mà Nguyễn Minh Châu đau đáu nhất là khai phá vẻ
đẹp ẩn sâu trong tâm hồn con người. Và trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, “hạt ngọc” ấy được tìm
thấy giữa vô vàn những lấm láp, những gồ ghề, gai góc. Tất nhiên, một phát hiện như vậy không thể
đến nếu người nghệ sĩ chỉ đứng ngoài mà quan sát hời hợt, vồ vập và chụp những bức ảnh hiện thực
bề ngoài. Vượt lên tất cả, đó là sự dấn thân, là lòng trắc ẩn, là niềm đau đáu với số kiếp con người
của một người cầm bút chân chính.

Không chỉ làm hiện lên bức chân dung người đàn bà hàng chài một cách chân thật, các nhân
vật khác trong “Chiếc thuyền ngoài xa”cũng được Nguyễn Minh Châu dụng công xây dựng bằng
tất cả tấm lòng của người cầm bút chân chính. Trong cuộc sống mới, khi chiến tranh đã qua, mặc dù
những đứa trẻ như cậu bé Phác không phải gánh chịu những nỗi đau chiến tranh gây nên nhưng
hoàn cảnh sống của chúng cũng thật đáng thương. Những đứa trẻ phải sống trên chiếc thuyền lưới
vó trong công cuộc mưu sinh đầy bấp bênh, nhọc nhằn. Nhân vật Phác cùng với những đứa con
khác đều là nạn nhân của nghèo đói, thất học. Tất cả dường như khía vào lòng người đọc nỗi đau về
thân phận của những đứa trẻ trong cuộc đời mới. Cậu bé Phác được nhà văn khắc hoạ với những
hành động thật khác thường mà cũng thật cảm động như đánh bố, lau nước mắt cho mẹ, thủ sẵn con
dao trong người, tuyên bố rằng “nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Để bảo
vệ mẹ, thằng bé tàn nhẫn với chính người bố của mình. Đó lại là một nghịch lí ở đời, qua đó nhà
văn muốn phơi bày bức tranh hiện thực sâu sắc của cuộc sống con người sau chiến tranh.

Trái ngược với cậu bé Phác đầy xốc nổi, nhân vật người chị gái lại là một người biết suy
nghĩ chín chắn, là điểm tựa tinh thần cho người đàn bà hàng chài khốn khổ. Chị là một người con
gái hiếu thảo. Chị thương mẹ nhưng không biết phải làm gì để giúp mẹ, giận cha nhưng cũng không
thể làm gì để can ngăn cha, và dù thương em chị cũng không biết phải khuyên bảo em như thế nào.
Quả thật, dù đều là những đứa trẻ biết yêu thương nhưng mỗi đứa trẻ có một cách phản ứng khác
nhau trước hành động bố nó gây ra. Những đứa trẻ ấy phải chịu bất hạnh, không được hưởng hạnh
phúc trọn vẹn nên chúng rất dễ bị tổn thương bởi những hành vi xấu của người lớn. Tác phẩm
59 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

dường như gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, mang theo nỗi lo sợ cho sự phát triển nhân cách của
những đứa trẻ trong một môi trường phi nhân tính.

Với nhân vật lão đàn ông, Nguyễn Minh Châu chỉ khắc hoạ một vài chi tiết ngoại hình
nhưng làm nổi bật hình ảnh người đàn ông lam lũ, nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh, đồng thời hé mở
phần nào tính cách dữ dội của nhân vật. Từ lời nói đến hành động, nhà văn cho người đọc thấy được
cách đối xử thô bạo và tàn nhẫn của lão với vợ con. Nhưng sâu xa hơn, ta thấy được rằng, không chỉ
là kẻ gây nên cảnh bạo hành, lão đàn ông cũng là nạn nhân của sự thất học, của cuộc sống đói
nghèo đầy tăm tối. Đằng sau tất cả, đó là sự phơi trải và thấu hiểu của nhà văn về bi kịch của kiếp
người.

Ngoài ra, nhân vật Phùng và Đẩu cũng được nhà văn Nguyễn Minh Châu dụng công xây
dựng, góp phần thể hiện cái nhìn sâu sắc về cuộc đời, về con người của ông. Đó cũng là cái nhìn
đầy nhân đạo, tin tưởng về những phẩm chất tốt đẹp của con người.

Nhân vật chánh án Đẩu là người chiến sĩ trong thời kì chiến tranh. Và trong thời bình, người
chiến sĩ từng đi qua những năm tháng chiến tranh ấy tiếp tục đứng ra để bảo vệ công lí, bảo vệ lẽ
phải. Và ở toà án huyện, sau khi nghe người đàn bà kể lại chuyện về cuộc đời mình và về lão đàn
ông, “một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Câu chuyện
của người đàn bà hàng chìa đã giúp Đẩu nhận ra, hiểu hơn về những nghịch lí ở đời, và đôi khi vì
mưu sinh, vì cuộc sống mà những người phụ nữ phải chấp nhận tất cả những nghịch lí trớ trêu ấy.

Còn nhân vật Phùng chính là sự hoá thân của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Mượn điểm nhìn
của nhân vật, nhà văn thể hiện cách nhìn mới mẻ của mình về con người, về cuộc đời và cả về văn
chương nghệ thuật. Phùng xuất thân là một người lính của khói lửa chiến tranh. Bản thân mang
những phẩm chất tốt đẹp của một người lính: Căm ghét những bất công ở đời, luôn muốn ra tay
thực hiện chính nghĩa. Phùng đã hành động đúng với lương tâm một người lính trong cả hai lần anh
chứng kiến cảnh người đàn bà bị bạo hành dã man. Và chính điều đó đã giúp Phùng có thêm nhận
thức mới mẻ về cuộc đời và con người thời hậu chiến, với những bất công, những bi kịch, những
nghịch lí xót xa.

Không chỉ là một người lính, Phùng còn là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh với một tâm hồn
nhạy cảm, tinh tế, khao khát cái đẹp và say mê kiếm tìm cái đẹp. Khi nhận ra cảnh “đắt trời cho”,
với Phùng, cái đẹp chính là đạo đức, là cái hoàn thiện, hoàn mĩ. Nhưng cho đến khi được chứng
kiến và lắng nghe về thân phận người đàn bà hàng chài, lúc bấy giờ, Phùng mới hiểu rằng cái đẹp
phải gắn liền với cái thật của cuộc đời, gắn với cái bề sâu trong tâm hồn con người. Đó cũng là phát
hiện đầy mới mẻ về cuộc sống và con người của Nguyễn Minh Châu qua cái nhìn đa diện, nhiều
chiều. Bên cạnh hình tượng người đàn bà hàng chài, nhân vật người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng
là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Minh Châu. Qua nhân vật Phùng, người đọc dường
như nhận ra bức chân dung tinh thần của nhà văn. Ở Nguyễn Minh Châu là một cái nhìn đầy thấu
hiểu, giàu yêu thương, đầy lo âu về cuộc sống, về con người.

60 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Văn học phải cố gắng phản ánh những sự thật ở đời, với tất cả sự đa dạng và phức tạp của
nó, có cả nỗi đau và niềm vui, cả cái thấp hèn và cái cao thượng chứ không phải chỉ là những tác
phẩm tụng ca xuôi chiều, tô hồng hiện thực mà lảng tránh những nỗi đau trong cuộc sống. Thế
nhưng, hiện thực trong văn học phải được gạn lọc như muối mặn của biển khơi. Nhà văn – những
người cầm bút phải biết chắt chiu những gì tinh tuý nhất, cốt lõi nhất, chắt chiu cái “thần” của hiện
thực xô bồ, chồng chéo, để từ những phát hiện cụ thể ấy, người đọc thấy được bản chất của cuộc
sống, rút ra những bài học đạo đức hay triết lí nhân sinh. Và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
đã thực hiện được thiên chức của văn chương đích thực, làm nên thước đo giá trị và sự trường tồn
của tác phẩm, đồng thời thể hiện tài năng và tấm lòng của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Có thể thấy, Nguyễn Minh Châu là một người nghệ sĩ đầy tài năng khi đặt nhân vật vào một
tình huống độc đáo để bộc lộ rõ tính cách, tạo tầng sâu ý nghĩa cho nhân vật và cho tác phẩm. Qua
“Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn bộc lộ quan điểm, nhận thức của mình về nghệ thuật, đồng thời
thể hiện cái nhìn đầy nhân đạo, tin tưởng về những phẩm chất tốt đẹp của con người. Nguyễn Minh
Châu đã dứt khoát chối bỏ con đường bằng phẳng để dũng cảm khai phá con đường mới đầy cheo
leo, gai góc, đến với sự thật sâu xa toàn vẹn của cuộc sống và tâm hồn con người. Ngòi bút của ông
đã lật xới, thăm dò những tầng sâu nhất của đời sống để làm thay đổi những cái nhìn giản đơn, hời
hợt, để từ đó “Chiếc thuyền ngoài xa” đã ra đời, chạm tới những góc khuất nơi tâm hồn người đọc,
cũng vì thế mà làm nên sức sống của tác phẩm trên văn đàn theo năm tháng.

4, Giá trị nhân đạo trong tác phẩm

Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính được tạo nên
bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh
trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong
tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hòan cảnh nào của cuộc đời.
- Biểu hiện ở sự đồng cảm của nhà văn đối với cuộc đời người lao động sau chiến tranh. Nhà
văn đã nhìn thấu và miêu tả chân thực cuộc sống nhọc nhằn, cơ cực, khốn khổ của những con người
lao động thông qua hình tượng người đàn bà hàng chài. Nguyễn Minh Châu đã dành biết bao yêu
thương cho số phận bất hạnh của chị (phân tích nỗi khổ của người đàn bà: xấu xí, nghèo khổ, nạn
nhân của bạo hành gia đình).
- Không chỉ dừng lại ở đó, nhà văn còn lí giải những nguyên nhân gây nên đau khổ cho con
người. Từ đó, ông phê phán, lên án hành động vũ phu thô bạo của người chồng trong đối xử với vợ,
con (các em miêu tả cảnh người chồng đánh vợ). Đồng thời, thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình
trạng nghèo cực, tối tăm của con người (cảnh đói nghèo, cơ cực, tình trạng bất ổn, bất trắc trong
cuộc sống …là nguyên nhân sâu xa của sự bạo hành và sự nhịn nhục chịu đựng); bày tỏ niềm trắc
trở trước cuộc sống của thế hệ tương lai (qua cách nhìn của nhà văn đối với cậu bé Phác).
- Tác giả đã khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động mà tiêu biểu là người đàn bà
hàng chài và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là vẻ đẹp của lòng vị tha, sự thấu hiểu
lẽ đời và tình mẫu tử sâu nặng (phân tích câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện). Trong hoàn

61 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

cảnh đau khổ, nghèo khó, tăm tối vẫn ngời lên vẻ đẹp của tình yêu thương, của đức hy sinh thầm
lặng.
- Tư tưởng nhân đạo mang tính triết lí của tác phẩm, còn được thể hiện ở việc nhà văn đặt ra
vấn đề : làm thế nào để giải phóng con người khỏi những bi kịch gia đình, bi kịch cuộc sống con
người muốn thoát khỏi đau khổ, tăm tối, man rợ cần những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ
là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn, cần rút ngắn khoảng cách giữa văn
chương và hiện thực đời sống.
=> Tác phẩm thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai đọan sáng tác thứ hai : Văn
học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người…Quan niệm ấy đã khiến tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu ở giai đọan này giàu nhân bản. Đọc tác phẩm của ông, người ta đau đớn, day
dứt về thân phận con người và tràn đầy khát vọng làm người cao đẹp.

5. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Phùng

Tác giả : Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học
việt nam thời kì đổi mới. Nhà văn Nguyên Hồng đã đánh giá về ông : “Là một trong số những nhà
văn mở đường tinh và tài năng nhất trên con đường đổi mới”.Nguyễn Minh Châu là nhà văn suốt
đời đi tìm cái đẹp và cái thật, đặc biệt là cái đẹp như những hạt ngọc ẩn chứa bên trong tâm hồn
người lao động.Xu hướng sau năm 1975, là xu hướng đời tư thế sự ( tự sự triết lý ) những câu
chuyện bình dị đời thường, ẩn sau đó là những bài học triết lý.Thời chiến tranh , nhân vật trong văn
học trở nên kì vĩ, mang vầng hào quang, thần thánh hóa.Còn khi hòa bình lập lại cuộc sống đầy
những ngang trái không phải ai cũng nhận ra, bởi vậy mà Nguyễn Minh Châu viết nhưng tác phẩm
luận đề. Chiếc thuyền ngoài xa không chỉ dừng lại là một tác phẩm viết về một gia đình hàng chài
mà ở đó là sự thay đổi về cách nhìn nhận về cuộc đời. Ban đầu tác phẩm này in trong tập bến quê
1983, nhưng sau này ông lấy tên tác phẩm làm tên của một tập truyện riêng 1987, ông có sự sửa đổi
vị trí của tác phẩm trong tập truyện của mình. Nhìn nhận được cuộc đời và nghệ thuật, đó mới là
điều kiện tiên quyết với một nhà văn.
Trong một tác phẩm truyện thương có ba loại tình huống, một là tình huống hành động, hai
là tình huống tâm lý, ba là tình huống vỡ lẽ hay còn được gọi là tình huống tự nhận thức. Tác phẩm
này thuộc vào loại tình huống thứ ba, khi nhân vật đứng trước một sự việc, mâu thuẫn tự nhận thức
ra những triết lý của cuộc sống (Từ khi hiểu nhầm, hiểu ngược cho đến khi nhận ra chân lý).
Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh và anh vốn là một cựu chiến binh, chiến tranh kết thúc anh
trở thành một phóng viên của một tờ báo trung ương.Phùng được giao nhiệm vụ chụp ảnh để hoàn
thành bộ lịch 12 tờ năm sau. Anh đã đi tới nhiều nơi chụp nhiều những bức ảnh, trưởng phòng khó
tính nhưng rất ưng ý.Trưởng phòng yêu cầu anh đi chụp cảnh biển trong sương sớm không có
người, để làm ảnh lịch của tháng 7. Để thực hiện nhiệm vụ , anh trở về vùng biển miền trung là
chiến trường xưa của mình, vừa thăm người bạn cũ của mình là Đẩu, hiện là chánh án tòa án
huyện.Tại đây Phùng đã chứng kiến nhiều sự việc khiến anh đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên
khác.Anh nhận ra mình cần phải thay đổi trong cách nhìn nhận về cuộc sống con người và nghệ

62 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

thuật. Phùng chính là nhân vật mà nhà văn gửi gắm những quan niệm về cách nhìn, cách nhận thức
của Nguyễn Minh Châu. Phùng cũng chính là phương tiện để ông gửi gắm và khám phá, truyền tải
phương tiện của mình đến với người đọc. Phùng là thể hiện cái tôi của nhà văn, bóng dáng của tác
giả.

Thứ nhất ta có thể khẳng định Phùng là người yêu nghề và say mê cái đẹp.

Thứ hai Phùng là người có tấm lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, dũng cảm bênh vực con
người bé nhỏ tội nghiệp, bất bình trước cái xấu.

Thứ ba Phùng là người dám thay đổi cách nhìn theo cuộc sống cho phù hợp với thực tế ,
không cố chấp không bảo thủ.

Trước tiên Phùng là người nghệ sĩ luôn khao khát tìm kiếm cái đẹp, có một trái tim dễ rung
cảm với vẻ đẹp của cuộc sống, con người.Vẻ đẹp này của anh được thể hiện ở phát hiện thứ
nhất.Khi được giao nhiệm vụ săn ảnh trong tờ lịch tháng 7 năm sau, anh quay trở lại vùng biển
miền trung, quyết định phục kích ở đây suốt một tuần.Chấp nhận ăn gió nằm sương để tìm ra vẻ đẹp
cảnh biển mà trưởng phòng giao phó.Sáng sớm, anh bắt gặp một cảnh tượng đắt như trời cho, chiếc
thuyền đánh cá đang thu lưới trong lúc bình minh.Phùng khẳng định đó là một cảnh đẹp như một
bức tranh bằng mực tàu của một danh họa thời cổ (mũi thuyền in một nét lòe nhòe trong bầu sương
mù trắng như sữa pha chút màu hồng hồng của nắng, rồi tất cả khung cảnh ấy nhìn qua mắt lưới,
tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra với hình thù như cánh của một con dơi.Toàn bộ khung
cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích.Anh say sưa
thưởng lãm vẻ đẹp của đất trời, thậm chí còn thấy bối rối, trong trái tim nhưng có gì bóp thắt
lại.Anh còn đắm chìm trong vẻ đẹp từ đó suy tưởng về mối quan hệ giữa cái đẹp và cái thiện, để rồi
nhận ra rằng bản thân cái đẹp chính là đạo đức) Chính cái đẹp đã làm trong sạch tâm hồn khi cảm
nhận được chiếc thuyền ngoài xa.Phùng vồ vập háo hức tới mức chẳng còn lựa chọn xê dịch gì nữa,
anh gác máy lên chiếc xe tăng hỏng bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuộn phim.Tóm lại
Phùng là một người nghệ sĩ chuyên săn lùng cái đẹp, anh thật sự biết quan sát lựa chọn cái đẹp của
tự nhiên và cảm nhận được giá trị.Phùng là một người nghệ sĩ chân chính
Phùng là người biết bất bình trước cái xấu, biết đứng lên bảo vệ bảo vệ bênh vực người yếu
kẻ yếu.Vẻ đẹp này của anh được thể hiện ở phát hiện thứ hai. Từ chính chiếc thuyền ngoài xa đẹp
như mơ ấy, anh nhận ra một cảnh đời rất trớ trêu, éo le.(khi con thuyền tiến lại gần) người đàn ông
hàng chài thô kệch, hung dữ đánh người đàn bà một cách dã man.Hai người đi qua trước mặt anh,
vòng về sau chiếc xe tăng xích trên bãi cát, người đàn ông lao vào đánh người đàn bà, với chiếc thắt
lưng da, vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng độc dữ : “mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày
chết hết đi cho ông nhờ”. Điều kì lạ người đàn bà chấp nhận để cho chồng đánh với vẻ nhẫn nhịn và
cam chịu. Phác là con trai của nhà này ngủ với Phùng ở xe tăng xích, lao đến đánh bố, giật được
thắt lưng của bố quật vào ngực rồi ăn hai cái tát ngã dúi xuống cát.
63 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Lần đầu Phùng nhìn thấy cảnh tượng đó thì vô cùng kinh ngạc, anh vứt chiếc máy ảnh
xuống đất lao tới để ngăn cản.Lần thứ 2, sau đó ba ngày , anh lại chứng kiến cảnh bạo lực và lần
này không thể nén chịu hơn được nữa , anh xông ra buộc gã đàn ông phải chấm dứt hành động của
gã đàn ông tàn độc.Gã đánh trả Phùng khiến anh bị thương, câu chuyện của gia đình hàng chài
khiến anh trăn trở và suy nghĩ rất nhiều.Phùng hoàn toàn có thể đi về sau khi chụp xong ảnh và
hoàn thành bộ lịch mà cấp trên giao phó.Nhưng Phùng vẫn quyết định tìm hiểu về câu chuyện này,
giúp đỡ người đàn bà hàng chài.Kết thúc tác phẩm sự day dứt của người nghệ sĩ thể hiện ở chỗ :
bức ảnh anh chụp chiếc thuyền ngoài xa được treo ở rất nhiều nơi nhất là những gia đình sảnh nghệ
thuật, tuy là ảnh đen trắng nhưng kì lạ thay, mỗi lần Phùng nhìn bức ảnh. Nghệ sĩ Phùng nhìn thấy
hiện lên ánh hồng hồng của ánh sương mai, hình ảnh người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh.Vẫn tấm
áo bạc phếch, lưng có miếng vá, nửa thân người ướt sũng, khuôn mặt rỗ, nhợt trắng vì hàng đêm
kéo lưới.Chị bước những bước đi chậm rãi, chậm giậm trên mặt đất chậm chậm một cách chắc chắn
hòa lẫn vào đám đông.Anh nhìn thấy những số phận còn đói nghèo vẫn đeo bám con người, hòa
bình đã lập lại 7,8 năm, đất nước đã chuyển sang giai đoạn mới. Thế nhưng vẫn còn những cảnh đời
nghiệt ngã, lạc hậu, thất học, sinh nhiều con… vẫn còn đeo bám họ.Cần phải có giải pháp để thay
đổi cuộc sống của những con người trong thời đổi mới.Đó là sự tưởng tượng của Phùng, anh hi
vọng người đàn bà sẽ đứng vững trên đường đời của mình.
Vẻ đẹp cuối cùng của Phùng là dũng cảm dám thay đổi cách nhìn nhận về cuộc sống và
nghệ thuật. Nếu như những chiếc xe tăng hỏng trên bãi cát là ẩn dụ cho một thời đại huy hoàng của
đất nước ta.Con thuyền ngoài xa với ánh nắng hồng hồng của sương mai là đại diện cho nghệ thuật ,
đại diện cho cái nhìn màu hồng của cuộc sống.Nhưng khi Phùng nhìn thấy con thuyền vào gần, câu
chuyện của gia đình hàng chài và phiên tòa của Đẩu.Phùng đã hiểu cuộc sống trong thời đại mới đã
khác, màu hồng ấy chỉ che đậy những xấu xa tệ hại, màu hồng ảo tưởng mơ hồng cuộc sống.Thế
nhưng cuộc sống này vẫn có những trái ngang mà bản thân anh phải thay đổi cách nhìn của mình
( bản chất và hiện tượng, nghệ thuật và cuộc sống, lý thuyết sách vở và sự thật cuộc sống ).Nhờ việc
chứng kiến câu chuyện của gia đình hàng chài, anh đã hiểu được nghệ thuật chân chính phải đi lên
từ cuộc sống, xử lý một vấn đề phải đi từ bản chất chứ không phải hiện tượng bên ngoài, lý thuyết
sách vở thì thường đúng nhưng cuộc sống vẫn có lí lẽ riêng của nó đầy trái ngang.Cuộc sống vẫn có
vô vàn những cái khó khăn, trớ trêu, ngang trái, nghịch lý không thể giải thích được ( Vợ bị chồng
đánh đập thường xuyên nhưng lại quyết tâm gắn bó cả cuộc đời mình không một lời chê trách oán
thán, bị đánh không chạy trốn , không kêu van, trẻ con không được đến trường, cho con lên rừng,
giấu con chuyện tệ hại của gia đình, không cho con chứng kiến sự tàn nhẫn của người bố ) Anh may
mắn nhận ra rằng cuộc đời này không phải màu hồng.Vì vậy anh đã thay đổi cách nhìn nhận , trong
khi Đẩu như vỡ ra một điều gì đó.Anh cảm thấy ngột ngạt dù gió biển thổi trong căn phòng, đó là
ngột ngạt của nhận thức, người nghệ sĩ nhận ra mình đã sai.Vẻ đẹp của cuộc sống, phải là những gì
thật nhất, chân thực nhất, nhìn nhận một vấn đề phải nhìn vào bên trong của vấn đề, một cái nhìn
đầy đủ, đa diện và nhiều chiều.Đó mới đích thực là công việc của nghệ sĩ.

6. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài

64 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm
được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải "
Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là
người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này". Ông đã để cho lớp người đi sau
một tác phẩm rất đặc sắc mang tên " Chiếc thuyền ngoài xa" với nguồn cảm hứng vô tận và những
bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài
đã để lại trongn lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.
Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh
phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những
ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà
hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây, Đó là một người đàn bà trach
ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi "mụ", " người đàn bà hàng
chài" như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.
Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với " một thân hình quen thuộc của đàn bà
vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức
trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ". Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ
gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy. Một người
lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo
khổ ấy còn hiện lên trên "tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng". Từ cách hành xử,
đi đứng đến " tìm đến một góc tường để ngồi" càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp.
Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên
tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.
Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con
người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt
nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm
thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi.
Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên
một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và
chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh " ba ngày một trận nhẹ,năm ngày một trận
nặng".
Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về
tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy.
Thằng con trai của chị thương mẹ , lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã " chấp tay vái
mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí". Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị
vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà
cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy
cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm
muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia
đình chị.

65 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với
những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi
bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin
quan tòa rằng " quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó". Đến tận
cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc
sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình
của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng
những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh
ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn. Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm
chung như những nhân vật Chí phèo của Nam cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy.
Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người
đàn bà ấy biết rõ rằng : thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con
cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó
vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một
người đàn ông giàu sang, có học vấn. Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn
hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu
những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị
càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho môt người phụ nữ.
Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật
đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của
chị thật giản đơn khi " vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no". Những đứa
con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình
thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên
hơn. Tháp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ
nữ Việt nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà
người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt nam trong mọi thời
đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ
còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho
số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp
tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

66 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Lưu Quang Vũ)


----------------------------------------------
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi
Như tiếng gọi ngàn đời không khuất phục
Đất nước giống như con thuyền xuyên gió mạnh
Những mối tình trong gió bão tìm nhau
(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi…- Lưu Quang Vũ)
Từ những năm 60 của thế kỉ trước, Lưu Quang Vũ đã khẳng định tên tuổi của mình bằng
việc sáng tác thơ ca, ngay từ đầu ông đã tạo được dấu ấn về một lối viết tài hoa, nông nàn cảm xúc
toát lên tình yêu quê hương, đất nước tha thiêt, mà Hopaif Thanh đã từng nhận định rằng” Thơ anh
là một tiếng nói nhỏ nhẹ mà sâu”. Từ năm 1978, Lưu Quang Vũ bắt đầu chuyển sang lĩnh vực sân
khấu. Có thể khẳng định” Sân khấu mới là mảnh đất của người nghệ sĩ tài ba này”… Cảm hứng chủ
đạo trong kịch Lưu Quang Vũ là cảm hứng về con người, về cái đẹp, cái thiện, cái tôi hòa tan trong
cái ta. Ở đó tính thời sự được kết hợp với những vấn đề muôn thuở của nhân loại mà tiêu biểu đó là
vở “ Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Đó là cuộc gioa trang giữa cái thiện và cái ác, cuộc giao tranh
này là muôn đời muôn kiếp từ khai sinh cho đến ngày không còn trái đất thì vẫn còn giao trang
thiện ác. Cho nên có người đã từng nói” kịch Lưu Quang Vũ là có tính vĩnh cửu”
1. Nhan đề tác phẩm :

Nhan đề xây dựng trong nghệ thuật tương phản giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, có ý
nghĩa tương phản giữa thể xác bên ngoài và linh hồn bên trong ý chính vì vậy hồn Trương Ba và da
hàng thịt chính là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.
Nếu như da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người thì hồn Trương Ba là
biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Đó là sự mâu thuẫn giữa hình thức
67 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

và bản chất trong một con người. Nhưng hồn Trương Ba còn là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng
thanh cao, còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm thường, cái bản chất
thấp kém trong một con người.
 Nhan đề “Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt” cũng như nội dung của truyện khiến người
đọc nhận ra hình tượng nghệ thuật phản ánh một hiện thực cuộc sống con người khi bị rơi vào
nghịch cảnh, phải sống giả tạo bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo, không được sống đích thực
là chính mình. Không chỉ dừng lại đó, nhan đề còn gửi gắm một ý nghĩa sâu sắc: Đó là sự cảnh tỉnh
con người khi không làm chủ được hoàn cảnh, bản thân để cho lối sống dung tục tầm thường lấn át
lối sống thanh cao trong sáng, để thể xác sai khiến linh hồn, để những ham muốn bản năng thấp
kém làm cho nhân cách lệch lạc, khiến tâm hồn và thể xác không còn là một thể hài hòa thống nhất.
2. Tình huống kịch của tác phẩm
Lưu Quang Vũ được coi là một hiện tượng độc đáo của nền văn học Việt Nam thời kì đổi
mới ở những năm 80 của thế kỉ XX. Ông là một nghệ sĩ đa tài, nhưng thành công nổi bật ơn cả
trong sự nghiệp văn chương của ông là làm thơ và viết kịch. Chỉ trong vòng bảy, tám năm, ông viết
tới 50 kịch bản sân khấu và hầu hết đều được dàn dựng ngay, tạo nên một không khí rất sôi động
trong đời sống sân khấu kịch và văn học lúc đó. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được tác giả viết
năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng, là một trong những vở kịch gây tiếng vang
nhất của Lưu Quang Vũ.
Lấy cốt truyện dân gian nhưng nối thêm phần đuôi sau khi truyện dân gian đã kết thúc và
thêm vào đó nhiều sự kiện, chi tiết để thổi vào luồng gió của thời đại, tác giả đã làm cho tác phẩm
tràn ngập ánh sáng của những vấn đề thời sự trong đời sống đương đại với tất cả những xung đột,
mâu thuẫn và mọi ưu tư, phiền toái bất tận của nó. Nói một cách cụ thể hơn, “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt” là một vở kịch khai thác cốt truyện dân gian để gửi gắm vào đó những suy ngẫm về nhân
sinh, hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời và khẳng định khát vọng
hoàn thiện nhân cách con người.
Có thể tóm tắt ngắn gọn về cốt truyện dân gian và phần phát triển sáng tạo của Lưu Quang
Vũ để tạo nên tình huống kịch đặc sắc.
Xưa có một người làm vườn là ông Trương Ba chất phác, cần cù, yêu vợ, thương con, quý
cháu và giỏi đánh cờ, bỗng nhiên lăn đùng ra chết, mà nguyên nhân là do sự nhầm lẫn tai hại của
Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình. Đế Thích – một ông tiên cao cờ - do quý trọng tài cờ của
Trương Ba đã hóa phép làm cho Trương Ba sống lại bằng cách để Hồn Trương Ba nhập và xác anh
hàng thịt mới chết. Thế là xảy ra chuyện tranh chấp chồng giữa hai bà vợ. Quan xừ kiện lệnh cho
đương sự lần lượt làm hai việc mổ lợn và đánh cờ. Đương sự thậm chí không biết cầm dao mổ lợn
thế nào nhưng lại rất giỏi đánh cờ. Quan bèn quyết định cho bà vợ Trương Ba mang chồng về. Mọi
chuyện kết thúc tại đây và Trương Ba tiếp tục sống hạnh phúc với vợ con, làm xóm trong thân xác
anh hàng thịt.
Nhưng tình huống kịch của Lưu Quang Vũ lại bắt đầu từ chỗ kết thúc của truyện dân gian
này: Sống nhờ trong thân xác người khác, Hồn Trương Ba gặp bao nhiêu rắc rối, phiền toái. Tệ hại
hơn nữa là ông ngày càng trở nên xa lạ, đáng sợ trong con mắt người thân, đứa cháu không nhận

68 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

ông nội, lại thêm đứa con hư hỏng, xung quanh ông còn có tên lí trưởng đồi bại, những bậc tiên
thánh trên trời vô trách nhiệm, cố tình lấp liếm lỗi lầm… Ba tháng “trú ngụ” trong cái xác lạ, Hồn
Trương Ba có nguy cơ bị thân xác lấn át, nó phải đấu tranh một cách chật vật với những ham muốn
bản năng, những dục vọng thấp hèn của anh hàng thịt, có lúc thiếu chút nữa thì bị thất bại và sa ngã
trước sự dẫn dắt của thể xác. Kết cục, để bảo toàn sự trong sạch của mình, Hồn Trương Ba đã chấp
nhận cái chết vĩnh viễn, khước từ sự sống không phải là của mình, cho dù sự sống là muôn phần
đáng quý. Không những vậy, nếu ở truyện dân gian, Hồn Trương Ba sau khi nhập vào xác anh hàng
thịt được sống yên ổn, hạnh phúc thì ở kịch bản này, Hồn Trương Ba luôn đau khổ, dằn vặt, giày vò
bởi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Một mặt Hồn tượng trưng cho thế giới tinh thần
thanh cao của con người luôn muốn giữ gìn những giá trị của chuẩn mực văn hóa và đạo đức, mặt
khác, Hồn thấy mình ngày càng chịu sự cám dỗ mãnh liệt của xác – tượng trưng cho những dục
vọng bản năng xấu xa của con người. Vì thế, bi kịch của tình huống, như Hồn Trương Ba đã nói với
Đế Thích là: sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là điều không nên, đến thân xác cũng
phải nhờ vào một anh hàng thịt, và một khi phải sống giả dối, “bên trong một đằng, bên ngoài một
nẻo” thì Hồn chẳng thể nào tìm thấy sự bình yên. Hồn day dứt đau khổ vì ý thức rõ được điều đó,
lại ý thức được cả cái sự sai lầm không thể nào cứu vãn được của Đế Thích nên đã quyết định dứt
khoát chọn cái chết thật sự để bảo toàn sự trong sạch của mình. Đoạn trích là đoạn kết, tập trung
phản ánh tư tưởng chủ đề của vở kịch: Bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống
nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu bị tha hóa trước sự lấn át của thể xác phàm
tục, thô lỗ. Vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung
tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
Khởi đầu cho diễn biến của xung đột kịch cũng đồng thời là điểm khở đầu “tấn bi kịch của
Hồn Trương Ba”, ấy chính là từ khi Hồn được sống lại trong thân xác anh hàng thịt. Về mặt xung
đột kịch, ta nhận thấy rõ ở đây đã xuất hiện hai lớp mâu thuẫn: Một mâu thuẫn do sự khập khiễng,
không phù hợp giữa linh hồn và thể xác – trong một con người, linh hồn và thể xác lẽ ra phải là một
nhất thể, đằng này, linh hồn của người làm vườn thanh cao lại phải trú trong một cái xác phàm tục,
thô lỗ của anh đồ tể. Hai là mâu thuẫn giữa văn hóa và bản năng của con người. Hai mâu thuẫn này
là nguyên nhân xảy ra “tấn bi kịch nội tại của nhân vật Hồn Trương Ba”.
Ở đọan này, điểm đỉnh của mâu thuẫn kịch đã được tác giả thể hiện qua sự dằn vặt, giằng xé
đau đớn của Hồn Trương Ba. Mở đầu là cảnh Hồn Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt ngồi ôm
đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy, nói những câu đầy bực bội, bức xúc: “Không! Không! Tôi không
muốn sống như thế này mãi!… Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái
thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta
có hình thù riêng để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”. Tiếp sau đó, Hồn Trương Ba
tách khỏi thân xác anh hàng thịt và cuộc đối thoại giữa hồn và xác bắt đầu. Dưới lớp vỏ ngôn ngữ
của những lời đối thoại là nhiều tầng nghĩa khác nhau, tuỳ thuộc vào trình độ của người xem kịch,
Lưu Quang Vũ rất chú ý đến việc dùng ngôn ngữ để phản ánh tính cách và bản chất nhân vật. Xác
hàng thịt lên tiếng với giọng điệu mỉa mai, chế giễu và phủ nhận những cố gắng giải thoát của Hồn
Trương Ba: “cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi

69 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

được đâu, dù tôi chỉ là thân xác”… Hồn Trương Ba đáp lại với thái độ vừa ngạc nhiên vừa coi
thường, “mày cũng biết nói kia à ? Vô lí, mày không thể biết nói. Mày không có tiếng nói mà chỉ là
xác thịt âm u đui mù… Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có
được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt”.
Lưu Quang Vũ kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian, tiếp tục khẳng định vai trò quan
trọng của linh hồn so với thể xác. Thế nhưng tác giả đã để cho cuộc tranh luận giữa Hồn Trương Ba
và xác hàng thịt không kém phần gay go, quyết liệt. Có những lúc tiếng nói của xác thịt đường như
lấn át cả tiếng nói của linh hồn, đẩy linh hồn vào thế lúng túng, bị động: “Nhưng tôi là cái hoàn
cảnh mà ông buộc phải quy phục!… Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cung đáng được
quý trọng chứ. Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới.
Ông nhìn mảnh đất cây cối, những người thân… Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này
qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ tâm hồn con người, người ta xúc phạm thể xác…
Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông hay vịn vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống
vì phần hồn để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác… Mỗi bữa tôi đòi ăn tám, chín bát
cơm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn
chứ… Tôi thông cảm với những “trò chơi tâm hồn của ông nghĩa là: Những lúc một mình một
bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để
sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu gì ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được
thanh thản.” Tôi biết: “Cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện,
Hà hà, miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc để thỏa mãn những thèm khát của tôi”. Hồn Trương Ba
tuy vẫn khăng khăng phủ nhận lí lẽ của xác hàng thịt: “Lí lẽ của anh thật ti tiện”, nhưng rõ ràng là
đã lâm vào tình thế tuyệt vọng và chỉ biết than: “Trời!”
Rõ ràng, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Những câu cảm
thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên điều đó. Hồn bức bối
bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là
mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ
con, quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng
đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng về. thô lỗ, phũ phàng lắm. Người đọc. người xem càng lúc
càng được thấy rõ điều đó qua các đối thoại và hồn Trương Ba cũng cáng lúc rơi vào trạng thái đau
khổ, tuyệt vọng.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói
những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận. Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh
vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì...”. Đó
là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ông tát
thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”, ... tất cả đều là sự thật. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả
những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy minh ti tiện. Xác anh hàng thịt còn
cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn.”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời
thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc.

70 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ trước những lời nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm
thấy mà không muốn nói ra, không muốn thừa nhận.
Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những
người thân. Người vợ mà ông rất mực vêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với
bà “đi đâu cũng được... còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cảm nhận
được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Cái Gái, cháu ông giờ
đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình cảm của ông: tôi không phải là cháu ông.
Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con
người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên
nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều
cho cụ Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó
“ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi
quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố
chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau
trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã
thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong,
nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất
mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy
nữa…”. Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ
đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng
không khổ bằng bây giờ”. Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng
nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính
bản thân mình cứ lớn dần, lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có
vẻ tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ tốt
lành như thầy của chúng cơn xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?” thì đương nhiên hồn không thể chịu
đựng thêm được nữa.
Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt
vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt:
“Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày,
khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có
thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do
mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm
hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát. Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích trở
thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của
hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn... Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là
chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn

71 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Người đọc, người xem có thế
nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một
thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác
phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ
đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai,
sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp
vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình
cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng chênh
lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc
Đế Thích xuất hiện. Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình
được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của
một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới
chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ
“bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị
càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát.
Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu
lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống. Cái chết của cu Tị có ý
nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát
của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm.
Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu thẳng
thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung
và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối
sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về
vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một
bài thơ đã từng cánh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn
là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không
phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự
lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra,
vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải
sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến
chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Rõ ràng, việc lựa chọn cái chết của Hồn Trương Ba thể hiện khát
vọng vươn tới cái chân thực và sự vẹn toàn tuyệt đối của những giá trị nhân văn. Trương Ba chết
nhưng tâm hồn tốt đẹp của ông sẽ sống mãi trong tình yêu mến và nỗi tiếc nhớ của gia đình, bạn bè,
làng xóm. Chết nhưng lại là vẫn sống.
Đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt tập trung cao độ tính chất triết lí và tư tưởng nhân
văn của vở kịch có nguồn gốc dân gian này. Lưu Quang Vũ đã đưa vào vở kịch quan niệm đúng đắn
về cách sống: Trước hết, mình hãy là mình. Cuộc sống của cá nhân chỉ thực sự có ý nghĩa khi biết
sống vì niềm vui và hạnh phúc của mọi người vì sự tốt đẹp của cuộc đời. Vở kịch “Hồn Trương Ba

72 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

da hàng thịt” đã góp phần phê phán 1 số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Con người
đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường, muốn thỏa mãn những nhu cầu của bản
năng, đến nỗi trở nên phàm phu, tục tử như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:
“Muốn nuôi sống thân xác
Đem làm thịt linh hồn”
Nhưng lại có 1 xu hướng ngược lại, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống linh hồn là cái cao nhất,
không chăm lo gì đến đời sống vật chất, không chịu phấn đấu vì hạnh phúc trọn vẹn.
Vở kịch còn phê phán tình trạng con người sống giả dối, không dám sống là mình. Đấy là
nguy cơ đẩy con người vào chỗ tha hóa do danh và lợi. Nhưng kịch của Lưu Quang Vũ có được sức
sống lâu dài là bởi những triết lý sâu sắc, có ý nghĩa đối với muôn đời. Vở kịch cho ta những bài
học về lẽ sống, chết, về hạnh phúc. Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng
được. Hạnh phúc chân chính của con người là được sống trọn vẹn, sống thật với chính mình, với
mọi người. Tư tưởng triết lí về con người của Lưu Quang Vũ vừa biện chứng vừa lạc quan, cao
thượng. Tất cả những điểu đó được thể hiện bằng tài năng sáng tạo hiếm có của tác giả khiến vở
kịch có sức cuốn hút lạ thường đối với khán giả. Lưu Quang Vũ xứng đáng là nhà biên kịch xuất
sắc của sân khấu Việt Nam hiện đại.
3. Trọng tâm nghệ thuật:
- Tình huống kịch phát triển tự nhiên, hợp lí
- Sự kết hợp giữa diễn biến hành động bên ngoài và bên trong

73 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (Hồ Chí Minh)

Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm: Từ Bắc
xuống, từ Nam lên, tứ Tây sang, từ Đông vào cho nên cùng với những chiến công hiển hách: phá
Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đuổi Thanh; nền văn học chúng ta cũng đã có những áng văn kiệt
tác khẳng định đanh thép chủ quyền độc lập của dân tộc. Bên cạnh bài thơ Thần của Lý Thường
Kiệt sang sảng ngâm trên sông Như Nguyệt, Bình Ngô đại cáo một thiên cổ hùng văn của Nguyễn
Trãi, ngày nay chúng ta có Tuyến ngôn Độc lập y một áng văn chính luận mẫu mực, nổi tiếng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc, khí phách của non sông.

Phân tích tác phẩm


Sinh thời Hồ Chí Minh không bao giờ nhận mình là nhà văn nhà thơ mà chỉ là người bạn
của văn nghệ người yêu văn nghệ. Nhưng trên bước đường hoạt động cách mạng Người nhận thấy
văn chương có thể phụng sự đắc lực cho tuyên truyền. Cộng với một tài năng nghệ thuật và một tinh
thần nghệ sĩ chan chứa cảm xúc nên người đã sáng tác nên nhiều tác phẩm có giá trị. Tiêu biểu
trong số nhưng tác phẩm đó phải kể đến tác phẩm tuyên ngôn độc lập. Nó không chỉ áng văn chính
luận hay sắc sảo với những lập luận chặt chẽ mà nó còn mang ý nghĩa như tuyên ngôn khẳng định

cho một đất nước – đó chính là nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. 
Nhắc đến văn chính luận của Hồ Chí Minh, sau “Bản án chế độ thực dân Pháp”, chúng ta
không thể quên “Tuyên ngôn độc lập”, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”… trong đó “Tuyên

74 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

ngôn độc lập” được xem là văn kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại, đồng thời là áng văn chính luận
mẫu mực. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu
Việt Bắc về Hà Nội tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Người tự tay soạn thảo bản Tuyên Ngôn độc
lập. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, trước toàn thể đồng bào cả nước và nhân
dân thế giới, Người thay mặt chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn” khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn đã kế thừa một cách xuất sắc truyền thống yêu
nước, chủ nghĩa nhân đạo trong lịch sử văn học dân tộc, đã nêu cao những tư tưởng, tình cảm lớn, ý
chí sắt đá, nguyện vọng thiết tha của nhiều thế hệ con người Việt Nam.
Trong phần mở đầu của bản Tuyên ngôn về nền độc lập của Việt Nam, tư tưởng làm cơ sở
cho sự lập luận được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên trước hết là những quyền lợi cơ bản và thiêng
liêng nhất của con người. Bằng cách dẫn ra những lời văn bất hủ trong bản “Tuyên ngôn độc lập”
của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc” và trong bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của cách mạng
Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi”, tác giả đã chỉ rõ những quyền lợi cơ bản thiêng liêng đó của con người là
bất khả xâm phạm, và phải luôn được tự do, bình đẳng trong việc mưu cầu hạnh phúc. Điều quan
trọng hơn là từ quyền lợi của con người, Hồ Chủ tịch đã phát triền, nâng lên thành quyền độc lập, tự
quyết của các dân tộc. Đó là một sự suy luận thể hiện nhãn quan chính trị hết sức sáng tạo, nhạy bén
và hoàn toàn hợp lí. Người viết tiếp: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Tác dụng lập luận và sức thuyết phục của những lời trích dẫn này trước hết bởi đó là những chân lí
của lịch sử, đã được cả thế giới thừa nhận. Như chính tác giả khẳng định, đó là “những lời bất hủ: là
“những lẽ phải không ai chối cãi được” và được ghi trong những văn kiện nổi tiếng của nhân loại.
Nhưng ý nghĩa của hai lời dẫn mở đầu bản Tuyên ngôn không chỉ có vậy. Đặt vào hoàn
cảnh lịch sử đặc biệt của thời điểm bản Tuyên ngôn ra đời, những lời trích dẫn nói trên còn có tác
dụng phản lại luận điệu xảo trá của bọn đế quốc đang lăm le xâm lược nước ta. Như mọi người đều
biết, Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa mới giành thắng lợi chưa bao lâu thì dân tộc ta lại đứng
trước họa ngoại xâm. Theo hiệp ước của các nước thắng trận, dưới danh nghĩa là quân đồng minh
vào tước giới khí của phát xít Nhật, ở phía Bắc nước ta, 20 vạn quân Tưởng, theo sau là quân Mỹ đã
kéo vào, còn miền Nam, núp sau quân Anh là quân đội viễn chinh Pháp. Tại hội nghị cán bộ toàn
quốc của Đảng, Hồ Chủ Tịch đã nhận định phải lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc Pháp
– Anh và Mỹ - Tưởng về vấn đề Đông Dương, tránh trường hợp một mình phải đối phó cùng một
lúc với nhiều kẻ thù, đồng thời cũng cần chuẩn bị ứng phó việc Pháp trở lại Đông Dương. Ra đời
trong hoàn cảnh ấy, bản tuyên ngôn không chỉ hướng tới quốc dân đồng bào mà còn hướng tới nhân
dân thế giới, đặc biệt là hướng vào bọn đế quốc lúc đó, nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của chúng.
Mà bác bỏ luận điệu của kẻ thù thì còn gì đích đáng và thú vị hơn là dùng ngay lí lẽ của chính họ
nói về quyền tự do bình đẳng con người và quyền độc lập tự quyết của các dân tộc.

75 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Bác bỏ lí lẽ của kẻ xâm lược cũng đồng thời là nhằm khẳng định quyền tự do, độc lập chính
đáng của dân tộc ta. Việc trích dẫn để làm cơ sở lập luận như vậy là một cách nói vừa khéo léo vừa
kiên quyết. Khéo léo vì nó thể hiện sự tôn trọng chân lí, tôn trọng lẽ phải của dân tộc ta, cho dù
chân lí và lẽ phải ấy cho chính người Mỹ hay người Pháp phát biểu. Kiên quyết vì đã nhắc nhở họ
nhớ đến lí tưởng cao cả của cách mạng dân tộc dân chủ, đừng làm vấy bẩn lá cờ nhân đạo và chính
nghĩa mà họ đã từng nêu cao. Đây chính là chiêu “gậy ông đập lưng ông” đặc sắc mà Hồ Chí Minh
đã sử dụng một cách tinh tế.
Việc mở đầu bằng cách nhắc đến hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của hai cuộc cách mạng vĩ
đại trong lịch sử nhân loại cũng có nghĩa là đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng, ba cuộc cách mạng
và ba nền độc lập cũng ngang hàng với nhau. Điều này làm chúng ta lại nhớ đến cách mà tác giả
“Bình Ngô đại cáo” khi xưa đã làm để đặt các triều đại của nước ta với các triều đại phương Bắc
trong hai vế cân xứng, ngang hàng:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương…”
Vì kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất đang đe dọa nền độc lập non trẻ mà dân tộc ta vừa mới
giành được là thực dân Pháp nên cần phải tập trung chĩa mũi nhọn vào chúng. Sau khi trích dẫn
những nguyên lí làm cơ sở cho sự lập luận, bản Tuyên ngôn tiếp tục xoáy sâu vào việc bác bỏ luận
điệu xâm lược của kẻ thù. Trong cuộc xâm lược lần này, thực dân Pháp đã viện dẫn cho sự quay trở
lại Đông Dương lần hai của chúng. Bằng lí lẽ sắc sảo, nhạy bén, bằng lập luận chặt chẽ và thực tiễn
hùng hồn đầy thuyết phục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng minh cho cả thế giới biết rằng thực tế
lịch sử cho thấy thực dân Pháp không hề có quan hệ đạo lí – nhân tình hay quan hệ pháp lí nào đối
với nhân dân Việt Nam. Thực dân Pháp đã có những hành động “trái hẳn với nhân đạo và chính
nghĩa”.
Cùng với lời buộc tội, Hồ Chí Minh đã đập tan các luận điệu xảo trá, vạch trần bộ mặt giả
dối, lừa bịp của thực dân Pháp. Người đã sử dụng những bằng chứng cụ thể, chính xác, tiêu biểu ở
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa để khẳng định tội ác tày trời của thực dân Pháp với
nhân dân Việt Nam. Chúng đã “khai hóa” đất nước này bằng cách “lập nhà tù nhiều hơn trường
học”, bằng rượu cồn, thuốc phiện và chính sách ngu dân. Kết quả của cuông cuộc khai hóa văn
minh ấy là 90% dân số Việt Nam mù chữ! Tự xưng là “nước mẹ bảo hộ” nhưng thực chất thực dân
Pháp chỉ là những kẻ bóc lột và đô hộ. Chúng “cướp không” tài nguyên của nước ta, bóc lột sức lao
động của nhân dân ta, đặt ra hàng trăm thứ thuế để bòn rút người dân đến tận xương tủy. Chúng còn
chèn ép các nhà tư bản thuộc địa, giữ độc quyền của những lĩnh vực kinh tế then chốt… Kết quả,
sau gần một thế kỉ “bảo hộ” của chúng là một Việt Nam nghèo đói, lạc hậu, tiêu điều, xơ xác.
Những kẻ xảo quyệt, tàn ác đã đầy một phần mười dân số Việt Nam vào thảm cảnh chết đói năm
1945.
Bộ mặt thật của thực dân Pháp càng hiện rõ hơn qua những chính sách chính trị phản động ý
chính quyền thực dân đã tước đoạt mọi quyền tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam. Chúng chia
cắt Việt Nam thành ba kì để dễ bề cai trị và thi hành những luật pháp dã man: “thẳng tay chém giết
những người yêu nước thương nòi của ta”, “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.

76 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Tất cả những chủ trương và biện pháp của nó làm cho cuộc sống của dân tộc Việt Nam đang bị đảo
lộn mỗi ngày, chúng đã ra sức áp bức và tạo nên những điều tồi tệ nhất, Bác đều khẳng định và tố
cáo ở đây, có thể nói đây là bằng chứng sống để mỗi người khi đọc xong tác phẩm này đều có thể
hiểu được một thời kì lịch sử đã qua của dân tộc ta, trải qua bao nhiêu gian truân, cảm xúc đó đang
dần được thể hiện của sự tố cáo, và đây là bản tố cáo đanh thép và có nhiều giá trị nhất.
Nó không chỉ mang giá trị tố cáo đối với kẻ thù, mà nó còn đẩy mạnh sự thức tỉnh và ý thức
về một niềm tin yêu đối với dân tộc của chúng ta. Những giọng điệu đanh thép đã đang dần tố cáo
mạnh mẽ tội ác của kẻ thù. Bọn thực dân Pháp cũng như mọi kẻ áp bức, lúc còn quyền hành thì
hống hách, hung bạo, lúc thất thế thì đê hèn, mất hết, mất hết liêm sỉ, giẫm lên nhân phẩm để bám
lấy chút sống thừa. Quỳ gối đầu hàng Nhật, chúng gây bao nhiêu tội ác. Đối với nhân dân Việt Nam
mà chúng vẫn rêu rao được chúng “bảo hộ”, “khai hóa”, chúng quàng thêm một ách lên đầu. Kết
quả thảm hại, cụ thể mà lịch sử Việt Nam và nhân loại ghi bằng chữ máu không thể phai mờ với
thời gian là hai triệu người đã chết đói “chỉ riêng từ Quảng Trị đến Bắc Kì”. Đối với Đồng minh là
phe của chúng, chúng phản bội, chúng biến Việt Minh là những người đứng về phe Đồng Minh
thành kẻ thù chính, và “thẳng tay khủng bố”. Nhiều động từ miêu tả được dùng để vẽ lên hình ảnh
thảm bại của chúng: quỳ gối đầu hàng, mở cửa rước Nhật, bỏ chạy…Trong sự việc nêu ở câu cuối
của đoạn văn mỗi chữ dùng, mỗi nét phác họa đều có ý nghĩa.
Đối lập với cái ti tiện, cái dã man của chúng là lượng hải hà, là những hành động văn minh
của nhân dân ta. Cũng chỉ là những hiện tượng lịch sử. Nhưng đặt vào đây nó có tác dụng như một
thủ pháp nghệ thuật làm nổi bật lên cái khác nhau về bản chất giữa ta và địch, khẳng định thêm về
chất nhân đạo của dân ta. Đối với kẻ tay còn đẫm máu Việt Nam, nhân dân và cách mạng Việt Nam
vẫn giúp họ, cứu họ, bảo vệ họ. Ba động từ biểu hiện ba hình thái tương quan với kẻ thù, ba trạng
thái cụ thể của lòng nhân đạo Việt Nam. Giúp là đối với kẻ còn chủ động, muốn vượt biên giới
tránh cái họa của chủ nghĩa phát xít Nhật. Ta thêm cho họ một cái đẩy tay giúp họ vượt được ranh
giới giữa mong muốn và hiện thực. Cứu là đối với những kẻ bất lực, trong một tình thế nguy nan
tuyệt vọng, những kẻ bị giam trong nhà tù Nhật, chỉ chờ ngày tận số…Ta phá cũi sổ lồng, cứu
những con mồi của thần chết. Bảo vệ là đối với những con người đang còn bị đe dọa. Ta cứu họ rồi
lại còn tiếp tục bảo vệ, không chỉ tính mạng mà còn cả tài sản nữa. Cái chu đáo của lòng nhân đạo
Việt Nam là như thế.
Vậy thì giữa những người Việt Nam như thế và những người Pháp như trên, ai bảo hộ ai?
Và người Pháp có quyền gì đối với Việt Nam nữa không? Thêm vào đó là một sự thực rành rành: từ
tháng 9 - 1940 khi Nhật tràn qua Lạng Sơn vào Việt Nam, Pháp đã đầu hàng Nhật, đã bán chủ
quyền nước ta cho Nhật. Về mặt pháp lý, một vật đã bán cho người khác tất thuộc quyền sở hữu của
người đó. Và ta đã lấy lại vật ta đã mất từ tay Nhật. Như thế là về mọi mặt, Pháp đã không còn quan
hệ gì với Việt Nam nữa. Bản tuyên ngôn có thể dõng dạc tuyên bố rằng chúng ta “thoát li hẳn quan
hệ với Pháp”.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời không phải là một sự thật ngẫu nhiên. Đó là bước
phát triển của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam vĩ đại. Chủ nghĩa anh hùng đó đã “đánh đổ chế độ
quân chủ mấy mươi thế kỷ” bằng vô vàn những cuộc khởi nghĩa quật đổ những ngai vàng mà cuối

77 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

cùng là của vương triều nhà Nguyễn mục nát. Bảo Đại buộc phải thoái vị để làm một người nông
dân. Chủ nghĩa anh hùng đó đã “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay “bằng
gươm súng, bằng máu xương của những con người anh hùng như Trương Định, Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám và của những chiến sỹ vô sản bất khuất kiên cường. “Pháp chạy, Nhật hàng, vua
Bảo Đại thoái vị”. Một câu trong những câu hiếm của văn chương, cô đúc bao sự kiện lịch sử.
Ách thực dân, họa phát xít, tệ quân quyền, những rác rưởi ấy bị quét sạch, dọn chỗ đón một
quốc gia mới, một chế độ mới. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời. Ba đoạn cuối của bản tuyên ngôn độc lập là những đoạn văn
thép: chất thép của ý chí Hồ Chí Minh, của ý chí Việt Nam. Chất thép trong lập luận buộc Đồng
minh phải công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam, lấy lời của họ để ràng buộc họ. “Chúng tôi
tin rằng...”. Tin có ý nghĩa tu từ. Mềm đấy, mà rắn đấy. Tin là tỏ vẻ tôn trọng họ, giá định phẩm
chất tốt đẹp của họ. Đó là cách buộc họ phải tự trọng, nghĩa là buộc họ không được có sự bất nhất
giữa lời nói và việc làm, “Không thể không công nhận” quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
“Không thể không” hai phủ định nghe vẫn chắc chắn hơn một khẳng định. Chất thép trong câu tiếp
ở cái kết luận tất yếu của một thứ tam đoạn luận độc đáo vì có một vế ẩn mà lại rất rõ. Một dân tộc
không chịu khuất phục, đã liên tục chiến đấu chống mọi ách nô lệ Pháp cũng như Nhật, dân tộc đó
phải được độc lập. Phe Đồng minh gồm toàn những nước tự do. Một nước đứng về phe Đồng minh,
cùng lí tưởng, cùng chiến đấu. Nước đó phải được tự do. Dân tộc đó là dân tộc Việt Nam. Vậy dân
tộc Việt Nam phải được độc lập, nước Việt Nam phải được tự do. Dân tộc, tự do, độc lập. Những từ
thiêng liêng đó trở lại cùng với những tính từ gan góc, những trạng ngữ: 80 năm nay, mấy năm nay,
những khẳng định: phải được nhưng hùng dũng gõ nhịp trong một điệp khúc của một bài hùng ca
đòi quyền sống. Chất thép trong đoạn cuối cùng là ở tính chất trịnh trọng của bản tuyên bố về một
sự thực, về quyết tâm bảo vệ bằng bất cứ giá nào sự thực đó. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập...Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Mỗi từ, mỗi chữ đều có sức nặng và sau đó những lời
thề thiêng liêng thét lên từ cửa miệng của một triệu người, trên cái âm vang của làn sóng bốn nghìn
năm bất khuất càng thêm vững chắc. Bản tuyên ngôn kết thúc dứt khoát ngoan cường như một lời
thách thức. Những kẻ thù của Việt Nam mù quáng vì lòng tham, không đủ khôn ngoan sáng suốt lần
lượt lao đầu vào chất thép Việt Nam và sẽ nghiệm thấy thấm thía lời cảnh báo của một Hồ Chí
Minh, của một Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa được
những chân lí của lịch sử dân tộc và thế giới vừa mang tính thời đại. Bản tuyên ngôn còn đồng thời
mang tính tính lịch sử và mang tính văn chương. Bởi thế nó mãi mãi là áng văn bất hủ, là niềm tự
hào của dân tộc Việt Nam. Để có được tự do, nhân dân ta đã phải đánh đổi bằng bao nhiêu hi sinh,
bao nhiêu xương máu và tâm huyết. Bởi vậy, là những thế hệ đi sau, chúng ta cần phải luôn biết ơn
những lớp người đi trước, đóng góp và xây dựng đất nước giàu mạnh hơn, phát triển hơn bằng việc
học tập, lao động hết mình.

Trọng tâm nghệ thuật:

78 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

a. Kết cấu chặt chẽ, lập luận đanh thép, sắc bén
- Kết cấu chặt chẽ:
+ Phần mở đầu nêu chân lý, lẽ phải không thể chối cãi để làm cơ sở lập luận cho
phần tiếp.
+ Phần hai, trên cơ sở lí luận, soi vào thực tiễn để tố cáo.
+ Phần cuối, tuyên bố và khẳng định dựa vào những lý lẽ chặt chẽ đã đưa ra.
- Lập luận đanh thép, sắc bén:
+ Lập luận luôn hướng đến mục đích tác phẩm
+ Luôn có sự kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn để tăng sức thuyết phục.
b. Giọng văn linh hoạt, phù hợp với đối tượng và nội dung truyền đạt:
- Nói với công luận quốc tế, lời văn uyên bác, giàu chất trí tuệ. Nói với đồng bào trong
nước, lời văn tình cảm, chân thành, tha thiết.
- Giọng văn dõng dạc, trang trọng khi khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc; căm phẫn xót
xa khi tố cáo tội ác giặc; hùng hồn đanh thép khi nói về tinh thần đấu tranh của dân tộc Việt Nam.
c. Ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật vừa súc tích, chính xác, vừa giàu sức biểu cảm:
- Từ ngữ vừa chính xác, vừa gợi cảm
- Những quan điểm, tư tưởng chính trị được diễn đạt bằng hình tượng sinh động, dễ hiểu,
có sức truyền cảm lớn.

79 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

TÂY TIẾN (Quang Dũng)


----------------------------------------------
“Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai bồng
……
Khi Tổ Quốc cần họ biết sống xa nhau”
Chiến tranh đi qua đã để lại cho chúng ta những hoài niệm về những tháng năm không thể
nào quên, đó là khi con người ta nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là để chiến đấu, là để báo thù, đó
là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ, việc học hành, tình cảm cá nhân vị kỉ để đi theo tiếng
gọi của Tổ Quốc… Những con người ấy đã đi vào trong thơ ca, nghệ thuật như những huyền thoại
của thế kỉ 20 mà nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện thật xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn nhưng
vẫn đậm chất hiện thực của mình qua bài thơ Tây Tiến. Tác phẩm đã khắc họa thành công bức
tượng đài người lính Tây Tiến trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ.

- Tác giả: -Hoàn cảnh sáng tác


- Quang Dũng (1921- 1988) tên khai sinh là Bùi - Cuối năm 1948, Quang Dũng
Đình Diệm, quê ở làng Phượng Trì, huyện Đan chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị
Phượng, tỉnh Hà Tây. cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh(1
- Quang Dũng là một nhà thơ mang hồn thơ làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ ), Quang
phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa- đặc biệt Dũng viết bài thơ'' Nhớ Tây Tiến". Khi
khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài. in lại, tác giả đổi tên bài thơ là" Tây
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu Tiến".
năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo
vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng
quân đội Pháp ở thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc
Bộ Việt Nam.

- Nội dung: - Nghệ thuật:


Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với - Bút pháp hiện thực kết hợp lãng
đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng đường hành quân mạn, đậm chất bi tráng
với bao gian khổ, thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn - Nhiều sáng tạo về hình ảnh, ngôn
có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng ngữ, giọng điệu:
đội Tây Tiến anh hùng... Qua đó, tác giả đã khắc họa + Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc
thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, thái thẩm mỹ phong phú.
hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên
+ Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong
miền Tây tổ quốc.
cách, tên địa danh vừa cụ thể xác thực
vừa gợi cảm giác lạ lẫm...
+ Giọng điệu: Khi tha thiết bồi hồi,
khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng
man mác, khi trang trọng, khi trầm
lắng...

80 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ:
“Tây Tiến” là một tác phẩm xuất sắc mà đã được nhà phê bình văn học Nguyễn Xuân
Nguyên không tiếc lời khen ngợi: “Một bài thơ kỳ diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công
chúng, một bài thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường tồn trong lịch
sử và ký ức mỗi người. Nó như một viên ngọc sáng trong tâm hồn Việt, tấm lòng Việt và thơ ca
Việt”. Tác phẩm thành công và để lại trong dấu ấn người đọc một ấn tượng về hình ảnh Việt Nam
trong những năm tháng chiến đấu gian khổ và quyết liệt. Và hình ảnh những người lính Tây Tiến
chính là hình tượng nổi bật làm nên giá trị và sức sống của tác phẩm.

Khi nhắc đến tên tuổi của nhà thơ Quang Dũng, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn
chương đều biết ông luôn luôn nhìn sự vật, hiện tượng thông qua lăng kính lãng mạn với phong
cách thơ rất độc đáo. Bên cạnh đó, Quang Dũng được thừa nhận như là một sự khác biệt hoàn toàn
trong phong trào thơ mới những năm 1932 - 1945. Một trong số những kiệt tác của Quang Dũng ta
phải kể đến bài thơ “Tây Tiến” in trong tập “Mây đầu ô” năm 1948, được tác giả viết trong một
chiều mưa ở Phù Lưu Chanh. Bài thơ viết về những năm tháng kháng chiến chống Pháp gian khổ và
khó khăn, nổi bật lên trên phông nền ấy là hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến-những người thanh
niên Hà Nội lần đầu đến với miền Tây để thực hiện nhiệm vụ vừa đánh vừa tiêu hao lực lượng địch.
Toàn bộ bài thơ là một khúc vĩ thanh về nỗi nhớ sâu sắc cuộc sống gian khổ của người lính Tây
Tiến. Bởi vậy nên ban đầu tác phẩm được đặt tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng rồi được đổi lại thành
“Tây Tiến.
Trước hết, ta đến với hai câu thơ mở ra chặng đường hành quân của những người lính Tây
Tiến và cũng chính là khúc tiền tấu về nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhớ tới khi nói về đơn vị của mình đó là con sông Mã. Và cũng
ở câu thơ cuối, sông Mã lại hiện lên một lần nữa: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Đây là thủ
81 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

pháp nghệ thuật đầu cuối tương ứng, nhà thơ khéo léo chỉ ra rằng sông Mã trải dài trên toàn bộ
vùng địa bàn rộng lớn mà người lính Tây Tiến hành quân đi qua. Nhờ đó, thi sĩ đã nâng tầm sông
Mã để trở thành một chứng nhân lịch sử, ghi lại tội ác của kẻ thù, đánh dấu những chiến công hiển
hách của đoàn binh Tây Tiến.. Câu thơ đầu tiên đã diễn tả hai mảng hiện thực tâm trạng, đó không
chỉ là “Sông Mã xa rồi” mà mảng hiện thực tâm trạng nữa còn thể hiện ở tiếng gọi thân thương
“Tây Tiến ơi”. Điều này khẳng định rằng dường như trong tâm trí, những người lính Tây Tiến chưa
bao giờ rời xa đơn vị của mình. Tây Tiến vốn dĩ chỉ là tên của một đơn vị nhưng lại được gọi với
giọng điệu đầy thân thương và tha thiết như gọi những người thân yêu. Và điều đó khiến chúng ta
hiểu rằng : khoảng cách địa lí đôi khi phải bất lực trước sự dào dạt và thiết tha của cảm xúc, của
tình yêu thương và của nỗi nhớ nhung. Nỗi nhớ trong trái tim của những người lính Tây Tiến là một
nỗi nhớ đặc biệt: “nhớ chơi vơi”. Tưởng như rất nhẹ mà lại rất sâu, tưởng như thoáng qua mà lại
buộc vào đầy day dứt. Hai câu thơ nhưng lại có đến ba lần gieo vần “ơi” tạo nên âm hưởng thơ sâu
lắng, bồi hồi, ngân dài, từ trong lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong
không gian, cảm giác về một nỗi nhớ da diết, mênh mang lan mãi đến từng nhịp đập trái tim người
đọc. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả.
Mặc dù đã “xa rồi” nhưng trong lòng vẫn tha thiết nhớ mong –đó là những ngày tháng chiến đấu
cùng đồng chí, đồng đội. Những tưởng cuộc sống gian khổ là thế nhưng lại hạnh phúc, giản dị vô
cùng. Phải chăng nỗi nhớ ấy trước tiên là thiên nhiên, rừng núi Tây Bắc – nơi in đậm bao nỗi khổ,
bao niềm vui sầu của người lính Tây Tiến.
Hai câu thơ đầu đem đến sự ấn tượng về nỗi nhớ nhung khắc khoải, và những câu thơ tiếp
theo đã cụ thể hóa nỗi nhớ ấy của những người lính. Họ đã nhớ về hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc với
cả hai nét vẽ: vừa gân guốc dữ dội, vừa mềm mại, tinh tế.:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Hai câu thơ trên vừa tả thực vừa sử dụng bút pháp lãng mạn. Sài Khao và Mường Lát đều là
những địa danh rộng lớn mà người lính Tây Tiến đã từng đặt chân qua. Nói đến Tây Bắc là nói đến
vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Từ hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi”, độc
giả cả nước có thể dễ dàng cảm nhận được khoảng thời gian mà người lính Tây Tiến hoạt động, các
anh ra đi khi trời còn tờ mờ sáng và trở về trong những đêm khuya thanh vắng, dày đặc hơi sương
chẳng thấy rõ mặt nhau. Quang Dũng đã tái hiện lên một mảng hiện thực còn khuất lấp trong thơ ca
thời chiến. Hình ảnh sương khói đã từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm thơ ca : “ Nhớ từng
bản khói cùng sương” (“Việt Bắc”- Tố Hữu), “Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ…” (“Tiếng
hát con tàu”- Chế Lan Viên). Với Quang Dũng, “sương” không hề gắn liền với một nỗi nhớ thương,
mà đó chính là thử thách đầy khó khăn và khắc nghiệt. Một câu thơ có đến năm thanh bằng nhưng
không hề gợi ra nét êm ả phẳng lặng. Sương khói đã khiến “đoàn quân mỏi” chứ tinh thần không
“mỏi”. Bởi mỗi người trong họ luôn có một sức sống mãnh liệt, một tâm hồn trẻ trung, một tinh
thần lạc quan vì ngày mai tương sáng, một ý chí kiên cường, bất khuất ra đi không hẹn ngày trở lại,
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Ngay sau một câu thơ đầy dữ dội lại là một câu thơ êm đềm và tinh
tế. Hình ảnh “hoa về” đã được tác giả sử dụng cùng một lúc hai thủ pháp nghệ thuật đó là nhân hóa

82 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

và ẩn dụ. Ta có thể hiểu “hoa” đây chính là những người lính Tây Tiến khi trở về sau những đêm
dài hành quân nung nấu. Nhưng bên cạnh đó, “hoa” cũng có thể hiểu là những bó đuốc cháy bập
bùng soi đường chỉ lối cho anh bộ đội sau cả một ngày dài hành quân vất vả. Nếu như ở hai câu thơ
trước, nhà thơ gợi cho chúng ta về thời gian thì hai câu thơ tiếp lại gợi tả về vùng địa bàn rộng lớn –
nơi những người lính Tây Tiến từng hoạt động:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Cuộc hành quân của những người lính khó khăn và gian khổ còn bởi núi cao vực sâu. Nhà
thơ đã sử dụng điệp từ “dốc” để nhấn mạnh vào độ cao và một loạt các từ láy tượng hình như “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” kết hợp với nhịp thơ 4/3 như chẻ đôi câu thơ, gieo nhiều thanh trắc
gợi cho ta thấy sự vất vả, nhọc nhằn của những người lính khi đi qua những vách núi cheo leo, hiểm
trở. Trong hoàn cảnh ấy, người lính Tây Tiến phải treo mình trên những triền núi đá khi một bên là
vực sâu thăm thẳm, một bên là núi cao chót vót. Sự vắng vẻ, quạnh hiu của những nơi các anh từng
đi qua đều chưa có bóng người đặt chân tới được Quang Dũng gói gọn trong từ láy “heo hút”. Hình
ảnh “súng ngửi trời” được nhà thơ xứ Đoài nhân hóa lên một cách đầy mới mẻ, trẻ trung và không
kém phần táo bạo. Đó như điểm nhìn của tác giả khi tưởng chừng rằng người lính Tây Tiến đã
chạm đến đỉnh của mây trời. Cả 3 câu thơ rõ ràng khắc họa chân thực về chặng đường hành quân
gian khổ của những người lính. Với thủ pháp nghệ thuật điệp ngữ “Ngàn thước” cùng những từ ngữ
tương xứng phản đối lập mở ra khôn gian từ trên xuống hay từ dưới lên đều thật hùng vĩ, nhấn
mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây, sau ngọn núi
này lại là một ngọn núi khác, mênh mông vô tận. Tuy nhiên, sự bình yên lại được bộc lộ qua câu
thơ tiếp theo:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Dường như, sự yên bình ấy được gợi lên khi người lính nhìn thấy hình ảnh “nhà ai”. Ở đây,
“ai” là một đại từ phiếm chỉ thể hiện sự vô định, đây là những bản làng của người đồng bào dân tộc
miền cao, nó đều trở thành những mái nhà che chở cho người lính Tây Tây trên suốt chặng đường
hành quân. Có những cơn mưa rừng chợt đến rồi chợt đi, để lại cho người lính bao giá rét đêm
ngày. Nhưng khắc nghiệt là thế, bởi Quang Dũng là một nhà thơ luôn nhìn sự vật, hiện tượng thông
qua lăng kính lãng mạn nên dưới ngòi bút ấy, mọi thứ đều trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Sự sáng
tạo và thông minh trong phong cách thơ Quang Dũng thể diện rõ qua cách ông gọi những cơn mưa
rừng là “mưa xa khơi”, gợi chút hoang sơ, kì bí giữa chốn núi rừng. Không chỉ vậy, vần mở “ơi”
được đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng, những giây phút hiếm hoi người lính được nghỉ ngơi,
thư giãn trên đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, ngắm trọn vẹn phong cảnh núi rừng Tây Bắc, xa
xa thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông. Cả bốn câu thơ khi phối hợp với nhau, tạo nên
một âm hưởng đặc biệt. Nếu như ba câu thơ trước được vẽ bằng những nét dứt khoát, mạnh mẽ thì
ở câu thơ thứ tư lại được tô lên rất mềm mại. Đây có một chút tương đồng với quy luật khi sử dụng
các gam màu trong hội họa: giữa những gam màu nóng người họa sĩ sử dụng một gam màu lạnh

83 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

như làm dịu lại, xoa mát cả cả bức tranh. Cũng như cách Quang Dũng làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm
trở của núi rừng và mở ra bức tranh thiên nhiên sông núi nước non đầy lãng mạn.
Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn binh Tây Tiến đã từng
phải đối mặt. Nhưng để có thể vượt qua chặng đường ấy, họ đã phải sống hết mình, sống như không
có ngày mai:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
Súng đã nổ thì người dân Việt Nam cũng đổ máu, chiến tranh không phải là trò đùa, có
người lính ra đi thì có người lính hy sinh là những điều không thể tránh khỏi. Trước gian khổ, trên
đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy. Thế nhưng,
dưới ngòi bút độc đáo của Quang Dũng, cái chết của người lính lại được nhìn nhận thông qua lăng
kính lãng mạn: “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.Những người lính Tây Tiến đã chủ động “không
bước nữa” và sự ra đi của họ thật thanh thản và nhẹ nhõm. Chẳng còn chút gì phả đắn đo, phải day
dứt, phải hối tiếc. Sự ra đi của người lính Tây Tiến được lãng mạn hóa chỉ như một giấc ngủ nhẹ
nhàng giữ hai giờ súng nổ thông qua cụm từ “bỏ quên đời”, một cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất
mát, tang thương khi người lính từ trần. Nhưng hình ảnh “gục lên súng mũ” mới thực sự là đắt giá
khiến từ trong tâm thức của mỗi người yêu văn chương đều nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng
quân về sau:
“Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng chiến
chống Mỹ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của
Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng
mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ.
Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. Bên cạnh đó, ta cũng có thể thấy một nét đẹp
khác trong phẩm chất của những người lính Tây Tiến. Đó là những con người dũng cảm, gan dạ và
đầy bản lĩnh phi thường, họ thà chết đường, chết bệnh, chết trận chứ nhất quyết không bao giờ có
chuyện đào ngũ trở về. Dù có ra đi nhưng cũng ra đi trong tư thế của một người chiến sĩ. Sự trầm
lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng liêng trong một bản nhạc hào hùng vừa
qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao. Họ đã hy sinh cả tuổi trẻ –điều tốt đẹp nhất của
cuộc đời –để gìn giữ cho hòa bình hôm nay. Đó là cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp
ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện thực
chiến tranh xưa nay vốn như thế, sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để
xây đài tự do. Vần thơ tuy nói đến sự mất mát hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.
Sự hùng vĩ và dữ dội của con đường hành quân không chỉ được thể hiện qua những đường
nét mà còn được tô đậm bởi những âm thanh hoang dại của núi rừng thiên nhiên:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”

84 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này -
một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Nhà thơ sử dụng từ láy “chiều chiều” và
“đêm đêm” gợi cho ta về sự viên miễn của thời gian, sự tuần hoàn và thường xuyên, lặp đi lặp lại.
Có thể thấy, những gian khổ mà người lính phải trải qua không chỉ là núi cao dốc thẳm không chỉ là
mưa lũ thác gầm mà còn cả bóng cọp vờn người bởi các anh phải hành quân đi qua những mảnh đất
u tì quốc nơi rừng thiếng nước độc. Ta có thể phần nào hiểu được sự trắc trở, khó khăn của người
lính Tây Tiến trên con đường hành quân khi nhớ đến câu thơ của Lý Bạch: “Thục đạo chi nan, nan
ư thướng thanh thiên.” Có nghĩa: đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh. Ở đây, sức nặng
của văn chương dồn đổ vào từ “Mường Hịch”, đây thực sự là thử thách với bản lĩnh của người lính
Tây Tiến. Những bóng cọp, bóng hổ xuất hiện như một hiểm họa đến từ thiên nhiên, đe dọa mạng
sống của con người thế nhưng khi được nhìn nhận thông qua lăng kính lãng mạn của Quang Dũng
cũng chỉ như một trò đùa trẻ con dùng để “trêu người”. Những con người ấy – họ ra đi từ những
năm đầu của cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ của dân tộc, lại là những trí thức Hà thành, tạm
gác chuyện đèn sách mà xông pha nơi tiền tuyến không hối hận cũng chưa từng nề hà trước khó
khăn gian khổ. Đó là tình yêu quê hương, tình yêu đất nước sâu sắc, là tấm lòng của người con dân
với đất mẹ, là ý chí kiên cường sắt đá của những người lính khi vượt qua được chính mình. Quang
Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống
gian khổ của người lính Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Ông viết về người lính Tây Tiến
không như những nhà thơ khác; ông nói thật về những gian khổ, những hy sinh của người lính một
thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, mà ngược lại càng
thêm cao đẹp hơn. “Tây Tiến” không che giấu cái bi, nhưng không phải bi lụy mà là bi tráng. Nói
cái gian khổ để đề cao chiến thắng, nói hy sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời
đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến
thắng dễ dàng, không có hy sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải
qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt. Đoạn thơ khép lại đột ngột
bằng hai câu thơ:
“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Nhà thơ xứ Đoài đã gói gọn mùa hương thơm lúa gạo trong hình ảnh “cơm lên khói” và
“thơm nếp xôi”. Cảnh tượng thật đầm ấm, đó là nỗi nhớ thiết tha của tác giả khi nghĩ về những ngày
dừng chân ở một bản làng nào đó sau bao đêm băng rừng, vượt đèo, lội suối rồi, lại được quây quần
bên những nồi cơm đang bốc khói cùng đồng chí, đồng đội, xua tan đi bao mệt mỏi. Dù phải chiến
đấu ở bất cứ nơi đâu, trong hoàn cảnh nào thì mùi hương thơm lúa gạo luôn canh cánh và thường
trực trong lòng của mỗi người chiến sĩ khi nhớ về quê nhà. Khi đến với đoạn thơ thứ hai, ta thấy
một Tây Bắc hoàn toàn khác so với đoạn trước. Thay cho hình ảnh một khung cảnh núi rừng hoang
vu, hiểm trở, Tây Bắc hiện lên là một vùng sông núi nước non diễm lệ, đấy duyên dáng và đậm chất
trữ tình, rất nên thơ nên họa. Và ở đoạn thơ này, ngòi bút tài hoa của Quang Dũng được thực sự tỏa
sáng. Tác giả như một người nghệ sĩ bị hấp dẫn bởi chính những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của
con người và cảnh vật xứ lạ, phương xa. Mở ra đoạn thơ là một quang cảnh lung linh, huyền ảo:

85 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa


Kìa em xiêm áo tự bao giờ.”
Ta bắt gặp động từ mạnh “bừng” cùng một lúc mang nhiều trường ý nghĩa nhưng dù hiểu
cách nào cũng đều hay và chính xác. Trước hết, ta có thể hiểu “bừng” là bừng sáng lên, vừa đột
ngột, bất ngờ mà lại không kém phần thú vị. Hay ta cũng thể nghĩ “bừng” ở đây là bừng sáng lung
linh, mặc khác cũng có thể hiểu là không khí tưng bừng, rộn ràng. Dù hiểu thế nào thì câu thơ cũng
đều mang đến một hình hết sức nhộn nhịp, sôi nổi bởi từ “bừng” này đã được Quang Dũng dùng đạt
đến sự chính xác trong việc sử dụng ngôn từ mà nói như Maia Cốp ski: “Để có được một gam phải
mất hàng trăm lao lực. Để có được một chữ phải mất hàng ngàn tấn quặng ngôn từ”. Bên cạnh đó,
ta còn bắt gặp hình ảnh mang dụng ý nghệ thuật “hội đuốc hoa”. Nhìn nhận những bó đuốc cháy
bập bùng được mọi người cầm trên tay, tác giả gọi đó là đuốc hoa – ngọn đèn trong đêm tân hôn.
Trong không khí ngập tràn ánh sáng lung linh từ ngọn lửa đuốc cùng những âm thanh réo rắt của
tiếng khèn, cả cảnh vật và con người như ngả nghiêng, mê say, rạo rực. Điều này đã khẳng định
được vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến, họ là những con người đẹp từ trong chân lý sinh ra,
đẹp trong chiến đấu và đẹp cả trông cuộc sống đời thường. Người lính Tây Tiến sống hôm nay
không biết ngày mai còn hay mất nhưng họ vẫn luôn trẻ trung và xuân sắc, vẫn chờ đợi và tin tưởng
vào một cuộc cách mạng thành công thắng lợi. Từ sung sướng cho tới ngỡ ngàng, người lính Tây
Tiến bị thu hút bởi linh hồn của buổi văn nghệ - những cô gái nơi núi rừng Tây Bắc bất ngờ xuất
hiện trong những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn lại vừa tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ
lạ. Bên cạnh đó, người lính Tây Tiến còn được đón tiếp nồng nhiệt bằng cả âm nhạc và điệu múa:
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”
Tác giả ban đầu viết “em” nhưng sau đổi thành “nàng” bởi chính trong không gian của âm
nhạc và vũ điệu ấy đã chắp cảnh cho tâm hồn của Quang Dũng cũng như những người lính Tây
Tiến khác càng bay xa. Câu thơ sau, ta bắt gặp địa danh Viên Chăn – thủ đô của Lào bởi người lính
Tây Tiến không chỉ chiến đấu ở Tây Bắc Việt Nam mà còn ở cả nhiều vùng thuộc các tỉnh Sầm
Nứa, Xiêng Khoảng của Lào. Từ đó ta có thể thấy, đôi khi các anh phải chiến đấu ở những nơi đất
khách quê người, nhưng dù ở bất cứ đâu cũng đều được đón tiếp bằng tình cảm quân dân nồng
thắm. Mặt khác người đọc cũng thấy được mối mang giao hữu hào lâu đời của Lào với Việt Nam –
cùng chung một kẻ thù – thực dân Pháp. Nếu như bốn câu thơ trên là những đêm giao lưu văn hóa
văn nghệ của người đồng bào dân tộc miền cao với đoàn binh Tây Tiến thì bốn câu thơ tiếp theo lại
mang vẻ đẹp huyền hồ của thiên nhiên miền Tây:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Mở ra là không gian giăng mắc màu sương khói cứ thế trong cõi mộng cõi mơ hiện ra. Cái
thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của sương khói ban mai đã biến nơi đây trở thành một miền cổ
tích. “Lau” vốn là một loại cây vô tri vô giác vậy mà nhà thơ Quang Dũng lại sử dụng biện pháp

86 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

nghệ thuật nhân hóa để thối hồn mình vào cảnh vật tràn đầy sức sống. Phải là một thi sĩ nhạy cảm
và vô cùng tinh tế mới có thể nhận ra “lau” luôn trải rộng những bến bờ, chỉ là người ta có để tâm
hay không. Tác giả viết là “hồn lau” chứ không phải là “bông lau”, cây lau”… Bởi chữ “hồn” đã
khiến cho “lau” trở nên trừu tượng đến lạ lùng. Mà nhớ về một thứ trừu tượng chắc hẳn tâm hồn đó
phải sâu nặng lắm, phải thiết tha lắm. Trên dòng sông đậm màu cổ tích, huyền thoại ấy nổi bật lên
là dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ
mà người cũng rất tình. Cảnh vật như cũng là duyên với con người, những bông hoa rừng cũng
“đong đưa” làm dáng trên sóng nước. Dưới ngòi bút tinh tế của Quang Dũng không chỉ làm hiện lên
vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên phàn thiêng liêng của cảnh vật. Cảnh và người hòa quyện
đồng điệu, tình tứ đến mê say. Trong không gian thơ ca của Quang Dũng, ta cảm nhận được rằng
đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ, cõi nhạc. Bốn câu thơ ngân nga như tiếng hát, như
nhạc điệu cất lên tự tâm hồn ngây ngất. Trên nền hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng và duyên dáng, mỹ
lệ của Tây Bắc thì khi đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng đoàn binh Tây Tiến xuất hiện với một vẻ
đẹp đầy bi tráng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Câu thơ đầu tiên của khổ thơ đã gây ấn tượng đậm nét chính bởi sự ngạo nghễ, ngang
tàng.Chiến tranh rồi sẽ qua đi, thời gian sẽ bù đắp những mất mát, đau thương, hình ảnh của những
chiến sĩ vô danh quyết tử cho tổ quốc sinh vẫn luôn còn mãi trong hàng triệu trái tim con người Việt
Nam. Nói như Banlzac: “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại”. Bởi vậy, văn học
với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những
người con anh hùng ngã xuống vì nền độc lập Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Đọc câu thơ
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” ta có thể thấy cái tài trong ngòi bút của Quang Dũng. Tuy ông
mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra được âm hưởng hào hùng bởi
những trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc” đều được gieo thanh trắc, mỗi từ, mỗi chữ
đều như những nét khắc nét trạm, khắc lên bức tượng đài người lính Tây Tiến. Ngay từ hai câu thơ
đầu của đoạn, tác giả đã cho người đọc nhớ lại về căn bệnh quái ác từng ám ảnh trong văn chương
cả một thời kỳ kháng chiến chống Pháp: bệnh sốt rét rừng. Trên thực tế, người mắc phải bệnh này
tóc đều rụng nhưng ở đây, khi được nhìn nhận qua lăng kính lãng mạn, nhà thơ xứ đoài Quang
Dũng chuyển từ bị rụng tóc thành “không mọc tóc”, biến tư thế của người lính Tây Tiến từ bị động
sang chủ động.
Tiếp đến, ta bắt gặp hình ảnh quân xanh màu lá, đáng lý đó là màu xanh của làn da bủng
beo, xanh xao, vàng vọt của người bệnh nhưng một lần nữa, khi được viết dưới ngòi bút lãng mạn
của Quang Dũng, màu xanh của lan da ốm yếu nay lại thành màu xanh của lá ngụy trang, xanh biếc,
xa lũy tre làng, là mùa xanh của lá cây rừng che trở cho các anh trên chặng đường hành quân.
Những người lính Tây Tiến “ốm” nhưng không hề “yếu”, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, các anh
vẫn luôn giữ vững tâm thế oai nghiêm, đứng lên làm chủ đất nước mình. Cho nên Quang Dũng
cũng miêu tả họ trong vẻ đẹp chủ động đến kiêu ngạo, không phải họ bị rụng tóc, mà lại là không
mọc tóc, không phải da xanh tái vì sốt rét mà là “dữ oai hùm”, sắc xanh của núi rừng tự nhiên.

87 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Nếu như hai câu thơ trước tác giả khắc họa lên vẻ đẹp của người lính Tây Tiến thì ở hai câu
thơ tiếp theo, nhà thơ Quang Dũng lách sâu ngòi bút của mình để thể hiện tâm thư tình cảm của
người chiến sĩ Tây Tiến, nét hào hoa của những người lính Tây Tiến:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Cùng một lúc cả hai hành động đều xảy ra trong lòng các anh đó là “mắt trừng” và “gửi
mộng”, khi chiến đấu các anh luôn đề cao cảnh giác, quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ nhưng dù ở
nơi đất khách quê người, trái tim các anh vẫn không quên gửi gắm những yêu thương, tâm tư của
mình cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành. Không cần miêu tả về vóc dáng, bóng hình, ba chữ
“dáng kiều thơm” đã chan chứa, đong đầy dáng hình của Hà Nội Thơ hay ý tại ngôn ngoại, dù hiểu
theo ý nào cũng đều hay bởi đối với người lính Tây Tiến, tuy nỗi nhớ “dáng Kiều thơm” không phải
là một hình ảnh cụ thể nhưng trong trái tim họ luôn luôn có hình ảnh của quê hương là thủ đô Hà
Nội. Bất chợt ta nghĩ đến người lính đánh Pháp năm nào trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình
Thi cũng từng có cùng cảm xúc “Những đêm dài hành quân nung nấu, bỗng bồn chồn nhớ mắt
người yêu” ý chính sự hài hòa của mộng và mơ đã cùng tiếp thêm sức mạnh cho các anh, vượt qua
gian khổ, quyết tâm lập những chiến công hiển hách. Quang Dũng nhìn nhận ở nhiều chiều, khắc hạ
chân dung người lính Tây Tiến không chỉ vẻ về ngoài mà còn cả tâm hồn lãng mạn của họ. Trong
chiến tranh, mất mát và hy sinh là không thể tránh khỏi, Quang Dũng cũng nêu lên hiện thực này
không che giấu theo cách của riêng ông:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Nhà thơ sử dụng những từ Hán Việt như “rải rác” là thưa thớt, “viễn xứ” là nơi xa. Tác giả
tái hiện một không gian lạnh lẽo, heo hút với hình ảnh những nấm mồ hoang của những người con
xa xứ ngoài biên ải, tuy không nhiều nhưng “rải rác” trên vạn nẻo đường hành quân. Đó là những
cảnh tượng nghiệt ngã đến ám ảnh mà các anh luôn phải đối mặt hàng ngày. Đi đâu cũng thấy vài
ba nấm bộ trên đường, qua mưa gió, thời gian của những người lính trẻ xa nhà đã vĩnh viễn nằm lại
ngoài biên cương. Những con người thà chết đường, chết bệnh chứ nhất quyết không bao giờ có
chuyện đào ngũ trở về. Họ ra đi khi ở ngưỡng tuổi đẹp nhất của đời người. Các anh đã tham gia
chiến dịch của những thanh niên yêu nước mà “chẳng tiếc đời xanh”, dám từ bỏ tất cả, gác lại việc
họp tập, ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc không hẹn ngày trở về. Sự hi sinh thầm lặng mà anh dũng
của những người lính vô danh đã tạo nên sự bất tử cho Tổ quốc
Ở câu thơ tiếp theo, ta bắt gặp vẻ đẹp thứ ba trong bài thơ “Tây Tiến”, đó là cái bi, nỗi buồn
nhưng không phải bi quan, bi lụy mà là bi hùng, bi tráng:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Ra đi từ những năm đầu của cuộc chiến tranh trường kỳ gian khổ, người lính Tây Tiến thiếu
thốn rất nhiều về cơ sở vật chất, vậy mà ở đây ta nhận thấy Quang Dũng lại sử dụng hình ảnh “áo
bào” – loại áo dành cho vua chúa và quan võ. Mới nghe qua ta tưởng nghịch lý nhưng nghĩ lại thấy
hợp lý vô cùng. Nhà thơ Trần Lê Văn, đồng thời cũng là một người bạn thân của Quang Dũng đã

88 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

từng kể rằng: “Ngày ấy mỗi lần người lính ra trận thường được đồng bào địa phương tặng cho chiếc
chiếu, sống để đắp, chết bó thây. Và thực tế đã được nhiều người vận dụng cho rằng : khi nằm
xuống người lính chiến không có được cái hòm, chí có chiếc chiếu liệm thân anh mà thôi! Nhưng
căn cứ trên câu thơ “áo bào thay chiếu” thì khi chết người lính không có cả chiếc chiếu để chôn
thân, chiếc áo mặc lúc sống là chiếc quan tài che kín thân anh! Hãy nghe Quang Dũng nói “ngay cả
khi nằm xuống, người tử sĩ không có cả manh chiếu liệm. Nói áo bào thay chiếu là cách nói của
người lính chúng tôi, kiểu nói ước lệ. Câu thơ trên đây để an ủi những đồng chí của mình ngã xuống
giữa rừng”. Như thế đã rõ những người lính chúng ta đã dâng hiến đời mình cho dân tộc đẹp đến
chừng nào. Khi vĩnh viễn giã từ cuộc sống, không có một tiếng khóc của người thân. Đồng đội cố
nén dòng lệ phân li để giữ vững tinh thần, chỉ có dòng sông Mã thay lời nước non đang gầm lên tiễn
đưa người con ưu tú của dân tộc về với đất mẹ. Khúc điều văn bi tráng của sông Mã đã nâng hình
ảnh người lính lên tầm vóc núi sông, ngang tầm với trời đất”. Tất cả những tấm áo, tấm chiều ấy
được nhìn nhận thông qua lăng kính lãng mạn của Quang Dũng đều được trở thành “áo bào”, mang
dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm nói
tránh “anh về đất” vơi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của
sông Mã. Một lần nữa hình ảnh sông Mã lại hiện lên và được nâng tầm để trở thành một chứng
nhân lịch sử ghi lại chiến công hiển hách của người lính Tây Tiến cùng sự hy sinh và mất mát của
họ. Không phải ngẫu nhiên, khi Quang Dũng mất, hội nhà văn Việt Nam đứng trước linh cữu của
Quang Dũng phải thốt lên rằng:
“Sông Mã xa rồi sông Mã ơi
Người yêu sông Mã cũng qua đời”
Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiếng Tây Bắc để
nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ vừa mang âm hưởng dữ dội, vừa hào hùng
khiến sự hy sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại
bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm, giọng thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ
hào hùng. “Tây Tiến” mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch
sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại một thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong
hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến vậy. “Có một bài ca không bao giờ quên” – có một
“Tây Tiến”, một Quang Dũng luôn ở trong trái tim của mỗi con người yêu văn chương. Chiến tranh
đã lùi xa nhưng âm vang vọng của nó thì còn mãi. “Tây Tiến” chính là một trong những bài ca
không thể nào quên của những năm tháng trường kì chống Pháp. Ai đó đã từng nói rằng “Những gì
không đọng lại trong đời, sẽ đọng lại trong văn chương”, ta chưa một lần được tham gia vào đoàn
binh tây Tiến, ta chưa một ngày phải sống trong mưa bom bão đạn nhưng đọc những tác phẩm như
này ta hiểu hơn về vẻ đẹp của người lính trong thời chiến. Họ là những trí thức Hà thành, ra đi theo
tiếng gọi của tổ quốc. Cũng khơi nguồn cảm hừng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất
nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm
trạng cụ thể – nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến ý chính niềm thương nhớ da diết và lòng
tự hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã khiến người đọc của nhiều thế
hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này”.

89 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Quang Dũng vào “làng” thơ cách mạng với bài “Tây Tiến”. Như có mối duyên gì ràng buộc,
bài thơ ấy gắn bó với người làm ra nó đến mức cứ nói đến Quang Dũng người ta nhớ đến bài thơ
Tây Tiến và ngược lại. Có lẽ bởi từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm
hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng
vừa chân thực, vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới,
thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kì chống thực dân Pháp.

90 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

VIỆT BẮC – TỐ HỮU

----------------------------------------------

Ý nghĩa nhan đề của tác phẩm Việt Bắc.

Không chỉ là tên gọi của đoạn trích trong tác phẩm trong sách giáo khoa, Việt Bắc còn là tên
của toàn bộ tập thơ này. Việt Bắc chính là căn cứ địa Cách Mạng ( từ năm 1941 sau khi khởi nghĩa
Bắc Sơn 9/1940 nổ ra, nơi đây được hình thành và đến năm 1954 thì hoàn thành sứ mệnh trong
kháng chiến chống Pháp ) gồm 6 tỉnh: Cao Bằng- Bắc Kạn-Lạng Sơn-Hà Giang-Tuyên Quang-Thái
Nguyên.Việt Bắc trong kí ức của mọi con người Việt Nam luôn được nhớ tới là quê hương cách
mạng, thủ đô kháng chiến.

- Tác giả: -Hoàn cảnh sáng tác

Mỗi một nhà thơ họ luôn lựa chọn cho Sau năm 1954, chúng ta lập lại hòa bình
mình một lối đi riêng trong sáng tác. Đối với ở miền bắc, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc,
Tố Hữu, ông luôn được nhớ tới là cánh chim hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết.Miền bắc xây
đầu đàn của thơ cách mạng Việt Nam, nhà thơ dựng cuộc sống mới tiến lên xã hội chủ nghĩa,
mang hồn thơ của dân tộc, trưởng thành trong cán bộ từ Việt Bắc trở về tiếp quản thủ đô Hà
giai đoạn thơ mới phát triển nhưng ông không Nội chia tay nhân dân tại chiến khu Việt
đi theo con đường ấy mà khẳng định tên tuổi Bắc.Nhân sự kiện có tính lịch sử - thời sự, Tố
của mình với phong cách thơ : Trữ Tình Hữu đã dồn cảm xúc của mình để gửi gắm cả
Chính Trị. Những tác phẩm của ông luôn gắn vào tác phẩm , vừa như ôn lại kỉ niệm vừa là tri
liền với những mốc son trong lịch sử của dân ân nhân dân tại chiến khu Việt Bắc trong
tộc, cũng như đọng lại trong từng bài thơ ta những ngày tháng đã qua trong kháng chiến
cảm nhận được sự chân thành, mộc mạc tha chống Pháp.
thiết ân tình. Một người thư kí của của Cách
Mạng, đem thơ ca viết lại trang sử vẻ vang của
dân tộc, những ngày tháng không thể nào quên.
Sở dĩ được gọi là Trữ Tình - Chính Trị là bởi
những tác phẩm này bày tỏ cảm xúc chân thành
của bản thân tác giả nhưng lại tập trung đề cập
đến những vấn đề to lớn, lớn lao, trọng đại của
dân tộc.Có thể nói Việt Bắc là đỉnh cao nghệ
thuật trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu.

91 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Đặc trưng về kết cấu của tác phẩm là cách hát đối đáp : Ta – mình

Người miền Bắc chúng ta vẫn có câu:

“Mình về ta chẳng cho về

Ta níu vạt áo ta đề câu thơ.”

Hay như trong miền Nam khi những người thương, yêu nhau tiễn nhau bồi hồi cảm xúc
cũng có câu :

“Chàng về , em nắm vạt áo em la làng

Bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho ai?”

Tố Hữu sử dụng để thể hiện tình cảm của cán bộ về xuôi với nhân dân, cũng như nhân dân
với người ra về. Ông mượn kết cấu lối hát đối đáp, ca dao viết về một đề tài không mới là cuộc chia
ly nhưng để ghi lại một sự kiện lịch sử vừa mới diễn ra.Không phải là cá nhân chia tay với cá nhân
mà là của tập thể với tập thể của chiến sĩ ra về với nhân dân ở lại.Không phải ngẫu nhiên ông được
gọi là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn.Thơ ông đậm đà tính dân tộc. Hình thức đối đáp không
chỉ là sự ướm hỏi mà đó chính là để bày tỏ tình cảm, tạo ra âm thanh mang tính điệp trùng cộng
hưởng, đồng vọng không dứt, âm vang của thời đại.Mà cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ xuyên suốt toàn
bộ tác phẩm.

92 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Phân tích chi tiết tác phẩm

4 câu thơ đầu : ( lời nhắn nhủ của người ở lại với cán bộ về xuôi )

Mình về mình có nhớ ta Lời của nhân dân Việt Bắc dành cho người ra về.Hai câu
thơ 1-3 đều là câu hỏi tu từ không tìm kiếm câu trả lời, mà chủ
Mười lăm năm ấy thiết tha
yếu là bày tỏ cảm xúc của nhân vật trữ tình.Hỏi nhưng mục đích
mặn nồng
chính là để giãi bày tâm trạng của mình với cán bộ ra về , nhắc
Mình về mình có nhớ đi nhắc lại chỉ thay đổi một từ "ta"” và từ "không".Mười lăm
không năm là nhắn nhủ về khoảng thời gian gắn bó của chiến sĩ với
nhân dân Việt Bắc , từ năm 1940 khi khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra
Nhìn cây nhớ núi, nhìn cho đến năm 1954 khi miền Bắc dã hoàn toàn được giải phóng
sông nhớ nguồn. kết hợp với từ láy thiết tha và mặn nồng chủ yếu nói về tình cảm
trước sau thủy chung như một trong những ngày tháng gắn bó
máu cùng đổ, kề vai sát cánh, chung lưng đấu cật.

Cặp câu thơ sau lại hướng về không gian khi tác giả sử
dụng những danh từ mang ý nghĩa bao trùm, cội rễ “Sông” và
“Nguồn” , “Cây” và “Núi”.Kết hợp với cặp động từ là Nhìn và
Nhớ.gợi nhắc về có núi thì mới có cây, có nguồn thì mới có
sông và có Việt Bắc mới có ngày Miền Bắc hoàn toàn độc lập.
Cách bày tỏ cảm xúc của người ở lại là bật lên thành lời.

4 câu thơ sau: trả lời tấm lòng của nhân dân ( hành động của người ra về, chiến sĩ Cách
Mạng bộc lộ tâm tư tình cảm khi trở về thủ đô )

Tiếng ai tha thiết bên cồn Trong những câu thơ viết về tình cảm của người cán
bộ ra về chủ yếu là những câu khẳng định.Khẳng định lại tình
Bâng khuâng trong dạ , bồn
cảm của chiến sĩ với nhân dân.Tác giả sử dụng hàng loạt các
chồn bước đi
từ láy Hán Việt để miêu tả nhiều cung bậc cảm xúc của cán bộ
Áo chàm đưa buổi phân ly ra về.Tha thiết là canh cánh trong lòng, là khắc khoải khôn
nguôi.Bâng khuâng không chỉ đơn thuần là một trạng thái cảm
Cầm tay nhau biết nói gì hôm xúc , mà đem tới nhiều những cảm xúc khác nhau : một chút
nay thương , một chút nhớ, một chút bồi hồi, một chút thương,
một chút bịn rịn.Bồn chồn có thể hiểu là trở đi trở lại liên tục.
Áo chàm là nghệ thuật hoán dụ kép lấy bộ phận chỉ toàn thể.
Áo chàm là áo của người dân tộc Tày, họ là người chiếm số
đông ở Việt Bắc. Nói áo chàm chính là để nói nhân dân Việt
Bắc. Để hoán dụ hay đến như vậy đòi hỏi đó phải là người
93 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

hiểu về nơi đây, Tố Hữu cũng là cán bộ từng gắn bó với Việt
Bắc bởi vậy ông hoán dụ hay đến vậy. Hành động được nhắc
tới là cầm tay mang nhiều ý nghĩa. Cầm tay là trao cho nhau
hơi ấm, là trao cho nhau tình cảm, là trao cho nhau sức mạnh.

Từ câu thơ 9 đến câu thơ 20, lượt lời thứ 2 của nhân dân nhắn nhủ tới cán bộ

- Mình đi, có nhớ những ngày Hàng loạt những câu thơ 6 chữ đều là những câu
Mưa nguồn suối lũ, những mây hỏi đồng dạng khơi gợi lại kí ức.
cùng mù?
Những câu thơ 8 chữ đều nhắc lại về những khắc
Mình về, có nhớ chiến khu
nghiệt đặc trưng về núi rừng Việt Bắc.Những ngày tháng
Miếng cơm chấm muối, mối thù
khó khăn nhất, “mưa nguồn, suối lũ” nỗi ám ảnh của những
nặng vai?
con người đã từng ở miền cao. Mây cùng mù khắc nghiệt
Mình về, rừng núi nhớ ai
giăng kín lối, che đường đi và lạnh tới thấu xương.Ở một
Trám bùi để rụng, măng mai để già
góc độ khác ta cũng có thể hiểu mây mù ẩn dụ cho một
Mình đi, có nhớ những nhà
tương lai mờ mịt trong ngày đầu kháng chiến. Mặc dù
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
không gian thì khắc nghiệt nhưng tương phản hoàn toàn
Mình về, còn nhớ núi non
với con người Việt Bắc thủy chung, ân tình.
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt
Minh ( tiểu đối )
Mình đi, mình có nhớ mình miếng cơm chấm muối > < mối thù nặng vai
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây
Hắt hiu lau xám > < đậm đà lòng son
đa?
( ăn uống đạm bạc thiếu thốn nhưng trách nhiệm
lớn lao.Cuộc sống hoang vu, khó khăn, tiêu điều thì tấm
lòng của con người Việt Bắc lại sâu đậm, đầy ắp những yêu
thương.

Bên cạnh đó tác giả vẫn không quên gợi nhắc tới
những giai đoạn lịch sử đầy tự hào như chống phát xít
Nhật, chống thực dân Pháp.

Mái đình Hồng Thái

Đây là điểm dừng chân đầu tiên của Bác từ Cao
Bằng về căn cứ địa cách mạng Tân Trào ngày
21/5/1945.Đình Hồng Thái cũng là nơi đón tiếp các đại
biểu về dự Quốc dân đại hội tháng 8/1945, trong kháng
chiến chống Pháp nơi đây trở thành trạm đặc biệt quan
trọng của Ban bảo vệ an toàn khu

94 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Cây đa Tân Trào

Dưới gốc đa này, chiều 16/8/1945, đại tướng Võ


Nguyên Giáp đã đọc bản quân lệnh số 1 và ngay sau đó
quân Giải Phóng làm lễ xuất quân lên đường qua Thái
Nguyên tiến về giải phóng Hà Nội.

Từ câu thơ 21-câu thơ 25

( lời khẳng định tình cảm của chiến sĩ với nhân dân ở lại )

Ta với mình, mình với ta Câu thơ đầu về mặt kết cấu gồm 2 vế với từ ngữ là
hoàn toàn giống nhau chỉ có chăng là sự thay đổi về vị
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
trí.Ta và mình tuy hai mà một tuy một mà hai.Tình cảm
Mình đi mình lại nhớ mình của nhân dân dành cho chiến sĩ nhiều bao nhiêu thì tình
cảm của chiến sĩ dành cho nhân dân nhiều bấy nhiêu.Từ
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình tình cảm quân dân nhưng qua cách nhìn nhận tinh tế của
bấy nhiêu Tố Hữu lại chẳng khác nào tình cảm của lứa đôi dành cho
nhau.

Với chiến sĩ ra về họ luôn bộc lộ cảm xúc bằng
những lời khẳng định, Câu thơ “lòng ta sau trước mặn mà
đinh ninh” là lời khẳng định, lời thề về tấm lòng của họ
dành người ở lại.Câu thơ thứ 3 không còn đại từ “Ta” mà
chỉ còn ba đại từ “Mình”.Vừa là nhớ người ở lại nhưng
cũng vừa diễn tả nhớ tới chính mình trong những ngày
tháng đã từng gắn bó với mảnh đất này.

Tình cảm ấy được cụ thể hóa ở câu thơ sau cùng ,
ví von nỗi nhớ với nước trong nguồn chảy ra, chỉ đầy vơi
không bao giờ vơi cạn, ào ạt, dào dạt vô tận

95 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Từ câu thơ 26 - câu thơ 33 ( Hồi ức đẹp về chiến khu Việt Bắc của chiến sĩ ra về )

Nhớ gì như nhớ người yêu Vẫn biết rằng cảm xúc bao trùm lên toàn bộ tác
phẩm là nỗi nhớ.Nhưng đến với đoạn thơ ta được cảm
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng
nhận một cách rõ rệt về nỗi nhớ của cán bộ ra về.
nương
“Nhớ người yêu"
Nhớ từng bản khói cùng sương
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”.Bên cạnh đó tác
Nhớ từng rừng nứa bờ tre giả sử dụng phép điệp “Nhớ từng” như lật giở lại từng
trang của ký ức về mảnh đất Việt Bắc đong đầy nghĩa
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy tình này.Hàng loạt những hình ảnh được thi sĩ gợi lên
Ta đi ta nhớ những ngày với cảnh tượng Việt Bắc thanh bình : Trăng lên đầu
núi, nắng chiều lưng nương.Trăng và nắng gợi lên về
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi thời gian tuần tự, kết hợp với khung cảnh đầu núi, lưng
nương.Từ những hình ảnh quen thuộc bỗng trở nên thi
vị, đậm chất nên thơ trữ tình.Đó là hình ảnh những bản
làng được giăng mắc lên bằng màu sương khói.Vừa
huyền ảo, vừa thơ mộng.Trong những mái nhà những
bản làng là hình ảnh con người Việt Bắc chờ đợi , chờ
mong.Cho đến khuất tầm mắt là những rừng nứa bờ
tre, một màu xanh mướt trải rộng khắp. Tất cả làm nên
một khung cảnh Việt Bắc vừa thân quen mộc mạc
nhưng lại nên thơ nên họa. Nếu như trong cách liệt kê
của nhân dân là những chiến thắng vang dội, thì trong
lối nói của những người ra về, kí ức của họ là những
dòng sông, con suối ở Việt Bắc, cảnh đẹp thiên nhiên
nhưng cũng là đặc trưng của nơi đây.Gian khổ đắng
cay nào cũng cùng nhân dân trải qua, diễn tả cảm xúc
nỗi thương nỗi nhớ chia sẻ mọi điều trong 15 năm hoạt
động tại Việt Bắc

96 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Từ câu thơ 34 đến câu thơ 43

Kỷ niệm đong đầy và cụ thể về những ngày tháng khó khăn nhất nhưng luôn có người dân
Việt Bắc ở cạnh bên

Thương nhau chia củ sắn lùi Liên tục tác giả sử dụng những hình ảnh thân quen
mà thiếu thốn trong kháng chiến như cơm sẻ nửa, chia củ
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
sắn lùi, chăn sui đắp cùng.Khó khăn chồng chất khó khăn,
cùng
nhưng đối với chiến sĩ cách mạng luôn có nhân dân đùm
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng bọc, cưu mang, sẻ chia vượt qua những khó khăn của nghịch
cảnh.Tác giả sử dụng hàng loạt những động từ như : Chia,
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô sẻ, cùng... lúc nào cũng có nhân dân chia sẻ đắng cay ngọt
Nhớ sao lớp học i tờ bùi. Trong những kí ức của người cán bộ ra về có lẽ ấn
tượng hơn cả là những người mẹ ở Việt Bắc.Họ là những
Đồng quê đuốc sáng những giờ người mẹ kháng chiến ta bắt gặp nhiều trong những tác
liên hoan phẩm :

Nhớ sao ngày tháng cơ quan Mẹ quạt con bằng gió nồm lòng mẹ

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo Mẹ ấp con bằng lồng ngực không còn mùa đông

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Mẹ xoa đầu con

Chày đêm nện cối đều đều suối xa Bằng bàn tay mẹ xoa cánh đồng

(Quê hương mặt trời vàng – Thu Bồn )

Cảm xúc mang ơn những bà mẹ kháng chiến trong


những ngày tháng khó khăn gian khổ nhất.Họ đã tự nguyện
lao động để nuôi kháng chiến , chăm chỉ để góp phần san sẻ
gánh nặng mưu sinh với cán bộ.

Không chỉ dừng lại ở cảnh vật bình yên, Tố Hữu
nhắc lại về những ngày tháng sinh hoạt ở nơi đây của cán
bộ.Bình dân học vụ, là những đêm giao lưu văn hóa văn
nghệ.. là hình ảnh là âm thanh quen thuộc trong đời
thường.Việc dạy học và tuyên truyền có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc dẫn tới toàn thắng trong kháng chiến
chống Pháp.

Những đêm giao lưu văn hóa không hề xa lạ ta đã
từng bắt gặp trong thơ ca Quang Dũng :

97 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Chiến sĩ vẫn tin tưởng vào một ngày mai nhất định
thành công thắng lợi, ý chí của họ vẫn cao hơn những khó
khăn trước mắt, gợi cảm hứng về tương lai.Sống trong khó
khăn vẫn yêu đời thắm thiết.

Từ câu 44 đến câu thơ 53 ( Bộ tranh tứ bình về con người và thiên nhiên Việt Bắc trong kí ức
của người chiến sĩ cách mạng về xuôi )

Ta về, mình có nhớ ta *Cặp câu thơ đầu tiên mang kết cấu “ta -
mình”.Người chiến sĩ đưa ra câu hỏi tu từ gieo vào lòng
Ta về ta nhớ những hoa cùng
người ở lại, liệu khi họ ra về, nhân dân nơi đây có nhớ mình
người
hay chăng.Không tìm kiếm câu trả lời, câu 8 một lần nữa tác
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi giả khẳng định lại về tình cảm của người ra về.Đối tượng
hướng đến trong nỗi nhớ của họ hướng đến “Hoa” và
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt "Người”.Hoa là ẩn dụ tượng trưng cho thiên nhiên Việt Bắc,
lưng người là con người Việt Bắc.Hai câu thơ mở ra một bộ tranh
Ngày xuân mơ nở trắng rừng tứ bình trong tác phẩm.Tứ bình là một bộ tranh gồm bốn bức
tranh, khác nhau về mặt nội dung nhưng lại có chung một
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi chủ đề.Tố Hữu bằng tài văn của mình ông vẽ lên kí ức một
giang bộ tranh bằng thơ về con người và thiên nhiên Việt Bắc cả
bốn mùa trong năm.Khác với trình tự khi ta đề cập tới là
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Xuân – Hạ – Thu – Đông.
Nhớ cô em gái hái măng một
*Mùa đầu tiên được nhắc tới lại là bức tranh mùa
mình
Đông. Trải lên toàn bộ vùng địa bàn rộng lớn ở Việt Bắc là
Rừng thu trăng rọi hòa bình gam màu lạnh, gam màu xanh lá của núi rừng trầm măc.Tố
Hữu khéo léo sử dụng bút phát điểm xuyết, chủ yếu là chấm
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy
phá. Đặt lên trên khung cảnh núi rừng là những bông hoa
chung.
chuối đỏ tươi,Với việc sử dụng những gam màu tương phản
làm nổi bật lẫn nhau và tôn vinh lên nhau. Bức tranh mùa
đông không hề lạnh lẽo, mà trái lại sinh động rực rỡ sắc
màu. “Đèo cao” là cụm từ thể hiện hình ảnh của thiên nhiên
hùng vĩ, nhưng với góc nhìn của một nhiếp ảnh gia, tác giả

98 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

chụp lại khoảng khắc đẹp của người đi rừng Việt Bắc.
Những tia nắng chiếu vào lưỡi dao của người đi rừng Việt
Bắc và lóe sáng. Người Việt Bắc mạnh mẽ tự tin, đứng lên
làm chủ quê hương mình, làm chủ đất nước mình.Con người
vượt qua khó khăn , vượt lên trên nghịch cảnh.

*Bức tranh mùa xuân , không còn sử dụng những


gam màu nóng lạnh tương phản, thi sĩ sử dụng nghệ thuật
đảo ngữ “trắng rừng” nhấn mạnh vào vẻ đẹp đặc trưng thiên
nhiên Việt Bắc sang xuân. Ở đó là màu trắng tinh khiết tinh
khôi của hoa mơ. Màu hoa mơ trắng đã nhiều lần bước vào
trong bài thơ Theo Chân Bác, Tố Hữu viết:

Ôi sớm xuân nay xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”

Hay như trong bài thơ : “hoan hô chiến sĩ Điện Biên”
Tố Hữu cũng dã từng viết :

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng”.Cứ câu thơ lục
viết về vẻ đẹp thiên nhiên thì câu thơ bát lại viết về vẻ đẹp
con người.Nhân dân Việt Bắc tài hoa , tinh tế trong hoạt
động sản xuất đời thường được thể hiện qua hình ảnh “Chuốt
từng sợi giang”.Khác với sự mạnh mẽ tự tin, đứng lên làm
chủ thiên nhiên như bức tranh mùa đông.Bức tranh con
người và mùa xuân lại toát lên sự tỉ mỉ, cần cù , tài hoa, chỉ
là một công việc nhẹ nhàng, quen thuộc nhưng lại tinh tế ,
những công việc bình dị đời thường nhưng họ thực sự trở
thành người nghệ sĩ trong công việc của mình.Vẻ đẹp này ta
cũng bắt gặp trong người lái đò sông Đà hay Huấn Cao trong
chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.

*Bức tranh mùa hạ trước tiên đến với chúng ta trước
tiên không phải là màu sắc , lại là âm thanh đến với bạn đọc.
Tiếng ve kêu râm ran báo hiệu mùa hè, âm thanh đặc trưng
đã nhuộm vàng cả rừng phách. Trong vỏn vẹn 6 từ , vậy mà

99 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

chinh phục bạn đọc bằng một chuỗi vận động liên hoàn từ
âm thanh đến hình ảnh.

Từ có lẽ ta quan tâm nhiều hơn là động từ mạnh
“đổ”. Về mặt nghĩa đen đó là tốc độ chuyển mùa mau lẹ của
thiên nhiên từ màu trắng tinh khôi của hoa mơ, chỉ sau
những tiếng ve kêu đã đồng loạt đổ sang màu vàng mỡ màng
của rừng phách.Nhìn vào lịch sử mùa hạ năm 1954 chúng ta
liên tục giành chiến thắng trên mọi mặt trận.Chỉ một từ đổ
nhưng đạt tới độ chính xác mang nhiều trường liên tưởng, dù
hiểu theo cách nào cũng đều đặc sắc.

Màu sắc trong 4 bức tranh thay đổi linh hoạt. Trong
bức tranh mùa hạ thay vì viết về cách thức lao động sản xuất
thì tác giả viết về tinh thần trong lao động. Điều này được
thể hiện ở nhịp thơ 2/2/2/2 gieo vần ai vần ái thể hiện niềm
vui.Những cô gái lao động một mình , đóng góp âm thầm
trong suốt những năm tháng kháng chiến. Họ vui tươi, trẻ
trung, hồn nhiên. Những con người ta không thể nhớ mặt đặt
tên nhưng họ làm nên đất nước muôn đời.

*Sau cùng là bức tranh mùa thu, tuy nhiên là không
hề có bất cứ màu sắc nào cả thay vào đó là hình ảnh của ánh
trăng. Khác với xu thế bình thường là xuân-hạ-thu-đông, mở
đầu lại là mùa đông và kết lại bằng mùa thu.Bởi trong 9 năm
ấy là từ mùa đông năm 1946 Bác đưa ra lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến và khép lại bằng tháng 10/1954. Đây là sự
phá lệ trong việc đảo lại trật tự các mùa của bộ tranh tứ bình.
Các bức tranh trước chỉ viết về thiên nhiên vào ban ngày
nhưng đến bức tranh mùa thu lại là vẻ đẹp đặc trưng núi
rừng Việt Bắc vào ban đêm.

Thay vì những đêm thao thức trăn trở về con đường
giải phóng dân tộc của cán bộ, chiến sĩ giờ đây chúng ta đã
làm nên những chiến công hiển hách, giành lại độc lập cho
miền bắc và ở đó là vẻ đẹp của hòa bình, những tháng ngày
bình yên.

Với việc sử dụng đại từ phiếm chỉ “Ai” , tác giả nhắc
tới một truyền thống đẹp của con người Việt Nam. Ăn quả
nhớ kẻ trồng cây , uống nước nhớ nguồn, những con người

100 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

thủy chung, yêu thương, nghĩa tình trong những ngày tháng
khó khăn nhất để làm nên những điều kì diệu nhất.Thời gian
trôi qua nhưng tình cảm là mãi mãi không chỉ là câu chuyện
của cán bộ với nhân dân và là toàn thể nhân dân Việt Nam
luôn nhớ tới Việt Bắc.

Từ câu 54 đến câu 64

tác giả kể lại những ngày tháng chiến đấu trường kì gian khổ

Nhớ khi giặc đến giặc lùng Trong hoàn cảnh khó khăn những ngày đầu kháng
chiến, thế giặc mạnh và chúng liên tục reo rắc đau
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
thương.Tác giả sử dụng từ “cùng” để thấy thiên nhiên và con
Núi giăng thành lũy sắt dày người hòa vào làm một chiến đấu với quân địch.Thậm chí
với cách viết này ta cảm nhận được ngay cả thiên nhiên cũng
Rừng che bộ đội, rừng vây quân được trao nhiệm vụ.Núi non cũng trở thành bức tường thành
thù ngăn cả sự tấn công của quân địch.
Mênh mông bốn mặt sương mù Rừng cũng có vai trò quan trọng, có hồn, có chính
Đất trời ta cả chiến khu một lòng kiến, có tư tưởng, cùng lúc vây quân thù và che chở cho bộ
đội ta.
Ai về ai có nhớ không
Cùng với rừng già, sương mù Tây Bắc che chắn tầm
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo nhìn của kẻ thù, gây cản trở.Không chỉ có con người mà cả
Giàng thiên nhiên cũng góp phần vào thành công của cuộc kháng
chiến.Sự thành công đến từ tinh thần đoàn kết, hợp sức đồng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
lòng cả con người cả thiên nhiên.
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị
4 câu thơ sau tác giả sử dụng phép điệp từ “nhớ” kết
Hà…
hợp với thủ pháp nghệ thuật liệt kê hàng loạt các địa danh :
“Phủ Thông”, “đèo Giàng”, “sông Lô”, “phố Ràng”…Báo
tin thắng trận trên khắp các nơi khi chúng ta đã vùng lên
chiến đấu.

Từ câu thơ 63 đến câu thơ 74 : Cảnh ra quân

Những đường Việt Bắc của ta “Những đường Việt Bắc” ta vừa có thể hiểu
đó là những con đường ra trận nhưng cũng có thể
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
hiểu đó là những con đường kháng chiến, con đường
Quân đi điệp điệp trùng trùng giải phóng dân tộc.Cụm từ “của ta” thể hiện khát
khao được đứng lên làm chủ quê hương mình làm
101 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nam chủ đất nước mình mà ta đã từng bắt gặp đồng điệu
trong “đất nước” của Nguyễn Đình Thi:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
“Trời xanh đây là của chúng ta
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Núi rừng đây là của chúng ta”.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Hàng loạt những từ láy được sử dụng như
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
“đêm đêm”, như “rầm rập” với thủ pháp so sánh và
Tin vui chiến thắng trăm miền phụ âm “rung” ta thấy được sự đông đảo của tất cả
những anh bộ đội ngày đêm hành quân nung nấu với
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về ý chí quyết chiến quyết thắng rung chuyển đất
Vui từ Đồng Tháp, An Khê trời.Câu thơ trên thể hiện âm thanh thì câu thơ sau lại
viết nhiều hơn về hình ảnh. “Điệp điệp trùng trùng”
Vui lên Việt Bắc, đèo De , núi Hồng thường được sử dụng miêu tả núi hoặc sóng, tác giả
muốn thể hiện đoàn quân Việt Nam ta ra trận đông
đảo người người lớp lớp, cuộn lên như sóng trào kéo
dài vô tận.

Nếu ánh sao đầu súng là nghệ thuật hoán dụ
chỉ các anh bộ đội thì ta cũng có thể hiểu mũ nan là
hoán dụ với dân quân du kích, hợp sức chiến đấu.Sự
khác biệt là từ hình ảnh nhìn nhận ở tầm rộng thì tới
đây tác giả đặc tả vào từng anh bộ đội.

Trong cuộc kháng chiến ấy không thể bỏ qua


một lực lượng có vai trò quan trọng : “dân công”.Họ
là hậu phương vững chắc để anh bộ đội vào trận đánh
quân thù.Họ ủng hộ hết mình cho cuộc kháng chiến
của dân tộc mang tầm vóc lớn lao khi thi sĩ kết hợp
với ngoa ngữ : “ Bước chân nát đá, muôn tàn lửa
bay”.Sự kì vĩ của những con người mang tầm vóc
khổng lồ, hết mình vì kháng chiến, gánh trên đôi vai
của mình là nhiệm vụ lớn lao.

Những con người làm nên huyền thoại của


Việt Nam ở thế kỉ XX.

Trong hai câu thơ tiếp tác giả có đề cập tới
thăm thẳm sương mù, nhìn về nghĩa tường minh thì
đó là những khắc nghiệt về mặt thời tiết, nhưng đặt
trong hai câu thơ thì đó lại là ẩn dụ cho những khó

102 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

khăn thiếu thốn trong những ngày đầu quân và dân ta
chống Pháp.Chúng ta chỉ có vũ khí thô sơ, nhưng
quân ta càng đáng càng mạnh đã khắc phục được hết
những thiếu thốn khó khăn.Chúng ta đã có những
đoàn xe ra mặt trận, đã có pháo binh và ở đó là một
bình minh huy hoàng và tráng lệ vẫy gọi toàn thể dân
tộc Việt Nam.

Nếu ta nhìn nhận 8 câu thơ trên là cảnh ra


quân thì ở 4 câu thơ sau lại là khúc ca khải hoàn ăn
mừng chiến thắng.Với việc sử dụng phép điệp từ
“vui” nhắc đi nhắc lại 4 lần cũng như liệt kê ra hàng
loạt những địa danh trên khắp miền Bắc như Hòa
Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, Việt
Bắc, đèo De, núi Hồng…Tác giả thể hiện tiếng reo
vui từng hàng triệu trái tim con người Việt Nam khi
chúng ta liên tục giành chiến thắng, chiến thắng sau
còn vang dội hơn chiến thắng trước.Ngày vui chiến
thắng chúng ta đã chờ đợi từ lâu, ngày hội của cả dân
tộc.

Câu thơ 75 đến câu thơ 82

Việt Bắc là điểm đến của hy vọng của nhân dân, quê hương cách mạng, mang vai trò vị trí trung
tâm lãnh đạo của.

Ai về ai có nhớ không Tác giả đang miêu tả lại về những cuộc
họp của Chính phủ.Chúng ta đều biết rằng hang
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
động luôn là nơi tăm tối thế nhưng với hình ảnh
Nắng trưa rực rỡ sao vàng lá cờ đỏ thắm và ngôi sao vàng rực rỡ.Thay vì
thấy âm u tăm tối, ta thấy rực rỡ sáng ngời lý
Trung ương , Chính phủ luận bàn việc công tưởng.Tất cả đều tập trung cho những công
Điều quân chiến dịch Thu – đông việc vì nhân dân trong kháng chiến.Từ những
cuộc họp thế này mà cuộc cách mạng của
Nông thôn phát động, giao thông mở đường chúng ta tiến dần tới sự thắng lợi hoàn toàn.Từ
điều động chiến sĩ, cho tới phát triển nông
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
nghiệp, giữ đê… Vai trò của Việt Bắc được thể
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu hiện rõ nét trong việc lãnh đạo, định hướng…

103 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Từ câu thơ 83 đến câu thơ 90

Việt Bắc không chỉ là căn cứ quan trọng của cuộc Cách Mạng. Nơi đây còn trở thành một địa chỉ tin
cậy của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Ở đâu u ám quân thù Nhân dân đặt trọn niềm tin vào Việt Bắc khi
trong những ngày tháng chiến tranh khó khăn gian
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
khổ nhất.Từ Việt Bắc chúng ta đã làm nên chiến
Ở đâu đau đớn giống nòi thắng lớn lao.

Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền

Mười lăm năm ấy, ai quên

Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng


Hòa

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào

104 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

----------------------------------

- Tác giả: -Hoàn cảnh sáng tác


- Xuân Quỳnh(1942- 1988) quê ở làng lụa Sóng được sáng tác năm 1967 trong
Hà Đông. chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền.
- Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, luôn Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải
khát khao tình yêu, mái ấm gia đình và tình nếp trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài
mẫu tử. thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ
Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập "Hoa
- Đặc điểm hồn thơ: tiếng nói của người
Dọc Chiến Hào" (1968).
phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh phúc
đời thường, bình dị nhiều âu lo, day dứt trăn trở
trong tình yêu.

- Nội dung: - Nghệ thuật:


Bài thơ là sự cảm nhận về tình yêu từ hình Thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng,
tượng sóng với tất cả những cung bậc sắc linh hoạt tạo nên âm hưởng của những con
thái( nỗi nhớ, sự thủy chung, trắc trở) và cả sóng: lúc dạt dào, sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm
khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu của một tâm rất phù hợp với việc gửi gắm tâm tư sâu kín và
hồn phụ nữ luôn chân thành, khát khao hạnh những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm
phúc. hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu
đan xen giữa hình tượng sóng- bờ, anh- em
cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.

105 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

“Làm sao sống được mà không yêu


Không nhớ không thương một kẻ nào”
Tình yêu vốn là thứ tình cảm mãnh liệt nhất, nồng cháy nhất mà ai trong chúng ta đều đã,
đang, và sẽ trải qua. Tình yêu cũng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của các nhà thơ, nhà văn
để viết ra những tác phẩm để lại nhiều xúc động và chiêm nghiệm cho người đọc. Nhắc đến thơ ca
về tình yêu, ta thường nhớ đến Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình, một nhà thơ luôn mang trong mình
nỗi khao khát được sống tận hưởng và tận hiến cho cuộc đời, luôn say mê và rạo rực trong tình yêu.
Nhưng có lẽ, chúng ta không thể không nhắc đến Xuân Quỳnh, một nữ sĩ trưởng thành trong thời kì
kháng chiến chống Mỹ. Mặc dù bấy giờ là những năm tháng khốc liệt nhất của chiến tranh, nhưng
tâm hồn người phụ nữ ấy luôn khát khao một hạnh phúc bình dị. Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh
sóng để thể hiện những cung bậc cảm xúc, những ước nguyện của người phụ nữ trong tình yêu
trong bài thơ “Sóng”
Khi nhắc đến tên tuổi của Xuân Quỳnh, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương
đều biết tiếng thơ chị là tiếng nói nhân hậu, thủy chung, giàu trực cảm và tha thiết khát vọng hạnh
phúc đời thường. Một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của Xuân Quỳnh phải kể đến tập “Hoa
dọc chiến hào” với linh hồn là bài thơ “Sóng” được tác giả viết nhân một chuyến đi thực tế ở biển
Diêm Điền năm 1967. Những người nghệ sĩ trong văn chương bao giờ họ cũng sống bằng hình
tượng, một tác phẩm có để lại dấu ấn trong lòng người đọc hay không phụ thuộc vào hình tượng mà
nhà thơ xây dựng và gửi gắm những thông điệp, tâm sự của mình vào trong đó. Khi xây dựng hình
tượng, họ biểu hiện trong đó một thái độ, một cảm xúc riêng, nghĩa là họ hiện thân vào hình tượng.
Hình tượng nghệ thuật là phương tiện đặc thù của nghệ thuật để phản ánh hiện thực khách quan. Nó
phản ánh tính khái quát, tính quy luật của hiện thực qua hình thức cá thể, độc đáo, là sản phẩm sáng
tạo của người nghệ sĩ, là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ trong quá trìnhnhận thức và tái hiện
cuộc sống. Một hình tượng khi bước từ đời thật vào trong văn chương tất yếu sẽ trở thành hình
tượng nghệ thuật.Bài thơ là sự vận động song hành của sóng và em, khi thì phân đôi để soi chiếu sự
tương đồng, khi thì hòa nhập để âm vang cộng hưởng. Sóng thực chất là hình ảnh ẩn dụ cho trái tim
người phụ nữ đang yêu. Sóng cũng giống như em, sóng cũng chính là em.
Trước hết, người phụ nữ ấy đã soi mình vào sóng để thấy được sự đồng điệu trong tâm trạng
, những cung bậc trong tình yêu. Có người đã từng nói “Một bài thơ hay, một ca khúc hay, khi nội
dung ta còn chưa nắm rõ thì âm điệu đã xâm nhập hồn ta tự bao giờ”, tiếng sóng như thôi thúc từng
hồi vỗ vào lòng của người yêu văn chương bởi nhà thơ đã sử dụng thể thơ ngũ ngôn liên hoàn giàu
tính nhạc và được luân chuyển nhịp thơ rất linh hoạt, có đoạn là nhịp 2/3:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Nhưng có đoạn lại là nhịp 1/4:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Sự thay đổi này đã làm cho “Sóng” của Xuân Quỳnh đi vào tâm hồn người yêu thơ với hình
ảnh êm đềm, du dương, khi trầm, khi bổng, khi giáng, khi thăng. Lúc dồn dập, khi thì lại miên man.

106 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Hình ảnh sóng dần dần bị lộ ra cùng với âm điệu của tiếng sóng. Sóng trong bài thơ cùng tên của
Xuân Quỳnh là một hình ảnh ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của thi nhân, nói cách khác
hình tượng sóng đã mang một ý nghĩa biểu tượng. Đó là biểu tượng cho tình yêu của người con gái,
của tình yêu lứa đôi.
Xuân Quỳnh đã vượt qua mọi ước lệ của thi ca trung đại để làm nên một hình tượng của
riêng mình, Sóng - tượng trưng cho nỗi lòng của người con gái, là những khát vọng tình yêu của
người con gái khi yêu. Bởi vậy Sóng của Xuân Quỳnh vô cùng nữ tính. Xuyên suốt bài thơ là những
đợt sóng nối tiếp nhau, chạy dài toàn bộ tác phẩm. Có lúc Sóng và em hóa thân cho nhau, khi lại
song hành cùng nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Khi nhập vào nhau để tôn vinh nhau, khi
tách nhau ra thì cũng chiêm nghiệm và soi tỏ cho nhau.
Trước hết, trái tim người phụ nữ đang yêu đã soi mình vào sóng để cảm nhận được sự đồng
điệu. Viết về tình yêu là một nguồn cảm hứng bất tận trong thi ca, có nhiều nhà thơ đã viết về tình
yêu với sự nồng nhiệt của một trái tim đầy tươi trẻ như Xuân Diệu trong khao khát luôn muốn hiến
dâng cho tình yêu, Nguyễn Bính với trái tim luôn kiếm tìm, mơ màng về tình yêu đồng đội…
Nhưng chỉ khi đến với Xuân Quỳnh, tình yêu ấy bỗng trở nên đời thường hơn bao giờ hết, bởi khi
Xuân Quỳnh xây dựng nên hình ảnh sóng đã thể hiện khát vọng muôn thuở của con người một cách
dung dị, chân thành hơn bao giờ hết, nhất là đối với người con gái, luôn khao khát hạnh phúc, tình
yêu đích thực. Tình yêu với người con gái là một thứ gì đó vô cùng phong phú, phức tạp, rạo rực và
luôn cháy bỏng yêu thương.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Mở đầu bài thơ là cảm xúc trong tình yêu của một tâm hồn đang yêu, đang khát khao hạnh
phúc mãnh liệt. Xuân Quỳnh diễn tả một trạng thái khác thường, vừa phong phú lại vừa phức tạp
qua cách tổ chức ngôn ngữ một cách tương xứng, tương phản. Trái tim của người con gái khi yêu
cũng giống như Sóng, mang nhiều sự đối cực, trái ngược nhau, khi thì dữ dội, khi lại dịu êm, lúc thì
ồn ào, khi lại lặng lẽ…Sóng được miêu tả trong những trạng thái đối lập “dữ dội”- “dịu êm”, “ồn
ào”- “lặng lẽ”. Tình yêu cũng luôn bao hàm những cảm xúc đầy mâu thuẫn, thất thường nhất là đối
với trái tim của người phụ nữ. Nhưng có lẽ, tình yêu cũng là sự hài hòa thống nhất đến kì diệu của
những mâu thuẫn ấy, những trạng thái tưởng như đối nghịch kia nhưng lại chuyển hóa lẫn nhau. Dữ
dội, ồn ào cũng là sóng mà dịu êm, lặng lẽ cũng là sóng. Và, người con gái trong tình yêu không
chấp nhận những cái tầm thường, nhỏ hẹp, luôn khao khát một tình yêu thực sự, một tình yêu chân
chính. Nhà thơ đã mở rộng không gian của bài thơ bằng cách sử dụng hình ảnh Sông để chỉ không
gian nhỏ hẹp, bó buộc, còn bể là một khung trời mới rộng lớn với bao điều mới mẻ, đồng thời cũng
nhấn mạnh khát vọng được tìm đến tình yêu của người con gái không bao giờ vụt tắt, dù phải trải
qua bao khó khăn. Người phụ nữ trong tình yêu cũng luôn khao khát một tình yêu lớn lao và phóng
khoáng, vượt lên mọi giới hạn và bờ cõi để họ được là chính mình, để tình yêu đúng nghĩa là tình
yêu. Đây cũng chính là quan niệm mới mẻ về tình yêu mà nhà thơ Xuân Quỳnh muốn gửi gắm đến

107 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

bạn đọc, người con gái trong thời hiện đại đã không còn bị phụ thuộc, không còn cam chịu nữa, họ
luôn có xu hướng chủ động vươn tới những gì tốt đẹp nhất dành cho bản thân mình. Bởi vậy mà
hình ảnh Sóng trở nên táo bạo biết nhường nào khi “tìm ra tận bể”.
Dù đi qua bao thăng trầm của thời gian thì khao khát về tình yêu với tuổi trẻ luôn luôn bồi
hồi, mãnh liệt nhất. Khi nhắc đến tuổi trẻ, bao giờ nó cũng đi đôi với tình yêu, bởi chính tình yêu đã
làm cho tuổi thanh xuân của con người trở nên có ý nghĩa biết bao. Đó có thể là những rung động
đầu đời, là những cảm xúc khác lạ mà con người không tài nào lí giải nổi, dù có lúc nó làm cho ta
cảm thấy đau đớn, nhưng vẫn luôn khát khao được có nó. Tình yêu là một thứ gì đó khó giải thích
và có thể minh bạch, nhưng bao đời nay con người vẫn luôn kiếm tìm, ước ao:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Sóng được đặt trong cả quá khứ “ngày xưa” và tương lai “ngày sau” kèm với đó là hai chữ
“vẫn thế” như một lời khẳng định. Sóng, tình yêu luôn luôn vĩnh cửu, bất diệt bất chấp thời gian.
Nỗi khát vọng về hạnh phúc tình yêu đã có từ bao đời nay trong trái tim của những người đang yêu,
của người con gái. Tình yêu Xuân Quỳnh mang đến cho bạn đọc vẫn còn ẩn hiện những nét truyền
thống khi tác giả nhắc đến sự tuần hoàn chảy trôi của thời gian, và dường như thời gian cũng không
thể làm xoay chuyển những khát vọng ấy. Chỉ có trái tim trong lồng ngực của những người trẻ mới
đủ chỗ chứa đựng khát vọng ấy. Hình ảnh “ngực trẻ” khiến ta lien tưởng đến mặt biển tựa như vùng
ngực trẻ trung, còn những con sóng lại là những nhịp đập phập phồng với một niềm khát khao được
yêu, được hạnh phúc. Tình yêu khiến con người ta trở nên mơ mộng, bay bổng hơn và đó là những
khoảnh khắc sống trong nỗi trăn trở, bâng khuâng, người ta luôn sợ đánh mất tình yêu ngay trong
lúc mình trân trọng nó nhất. Cũng như sóng, tình yêu chính là khát vọng muôn đời của con người.
Sự tương đồng của trái tim người phụ nữ đang yêu với sóng còn được nhà thơ bộc lộ rõ nét
hơn qua khổ thơ thứ ba:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?”
Đứng trước cái mênh mông của biển, cái trùng điệp của sóng , “em” nghĩ về anh, về em, về biển lớn
và nghĩ cả về cội nguồn của sóng và tình yêu. Sóng “tìm ra tận bể” như để hiểu rõ mình hơn, hiểu rõ
chính tình yêu của mình nhưng dường như đã lại bất lực, dường như Sóng - hay chính là Em đang
cố giải thích về nguồn gốc của tình yêu hay định nghĩa tình yêu của mình. Câu hỏi tu từ cuối khổ
thơ đã thể hiện những suy tư, trăn trở, những khao khát khám phá về tình yêu, về cuộc đời. Đây
cũng là một câu hỏi từ bao đời nay được đề ra nhưng rồi cũng bỏ ngỏ ở đó, người ta đi kiếm tìm
nguồn gốc của tình yêu để định nghĩa nó, để rồi như Xuân Diệu đã phải thốt lên rằng:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu”

108 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

( Yêu – Xuân Diệu )


Tình yêu là một thứ gì đó rất tự nhiên, nó có thể bất chợt ập đến mà con người ta không thể nào
chống đỡ kịp, rồi cũng có thể biến mất mà chẳng cần một lí do gì để giải thích.
Tựa như gió, như mây, độc chiếm tâm tư của con người để rồi người ta ngẩn ngơ nghĩ về nó
đến muôn đời mà vẫn không nắm bắt kịp. Xuân Quỳnh đã lí giải nguồn gốc về tình yêu theo cách
riêng của mình rất đáng yêu, hồn nhiên và nữ tính, và cuối cùng cũng chẳng thể tìm ra một định
nghĩa về tình yêu, đến rồi đi, tình yêu khó hiểu và luôn mang nhiều bất ngờ, bí ẩn:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Một câu trả lời được đặt xen giữa hai câu hỏi đầy suy tư. Câu trả lời là sự bất lực của lí trí
con người, không thể lí giải về cội nguồn của sóng, cũng như chẳng thể hiêu được sự bắt đầu của
tình yêu.Những câu hỏi, những câu trả lời như đan xem trong tiềm thức của thi nhân, tình yêu đã
khiến con người ta thay đổi, làm con người ta thổn thức khôn nguôi. Con người chẳng thể hiểu nổi
mình trong tình yêu, cũng như chẳng thể hiểu được tình yêu là gì? Người ta yêu nhau vì cái gì? Ánh
mắt, nụ cười, giọng nói hay vì điều gì khác? Hay giống như nàng kiều yêu chàng Kim chỉ vì sắc
ngựa tuyết in, có pha màu áu (Truyện Kiều). Mọi thứ cũng chẳng còn quan trọng nữa bởi chỉ cần
hai người thuộc về nhau, bên cạnh nhau, yêu nhau là đủ. Tình yêu luôn vượt thoát ra khỏi sự kiềm
tỏa của lí trí, nó luôn bí ẩn, bất ngờ và có quy luật riêng. Đoạn thơ sử dụng cấu trúc đảo: đáp trước,
hỏi sau khiến câu thơ trở nên duyên dáng như một cái lắc đầu. Tình yêu là thế, giản dị, hồn nhiên
nhưng lại vô cùng lớn lao và đẹp đẽ, cũng như sóng.
Trái tim của người phụ nữ đang yêu không chi soi vào sóng để thấy được nét tương đồng mà
còn thông qua sóng để bộc lộ những cung bậc cảm xúc của tình yêu.
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Xuyên suốt bài thơ vẫn là hình ảnh sóng, hình ảnh sóng được nhắc đến trong bài thơ hơn
mười lần, mỗi lần là một sắc thái, một cảm xúc khác nhau. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao, như lời
tâm sự, bộc bạch chân thành nhất từ cuộc đời của chính thi nhân. Nhịp thơ dồn dập với những từ
ngữ trùng điệp gợi ra hình ảnh con sóng như gối chồng lên nhau. Nỗi nhớ bờ của sóng tràn ngập
không gian, “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, đầy ắp cả thời gian “ngày” “đêm”. Nhà thơ tiếp tục
sử dụng những hình ảnh tương phản, tương xứng với nhau để làm nổi bật những trạng thái, tình cảm
của người con gái trong tình yêu. Đó là những thương nhớ khắc khoải của một tình yêu chân thành,
thắm thiết. Là mong ước luôn được hòa nhập, được sống trong tình yêu. Sóng ở đây cũng như Em
có một tình yêu thật nồng nàn và thủy chung. Bài thơ được sáng tác năm 1967, khi cuộc kháng

109 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

chiến chống Mỹ cứu nước đang trong giai đoạn ác liệt, vì vậy người ta thường hay nhắc đến sự chia
ly và xa cách mà ở đó con trai, con gái ra trận với khí thế hào hùng của cả một dân tộc. Đặt bài thơ
vào trong hoàn cảnh của sự xa cách, chia ly, ta mới càng hiểu thêm được những nỗi khát khao của
người con gái trong tình yêu. Yêu và nhớ chính là hai mặt của tình yêu. Yêu say đắm thì nhớ thiết
tha. Khi phải xa cách nhau, điều đọng lại duy nhất trong con người ta chính là nỗi nhớ. Khi yêu nỗi
nhớ là thường trực canh cánh trong lòng của người đang yêu. Một trái tim đang yêu là một tâm hồn
đang nhớ. Cũng đã có không ít các nhà thơ viết về nỗi nhớ trong tình yêu dưới nhiều phương diện
biểu đạt khác nhau, đâu đó nỗi nhớ ấy như một căn bệnh mà Nguyễn Bính đã từng viết trong bài
“Tương tư”
“Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Hay Xuân Diệu - hoàng tử thơ tình cũng đã từng viết:
“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm. Em ơi!”
(Tương tư chiều)
Trở lại với Xuân Quỳnh, có những nỗi nhớ cồn cào da diết thì chị gọi đó là những “Con
sóng trên mặt nước”. Còn những nỗi nhớ phải kìm nén trong lòng không tài nào bật ra được thành
tiếng chính là “Con sóng dưới lòng sâu”. Có sự đối nghịch, tương phản giữa dưới lòng sâu và trên
mặt nước nhưng giữa chúng lại vô cùng thống nhất bởi đó chính là nỗi nhớ mong trong tình yêu,
luôn hướng về người mình yêu dù có bộc bạch hay che dấu ở trong lòng. Ta cũng thấy sự độc đáo ở
khổ thơ khác với những khổ khác là khổ này có sáu câu thơ, trong khi các khổ thơ khác chỉ có bốn
câu. Bởi theo thi nhân, nếu chỉ viết một khổ gồm bốn câu có lẽ không đủ bày tỏ nỗi nhớ của người
con gái trong tình yêu.
Nhịp thơ của đoạn dào dạt, hăm hở, đằm thắm nhất tựa như tiếng sóng vô hồi vô hạn thể
hiện tiếng lòng của một trái tim tràn ngập nỗi nhớ. Đó là một nỗi nhớ thường trực ngay cả khi thức,
khi ngủ, bao trùm lấy không gian, thời gian. Sóng và em nhập vào nhau để bổ sung, đắp đổi cho
nhau nhằm diễn tả sâu sắc hơn tình yêu, nỗi nhớ và sự chung thủy của người con gái khi yêu. Nỗi
nhớ đi vào ngay cả trong giấc ngủ, giấc mơ tưởng chừng như mơ hồ, ảo ảnh nhất:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Đó là nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu của thi sĩ. Mạnh mẽ, mãnh liệt đến nỗi nó đi xuyên qua không gian,
giữa cõi thực và cõi mơ chỉ để hướng về một người mà lòng ta yêu thương. Những đòi hỏi, khát
khao hướng về người mình yêu của người con gái được bộc lộ một cách giản dị nhưng đầy xúc
động và chân thành, sóng khao khát vỗ vào bờ như bản thân em luôn khao khát được gần anh, dù
ngay cả ở trong giấc mơ, trong tiềm thức. Bởi sóng vỗ là một quy luận của tự nhiên, chừng nào
sóng thôi không còn thao thức, không còn vỗ vào bờ nghĩa là lúc đó trái tim yêu thương mới ngừng
nhịp đập, ngừng nhớ. Mượn sóng để diễn tả về nỗi nhớ nhưng có lẽ là chưa đủ, người con gái ấy
phải trực tiếp xuất hiện để bộc bạch về nỗi nhớ của mình. Người con gái ấy không kiêu kì, không
cao ngạo, mà bộc bạch những tâm tư, tình cảm của mình một cách rất tự nhiên. Nỗi nhớ ấy da diết

110 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

cồn cào đến mức “cả trong mơ còn thức”, dữ dội hơn cả sóng nhớ bờ. Bởi, sóng nhớ bờ chỉ trong
cõi thực, còn em nhớ đến anh tận cả trong cõi mộng, cõi mơ. Và trong nỗi nhớ ấy còn là những trăn
trở, lo âu của một trái tim đầy nhạy cảm. Thức không phải chỉ để nhớ, mà còn để nâng niu, gìn giữ
mọi khoảnh khắc hạnh phúc bởi trong lòng em luôn có dự cảm về sự mong manh của tình yêu. Câu
chuyện của biển là thế và dường như sẽ không bao giờ dừng lại, biển không có sóng thì biển chết,
tình yêu không có nỗi nhớ cũng sẽ tàn phai, mai một. Đã có lần ta bắt gặp Chế Lan Viên cũng thể
hiện tình yêu một cách mãnh liệt như vậy qua hình ảnh sóng:
“Anh xa em
Như đất liền xa cách bể
Nửa đêm sâu nằm
Lắng sóng phương em
Em thân thuộc sao mà xa lạ thế
Sắp gặp em rồi sóng lại đẩy xa thêm”
(Chùm nhỏ thơ yêu)
Tình yêu của người con gái cũng vậy, trong sáng, giản dị, thiết tha và đầy thủy chung. Đây
có lẽ là đoạn thơ hay nhất trên diễn đàn thơ Việt Nam hiện đại. Ở đây ta thấy Xuân Quỳnh vừa kết
hợp được nét truyền thống với phong cách hiện đại, tấm lòng thủy chung, tha thiết đã có từ ngàn đời
nay trong người phụ nữ Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh đã khéo léo để thể hiện nó bằng một cách
rất hiện đại, không hề dấu diếm khát vọng tình yêu sôi nổi ấy, sự hòa nhập ấy dường như làm người
đọc bị ám ảnh, trở đi trở lại khi đọc tác phẩm này chỉ có duy nhất hình ảnh sóng trong tâm trí, và tác
giả còn muốn để lại ít nhất một câu hỏi trong lòng người đọc: “Liệu con sóng có tới được với bờ
anh mà nó hằng mong ước hay không”?
Hình tượng sóng chân thực tiếp theo có lẽ cũng bởi nghệ thuật sắp xếp ngôn từ của bài. Dấu
biết rằng tổ chức ngôn ngữ thuộc vào hình thức nghệ thuật của bài thơ, ngôn từ chỉ là phương tiện
còn trái tim mới là người nghệ sĩ. Nhưng việc thể hiện tiếng nói trái tim thế nào lại vô cùng quan
trọng bởi Bạch Cư Dị đã từng nói “Lời là gốc, là cành, thanh là hoa, nghĩa là quả, thơ ca là nghệ
thuật sắp xếp ngôn từ” ý chính điều này mà bài thơ của Xuân Quỳnh trở nên độc đáo. Đến gần cuối
bài thơ, người ta vẫn thấy các cặp hình ảnh sóng đôi, tương xứng, tương phản nhau:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Những câu thơ đối lập, sóng đôi nhau đuổi bắt nhau toàn bộ tác phẩm, có xuôi thì ở dưới sẽ
có ngược, có Phương Bắc ắt sẽ phải nói đến Phương Nam. Đặt sóng trong sự xuôi ngược của
khoảnh cách địa lí, Xuân Quỳnh muốn khẳng định rằng, mọi khoảng cách của không gian đều vô
nghĩa trước sóng và tình yêu. Bằng việc sử dụng những cặp từ trái nghĩa, tương phản
“xuôi”-“ngược”, “Bắc”- “Nam”, nhà thơ phần nào diễn tả được sự xa xôi, những thử thách của hành
trình tìm đến với tình yêu đích thực của một trái tim luôn khao khát hạnh phúc đời thường. Dẫu có
cách trở xa xôi, gian khó trăm bề nhưng lòng em vẫn hướng về anh, sóng vẫn hướng về bờ Cách sắp

111 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

đặt ngôn từ thế này đã tạo ra sự nhấn nhá, luyến láy, hô ứng trong toàn bộ tác phẩm. Bởi vậy mà
sóng của Xuân Quỳnh mang rất nhiều đặc điểm. Mỗi khổ thơ lại là từng đợt sóng lớn với những
hình ảnh được miêu tả khác nhau. Trong từng đợt sóng ấy lại có hàng trăm con sóng nhỏ, gối đầu
lên nhau, mải miết mang khát vọng hướng về bờ anh của nó. Âm điệu của bài thơ cũng vì thế mà
hối hả, thể hiện thành công nỗi niềm của người con gái vào tình yêu của chính mình. Đến khổ thơ
này, hình ảnh sóng lại tách Em ra để tự bộc bạch, thổ lộ nỗi niềm, tâm sự riêng, không hề vòng vo
hay úp mở mà bộc lộ tình cảm một cách trực tiếp. Lời khẳng định “Nơi nào em cũng nghĩ / Hướng
về anh một phương” đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt, bản lĩnh bất chấp mọi trở ngại để đến được
“bờ anh” của cuộc đời mình, gắn bó thủy chung sâu nặng như quy luật muôn đời của đất trời. Niềm
tin và lòng thủy chung son sắt là nét đặc trưng trong tâm hồn của người phụ nữ Việt Nama
Nếu tình yêu là quy luật luôn tồn tại trong cuộc sống thì sự thủy chung của em chính là quy
luật của tình yêu. Và nỗi nhớ ấy bất chấp vạn vật, khoảnh khắc gặp nhau, giao cảm giữa hai tâm
hồn là không có giới hạn. Những người đang yêu, chỉ cần hướng về nhau là sẽ có thêm động lực để
bước tiếp, để có thể sống tốt hơn.
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Xuân Quỳnh đã tiếp tục mạch cảm xúc của mình bằng cách trả lời câu hỏi ám ảnh trong lòng
bạn đọc mỗi khi khép lại những trang thơ của mình, đó là liệu con sóng có thể tới bờ anh của nó
được hay không, thì câu trả lời ở đây là Có. Nhưng lại là một câu trả lời đầy ẩn ý của tác giả. Tình
yêu lãng mạn, bay bổng là thế nhưng theo hiện thực của cuộc sống thì phải sóng gió mới làm nên
tình yêu. Vì thế, con sóng muốn tới được bờ của nó thì cần phải có nghị lực, có niềm tin vào tình
yêu và chính bản thân mình để có thể vượt qua được những thử thách, những thử thách chỉ khiến
tình yêu trở nên thăng hoa hơn, mãnh liệt hơn. Chỉ cần vượt qua những khó khăn, thử thách thì nhất
định con sóng nào cũng sẽ tới được với hạnh phúc mà bấy lâu nó kiếm tìm. Cũng như Xuân Quỳnh,
một người đã từng trải qua sự đổ vỡ trong tình yêu, nhưng chị luôn có niềm tin phơi phới vào tình
yêu, chị tin rằng hạnh phúc sẽ đến nếu chị có niềm tin vào cuộc đời này, câu thơ cũng chính là
những lời an ủi chính bản thân chị vào một tình yêu lớn hơn và con sóng nhất định sẽ tới bờ. Tương
lai và hạnh phúc dường như vẫn đang còn ở phía trước. Ý thức về thời gian tuyến tính, chảy trôi
không vì thế làm người con gái lo sợ, ngược lại đó chính là niềm tin vào sự bất diệt của tình yêu:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Thời gian trôi, cuộc sống vẫn tiếp diễn với những điều bất biến thuộc về tự nhiên. Vậy chẳng có lẽ
gì mà tình yêu phải nằm ngoài quy luật ấy. Cuộc đời và biển lớn đều thành hữu hạn trước dòng thời
gian vô thủy vô trung, giữa không gian mênh mông vô cùng tận. Nỗi âu lo của con người khi cảm
nhận sự hữu hạn của cuộc đời và tình yêu, của một con người luôn khao khát sự dài rộng và vĩnh
cửu của không gian và thời gian. Muốn vượt qua sự hữu hạn ấy , thì tình yêu chỉ có thể hòa tan vào

112 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

với thiên nhiên để có thể vĩnh cứu đến hàng vạn năm sau, những con sóng của biển vẫn ca ngợi bài
hát tình yêu bất diệt của riêng nó.
Những suy nghĩ về tình yêu thông qua hình ảnh sóng như thôi thúc tác giả có những âu lo chính
đáng, bởi có thể ngọt ngào, thiêng liêng nhưng tình yêu cũng mong manh và khó giữ. Bởi vậy mà
tác giả luôn trăn trở đến mức cảm thấy bức bối. Khổ thơ cuối đã thể hiện một cách mạnh mẽ khao
khát mãnh liệt của người phụ nữ :
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Những bức bối, day dứt, âu lo ấy được chuyển hóa thành khát vọng được dâng hiến cho tình
yêu. Khát khao của người con gái là được tan ra thành trăm ngàn những con sóng nhỏ. Là khát
khao cháy bỏng muốn được hòa nhập với tình yêu to lớn của đời mình, muốn hòa nhập vào cuộc
sống hạnh phúc, không phải chỉ riêng Xuân Quỳnh, người con gái mà là ước muốn của toàn thể
nhân loại. Câu thơ vừa mang sắc thái của câu hỏi, nhưng cũng vừa như một lời cầu khiến tha thiết,
mong mỏi một cách đầy thành thực. Tình yêu bé nhỏ, đơn lẻ ấy giờ đây trở thành cái vĩnh hằng,
vĩnh cửu và bất diệt khi con người ta nguyện hiến dâng, hy sinh vì nó bởi cuộc đời tươi đẹp chính là
cuộc đời được sống trong tình yêu. Chỉ một chữ “tan”, Xuân Quỳnh đã thể hiện một khát khao được
sống hết mình, sống mãnh liệt với tình yêu. Mong ước ấy vừa chân thành, vừa táo bạo nhưng cũng
đầy nữ tính. Tác giả muốn được vĩnh cửu hóa tình yêu để tình yêu được sống mãi, trường tồn và bất
diệt.
Giáo sư Trần Đăng Uyển đã từng nhận xét : “Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là cuộc hành
trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la, rộng lớn, cuối cùng
là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn
thuở”. Sóng thể hiện quan niệm rất mới mẻ về hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu. Sự hiện đại
trong tình yêu chính là việc vượt qua khỏi những quy định ngặt nghèo ràng buộc của lễ giáo phong
kiến để tự do khẳng định tình cảm, bộc lộ “cái tôi” khát vọng trong tình yêu một cách chủ động và
luôn luôn thể hiện niềm tin vào sức mạnh của tình yêu. Bên cạnh đó, Sóng thể hiện về quan niệm
tình yêu mang tính truyền thống. Sự truyền thống trong tình yêu biểu hiện trong sự thủy chung, son
sắt gắn liền với nỗi nhớ nhung da diết, một lòng hướng đến người mình yêu. Vì thế bài thơ “Sóng”
là tiếng nói chung, nói hộ nỗi lòng của người con gái khi yêu.
Đọc thơ Xuân Quỳnh phần nào đó ta hiểu được con người chị. Nhà thơ Võ Văn Trực cũng
đã từng nói Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh”. Với giọng điệu hết sức tự nhiên, “Sóng”
của Xuân Quỳnh đã khéo léo thể hiện được thứ tình cảm sâu sắc, bồi hồi, thao thức đến cả trong
giấc mơ. Tình yêu là thế, dù mãnh liệt, dữ dội đến mấy cũng không thể vượt qua quy luật khắc
nghiệt của cuộc đời. Nhưng không vì thế mà tình yêu mất đi vẻ đẹp vĩnh hằng, hay sớm bị lãng
quên mà qua năm tháng, càng nhiều thử thách tình yêu ấy càng lớn lên, thắm thiết, sâu sắc hơn. Dù
có thể, tình yêu ấy, như những con sóng ngoài khơi xa không thể đến được bến bờ của hôn nhân,
hạnh phúc nhưng đó cũng sẽ là một ký ức, kỷ niệm đẹp trong đời của mỗi con người. Bài thơ
“sóng” ra đời cách đây đã gần 30 năm nhưng độ nồng nàn, đắm say của nó vẫn không phai mờ
trong lòng người đọc và có giá trị cho đến ngày hôm nay.
113 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

114 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

ĐẤT NƯỚC (Nguyễn Khoa Điềm)

------------------------------------------------------------

- Tác giả: -Hoàn cảnh sáng tác

- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Thừa - Sáng tác vào mùa đông năm
Thiên- Huế trong một gia đình cách mạng. 1971, tại chiến trường Trị- Thiên. Đây
là thời điểm mà cuộc chiến tranh
- Tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
chống Mỹ đang hồi quyết liệt.
- Năm 1964, trở về quê hương tham gia chiến đấu,
- Trích chương V trong trường
từng bị địch bắt giam.
ca" Mặt Đường Khát Vọng" (1971).
- Sau năm 1975 hoạt động văn nghệ và công tác
- " Mặt Đường Khát Vọng" là
chính trị tại thành phố Huế .
bản trường ca viết về sự thức tỉnh của
- Ông từng là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, tuổi trẻ các thành thị vùng tạm bị
bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin. chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm
lược của Đế quốc Mỹ, hướng về nhân
dân, đất nước, xuống đường đấu tranh
hòa nhịp với cuộc chiến đấu chung
của dân tộc.

- Nội dung: - Nghệ thuật:

Thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về Tất cả các kiến thức, tư liệu, sự
Đất Nước của tuổi trẻ thành thị miền Nam trong thời kỳ kiện phong phú được đưa vào không
chống Mỹ. Trên nền văn hóa dân gian vững chắc, tác giả chỉ tác động vào lý trí, làm bừng sáng
đã định hướng sự tìm tòi, suy ngẫm tới nhiều bình diện nhận thức mà còn lay thức tình cảm
như: lịch sử, địa lý, phong tục,... Để làm nổi bật tư của người đọc, của mỗi người Việt
tưởng Đất Nước của Nhân Dân và gợi ý thức trách Nam chủ yếu nhờ vào sự thẩm thấu
nhiệm của mỗi người trước vận mệnh của Đất Nước. qua tâm hồn cảm xúc của Nguyễn
Khoa Điềm. Từ đó, nhà thơ đã tìm
được một cách nói riêng giọng điệu
tâm tình.

Hiếm có một giai đoạn văn học nào mà hình ảnh Tổ quốc – Dân tộc – Đất nước lại tập trung
cao độ như giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tố Hữu với “Ôi Việt Nam! Yêu suốt một
đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!” (Vui thế hôm nay), Chế Lan Viên với “Sao
chiến thắng”, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải phóng quân đã tạo nên “Dáng đứng Việt Nam”.
Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc qua “Đất Nước” – một chương thơ trong trường ca

115 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

“Mặt đường khát vọng”. Chương thơ đã thể hiện một cách sâu sắc vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng
lớn của thời đại “Đất nước của nhân dân”. 
Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân bảo vệ
và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý, chiều dài của lịch sử và
chiều sâu văn hóa. Đây là tư tưởng lớn, mang tính dân chủ. Nguyễn Khoa Điềm chính là sự thể hiện
tập trung toàn diện, sâu sắc, là “nhấn mạnh” tư tưởng lớn đó của thời đại. Tư tưởng ấy đã được
nhận thức và khám phá ở cả hai chiều của mối quan hệ: đất nước gắn bó, hòa quện trong cuộc sống
bình dị, đời thường và nhân dân với những đóng góp âm thầm, vĩ đại làm nên đất nước muôn đời.
Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những câu hỏi “Đất nước này là do ai làm ra? Sẽ do ai bảo vệ và
gìn giữ muôn đời? Để trả lời cho những câu hỏi ấy, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của
mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa mạch chính luận và
mạch trữ tình.
Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa
là những giá trị mà con người ở 1 vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần cũng có thể là giá trị
phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở
mà còn truyền và bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, những vẻ đẹp mang đậm cốt cách của
con người Việt Nam được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người già sang lồng ngực
của người trẻ, đó là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ta. Đất Nước bắt đầu từ một cách
trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển của đất
nước trong trường kì lịch sử, đất nước tựa như 1 sinh mệnh sống vs nội lực mãnh liệt. Nghệ thuật
liệt kê là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp phần khắc họa đất nước bình dị, gần
gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, làng
xóm. Đất nước là một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
Nhà thơ ngược dòng cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền
cổ tích diệu kì từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta những bài học nhân
sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, đùm bọc, chở che nhau. Một đất nước
xa xưa từ “ngày xửa ngày xưa” trong quá khứ nhưng lại thật gần gũi qua lời mẹ kể. Đó là những
câu chuyện cổ tích với quả thị thơm và cô Tấm hiền, của con chim biết nói của nghĩa cuả tình. Câu
thơ vừa đánh thức ý thức thần tiên của tuổi thơ vừa gợi về những ước mơ, khát vọng bao đời của
nhân dân gửi gắm qua những câu chuyện cổ tích.
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn”
Đó là tục nhuộm răng, tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ
“miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là
văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện cao dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một
hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mỹ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của
tâm hồn dân tộc. Hình ảnh miếng trầu vừa gắn liền với phong tục tập quán của nguời Việt, vừa là

116 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

biểu tượng cho lối sống nghĩa tình thủy chung. Câu thơ có đến hai trạng ngữ chỉ thời gian là”bắt
đầu” và “bây giờ” khiến người đọc có cảm giác như đang trôi trên dòng sông lịch sử, được chứng
kiến bốn ngàn năm lịch sử với một bề dày truyền thống văn hóa. Tiếp đến, nhà thơ như một người
hướng dẫn đưa ta trở về làng Phủ Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc
Ân.
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ được lặp lại 1 lần mà còn xuyên suốt 90 câu
thơ hình ảnh này được lặp lại tới ba lần, đó là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, đánh giặc giữ
nước của nhân dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm
thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và
giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính
xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc. Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về
cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn
Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân
thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến chúng ta
nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đất nước nào cũng
đều gắn liền với hình hài của người phụ nữ: nhắc đến nước Nga ta sẽ nhớ đến người phụ nữ tết tóc
đuôi sam, Thái và Lào ta ấn tượng bởi những người phụ nữ búi tóc cao lộ gáy. Còn nhắc đến người
phụ nữ Việt Nam, ta xúc động trước hình ảnh người bà, người mẹ “tóc bới sau đầu”. Đất nước
trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa giãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, thấm
nhọc nhắn nuôi lớn biết bao những thế hệ. Đất nước lớn lên từ những gian khổ của cha và từ những
lo âu của mẹ, cái tình nghĩa của vợ chồng trải qua bao gian nan vất vả: “Cha mẹ thương nhau bằng
gừng cay muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ, đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, là
lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam :” Muối ba năm muối hãy còn mặn/
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay.” Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên” không chỉ nói đến tục đặt
tên con mộc mạc cho dễ nuôi mà còn biểu hiện cho nếp nghĩ, nếp nhà . Anh em trong gia đình cũng
giống như cái kèo, cát cột, phải gắn kết với nhau thì mới tạo nên được căn nhà vững chãi, nếp nhà
bình yên. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ 8 “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo - một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn
bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền cho con tiếng nói,
thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua
ca dao tục ngữ. Và chính nhân dân là những người đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những
nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó. Đất nước
có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán từ lúc dân
Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để xây
dựng đất nước. “Ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ.
Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh
giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung.

117 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Như đã nói ở trên, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, là một
trong những nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của mảnh đất hình tia chớp. Đất nước có từ xa xôi trong
quá khứ nhưng không hề xa lạ trừu tượng mà gắn với những gì bình dị, gần gũi, thân yêu vô cùng
trong đời sống vật chất và tinh thần. Đất nước gắn liền với những con người trong mối quan hệ thân
thiết, ruột già máu mủ. Đoạn thơ đã sử dụng nhuần nhuyễn chất liệu văn hóa dân gian, sử dụng từ
ngữ, hình ảnh đậm chất gợi nhắc về dân gian,… Câu thơ vì thế mà vừa thể hiện ý nghĩa cụ thể, vừa
gợi suy tưởng đến tầng nghĩa biểu tượng sâu xa, khơi gợi những xúc cảm ở người đọc.

Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” không chỉ được thể hiện và khám phá ở hình ảnh đất nước
gắng bó, hòa quyện trong cuộc sống bình dị, mà còn qua chiều thứ hai của mối quan hệ: nhân dân với
những đóng góp âm thầm nhưng vĩ đại đã làm nên dáng hình của đất nước:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Ấn tượng ban đầu của chúng ta khi đọc 8 câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ
tích diệu kỳ thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích như “núi vọng phu”, hay “hòn
Trống Mái”. Từ xưa đến nay, khi nói đến điều kiện tự nhiên, những danh lam thắng cảnh, người ta

118 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

thường gợi ca đó là một đặc ân của tạo hóa: “Trời đất cho nơi hiểm trở”. Nhưng đối với Nguyễn
Khoa Điềm, ông đã đem đến một cách nhìn, cách cảm khác: đất nước chính là sự hóa thân của nhân
dân. Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ
đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng điệp từ “góp”. Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ
“góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo tương quan đối lập. Nửa trước nói về nhân dân, lời thơ mộc mạc,
bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng, xót thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về đất nước,
lời thơ lộng lẫy những sắc màu muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca
ngợi sự hy sinh của nhân dân để tạo nên đất nước huy hoàng. Mở ra không gian đất nước với sự trải
dài từ Bắc vào Nam: đền Hùng, núi Vọng Phu, sông Cửu Long,… Điều đặc biệt, khi nhắc đến
những sự tích, những truyền thuyết, nhà thơ đã nhấn mạnh đóng góp của nhân dân để làm ra đất
nước. Đoạn thơ lien tiếp các động từ “góp cho”, “góp nên”, “góp tên… Đằng sau mỗi địa danh là
một tên gọi, đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền thoại là cuộc đời của
những con người. Nhân dân làm nên đất nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, là những anh
hùng, những người lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút,
là ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm… Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô
danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, con gà. Trong nhân dân còn có những nhân vật mà
chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín
mươi chín con voi góp mình dựng đát tổ Hùng Vương” phục quanh núi Hi Cương hay “Những con
rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng là thế, đông đảo là vậy mà chỉ làm
một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng để xây dựng nên đất nước Việt Nam ta. Nhân
dân đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa.. Có
thể nói, tám câu thơ đều đã giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ trước. Nó giống như
một bông vàng chói lọi mà Tổ quốc gọi công cho nhân dân – người đã hy sinh để làm nên tác phẩm
kỳ diệu là nhân dân ta.
Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì
bốn câu thơ sau lại là những cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen lẫn sự
trầm ngâm của một trí thức.
Trước hết ta đến với hai câu thơ:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để khẳng định. Nó giống
như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hy sinh to
lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy” sử
dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nối lòng mình, bộc lộ cảm xúc
nghẹn ngào trước những hy sinh vĩ đại của nhân dân. Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm”
–đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn nghìn lớp cha ông đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi
sau, cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập dân tộc. Trong cái nhìn ở tầm bao
quát, đặt đất nước trong chiều dài bốn ngàn năm, nhà thơ khẳng định vóc hình của đất nước chính là
vóc hình của nhân dân. Cảnh vật không còn là cảnh vật vô tri nữa mà chính là máu thịt, là tâm hồn

119 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

nhân dân. Kết thúc đoạn thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sống
ta…” bởi có sự chuyển đổi. Những câu thơ trước đó mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm
tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc
kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ
giọng để suy tư in dấu vào âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ như một phút lặng của lòng
người trước những xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật hàm súc. Cuộc đời
của những con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, gởi những cái
hùng vĩ cô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi phi thường khẳng định nhân ta thật kỳ
diệu! Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên linh hồn đất nước.

Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch
sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới
chiều Lê, ông là một nhà chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam
là sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia
chính thống, ông nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu sắc lịch
sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Đoạn thơ mở đầu bằng tiếng gọi “em ơi em” đầy thiết tha, nhân vật trữ tình hướng về dòng
thời gian lịch sử. Nhà thơ đã khẳng định lịch sử dân tộc đã gắn liền với nhân dân, nhân dân làm nên
lịch sử. Đó là người người lớp lớp, là con gái con trai,… Nguyễn Khoa Điềm không hề nêu ra một
cái tên cụ thể nào, đó là những con người bình dị, vô danh, không ai nhớ mặt đặt tên. Họ hiền lành,
chịu thương chịu khó trong cuộc đời đầy những vất vả và gian lao.Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào
con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế
hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành. Đó
là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam. Một con người có thể là bé nhỏ, một cá thể
có thể là hữu hạn nhưng tất cả cùng đóng góp, cùng xây dựng sẽ làm nên sự trường tồn, bất tử của
đất nước.
Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ:
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

120 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng


Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Nhà thơ đã nói đến cách sống, cách nghĩ, khẳng định công lao của nhân dân, họ là bao người
con gái con trai trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi. Với những con người ấy, họ sống hay
chết đều giản dị và bình tâm, đơn sơ chất phác trong cuộc sống, cần cù làm lụng sau những lũy tre
làng nhưng cũng chính họ sẵn sàng hi sinh khi Tổ Quốc cần. Chính cách sống và cách nghĩ ấy đã
khiến nhân dân trở nên vĩ đại Nhờ đó mà thế hệ chúng ta mới có được một đất nước hữu hình –đất
nước của những anh hùng. Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam.
Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gương đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các
thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa,
ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc
ngoài. Tác giả đã sử dụng điệp từ “họ” gợi ra hình tượng đông đảo, lớn lao – nhân dân. Kết hợp
cùng với đó là một loạt các động từ “giữ”, “chuyền”,… diễn tả cụ thể và sinh động vai trò, sức
mạnh, công lao của nhân dân. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn
chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ “Báng súng”:
“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.
Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết
lên thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân. Từ nhận thức toàn diện, sâu sắc công lao
của nhân dân, nhà thơ khẳng định : “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân.” Hai từ “đất nước”
và “nhân dân” đều được nhà thơ viết hoa với tất cả niềm tự hào và lòng biết ơn vô hạn. Nhân dân
chính là những chủ nhân thực sự của đất nước, làm nên đất nước muôn đời.
Không một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con
người ấy vẫn, nguyễn ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát
mùa xuân”. Hay như triết gia người Đức – Engels đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và
nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội
tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân.
Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ
của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có
thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, truyện cổ : Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần
thoại. Câu thơ hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng thật độc
đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên.

121 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Trong nền văn hóa ấy, ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước,
đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân.
Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ
sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ, một ý
thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó khẳng định: con người Việt Nam say đắm trong
tình yêu. Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian
kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm Mỹ vừa quen thuộc lại vừa mới
mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu,
không gian nghệ thuật riêng : vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của
ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự
do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm
nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.

Những vần thơ rất đẹp trong “Đất Nước” đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục tỏa
sáng, giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng
nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua góp phần khơi dậy lòng tự
hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con người trong khát vọng đưa đất nước đi xa đến
những ngày tháng mơ mộng. Chúng ta cần phải biết ơn những thế hệ đi trước đã nằm xuống để cho
Tổ quốc bay lên, từ đó luôn luôn rèn luyện, trang bị tri thức, kĩ năng để cho đất nước giàu mạnh
hơn, phát triển hơn.

122 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

ĐÀN GHI TA CỦA LORCA (Thanh Thảo)


---------------------------------------

1. Phân tích tác phẩm


Trưởng thành từ những năm cuối
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Thanh Thảo thuộc số ít nhà thơ
dành nhiều tâm huyết cho việc cách tân
thơ tiếng Việt thời kì 1975. Đặc điểm nổi
bật trong phong cách thơ Thanh Thảo thể
hiện ở sự cảm nhận các vấn đề cuôc sống từ
chiều sâu bản chất sự vật, hiện tượng nên
khước từ lối diễn đạt dễ dãi, khuôn sáo
trong thơ. Thơ ông giàu chất suy tư, triết
luận nhưng không gò bó theo trật tự
tuyến tính của nôn ngữ và tư duy hiện
thực thông thường mà được thực hiện với
nhiều thủ pháp kĩ thuật tân kì của chủ
nghĩa siêu thực, tượng trưng, trên nền của
một cấu trúc thơ linh hoạt, nhằm giải
phóng cảm xúc và suy nghĩ của người
đọc, mở rộng trường liên tưởng, cảm
nhận một cách tự do, phóng túng. Mạch
suy cảm trữ tình của thơ Thanh Thảo
dường như hướng tới những vẻ đẹp tinh thần mà ông thường gọi là “chất người” như lòng nhân ái,
bao dung, sự trung thực, can đảm và tinh thần trượng nghĩa, yêu tự do. Thơ ông dành mối quan tâm
đặc biệt tới những nhân cách thanh cao bất khuất, tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do và giàu nghĩa
khí.
“Đàn ghi ta của Lorca” là một tập thơ tiêu biểu của Thanh Thảo theo phong cách thơ đó,
được in trong tập “Khối vuông ru-bích” xuất bản năm 1985. Tên tập thơ cũng chính là hình dung
của tác giả về cấu trúc thơ mới – một mô hình mở khước từ khuôn mẫu ổn định quen thuộc để giải
phóng cảm xúc và tưởng tượng. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” lấy cảm hứng từ nhân cách cao đẹp
cùng số phận oan khuất của Lorca – người nghệ sĩ Tây Ban Nha tài hoa và yêu tự do nhưng đã bị
chính quyền độc tài phát xít giết hại vào năm 38 tuổi. Nhan đề bài thơ sử dụng một hình ảnh có ý
nghĩa biểu trưng: đàn ghi ta là một loại nhạc cụ thể hiện nét đặc sắc của văn hóa truyền thống Tây
Ban Nha; mặt khác, nó cũng được sử dụng nhằm khắc đậm hình ảnh nổi bật của Lorca lúc sinh thời
là một nghệ sĩ kép: thi sĩ kiêm nhạc sĩ, ông giống như một gã Digan đơn độc, một nghệ sĩ dan gian
thường lang thang khắp xứ trên yên ngựa với cây đàn ghi ta, dùng lời thơ và tiếng đàn để giãi bày
nỗi đau buồn sâu sắc và khát vọng tự do, khát vọng yêu thương của nhân dân mình. “Đàn ghi ta của

123 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Lorca” trở thành một hình ảnh biểu trưng cho cuộc đời, nhân cách và số phận bi tráng của chính
Lorca, người nghệ sĩ tài hoa, phóng khoáng, yêu tự do của dân tộc Tây Ban Nha. Bài thơ thể hiện sự
đồng cảm sâu sắc của tác giả với Lorca, người nghệ sĩ tự do và cô đơn dẫu bị chết oan khuất dưới
bàn tay của các thế lực bạo tàn nhưng cái đẹp của nhân cách, tâm hồn và của nghệ thuật thì vẫn luôn
luôn vĩnh hằng, bất diệt.
Với thể thơ tự do, không viết hoa đầu dòng, Thanh Thảo đã khiến người đọc tò mò về cách
viết giàu sức gợi như thế này.
“Những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
Li-la li-la li-la
Đi lang thang về miền đơn độc
Với vầng trăng chuếnh choáng
Trên yên ngựa mỏi mòn”
Nhịp thơ nhẹ nhàng, dàn trải nhưng giàu sức gợi, sức tả khiến người đọc mường tượng đến
đất nước xinh đẹp Tây Ban Nha với tiếng đàn ghi ta đắm say, những trận đấu bò tót hào hùng,
những mảnh đất thảo nguyên mênh mông, lãng mạn. Tuy nhiên cụm từ “tiếng đàn bọt nước” dường
như gợi lên sự mờ ảo, biến đổi khó lường, có thể vỡ tan ra bất cứ lúc nào không hay. Có một dự báo
nào đó chẳng lành, đầy bất an ở dâu thơ này.
Khổ thơ đầu gồm 6 câu, tập trung khắc họa chân dung của Lorca – người nghệ sĩ tự do và cô
đơn. Ngay câu thơ đầu tiên, hình ảnh “những tiếng đàn bọt nước” được tạo bởi một kết hợp âm
thanh đã gợi ấn tượng về sự trong trẻo nhưng mong manh, dễ vỡ của tiếng đàn hay cũng chính là
nhân cách và số phận của người nghệ sĩ trước các thế lực bạo tàn. Câu thơ thứ hai thiên về màu sắc
với chiếc “áo choàng đỏ gắt” khơi gợi hình ảnh của một đấu trường với chàng đấu sĩ đấu bò tót của
Tây Ban Nha. Ở nơi đấu trường, đấu sĩ thể hiện tài năng và dũng khí của mình trong bối cảnh khắc
nghiệt nhất và kề bên cái chết. Nói cách khác, tài năng và khí phách của đấu sĩ được tạc trên lưỡi
hái của tử thần. Nhưng, đấu trường ở đây chính là đấu trường giữa một bên là khát vọng dân chủ, tự
do của Lorca còn bên kia làn nền chính trị độc tài phát xít, một bên là khát vọng cách tân nghệ thuật
còn bên kia là sự bảo thủ nghệ thuật già nua. Do vậy, “áo choàng đỏ gắt” vừa gợi được cái khí chất
ngang tàng của người nghệ sĩ yêu tự do, lại cũng vừa gợi được tính chất gay gắt, khốc liệt của cuộc
đấu tranh giữa ánh sáng và bóng tối, giữa chính và tà trong nền chính trị và nền nghệ thuật đương
đại ở Tây Ban Nha. Và trong cuộc đấy này, Lorca nổi bật trên cái phông văn hóa đặc trưng như một
kị sĩ lẻ loi, một nghệ sĩ tự do mà cô đơn, một ca sĩ dân gian ôm cây đàn ghi ta “hát nghêu ngao”
cùng với “tiếng đàn bọt nước”, “lang thang về miền đơn độc”, tháng tháng ngày ngày “chếnh
choáng” dưới “vầng trăng trên yên ngựa mỏi mòn”…
Mười hai câu tiếp theo diễn tả cái chết oan khốc của Lorca bởi các thế lực tàn ác. Người
nghệ sĩ đấu tranh cho tự do và khát vọng yêu thương của dân tộc Tây Ban Nha đang “hát nghêu
ngao”:
“Tây Ban Nha
Hát nghêu ngao

124 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Bỗng kinh hoàng


Áo choàng bê bết đỏ
Lor-ca bị điệu về bãi bắn
Chàng đi như người mộng du”
Cái chết đột ngột của Lorca được diễn tả bằng tâm trạng bàng hoàng, đau đớn, bởi cái chết
ấy cũng đồng nghĩa với việc giết chết một khát vọng, một giá trị nhân văn cao đẹp. Câu thơ diễn tả
cảm xúc “bỗng kinh hoàng” và ba câu thơ tiếp theo diễn tả hình ảnh Lorca bị hành hình đều được
viết theo bút pháp hiện thực gợi nỗi tiếc thương đau đớn và niềm căm phẫn của tác giả trước cái
chết của người nghệ sĩ chân chính và tội ác của bọn phát xít đã kết liễu một con người mà suốt đời
chỉ biết ngợi ca tự do, yêu thương và sống vì Tổ quốc của mình. Cái dáng đi “như người mộng du”
của Lorca gợi nhiều liên tưởng, suy tư: vừa diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng, ngơ ngác của Lorca không
thể hiểu nổi lí do cái chết của mình, vừa thể hiện thái độ của người nghệ sĩ dám coi thường, chẳng
thèm để tâm đến cái thứ cường quyền bạo lực đang cướp đi mạng sống của mình, đồng thời cũng
vừa góp phần bộc lộ niềm cảm thông, xót thương và lòng ngưỡng mộ của tác giả đối với người
nghệ sĩ không biết cúi đầu này.
Những câu thơ tiếp theo đưa ra một loạt hình ảnh và chi tiết với lối diễn đạt chuyển đổi cảm
giác và lối kết hợp tạo hình ảnh đồng hiện khá phổ biến ở thơ tượng trưng:
“Tiếng ghi ta nâu
Bầu trời cô gái ấy
Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
Tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy”
Có thể suy luận và liên tưởng nhiều chiều về loạt hình ảnh biểu trưng siêu thực này. Tiếng
ghi ta nâu và bầu trời cô gái ấy phải chăng là một diễn tả ẩn dụ về tình yêu thương? Là khúc hát
ngợi ca bầu trời rộng mở của đất nước Tây Ban Nha và đôi mắt nâu huyền của người con gái yêu
thương. “Tiếng ghi ta lá xanh biết mấy” phải chăng là vẻ đẹp và sức sống ẩn chứa trong nghệ thuật
của tiếng đàn. “Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan”/ “tiếng ghi ta ròng ròng”/ “máu chảy” phải chăng
là một biểu trưng về cái chết của nghệ thuật, và số phận mong manh của người nghệ sĩ, của nghệ
thuật trước các thế lực bạo tàn… Cũng có thể suy luận theo một hướng khác: âm thanh tiếng đàn
sau cái chết của Lorca không còn nguyên vẹn được nữa mà vỡ tan ra thành màu sắc nâu, xanh;
thành hình khối tròn, bọt nước, vỡ tan; thành dòng máu chảy như sự đau đớn tiếc thương không thể
diễn tả trọn lời. Tác giả không nói đến thân xác Lora không còn nguyên vẹn mà nói tiếng đàn ghi ta
tan chảy, “vỡ tan” đã cho thấy một sự tương giao giữa các yếu tố vật chất và tinh thần. Cái chết và
nỗi đau thể xác là của riêng Lorca, còn cái chết của nghệ thuật, cái chết của khát vọng tự do và cái
đẹp là nỗi đau tinh thần của cả dân tộc Tây Ban Nha và của nhân loại tiến bộ trước tội ác của các
thế lực bạo tàn.
Đoạn thơ còn lại tập trung diễn tả sự bất diệt, vĩnh hằng của Lorca và nghệ thuật chân chính.
Các câu thơ giàu chất suy tưởng và biểu trưng được viết theo lối liên kết kề của nghệ thuật tượng
trưng siêu thực:

125 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

“Không ai chôn cất tiếng đàn


Tiếng đàn như cỏ mọc hoang
Giọt nước mắt vầng trăng
Long lanh trong đáy giếng”
Hai câu thơ trên có thể được hiểu rằng cái chết của Lorca là một mất mát lớn cho nghệ thuật
không còn dai dẫn đường, hành trình cách tân nghệ thuật mà Lorca theo đuổi giờ đây không còn
người tiếp bước. Mặt khác, cũng có thể hiểu đấy là những hình ảnh biểu trưng cho sự bất diệt của
nghệ sĩ và nghệ thuật chân chính. Bởi lẽ Lorca đã ra đi nhưng nghệ thuật thì không thể bị chôn vùi,
không ai có thể chôn cất được “tiếng đàn”, nghệ thuật vẫn sẽ sống mãi, giản dị, kiên cường như cỏ
dại: “Tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Hai câu thơ tiếp ít nhiều gọi nhớ đến chi tiết Lorca bị thủ tiêu
và ném xác xuống giếng. Giọt nước mắt kia phải chăng là biểu trưng cho nỗi đau, niềm tiếc thương
vô hạn, còn vầng trăng phải chăng chính là hình ảnh ngời sáng của Lorca – người chiến sĩ hy sinh
cho tự do, người nghệ sĩ chân chính đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho cái đẹp nghệ thuật. Nhưng
không chỉ có vậy, bởi vì cách phốt kết liền kề không sử dụng quan hệ từ, lại có thể gợi ra các tầng ý
đa nghĩa đa chiều do các phát sinh nhiều quan hệ liên kết. Đó là quan hệ so sánh: giọt nước mắt với
vầng trăng; quan hệ sở hữu: giọt nước mắt của vầng trăng; quan hệ đồng nhất: giọt nước mắt của
vầng trăng… ý nghĩa về niềm đau xót tiếc thương và vẻ đẹp cùng với sự bất tử của Lora dường như
là sự giao thoa lung linh của tất cả các tầng nghĩa ấy.
Vẫn mạch suy tưởng về sự vĩnh hằng của nghệ thuật chân chính, ở những câu thơ cuối bài,
Thanh Thảo đã tạo ra những tương phản, đối lập và chuyển hóa giàu ý nghĩa:
“Đường chỉ tay đã đứt
Dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
Trên chiếc ghi ta màu bạc”
Cái chết phũ phàng của Lorca đã cắt đứt thiên mệnh của đời anh, ném nó vào cõi tạo hóa vô
biên. Sự đối lập giữa cái hữu hạn của cuộc đời với cái vô cùng của tạo hóa đã chuyển tải một ý
nghĩa mới về cái chết của Lorca: Lorca chết đồng nghĩa với việc giã từ cái hữu hạn để bước sang
địa hạt của cái vô cùng vô tận và phương tiện cho sự siêu thoát ấy chính là đôi cánh nghệ thuật
“Lorca bơi sang ngang”/ “Trên chiếc ghi ta màu bạc”. Thi sĩ bơi trên chiếc ghi ta chính là bơi trên
con thuyền thi ca để vượt bến bờ sinh tử. Và cao hơn cái chết oan nghiệp ấy, Lorca đã tiến dần đến
sự giải thoát và mang tính triết học: giã từ cái hữu hạn để đến bến bờ của cái vô cùng bằng phương
tiện thơ ca, nghệ thuật:
“Chàng ném lá bùa cô gái Digan
Vào xoáy nước
Chàng ném trái tim mình
Vào lặng yên bất chợt.”
Là bùa cô gái Digan là một vẻ đẹp huyền bí mang màu sắc tôn giáo, xoáy nước là tai họa
định mệnh trên dòng sông số phận. Cho nên, hành động ném lá bùa và ném trái tim mình đều hàm ý
tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát khỏi vòng tục lụy của Lorca. Nhưng sự giải thoát ấy của

126 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Lorca còn mang đến một ý nghĩa lung linh hơn: Nghệ sĩ chân chính cần phải ý thức về cái chết của
bản thân để thế hệ sau tiến lên và để cho nghệ thuật được tái sinh mạnh mẽ.
“li-la li-la li-la”
Kết thúc bài thơ lại vang lên âm thanh “li-la li-la li-la” của ghi ta như tiếng ca về sự bất tử
của thi ca Lorca, của tâm hồn thanh cao yêu tự do, yêu cái đẹp, yêu đất nước Tây Ban Nha mà
chàng nghệ sĩ Lorca cho đến khi bước đến bên họng súng kẻ thù vẫn cất cao. Dòng cảm xúc xót xa,
tiếc nuối về một nhà thơ thiên tài được chảy trôi theo những suy tư đa chiều, vừa sâu sắc vừa mãnh
liệt của một hồn thơ cùng nét độc đáo trong phong cách thể hiện đã gây dấu ấn sâu sắc trong lòng
người đọc.
Trước khi chết, Lorca để lại di chúc: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. “Cây đàn”
được hiểu là biểu tượng nghệ thuật của Lorca là những đóng góp của ông trên lĩnh vực nghệ thuật.
Cây đàn cũng như Lorca chỉ có giá trị khi gắn với Lorca. Lorca không còn nữa thì sự sống của cây
đàn, của những sáng tạo nghệ thuật cũng chấm dứt. Nhà thơ Thanh Thảo đã lấy câu nói đó làm lời
đề từ cho bài thơ, như một thứ chìa khóa nhằm hướng tới người đọc hiểu thông điệp sâu xa của bài
thơ chăng? Lời đề từ là tình yêu say đắm của Lorca với nghệ thuật, tình yêu tha thiết của ông với xứ
sở Tây Ban Nha thì chưa đủ. Có lẽ ý nghĩa và ước nguyện sâu xa mà nhà thơ muốn gửi gắm qua đó
là sự cách tân nghệ thuật. Nhà thơ không muốn thơ ca cách tân của mình trở thành vật án ngữ trong
sáng tạo của thế hệ sau. Nghệ thuật phải được đổi mới không ngừng. Người cầm bút phải biết nối
tiếp và nhân lên, vượt qua những sáng tạo của Lorca để vươn tới chân trời nghệ thuật sáng tạo hơn.
Đừng để thần tượng của mình đổ bóng xuống tương lai, nền nghệ thuật sẽ đi dần vào lạc hậu, già
cỗi.
Bài thơ đã rất thành công khi tạo dựng một tượng đài Lorca bằng ngôn ngữ của thơ và âm
nhạc. Với lối thơ không viết hoa đầu dòng, cảm xúc liền mạch, Thanh Thảo đã mang đến cho người
đọc một Mỹ cảm hiện đại giàu tính sáng tạo. Sự trộn lẫn giữa trường phái tượng trưng siêu thực và
sức sáng tạo của Thanh Thảo đã cho ra đời một tuyệt bút đầy ngẫu hứng giàu chất nhạc. Trên hết là
nhà thơ đã mang đến cho người đọc một tình yêu vô bờ bến đối với nhà thơ nhân dân chống phát xít
bạo tàn. Bất kỳ một cuộc chiến nào cũng có người chiến thắng và kẻ bại trận nhưng những người
biết hy sinh vì mọi người luôn luôn là người anh hùng với chiến thắng vĩ đại nhất. Gacxia Lorca là
một người như thế.
2. Trọng tâm nghệ thuật:
a. Kết cấu:
- Sự liên kết các dòng thơ không có dấu ngắt câu, các chữ không viết hoa, thể hiện quan
niệm:
+ Cảm xúc liền mạch, không mở không kết như chính cuộc sống bất tận
+ Lorca và nghệ thuật của Lorca là bất tử.
b. Hình ảnh:
- Thể hiện đặc điểm, tâm hồn, văn hóa Tây Ban Nha
- Lạ hóa
c. Nhịp điệu, nhạc điệu:

127 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

- Nhịp điệu tự do, phù hợp với cảm xúc


- Điệp khúc “li-la li-la li-la” du dương làm cả bài thơ vang trong tiếng nhạc.

128 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

TÙY BÚT NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)


----------------------------------------------

- Tác giả: -Hoàn cảnh sáng tác


- Nguyễn Tuân(1910- 1987) " Người lái đò sông Đà" được
- Quê quán: quê ở thôn Thượng Đình, Xã Nhân Nguyễn Tuân sáng tác sau những
Mục( tên nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân chuyến đi thực tế gian khổ và hào
Chính, quận Thanh xuân, Hà Nội. hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng
lớn. Bài tùy bút được in trong tập"
- Ông trưởng thành trong một nhà Nho khi Hán học đã
Sông Đà" xuất bản năm 1960. Nội
tàn.
dung bài tùy bút là miêu tả con
- Ông là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính độc Sông Đà và hình ảnh người lái đò
đáo. Là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, vượt thác.
Nguyễn Tuân sáng tác nhiều thể loại song đặc biệt thành
công ở loại tùy bút.

- Nội dung: - Nghệ thuật:


Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm - Đậm chất tài hoa uyên bác.
nên từ tình yêu dất nước say đắm, thiết tha của một con - Tác phẩm giàu chất thông
người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kỳ vĩ, tin, thời sự. Tác giả đã huy động
hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và nhất là vốn tri thức chuyên môn của nhiều
của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. ngành văn hóa, nghệ thuật khác
+ Một con sông" Hung bạo" và " Trữ tình". nhau.
+ Một người lái đò tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người - Lối so sánh liên tưởng độc
Tây Bắc tài trí, dũng cảm trong lao động. đáo.
- Ngôn ngữ giàu có, tinh tế
hiện đại, giàu cảm xúc, đậm chất
tạo hình, rất sắc sảo.

1. Hình tượng con Sông Đà


Sông nước quê hương bao đời nay vốn là đề tài, là nguồn cảm hứng đi về trong văn chương
từ cổ chí kim. Không ít các thi nhân, văn nhân đã chọn viết về những dòng sông thiên nhiên đất trời
để gửi gắm tâm tư, tình cảm cũng như dẫn người đọc “bước vào xứ sở của cái đẹp”, và trong đó,
Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ được mệnh danh là “một định nghĩa của cái đẹp” cũng là một cây bút
tiêu biểu, nổi bật với bài kí “Người lái đò sông Đà”.Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế lên
Tây Bắc của Nguyễn Tuân, bằng một nguồn cảm hứng đặc biệt, ông đã tự nhận mình là “người
đang đi tìm vàng quanh sông Đà”. Đó là thứ vàng có sẵn trong thiên nhiên, đất trời, màu sắc sông

129 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

núi của Tây Bắc, và hơn cả, đó còn là thứ vàng mười có sẵn trong những con người đang ngày ngày
nhiệt tình gắn bó với công cuộc dựng xây cho Tây Bắc ngày một sáng sủa, tươi vui, vững bền.

Nếu như Nguyễn Minh Châu gọi đó là “Viên ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm hồn con
người” thì Nguyễn Tuân lại gọi đó là “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Toàn bộ vẻ đẹp ấy lấp lánh
lên trong tập “Tùy bút sông Đà” sáng tác năm 1958 – 1960 với linh hồn là bài kí “Người lái đò
sông Đà". Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ còn là thiên nhiên vô tri vô giác mà
là một sinh thể có hồn và tràn đầy sức sống. Nhà văn đã thành công khi thể hiện được hình ảnh của
con sông Đà vừa dữ dội khác thường nhưng cũng rất nên thơ nên họa. Lúc hung bạo nó như kẻ thù
số một của con người, lúc trữ tình nó lại đầy chất thơ và thân thiết với con người như một cố nhân
xa cách thì nhớ nhung lưu luyến. Cho nên hai câu thơ đề từ có thể được xem là đã thâu tóm được
hình tượng sông Đà “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” và “Chúng thuỷ giai đông tẩu –Đà
giang độc bắc lưu”. Mà nói như Nguyễn Tuân, đối với ông cái đẹp đó phải là “Đã dữ dội phải dữ
dội đến khác thường tột đỉnh và đã đẹp phải đẹp đến tuyệt Mỹ giai nhân”. Đồng thời, Nguyễn Tuân
cũng phát hiện ra hình ảnh của người lái đò Lai Châu, mặc dù tuổi đã ngoài 70 nhưng thực sự là
một người nghệ sĩ trên sông nước, tay lái của ông lão nở hoa trên dòng sông Đà. Với tác phẩm
“Người lái đò sông Đà”, ngòi bút của Nguyễn Tuân đã thực sự được thăng hoa trên dòng sông văn
chương của mình.
Khi trở về với mảnh đất cực Tây của Tổ quốc, ngòi bút của Nguyễn Tuân được đắm mình
vào trong thiên nhiên hoang vu, nhà văn đã xây dựng lên những cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp.
Nhưng Nguyễn Tuân chỉ chọn con sông Đà vì chỉ có sông Đà mới hội tụ được đầy đủ vẻ đẹp của
thiên nhiên Tây Bắc. Hơn nữa, Nguyễn Tuân còn là một người đi theo chủ nghĩa xê dịch, ông thích
viết về xe cộ, thác dữ và thường hay đi đây đi đó để thay đổi thực đơn cho nhãn quan của mình. Khi
viết về sông Đà, Nguyễn Tuân sử dụng chủ yếu là thủ pháp nghệ thuật nhân hóa. Nguyễn Tuân
không viết sông Đà được khơi nguồn từ Trung Quốc mà ông viết sông Đà được khai sinh.Ông
không viết là sông Đà chảy vào lãnh thổ Việt Nam, mà ông viết là “Sông Đà xin nhập quốc tịch
Việt Nam”. Ông không viết sông Đà mở rộng dần ra, mà ông viết “Sông Đà trưởng thành dần lên”.
Với nghệ thuật nhân hóa tài tình, Đà giang thực sự trở thành 1 sinh thể có hồn, có cá tính. Không
phải ngẫu nhiên trong văn giới cùng thời Nguyễn Tuân được mệnh danh là “người có sợi tóc chẻ
làm tư”, Nguyễn Tuân xứng đáng là một nhà ngôn ngữ.
Trước tiên, ta đến với vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà. Vẻ đẹp ấy được hiện lên qua cảnh
đá bờ sông dựng vách thành. Những chi tiết tưởng như tản mạn bang quơ đã gợi tả gián tiếp độ hẹp
của lòng sông, độ cao của vách đá. Hình ảnh so sánh đầy bất ngờ: “vách đá thành chẹt lòng Sông
Đà như một cái yết hầu…” miêu tả chân thực và sinh động độ hẹp của lòng sông, bị đá chèn đến
mức như ngạt thở. Tác giả còn sử dụng hình ảnh quen thuộc “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm
thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà
thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Nhà văn vận dụng rất nhiều kiến thức để tái hiện lên vẻ đẹp của
sông Đà ở khúc thượng nguồn. Nguyễn Tuân chẳng khác nào 1 nhà quay phim lão luyện đang tác
nghiệp. Ở khúc thượng nguồn, sông Đà hiện lên như một cơn thác dữ, như một mụ dì ghẻ, một
hiểm họa môi trường đến từ thiên nhiên. Để khắc họa tính cách của sông Đà, tác giả đã sử dụng hơn
130 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

300 động từ mạnh và từ những góc nhìn khác nhau. Nhìn từ trên cao, lấy toàn cảnh sông Đà, sông
Đà hiện ra như một sợi dây thừng dài loằng ngoằng. Tiếp đến, ta không thể bỏ qua đoạn mặt ghềnh
Hát Loóng, sông Đà hiện lên với tốc độ dòng chảy lớn, những câu văn ngắn, ngắt nhịp liên tục
“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ xu bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy”. Nhịp điệu câu văn nhanh, mạnh, dồn
dập gợi tả sự chuyển vần của cả một quần thể tự nhiên. Với những câu văn đầy sinh động thế này,
Nguyễn Tuân thật sự đã buộc ngôn từ phải tạo nên ghềnh thác”. Hay như ở quãng Tà Mường Vát,
phía cuối Sơn La, ở đó có những xoáy hút nước mà chỉ cần người lái đò lơ là tay chèo, lập tức sẽ bị
hút xuống “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt
biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông
dưới”. Đó quả thực là những cái bẫy chết người. Miêu tả cảnh những cái hút nước trên sông,
Nguyễn Tuân đã sử dụng đến độ thành thạo nghệ thuật so sánh “những cái hút nước như cái giếng
bê tong thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “thở và kêu như cửa cống bị sặc”. Ví hút nước
như cái giếng bê tong, nhà văn đã gợi ra một ấn tượng mạnh mẽ về độ sâu và bề dày. Rồi ví những
cái giếng sâu nước “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Tất cả đều đem đến hình dung cụ thể về
những cái hút nước vừa rộng mà lại rất sâu với những âm thanh dữ dội và bí hiểm. Sông Đà quả
thực như một con quái vật đang trong một cơn cuồng nộ đầy ghê sợ.
Nét hung bạo của sông Đà còn được khắc họa đậm nét hơn, dữ dội hơn ở cảnh thác và đá
ngầm trên sông. Ở cảnh này, sông Đà thực sự mang cả diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một.
Khi ở xa âm thanh của tiếng nước cứ “réo”, “réo to”. Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như
là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác
giống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Bằng nghệ thuật so
sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng thú vị, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác
nước hùng vĩ, hung bạo, đầy đe dọa ngay cả khi rất xa. Con sông bấy giờ như một loài thủy quái
không chỉ hung hãn mà còn nham hiểm đầy tráo trở. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng
lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì
không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó.
Nguyễn Tuân đã lấy lửa để tả nước, lấy hình ảnh để tả âm thanh, lấy rừng để tả sông. Ông quả là
một nghệ sĩ bậc thầy! Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả
một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Hình ảnh quân
đá bằng nghệ thuật nhân hóa đã trở nên hùng hậu, nham hiểm, hung hãn hơn ngàn lần . Sông Đà đã
giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi thạch trận nguy hiểm đe dọa tất cả
những người lái đò trên sông. Toàn bộ vẻ đẹp sông Đà khúc thượng nguồn tựa được miêu tả tựa
như kẻ thù số một, khủng khiếp, nham hiểm ngay từ cả diện mạo đến tâm địa. Cuộc vượt thác
chẳng khác nào vượt thoát khỏi một trận hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên.
Trôi về hạ lưu, ta biết đến một vẻ đẹp hoàn toàn khác của con sông. Đó là một vẻ đẹp trữ
tình, rất nên thơ nên họa. Nếu phần thượng nguồn của sông Đà được sử dụng rất nhiều những thể

131 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

loại nghệ thuật khác nhau thì ở phần hạ lưu của sông Đà, nhà văn sử dụng chủ yếu là kiến thức về
văn chương và du lịch. Dưới ngòi bút cua Nguyễn Tuân, sông Đà gợi bao cảm xúc mê say lòng
người. Khi trữ tình, sông Đà mềm mại, huyền ảo như mái tóc người con gái kiều diễm, duyên dáng:
“con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung
nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi người Mèo đốt nương xuân”. Sông Đà đã
gom nhặt tất cả những gì là đẹp đẽ nhất, thơ mộng nhất, huyền ảo nhất của mây trời Tây Bắc, những
gì trẻ trung của hoa ban trắng và nét gần gũi và ấm áp của cuộc sống đời thường.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há
Dương Châu” làm cho người đi rừng dài ngày “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng”. Ở hạ lưu, lòng sông mở rộng, độ dốc không còn, nước chảy hiền hòa
giữa đôi bờ tiền sử. “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông
này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sông Đà hiện ra với màu sắc và diện mạo hoàn toàn khác, yên
tĩnh và có âm hưởng của thi ca nghệ thuật như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi.
Bên cạnh đó, nhà văn còn bộc lộ tình yêu quê hương, tình yêu đất nước, ông nhận thấy bọn
thực dân Pháp đổ mực tây vào sông Đà và gọi bằng cái tên láo lếu là “con sông Đen”. Bằng hiểu
biết của mình, Nguyễn Tuân chỉ ra rằng, sông Đà không phải lúc nào cũng là màu đen, sông Đà
thay đổi màu theo mùa, mùa nào màu nào cũng đẹp cả. “Vào mùa thu, sông Đà lừ lừ chín đỏ như
một người bầm đi vì bữa rượu” Câu văn không chỉ gợi ra sắc màu, mà còn gợi ra tốc độ chậm rãi
của dòng sông đỏ nặng phù sa khi thu về. “Vào mùa xuân, sông Đà có màu xanh ngọc bích chứ
không phải xanh canh hến như sông Gâm, sông Lô”, một sắc xanh trong đặc biệt. Nhà văn này đã
phải bám gót anh liên lạc, trở về, nhìn thấy sông Đà, bao nhiêu ký ức và kỷ niệm lại ùa về và ngòi
bút của Nguyễn Tuân một lần nữa thực sự thăng hoa. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những
khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên, để rồi tiếng đập nước của “đàn
cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh
thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu.
Không những thế, sông Đà còn mang một sắc thái lặng lờ và hoang dại ‘Bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử…”. Sông Đà thật sự đã khiến con người chìm đắm trong nét trong trẻo, an lành và thuần
kiết. Đứng trước dòng sông ấy, con người có thể tìm lại những gì trong trẻo nhất, yên bình nhất.
Khi miêu tả nét đẹp trữ tình của sông Đà, Nguyễn Tuân đã trực tiếp bộc lộ những trạng thái,
cảm xúc, bộc lộ cái tôi của mình trong những câu văn đầy sinh động và giàu chất thơ. Hai nét tính
cách hoàn toàn đối nghịch nhưng lại đồng hiện trong một dòng sông.Qua đó ta có thể thấy được tài
hoa, vốn văn hóa uyên bác và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân, nhờ đó đã phần
nào tái hiện lên một khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ nhưng cũng thật trữ tình làm ta thêm
tự hào về Tổ quốc, quê hương Việt Nam. Nhà báo Genevieve Sarah Loh của kênh News Asia đã
nhận xét: Việt Nam tuyệt đẹp và khác biệt với thế giới, đồng thời có hẳn một bài phỏng vấn các
nhân vật trong phim để lý giải tại sao Việt Nam là địa điểm hoàn hảo của Kong. Trong đó, bản thân
đạo diễn Jordan Vogt-Roberts đã từng chia sẻ: “Tôi đã yêu khung cảnh tại Việt Nam từ cái nhìn đầu
tiên và lựa chọn nơi tuyệt đẹp này cho bộ phim của mình. Rồi các bạn sẽ thấy, ngoài khung cảnh,
bạn sẽ yêu cả ẩm thực, con người và văn hoá tại đây như cách tôi đã phải lòng”.

132 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

2. Hình tượng người lái đò Sông Đà


 Trong những năm 58 - 60, Tây Bắc trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật khi miền
Bắc tiến lên xây dụng chủ nghĩa xã hội. Ta biết đến Tây Bắc với tập "Truyện Tây Bắc" của Tô
Hoài, "Mùa Lạc" của Nguyễn Khải và "Tùy bút Sông Đà" của Nguyễn Tuân. Nhà văn Nguyễn Tuân
thăng hoa trên mảnh đất Tây Bắc với linh hồn là bài kí "Người lái đò Sông Đà". Là một nhà văn đi
theo "chủ nghĩa xê dịch", trong tác phẩm ông dùng những ngôn ngữ điêu luyện để làm nổi bật
những đoạn đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội, cảnh thiên nhiên đẹp tuyệt đỉnh nhưng trên cả đấy
là vẻ đẹp con sông Đà. Nhưng tác phẩm không chỉ thành công ở việc khắc họa hình tượng con sông
Đà với hai nét tính cách đối lập, mà còn gây ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc về hình tượng
người lái đò – một người nghệ sĩ trên sông nước.

Khi nhắc đến tên tuổi của Nguyễn Tuân, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương
đều biết đến ông là một nhà văn tài hoa, uyên bác, hơn đời hơn người. Sự tài hoa, uyên bác ấy làm
nên cá tính văn chương của riêng ông mà đã được giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh gói gọn trong một
chữ “Ngông”. Chữ “Ngông” của một người tài hoa, nghệ sĩ cả đời luôn đi theo chủ nghĩa duy Mỹ,
luôn đi tìm cái đẹp. Bởi vậy, Nguyễn Tuân đã thành công khi khắc họa lên được phong cảnh, thiên
nhiên Tây Bắc qua hình ảnh con sông Đà vừa dữ dội khác thường nhưng cũng rất nên thơ nên họa.
Đồng thời, nhà thơ cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ cùng sự tài ba, trí dũng của con người lao
động mới “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Đó là hình ảnh của người lái đò Lai Châu, mặc dù tuổi
đã ngoài 70 nhưng thực sự là một người nghệ sĩ trên sông nước, tay lái của ông lão nở hoa trên
dòng sông Đà. Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, ngòi bút của Nguyễn Tuân đã thực sự được
thăng hoa trên dòng sông văn chương của mình.
Trước cách mạng tháng 8, Nguyễn Tuân đề ra cái tôi của mình thì sau cách mạng, cái tôi của
nghệ thuật ấy lại hòa quyện với cái ta chung của cộng đồng quần chúng nhân dân. Đó chính là hình
tượng của ông lão lái đò, là đại diện cho những con người đẹp từ trong chân lý sinh ra, như những
bông hoa nở rực rỡ trong vườn hoa của xã hội chủ nghĩa, đây chính là xu thế văn chương thời kỳ
này chứ không phải riêng Nguyễn Tuân thay đổi.
Nhà văn chỉ ra rằng, người lái đò sông Đà cũng như biết bao những con người khác, mặc dù
chỉ lao động bình thường nhưng lại chính là anh hùng trong thời đại mới. Điều này được thể hiện ở
việc ông lão lái đò là một nhân vật không tên, là một nhân vật điển hình trong văn chương mà nói
như Pie-linski “Điển hình trong văn chương là những người lạ mà ta đã từng quen biết từ rất lâu”.
Tuy nhiên, Nguyễn Tuân đã tìm ra được những nét cá tính đặc biệt trong nhân vật này.
Ngay từ trang đầu tiên của tác phẩm, Nguyễn Tuân đã viết về khoảng thời gian người lái đò
đã từng gắn bó trên sông nước. Mười năm - đối với một ông lão 70 tuổi đầy kinh nghiệm, từng trải
đó vốn dĩ cũng chỉ là một chặng đường. Nhưng trong suốt 10 năm ấy, ngày ngày đều phải cưỡi trên
sông Đà như cưỡi hổ, ngày ngày phải đối mặt với biết bao con thác dữ và chẳng ngày nào là không
phải đương đầu với thạch trận thủy chiến, xuyên suốt từng đấy năm tháng không ngày nào là không
đối diện với cái chết, bởi vậy 10 năm ấy tưởng chừng dài như cả một đời người, dài cả trăm năm ý
chính Nguyễn Tuân đã đưa nhân vật của mình vào trong hoàn cảnh khó khăn mà ở đó, tất cả những

133 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

phẩm chất đều bộc lộ. Nói như nhà văn H.Balzac: “bản chất của con người thường bị bánh xe của
số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ “. Ở ông lão, người đọc có thể
dễ dàng thấy rằng đó thực sự là một người nghệ sĩ trên sông nước với đầy kinh nghiệm đò giang, có
bản lĩnh phi thường, lòng dũng cảm, sự gan dạ, vô cùng mưu trí, nhanh nhẹn và rất quyết đoán dù
đã ở tuổi gần đất xa trời.
Trước hết, Nguyễn Tuân miêu tả ngoại hình của ông lão rất đặc biệt. Nhà văn nhận ra được
dáng vẻ riêng mà chỉ ông lão lái đò mới có. Hai tay của ông lão “dài lêu nghêu như hai cái sào”,
“hai chân lúc nào nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cái cuống lái trong tưởng tượng”. Dù đã bỏ
nghề chục năm nay rồi nhưng lúc nào cũng cứ ngỡ mình đang chèo đò, vượt thác ý chính công việc
đặc biệt này đã tạo nên những nét cá tính độc đáo trong người nghệ sĩ trên sông nước. Tiếng gầm
của sông nước dường như lúc nào cũng âm vang trong giọng nói của ông, hay như nhà văn đã viết
“tiếng nói ào ào của sông nước”. Đôi mắt của ông nửa thực nửa mơ như đang mơ về một bến bờ xa
xăm trong sương mờ. Dù đã ngoài 70 tuổi nhưng thân hình của ông lão vẫn khỏe mạnh và lực lưỡng
“Gần bảy mươi tuổi, cái đầu quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như
chất sừng, chất mun...”. Lời của ông lão như một người ăn sóng nói gió. Dường như thời gian cũng
phải bất lực trước vẻ đẹp tràn đầy sức sống của người đàn ông này. Bởi thường khi làm một công
việc nặng nhọc như vậy, người ta sẽ chóng già so với tuổi, vậy mà người lái đò ấy từ gương mặt cho
tới nụ cười đều là của tuổi trẻ nhiệt huyết, đúng với những gì Nguyễn Tuân đã viết: “Khuôn mặt của
ông he hé mở, nở miệng cười, tay lái của ông lão chẳng khác nào một chàng trai”.
Bên cạnh bản lĩnh phi thường, ông lão dù tuổi đã cao nhưng còn sở hữu một trí nhớ siêu
phàm. Ông là một linh hồn muôn thuở của sông nước. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn
một trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sau
chèo”. Có lẽ bao tình cảm, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân đều được gửi gắm ở nhân vật ông lão
lái đò, để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà như máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức
thuộc lòng hơn một nghìn tên thác, tên ghềnh dù dễ hay khó đều hội tụ và lắng đọng thành một
dòng chảy trong trái tim của ông lão hay chính là trái tim người nghệ sĩ tài ba Nguyễn Tuân. Người
lái đò của Nguyễn Tuân thuộc dòng sông như thuộc một bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm,
dấu phẩy, dấu chấm than và cả từng đoạn xuống dòng. Đó chính là cái tài của ông lão lái đò mà như
Emile Zola từng nói: “Người nghệ sĩ chẳng là gì nếu thiếu tài năng, nhưng tài năng chẳng là gì nếu
không có lao động”.
Để có thể khuất phục và chế ngự trước sự hung bạo của sông Đà, ông lão lái đò không chỉ
có một bản lĩnh phi thường, một trí nhớ siêu phàm mà còn là một trí dũng song toàn. Và điều này
được thể hiện rõ nhất khi ông lão vượt thác chèo đò, vượt qua cả ba tầng trùng vi thạch trận.

134 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Vẻ đẹp của ông lão lái đò chính là vẻ đẹp của một người nghệ sĩ chèo đò vượt thác, cũng
chính là vẻ đẹp của người anh hùng trên sông nước.Không chỉ đẹp về ngoại hình mà còn đẹp về
phẩm chất, tâm hồn. Ông luôn phải đối mặt với những luồng sinh luồng tử, những trùng vi thạch
trận, bởi vậy ta có thể thấy bản lĩnh phi thường trong con người ấy. Ông lão lái đò dám gắn bó cả 10
năm đời mình với sông Đà, ngày nào cũng phải dành lại sự sống từ cái chết, bản lĩnh ấy được bộc lộ
thông qua những hành động của ông lão. Nếu như sông Đà được hiện lên như một con mãnh thú thì
ông lão lái đò lại gọi con sông Đà chỉ đơn thuần là một người bạn lắm tật nhiều chứng. Nếu như
Sông Đà là một bản anh hùng ca thì người lái đò thuộc từng dấu chấm, dấu phẩy của bản hùng ca
ấy. Nguyễn Tuân vận động kiến thức của cả hai lĩnh vực thể thao và quân sự, ở đây, “trùng” là điệp
trùng, “vi” là nhỏ, “thạch” là đá và “trận” là trận đồ. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của
người lái đò trên quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà. Đó là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết
người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương chính là kẻ thù số một của
con người. Bằng cái nhìn sắc sảo của một nhà quân sự, Nguyên Tuân đã chỉ rõ sự chênh lệch lớn về
cả thế và lực giữa ông lái đò và thác dữ. Nếu thác dữ đông đảo hùng hậu, hiếu chiến với những
“boong ke chìm”, “pháo đài nổi”, “đá tướng”, “đá quân”, “luồng ống”, “luồng chết”… đã giăng sẵn
trận địa với những vòng mai phục thì ông lái đò đã 70 tuổi, đơn độc trên con thuyền độc mộc chỉ có
mái chèo là vũ khí. Nhưng kì lạ thay, đối mặt với thác dữ, người lái đò ấy vẫn chẳng hề nao núng:
“Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đó cũng là
bản lĩnh cứng cỏi hiên ngang, là cái gan góc bình tĩnh của một người lao động Tây Bắc. Ở trùng vi
thạch trận thứ nhất, người đọc ấn tượng trước những câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân
“đá tảng đá hòn”, “đá tiền vệ” bày ra thạch trận với năm cửa ải gồm một cửa sinh và bốn cửa tử.
Cửa sinh nằm ở phía tả ngạn, ở đây có hai hòn đá tiền vệ với nhiệm vụ dẫn dụ con thuyền đi vào

135 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

vùng sơ hở. Mỗi hòn đá, tảng đá nơi ải nước hiểm trở đều như có hình hài, tính cách của một tên
địch quân nham hiểm hiếu chiến. Trận cận chiến được mở đầu bằng những hành động có vẻ tràn
đầy tinh thần thượng võ “một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải
xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi
thì tiến gần vào”. Thiên nhiên thực sự giữ vai trò chủ động trong việc mai phục con người, như
được thể lấn tới “sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng
và hông thuyền”, “ùa vào bẻ gãy cán chèo vũ khí trên cánh tay” rồi có lúc “chúng đội cả thuyền
lên”. Một chiếc thuyền đơn độc không biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận đại
sẵn. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước hò la vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái
đò nhưng ông vẫn hai tay giữ chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn
sổ, hiếu chiến như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái
đò lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất với đối phương,
ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt móc
bệch. Ông xử lý hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt
qua trùng vi một hiểm trở. Hình ảnh người lái đò hiện ra kiên cường, bản lĩnh như một chiến binh
thực thụ
Phá xong trùng vi thạch trận thứ nhất, ông phá luôn trùng vi thạch trận thứ hai.
Trùng vi thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh”, “bốn
năm thủy ngân không ngớt khiêu khích” để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch
qua bờ hữu ngạn thật nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ. Nhưng ông lái
đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái
đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng
nhanh vào cửa sinh lái miết một đường chéo về phía cửa đá đầy điêu luyện. Bằng vốn kiến thức
uyên sâu, tác giả đã sử dụng hơn ba trăm động từ mạnh để miêu tả về sự hung bạo của sông Đà,
cộng hưởng cùng phép tu từ so sánh, nhân hóa độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm
thiêng, tăng thêm sức mạnh cho Đà giang và càng làm nổi bật tư thế hào hùng, hiên ngang của ông
lão lái đò.
Không một chút nghỉ tay, người lái đò giữ vững tâm thế tiếp tục với cuộc chiến đấu của
mình tiến vào trùng vi thạch trận thứ ba. Nếu như ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai, Nguyễn
Tuân cực tả về vẻ đẹp trí dung song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lão lái đò thì ở chặng thứ
ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy được sự khéo léo, tài hoa của ông lái đò. Lần này,
tuy ít cửa hơn nhưng “bên phải, bên trái đều là luồng chết” khiến ông lão lái đò phải vận dụng mọi
tài năng và kinh nghiệm của mình để đương đầu. Một ông lái đò và sáu tay trèo, tưởng chừng như
con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như
một vị tướng lão luyện dày dặn kinh nghiệm, ông lão phóng thẳng thuyền trọc thủng cửa giữa.
Thuyền vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. “Vút, vút”, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng,
thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự động lái được. Một
loại những hành động nhanh mạnh như: “Phóng nhanh”, “phóng thẳng”, “lái miết một đường”,
“chọc thủng”, “xuyên nhanh”, “vút” hay “xuyên” lặp đi lặp lại kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi

136 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

văn căng thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết. Không
chỉ vậy, chính những động từ mạnh độc đáo ấy đã phần nào nhấn mạnh tốc độ lái thuyền của người
lái đò, cùng với nhiều phép so sánh liên tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh
nhưng cũng vừa thấy được sự khéo léo qua hướng đi luồn lách, tránh đội quân đá hùng hậu của con
thuyền. Hơn nữa, thủ pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong tác
phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với một bên là con
người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái
đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt ngàn sóng thác” nhưng vẫn hiện lên như
một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải. Sau những lần chèo đò vượt thác, khi Sông
nước trở lại cảnh thanh bình, “dòng sông vặn mình vào một cái bến cát cò hang lạnh. Sóng thác xèo
xèo tan trong trí nhớ” người lái đò trở về cuộc sống thường ngày, “nướng ống cơm lam” và kể
chuyện về những loài cá quý hiếm ở Sông Đà. Người lái đò không bàn thêm về chiến thắng vừa
dành được của mình trên Sông Đà. Bởi thế mới thấy, con người Tây Bắc là thế, họ xem những cuộc
chiến đấu như cuộc sống thường ngày của mình để rồi khi nhìn lại đó là những kỉ niệm, những niềm
vui chứ không hề là khó khăn thử thách. Với họ, cuộc chiến đấu và chiến thắng sông Đà chỉ là một
câu chuyện thường ngày. Ông lão lái đò tài hoa, nghệ sĩ trên chính nghề nghiệp của mình đã đại
diện cho con người Tây Bắc, họ anh hùng trong lao động và ngay trong cả cuộc sống thường ngày.
Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Oư tùy bút “Người lái đò sông Đà”, chúng
ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự sắc nhọn của các giác quan nghệ sĩ đi đôi
với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung bạo và
trữ tình” cùng hình tượng người lái đò tài hoa chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu
mến và tự hào về con người, cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.

137 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG( Hoàng Phủ Ngọc Tường)


----------------------------------------------

- Tác giả: -Hoàn cảnh sáng tác


Bài kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông"
Hoàng Phủ Ngọc Tường quê ở Quảng Trị nhưng in trong tập bút kí cùng tên. Tập sách
sinh ra ở, lớn lên và học tập tại Huế. Nét đặc sắc gồm tám bài kí, viết ngay sau chiến thắng
trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn mùa xuân năm 1975, đang bừng bừng
giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng
bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến cách mạng. Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc
thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý,... Tường lòng yêu nước, tinh thần dân tộc
Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc thường gắn với tình yêu thiên nhiên và
tích, mê đắm và tài hoa. truyền thống văn hóa sâu sắc.

- Nội dung: - Nghệ thuật:


- Bài kí ngợi ca dòng sông Hương và rộng hơn là -Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích
vùng đất cố đô Huế đẹp thơ mộng hữu tình, ca ngợi và đầy chất thơ về sông Hương. Nét đặc
lịch sử vẻ vang của Huế, ca ngợi văn hóa và tâm hồn sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn văn là
người Huế. những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp
- Tác giả coi sông Hương là biểu tượng cho tất từ một vốn hiểu biết phong phú về văn
cả những gì là vẻ đẹp của cảnh và người đất đế đô hóa, lịch sử, địa lý, và một trí tưởng
này. tượng sáng tạo độc đáo.

- Bài kí chứng tỏ sự gắn bó máu thịt, tình yêu - Văn phong tao nhã, hướng nội,
thiết tha với Huế và một vốn hiểu biết sâu sắc về nền tinh tế và tài hoa.
văn hóa đất cố đô của tác giả.

“Con sông dùng dằng con sông không chảy


Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.”

Xứ Huế mộng mơ, nên thơ, nên hoạ từ lâu đã trở thành một điểm đến thân thuộc của những
người nghệ sĩ, những nhà thơ, nhà văn với bao niềm say đắm. Ta không khó để bắt gặp nét Huế
trong các khúc ca dao, dân ca; bắt gặp “Hương Giang nhất phiến nguyệt” trong thơ Nguyễn Du; hay
gần hơn là nơi thôn Vĩ với thi nhân họ Hàn;… Dù khác nhau về thời đại, về thể loại hay bút pháp
nghệ thuật nhưng tất cả đã cùng nhau tô điểm thêm cho sắc nước hương trời nơi Huế, làm nên một
Huế rất thơ và cũng rất tình. Và chắc chắn, khi nhắc đến những tác phẩm nghệ thuật viết về xứ Huế,
ta không thể không kể đến bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
138 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Tường – một con người đã “trầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước
xứ Huế”. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương dưới phương diện địa lí, lịch sử và văn
hoá, Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài kí đã tỏ bày tình yêu nước tha thiết theo một cách rất riêng,
đầy trữ tình, mê đắm và tài hoa.

Dòng Hương giang được nhìn nhận qua nhiều góc độ khác nhau mà ở đây nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã kể ra ở nhiều góc độ như lịch sử, địa lý, văn hóa, văn chương. Đất nước Việt
Nam với sông nước hữu tình, hoa trái quanh năm đã thêu dệt nên một áng văn tuyệt đẹp. Sông
Hương, xứ Huế là nguồn cảm hứng say mê bất tận với tâm hồn người nghệ sĩ. Không phải ngẫu
nhiên mà ở phần đầu của tác phẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết: “Trong những dòng sông đẹp
ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy
nhất.”

Thủy trình của sông Hương từ góc nhìn địa lí được nhà văn miêu tả qua các chặng từ thượng
nguồn về đến châu thổ rồi từ đó Sông Hương vào với Thành phố Huế và chảy ra biển cả. Nói đến
sông Hương, xứ Huế người ta thường nghĩ đến sự êm đềm, phẳng lặng của dòng sông trong cảnh
thanh bình. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không dừng lại ở ngắm nhìn “khuôn mặt kinh
thành” của nó mà ngược dòng cảm xúc để trở về với thượng nguồn của nó để khai phá vẻ đẹp bí ẩn
của dòng sông. Giữa lòng Trường Sơn hùng vĩ, Sông Hương hiện ra trong vẻ đẹp man dại đầy cá
tính, mạnh mẽ phóng khoáng nhưng vẫn giữ được nét dịu dàng đắm say. Nhà văn đã so sánh Sông
Hương như một “bản trường ca của rừng già” gợi ra một con sông với chiều dài hùng vĩ và có dòng
chảy mãnh liệt. Rừng già là hình ảnh hoang sơ, bí ẩn và mênh mông trong đó mang các sắc thái với
nhiều tiết tấu trầm bổng: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác,
cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm
giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh kết hợp với tính từ gợi tả đã thể hiện rất rõ sức
mạnh man dại mang vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ. Người đọc từ đó có thể khám phá ra nét tính
cách mới mẻ, độc đáo của sông Hương mà không chỉ ngắm nhìn bộ mặt kinh thành của nó. Trường
Sơn đã hun đúc cho “cô gái Digan” ấy một bản lĩnh gan góc lạ thường, tính cách mạnh mẽ, tâm hồn
trong sáng trẻ trung nhưng cũng rất hoang dại. Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ ấy, Hương giang dường
như vẫn giữ được nét duyên dáng của dòng sông khi Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành người họa sĩ
phối màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng với màu xanh mênh mang của rừng già, sông nước. Bằng cảm
quan thẩm Mỹ tinh tế, tác giả đã có những liên tưởng bất ngờ và thú vị khi biến sông Hương trở
thành một sinh thể có hồn,có cá tính, có cuộc sống riêng với dòng chảy hoang dại thu hút mọi ánh
nhìn.
Khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ. “với cuộc hành
trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông
hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá
dưới chân núi Kim Phụng”. Sông Hương giờ đây đã mang vẻ đẹp kinh thành mà người ta vẫn
thường thấy để phù hợp với xứ Huế. Từ cô gái Digan man dại, phóng khoáng nhà văn đã nâng tầm
139 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)
Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

cho sông Hương trở thành người mẹ của vùng văn hóa xứ sở đất đế đô. Một người mẹ từng trải, trí
tuệ, dịu dàng. Cái dịu dàng mà người ta thường mong sau những thác ghềnh, trí tuệ ở những con
người từng trải, bản lĩnh. Qua những hình ảnh so ánh, liên tưởng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tái
hiện thành công vẻ đẹp của sông Hương ở khúc thượng nguồn, đó là những phát hiện độc đáo và
đầy bất ngờ của tác giả. Bút kí cuốn hút người đọc ở sự việc lạ, tri thức mới và cách viết hay.
Thường người ta chỉ nghĩ đến sông Hương với vẻ đẹp dịu dàng, êm đềm nhưng có mấy ai biết rằng
“Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình trong dãy Trường Sơn hùng vĩ”. Rồi nhiều thế kỉ qua
đi, sông Hương như một người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng ở cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại
và đợi chờ người tình trong mộng của mình là xứ Huế đến để đánh thức. Trước khi trở thành người
tình chung thủy của cố đô, Sông hương đã trải qua một cuộc hành trình đầy thử thách trong cái nhìn
tinh tế, lãng mạn của nhà văn. Khi được Huế đánh thức, sông Hương bắt đầu cuộc hành trình của
mình, đó là một cuộc tìm kiếm có ý thức. Nó chuyển dòng đột ngột theo hướng Nam Bắc rồi sang
Tây Bắc, vòng giữa những khúc quanh đột ngột và uốn mình theo những đường cong thật mềm để
vẽ một cánh cung thật tròn rồi ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Ta bắt gặp ở đây hàng
loạt những động từ gợi cảm cùng với nghệ thuật kể kết hợp tả đã thể hiện vẻ đẹp duyên dáng của
sông Hương khi về Châu Thổ.
Ở ngoại vi của Thành phố Huế, sông Hương thay đổi tính cách của mình, nó uốn mình thành
những đường cong mà người ta thường thấy “dòng sông mềm như tấm lụa”, có khi lại trầm mặc, có
lúc lại xôn xao rạo rực. Phải là một con người gắn bó đến mức máu thịt và am tường sâu sắc, có
năng lực khám phá cái đẹp của sông Hương thì mới có được những câu văn độc đáo và cách so
sánh, ví von đầy trữ tình như thế. Sông Hương chảy qua những thành trì lăng tẩm của vua chúa thời
trước được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, sông Hương giờ đây mang một vẻ kiêu
hãnh, trầm mặc, vẻ đẹp sang trọng và đầy bí ẩn và chứa đựng vẻ kiêu hãnh của một vùng thượng
lưu .

140 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Dòng sông đã vượt qua bao gian truân, trắc trở cuối cùng cũng như một người đi xa tìm
đúng lối về, nó náo nức bồi hồi giữa quê hương, xứ sở, không còn vẻ băn khoăn, trầm mặc hay
kiếm tìm điều gì nữa. Giáp mặt thành phố ở Cồn Dã Viên, nó uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn
Hến làm cho “dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.”
So sánh là một thủ pháp nổi trội của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhưng ông luôn biết làm mới nó bằng
cách ví von với tiếng “vâng” của người con gái trong tình yêu còn bao e lệ, e ấp, đó là nét kín đáo,
dịu dàng trong giọng nói Huế ngọt ngào, thân thương. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có những phát
hiện mới mẻ từ những gì đặc trưng nhất của Sông Hương trong lòng xứ Huế. Cách diễn đạt hết sức
gợi cảm, tinh tế khi nhìn từ phía xa, cầu Tràng Tiền in bóng xuống dòng sông mà ngỡ như một
“vành trăng non”. Tác giả vừa vẽ lên dáng mềm mại, cong cong, thanh mảnh của cây cầu, vừa hòa
sắc lấp lánh của dòng sông trong không gian thơ mộng, êm đềm,
Cây cầu như một tín hiệu mà nhìn từ xa như đang vẫy gọi sông Hương hòa làm một cùng
Huế. Sông Hương là người con gái đang yêu gặp được người tình trong mộng của mình, đó là một
cuộc hội ngộ của tình yêu. Huế là một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông để che chở và gắn bó cho
“người con gái của mình”, còn sông Hương được chia ra làm nhiều nhánh, tỏa nước ra khắp các ngõ
ngách trong thành phố như ôm trọn lấy tình yêu của đời mình.
Con sông khi nằm trong Huế, vận tốc của dòng nước như giảm hẳn, “cơ hồ chỉ là một mặt
hồ yên tĩnh”. Tác giả gọi đó là “một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Càng yêu quý điệu
nhảy lặng lờ của dòng sông, tác giả càng muốn so sánh nó với những dòng sông lớn nổi tiếng trên
Thế giới như Sông Xen của Paris, Sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Le-nin-grat…chảy
băng băng như một chuyến tàu tốc hành. Nhà văn còn đưa vào đó chi tiết phong tục, lễ hội và biến
chúng thành hình tượng nghệ thuật. Để miêu tả dòng sông, ông mượn lại tư tưởng của nhà triết gia
người Hy Lạp Hê-ra-clit: “không ai tắm hai lần trên một dòng sông” để tô đậm vẻ đẹp lặng lờ của
nó mà có lần ta bắt gặp trong dòng sông của nhà thơ Thu Bồn:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Sông Hương đã đến lúc phải rời xa Huế để đổ ra biển nhưng nó bỗng “ngập ngừng như
muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Rời khỏi kinh
thành, con Sông chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng sương khói,
lưu luyến ra đi trên màu xanh mướt của thôn vườn Vĩ Dạ. Sông Hương đột ngột chuyển dòng để
gặp lại thành phố như muốn nói lời thề trước khi về với biển cả. Cảnh chia tay rất lạ và tự nhiên
nhưng rất giống với con người: Có cử chỉ bịn rịn, có tâm trạng lưu luyến, có địa điểm chia tay, có
lời thề tiễn biệt nhắn nhủ. Lối liên tưởng của tác giả hết sức độc đáo và được nhân hóa lãng mạn,
nhà văn cho rằng đó là nỗi vương vấn và một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Nó cứ chùng chình
như muốn nói lời thề với Huế, lời thể thủy chung, son sắc. Sông Hương ra đi trong cảm xúc bịn rịn,
như một người tình chung thủy, như nàng Kiều trong đêm Tự tình trở về tìm Kim Trọng nói lời thề:
“Còn non, còn nước, còn dài.” Vẻ đẹp ấy chính là vè đẹp thủy chung, đằm thắm của sông Hương. Ở
đây ta nhận ra ba thái độ chí tình: Chí tình của sông Hương với Huế, chí tình của người Huế trong
tình yêu và cuối cùng là tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương, xứ Huế. Nếu như

141 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

tách sông Hương ra khỏi xứ Huế, nó chỉ là một dòng chảy vô thức chảy trôi giữa đôi bờ. Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã thổi hồn vào sông Hương, gắn nó với cánh sắc Huế, con người Huế để rồi sông
Hương mang một cá tính riêng, phong phú và độc nhất : Có lúc như cô gái Digan phóng khoáng đầy
man dại, có lúc lại như người mẹ của vùng văn hóa xứ sở, hay lại là người thiếu nữ với vẻ đẹp nhẹ
nhàng, trầm lắng sâu sắc và kín đáo. Lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức nhưng lại
không phô trương
Dưới lăng kính sử thi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không quên tô đậm niềm vinh quang mà
sông Hương có được trong lịch sử lâu dài của dân tộc. Đó là dòng sông của những chiến công hiển
hách, của sử thi được viết dưới màu cỏ lá xanh biếc. Nó là bản trường ca ghi dấu những kỉ niệm
quang vinh, là chứng nhân lịch sử phải chịu nhiều những mất mát, hy sinh cùng với các thế hệ nhân
dân Huế. Từ hồi vua Hùng dựng nước cho đến khi Nguyễn Trãi viết “Dư địa chí”, dòng sông mang
tên Linh Giang - Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ Đại Việt. Đi qua thế kỉ trung đại, nó
vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân gắn với tên tuổi của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Nó
bầm da tím máu, sống hết lịch sử đau thương, bi tráng của thế kỉ 19 với máu của những cuộc khởi
nghĩa. Sông Hương đi vào thời đại Cách Mạng tháng 8 với chiến công rung chuyển như tiếng trống
của cuộc khởi nghĩa Mậu Thân 1968. Nó oằn mình lên để hứng chịu những trận bom dội của không
quân Hoa Kì tàn phá những di sản của cố đô. Suy cho cùng, sông Hương là dòng sông của thời gian
ngân vang, là biểu tượng của bề dày văn hóa Huế, là tình yêu bất tận của Hoàng Phủ Ngọc Tường-
Một nhà văn đã có hơn 40 năm gắn bó với nơi đây.
Trong cái nhìn đa diện và nhiều chiều của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên
với vẻ đẹp có sức hấp dẫn mê hồn bởi nó gắn liền với phong tục tập quán ở xứ Huế. Nhà văn dường
như thấm thía rằng, tất cả mọi thứ rồi cũng sẽ bị lãng quên, chỉ có văn hóa là tồn tại mãi mãi. Nhà
văn đã từng tâm sự “Sông Hương là nỗi hoài vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới” ý chính bởi
điều đó ông khao khát khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương bằng cả tâm hồn mình. Từ góc
nhìn văn hóa, nhà văn đã gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế. Từ trong khoảnh khắc trùng lại
của sông nước, nhà văn liên tưởng đến hình ảnh người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya để thấy được
đây là nơi sinh thành ra nền âm nhạc kinh thành Huế, là cái nôi của nền âm nhạc truyền thống. Đây
là so sánh rất lạ và độc đáo nhưng vô cùng chính xác, nó thể hiện cái nhìn đồng nhất hóa, nâng sông
Hương lên trở thành cái đích thực của tâm hồn. Lắng nghe âm thanh của dòng sông mà thấy được
những thổn thức của cha ông, đó là đại thi hào Nguyễn Du: “Bao năm lênh đênh trên quãng sông
này với một phiến trăng sầu và từ đó là những bản đàn đi suốt cuộc đời Kiều”. Không phải ngẫu
nhiên trong bài kí mà tác giả nhiều lần nhắc đến Truyện Kiều khi nói đến sông Hương. Đối với
người Việt Nam, Truyện kiều là một kiệt tác đại thành của dân tộc, và trong truyện Kiều luôn soi
bóng hình ảnh của dòng sông Hương. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận dòng sông âm
nhạc ở nhiều không gian, thời gian và địa điểm bằng sự quan sát và vốn kiến thức uyên bác. Ông đã
làm sống dậy mảnh đất của nhã nhạc cung đình Huế từ giai điệu âm vang của Hương giang, tới
những bản nhạc nổi tiếng như “Tứ đại cảnh”
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”

142 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã không quên khắc họa một Hương giang với sức mạnh
trong thi ca kì diệu. Ta dễ dàng nhận thấy sông Hương không tự lặp lại mình trong cảm hứng của
những người nghệ sĩ vì nó là nguồn cảm hứng bất tận để bao thế hệ lãng tử chìm mình vào sông
Hương. Trong đôi mắt của Tản Đà, sông Hương xanh biếc chuyển thành “dòng sông trắng, lá cây
xanh”. Là dòng sông Trăng của Hàn Mặc Tử, và từ một Linh giang đang mơ màng với bóng hoàng
hôn bảng lảng trong nỗi quan hoài vạn cổ của Bà Huyện Thanh Quan. Dòng sông còn trở thành
“thanh kiếm dựng trời xanh” trong những lời thơ hào hùng của Cao Bá Quát. Rồi nó trở thành sức
mạnh phục sinh trong tầm hồn của những người con gái trong thơ ca của Tố Hữu. Ta nhận thấy
sông Hương được thể hiện qua nhiều góc độ khác nhau mang vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ nhờ cách
viết tài hoa và đầy mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã thể hiện được vẻ đẹp của sông Hương từ cảnh sắc thiên
nhiên cho đến bề dày lịch sử, văn hóa và tâm hồn con người vùng đất cố đô. Qua đó tác giả ca ngợi
dòng sông Hương và bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng với xứ Huế. Nó gợi lên trong lòng người đọc
tình yêu quê hương xứ sở và niềm khao khát khám phá những vùng đất mới lạ. Tác phẩm được viết
dưới dạng bút kí, thiên về thể loại tùy bút đã thể hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật trong lối viết
kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cách viết của ông tài hoa, phong phú bởi những liên tưởng ẩn dụ,
so sánh, nhân hóa bất ngờ và thú vị. Ông đã dệt nên những trang văn đẹp bởi kho từ vựng phong
phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, kết hợp linh hoạt giữa kể và tả làm nổi bật vẻ đẹp của Hương
giang, vẻ đẹp riêng của xứ Huế.
Sông Hương cứ lặng lờ và tình tự như thế đi vào những tác phẩm nghệ thuật, đi vào lòng
người. Đọc tác phẩm xong, chắc hẵn những ai chưa từng một lần đến với Huế mộng mơ thì hình
ảnh dòng Hương giang vẫn sẽ in đậm trong tâm trí. Bằng ngòi bút đầy tinh tế và một tình yêu Huế
dạt dào, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã để lại một ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc về dòng
sông Hương, về Huế. Đất nước ta vẫn luôn có những cảnh đẹp, danh lam thắng cảnh nổi tiếng làm
thổn thức biết bao trái tim. Chúng ta hãy cùng nhau gìn giữ và tự hào về cảnh sắc thiên nhiên của
đất nước mình, hãy tự hào là người con đất Việt!

143 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

PHẦN 2: TỔNG HỢP KIẾN THỨC ĐỌC HIỂU

144 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683
Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)Số 8 Ngõ 17 Tạ Quang Bửu

145 Facebook: Phạm Minh Nhật (anh tũn dạy văn)


Fanpage: Lớp văn thầy Nhật chuyên ôn thi ĐH 11,12 | Hotline: 037 255 0683

You might also like