You are on page 1of 46

NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9

Chuyên đề 1:
LỚP 9A8 - LQĐ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
BÀI 1.CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
Nguyễn Dữ
I/KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1/Tác giả:
- Vị trí: được đánh giá là nhà văn đầu tiên biết quan tâm đến người phụ nữ (Vũ Khâm
Lân).
- Nguyễn Dữ (không rõ năm sinh, năm mất) sống vào thế kỉ 16 (giai đoạn phong kiến lâm
vào cảnh loạn li suy yếu với nhiều cuộc chiến tranh pk loạn lạc liên miên ). Quê quán: Thanh
Miện, Hải Dương.
-GĐ: sinh ra trong một gđ gốc nho, từng thi đỗ làm quan rồi cáo quan về ở ẩn.
- Ông là học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu Tử - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vì thời cuộc,
ông làm quan một năm rồi từ quan, ở ẩn tại Thanh Hoá.Ông là một ẩn sĩ tiêu biểu, một nhà nho
luôn sống thanh cao trọn đời.Người đặt nền móng cho văn chương tự sự nước nhà.
- ND sáng tác:
+ Phản ánh chân thực bức tranh XHPK VN đương thời
+Mang giá trị hiện thực sâu sắc
2/Tác phẩm:
a/Hoàn cảnh sáng tác:
- Vào thế kỉ 16: chế độ phong kiến đang suy vong, bất công, tàn bạo, gây nhiều đau khố
chomọi người, nhất là người phụ nữ.
- Tác giả mượn yếu tố hoang đường để phản ánh văn đề của hiện thực, dựa vào cơ sở một
truyện cổ tích thêm nội dung mang yếu tố thời đại.
b/ Xuất xứ:“Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong số 20 truyện
trong“Truyền kỳ mạn lục”.Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian trong kho tàng cổ
tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”.
c/ Thể loại:Truyện truyền kỳ.
- Xuất xứ: từ TQ, thời kì Minh Thanh
-Có yếu tố kì ảo, hoang đường
- NV chủ yếu: tri thức nghèo, người phụ nữ
- Chủ yếu viết bằng chữ Hán.
d/ Chủ đề:
- Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con
gái Nam Xương” thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ
đẹp truyền thống của những phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.

Văn học là nhân học Trang 1


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
đ/ Tóm tắt: (về nhà làm)
Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) là người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh.Chồng nàng là Trương Sinh
phải đi lính sau khi cưới ít lâu. Nàng ở nhà, một mình vừa nuôi con nhỏ vừa chăm sóc mẹ
chồng đau ốm rồi làm ma chu đáo khi bà mất. Trương Sinh trở về, nghe lời con, nghi vợ thất
tiết nên đánh đuổi đi.Vũ Nương uất ức gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, được thần
Rùa Linh Phi và các tiên nữ cứu.Sau đó Trương Sinh mới biết vợ bị oan.ít lâu sau, Vũ
Nương gặp Phan Lang, người cùng làng chết đuối được Linh Phi cựu. Khi Lang trở về, Vũ
Nương nhờ gửi chiếc hoa vàng nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh
nghe theo, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ lời tạ từ rồi biến mất.
e/Bố cục: 3 đoạn
- Đoạn 1:...của mình: Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến
tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
- Đoạn 2: ...qua rồi: Nỗi oan khuất và cái chết bi thảmcủa Vũ Nương.
- Đoạn 3: Còn lại: Cuộc gặp gỡ giữa Vũ Nương và Phan Lang trong động Linh Phi. Vũ
Nương được giải oan.
f/Nhan đề:
- Truyền kì mạn lục: (ghi chép tản mạn những truyện lạ được lưu truyền trong dân gian) là
một tác phẩm văn xuôi tự sự, viết bằng chữ Hán. Tác phẩm được coi là áng “thiên cổ kì bút”
(áng văn hay của ngàn đời). - (Đề thi vào lớp 10 năm 2007-2008)
- Tác phẩm có 20 truyện ngắn. Đề tài phong phú.Chuyện người con gái Nam Xương:
truyện thứ 16/20 truyện. Tác phẩm có nguồn gốc từ câu chuyện cổ tích Việt Nam “Vợ chàng
Trương”.
g/Ngôi kể:ngôi thứ 3 (người kể bao quát toàn bộ câu chuyện, tạo tính khách quan cho câu
chuyện được kể)
h/Phương thức biểu đạt: Tự sự + biểu cảm.
i/Khái quát nội dung và nghệ thuật:
*Giá trị hiện thực:
- Phản ánh hiện thực XHPK bất công với chế độ nam quyền, chà đạp lên số phận người
phụ nữ
- Phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận người phụ nữ: chịu nhiều oan khuất và
bế tắc.
- Phản ánh XHPK với những cuộc chiến tranh phi nghĩa liên miên, làm cho cuộc sống của
người dân rơi vào bế tắc.
*Giá trị nhân đạo:
- Ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua nhân vật Vũ Nương.
- Thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ và ước mơ, khát
vọng về 1 cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho họ
- Gián tiếp lên án, tố cáo XHPK bất công:

Văn học là nhân học Trang 2


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
*Giá trị nghệ thuật:
- Nghệ thuật dựng truyện: kịch tính, hấp dẫn và sinh động.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được khắc hoạ tâm lí và tính cách thông qua lời
nói (đối thoại) và lời tự bạch (độc thoại).
- Sử dụng yếu tố truyền kì (kì ảo) làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Kết hợp các Phương thức biểu đạt: tự sư và biểu cảm làm nên 1 áng văn xuôi tự sự
còn sống mãi với thời gian.
II/ PHÂN TÍCH:
1. Nhân vật Vũ Nương
1.1. Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương: Vũ Nương được miêu tả với nhiều phẩm chất tốt
đẹp
a. Lời giới thiệu chung:
- Ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Dữ đã sử dụng cách giới thiệu trực tiếp theo mô típ quen
thuộc của truyện truyền kì để vẽ ra bức chân dung về Vũ Nương: Vũ Thị Thiết, người con gái
quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp.
- Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liệt kê, khẳng định vẻ đẹp lí tưởng của người con gái với
“tính thùy mị, nết na” (tức là lối sống ôn hòa, nhân hậu, bao dung), “tư dung tốt đẹp” (tức là
dung nhan mặn mà, đằm thắm”. Hai chữ “lại, thêm” như càng khẳng định, nhấn mạnh vẻ đẹp
của nàng. Qua đây, ta thấy hiện lên một người con gái xinh đẹp, phẩm hạnh, thể hiện tình cảm
yêu mến của tác giả với nhân vật ngay từ đầu tác phẩm.
b. Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng, khát khao hạnh phúc gia đình.
* Trong cuộc sống hôn nhân, khi mới về nhà chồng:
- Vũ Nương hiểu Trương Sinh có tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, biết chăm lo
vun vén hạnh phúc gia đình nên cuộc sống vợ chồng chưa từng xảy ra bất hoà.
- D/ch: “Song Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ
gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phái đến thất hòa.”
- Cụm từ “không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.” như mang tính tuyệt đối,
Nguyễn Dữ khẳng định dẫu vợ chồng có như đôi đũa lệch thì Vũ Nương vẫn hướng đến sự
hoàn hảo.
* Khi Trương Sinh đi lính:
- Khi TS đi lính, VN rút chén rượu đầy, khắc bầu tâm sự: “Chàng đi chuyến này, thiếp
chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo
được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.”
+ Bằng ngôn ngữ độc thoại, ND để Vn chút bầu tâm sự với chồng. Trong câu nói của nàng
đặt ra hai vế: Vế đầu nhắc tới hình ảnh “áo gấm phong hầu”. Đây là thước đo công danh sự
nghiệp đối với người nam nhi xưa. “Áo gấm” là vinh hoa phú quý, “phong hầu” là công thành
danh toại. Với bất cứ ai làm vợ cũng đều mong muốn chồng mình vinh quy bái tổ, nhưng với
VN, nàng phủ định điều đó để khẳng định vế thứ hai: Bình yên. Phải chẳng với VN, “bình yên”

Văn học là nhân học Trang 3


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
là được bảo toàn tính mạng để trở về, vợ chồng được sum vầy trong hạnh phúc giản đơn.
+ Nàng thấu hiểu cho chồng, thấu hiểu công việc nơi chiến trận chẳng thể biết trước như
thế nào, thương chồng nơi biên ải xa xôi cơ cực: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.
Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì,
khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành xu, lại sửa soạn áo rét, gửi
người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú!”
➔ Qua câu nói ấy, ta thấy được nàng rất mực yêu chồng, hiểu chồng, không màng
danh lợi, chỉ mong hạnh phúc gia đình đơn sơ bình dị. Lời nói của nàng thật khiến lòng người
xúc động, khiến “mọi người đều

- Trong thời gian chồng đi lính, Vn là người vợ hết mực thủy chung.
+ ND đã sd thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình kết hợp hình ảnh ước lệ tượng trưng để
khắc họa nỗi nhớ da diết của VN.
+ D/ch: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây
che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”
+ Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” gợi mùa xuân tươi thắm rực rỡ sắc màu; “mây che kín
núi” gợi mùa đông ảm đạm nhưng sự vật quấn quýt giao hòa. Trạng ngữ thời gian “mỗi khi”
miêu tả thời gian mang tính tuần hoàn lặp đi lặp lại, năm này qua năm khác nàng mòn mỏi chời
chồng.
+ Hình ảnh “góc bể chân trời” gợi không gian xa cách nghìn trùng. Chỉ một câu văn, người
đọc đã nhận ra nỗi buồn và nỗi nhớ chồng của biết bao người phụ nữ trong XHPK khi chiến
tranh phi nghĩa kéo dài liên miên.
MR: + Ta vẫn còn nhớ những câu thơ đầy cảm động trong “Chinh phụ ngân khúc”
của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm:
“Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
* Khi chồng đi lính trở về:
- Bị chồng nghi oan là thất tiết, Vũ Nương hết lời phân trần, tìm cách thanh minh mong
hàn gắn hạnh phúc gia đình. Hai lời thoại nói với chồng thể hiện rõ khao khát hàn gắn, cứu vãn
hạnh phúc gia đình của nàng.
- Lời thoại 1: nàng cầu xin Trương Sinh không nghi ngờ danh tiết của mình.
Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh.Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi
lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như chàng nói. Dám xin
bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
-> trong lời thoại này, Vũ Nương ý thức được thân phận vốn con kẻ khó kém mau mắn
được hưởng bổng lộc nhà giàu nhưng cũng trải qua không ít khó khăn để giữ gìn tổ ấm. Nàng
Văn học là nhân học Trang 4
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
đã kể ra những lí do vừa khách quan, vừa chủ quan để thuyết phục Trương Sinh, cùng cách
xưng hô “thiếp” – “Chàng” nhẹ nhàng, khéo léo. Lời cầu xin của VN là lời khẩn thiết chân
thành không phải để nói nàng là người có lỗi để thấy được Vũ Nương rất thông minh, luôn khao
khát hạnh phúc gia đình.
- Lời thoại 2: Vũ Nương dường như chỉ còn nỗi tuyệt vọng đau đớn:
Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm
gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống,
kêu xuân cái én lìa đàn, nước thảm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
➔ 5 thành ngữ liên tiếp: bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu
tàn trước gió kết hợp tích “núi Vọng Phu” như khẳng định tình cảm thủy chung son sắt của Vũ
Nương dành cho chồng. Không chỉ vậy, đây còn là nỗi đau tuyệt vọng khi mất đi hạnh phúc lứa
đôi. Qua đây ta cũng thấy được tấm lòng cảm thông của Nguyễn Dữ với thân phận người phụ
nữ trong xã hội xưa.
* Khi sống ở thuỷ cung: nàng vẫn nặng tình với quê hương, với chồng con. Trong cuộc
trò chuyện với Phan Lang, khi nghe Phan Lang nhắc tới quê hương, chồng con, thì nằng ứa hai
hàng lệ.
c. Vũ Nương là người mẹ thương con, người con dâu hiếu thảo.
* Nàng là một người mẹ hết mực yêu thương con
- Trong vai trò của người mẹ, Vũ Nương không được kể nhiều về những ngày tháng nuôi
bé Đản gian truân, vất vả. Nhưng qua hoàn cảnh “Bấy giờ, nàng đương có mang, sau khi xa
chàng vừa đầy tuần thi sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Đản”, ta thấy được nàng đã một mình
sinh con, yêu thương và chăm sóc con khi xa chồng.
- Đặc biệt, chi tiết hàng đêm, Vũ Nương trỏ bóng mình chỉ đó là cha Đản, vui chơi với
Đản, khỏa lấp đi nỗi thiếu vắng tình yêu thương. Nàng vừa là người mẹ tâm lí, yêu con, vừa có
trách nhiệm. Vũ Nương hiểu được đứa trẻ ngây thơ như Đản đâu phân biệt được thật giả nhưng
nàng hiểu những thiệt thòi của con. Thương con mà VN trở nên cao cả, vừa làm tròn trách
nhiệm của người mẹ nhưng lại gánh vác trọng trách của người cha.
* VN là người con dâu hiếu thảo:
- Nàng thay chồng chăm sóc mẹ những ngày chồng đi lính xa nhà.
- Khi mẹ chồng ốm, “nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn
khéo khuyên lơn”. Một câu văn ngắn chia làm 3 vế với cấu trúc song hành khẳng định tất cả
những cố gắng của Vũ Nương mong sao cứa chữa cho mẹ chồng. Ban đầu là lo lắng về vật chất
thuốc thang, sau đó là cúng bái tâm linh và động viên tinh thần mẹ. Những hành động này đâu
chỉ là trách nhiệm mà nó còn là cả tấm lòng chân thành. Nó xóa đi khoảng cách mẹ chồng nàng
dâu như một cuộc chiến không dứt trong xã hội.
- Khi mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo việc ma chay như đối với cha mẹ đẻ. Lời
của mẹ chồng trước lúc mất đã khẳng định tấm lòng hiếu thảo hết mức của Vũ Nương: “Sau
này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia
Văn học là nhân học Trang 5
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.” Nguyễn Dữ đã rất khéo léo đặt lời khen
khách quan từ phía mẹ chồng dành cho VN, rõ ràng lời khen ấy có trọng lượng nghìn vàng hơn
mọi lời khen trước đó. Chính từ câu nói ấy mà người đọc hi vọng vào một tương lai tốt đẹp đến
với nàng.
d.Vũ Nương là người phụ nữ trọng nhân phẩm, sống tình nghĩa và giàu lòng vị tha:
- Vũ Nương đã chọn cái chết để tự minh oan cho mình, để bảo vệ nhân phẩm của người
phụ nữ.
- Dù nhớ thương quê hứơng da diết, nàng vẫn giữ lời hứa với Linh Phi → coi trọng tình
nghĩa.
- Khi hiện về trong lễ lập đàn giải oan, Vũ Nương không một lời trách cứ Trương Sinh mà
chỉ là những lời dặn dò, tiễn biệt.
➢ Vũ Nương quả là ngưòi phụ nữ hoàn hảo, mang trong mình nét đẹp truyền thống lí
tưởng của người phụ nữ VN ở cả ba cương vị: người vợ, người mẹ, người con.
➢ Thể hiện thái độ ngợi ca của tác giả.
1.2. Vũ Nương phải chịu nhiều nỗi bất hạnh
a. Nàng phải chịu nỗi oan khuất:
- Sau ba năm mòn mỏi chờ mong cuối cùng Vũ Nương cũng được đón chồng trở về với hai
chữ bình yên như ước nguyện của nàng thủa tiễn chồng ra đi. Nhưng tưởng hạnh phúc sẽ mỉn
cười với nàng. Nhưng oái oăm thay cho cuộc đời số phận Vũ Nương: ngày sum họp cũng là
ngày nàng phải gánh chịu nỗi oan khuất, bị chồng nghi ngờ là thất tiết:
+ Nàng nhẫn nhục nhắc đến thân phận mình, đến tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm
lòng trong trắng thủy chung, cầu mong chồng đừng nghi oan nhưng cũng không hàn gắn được
hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
+Nàng thất vọng khi bị đối xử tàn nhẫn, bất công, không có quyền tự bảo vệ mình. Ước
mong duy nhất của nàng là “thú vui nghi gia nghi thất“ nhưng giờ đây hạnh phúc đã tan vỡ,
tình cảm thủy chung dành cho chồng bị phủ nhận, cả nỗi nhớ chồng mà hóa đá trước đây cũng
không còn. Cuộc sống với người phụ nữ khao khát yêu thương ấy chẳng còn ý nghĩa gì nữa.
- Bi kịch bị nghi oan của Vũ Nương là nỗi đau đớn mất đi lòng tự trọng, danh dự và nhân
phẩm. Nỗi oan ấy được tạo ra bởi thói ghen tuông vô lối, thói gia trưởng, ích kỉ của Trương
Sinh.
b. Bi kịch tận cùng khi nàng lựa chọn cái chết
- Tác giả miêu tả cái chết của Vũ Nương như một điều tất yếu để chứng minh cho tấm lòng
trinh bạch của nàng. Trong lời thoại thứ ba, nàng nói chuyện với trời như đang độc thoại với
mình.
Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay tiếng buộc, tiếng
chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trình
bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng
lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều

Văn học là nhân học Trang 6


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
quạ, và xin hciuj khắp mọi người phỉ nhổ.
-> trong lời nói ấy, nàng nhắc tới điển tích cỏ Ngu mĩ muốn nói đến tấm lòng trinh bạch,
thủy chung son sắt của người con gái kết hợp điển tích Ngọc Mị Nương như ca ngợi vẻ đẹp
phẩm chất của Vũ Nương.
- Nỗi oan khuất của Vũ Nương có rất nhiều nguyên nhân:
+ Nguyên nhân trực tiếp:
• Lòng thương con và nỗi nhớ chồng tạo ra trò chơi cái bóng
• Lời nói ngây thơ của Đản đẩy Vũ Nương vào oan khiên
+ Nguyên nhân gián tiếp:
• Do thói ghen tuông, tích kỉ, hồ đồ, gia trưởng của Trương Sinh, kiên quyết không lắng
nghe Vũ Nương giải thích
• Do xã hội nam quyền vừa sản sinh vừa nuôi dưỡng thói gia trưởng để nó có có cơ hội
phát triển đè nén người phụ nữ
• Do chiến tranh phi nghĩa – cuộc chiến giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên
khiến cha xa con, vợ lìa chồng. Giá như Trương Sinh đừng đi lính thì gia đình ấy vẫn vẹn toàn,
hạnh phúc.
• Khi Trương Sinh đi lính trở vê, tâm trạng có phần nặng nề không vui, lại gặp tình
huống bất ngờ: Đó là lời nói của đứa trẻ thơ ngây chứa đầy những sự kiện bất ngờ.
• Do xuất phát điểm của cuộc hôn nhân không bình đẳng không có tình yêu trong
xã hội phân biệt giai cấp giàu nghèo khiến Vũ Nương không có quyền được nói, được hưởng
hạnh phúc. (TS con nhà hào phú, vì mến dung hạnh VN nên xin mẹ trăm lạng vàng cưới về)
• Bi kịch hơn nữa là cái chết của Vũ Nương không làm cho Trương Sinh tỉnh ngộ
để tin nàng trong sạch. Chàng vẫn giận nàng thất tiết và chỉ “động lòng thương”.
- Ý nghĩa cái chết của Vũ Nương:
+ Khẳng định tấm lòng trinh bạch của Vũ Nương.
+ Tố cáo xã hội nam quyền – xã hội bất công, tàn bạo, không có con người được hưởng
quyền hạnh phúc.
+ Thể hiện tấm lòng đồng cảm của Vũ Nương với người phụ nữ trong xã hội xưa.
 Bi kịch của Vũ Nương tiêu biểu cho số phận của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. MR:Chính vì thế mà Nguyễn Du từng khái quát:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

2. Nhân vật Trương Sinh:


- Xuất thân: Trương Sinh là con nhà hào phú nhưng không có học.
- Trương Sinh lấy Vũ Nương không phải vì tình yêu mà chỉ là “mến dung hạnh, xin với mẹ
đem trăm lạng vàng cưới về”. Cuộc hôn nhân giữa chàng và Vũ Nương vốn đã không bình

Văn học là nhân học Trang 7


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
đẳng, lại thêm sự cách bức giàu nghèo: Vũ Nương con nhà kẻ khó lấy Trương Sinh là được
nương tựa nhà giàu.
- Trong đời sống vợ chồng hàng ngày, Trương Sinh là người chồng “có tính đa nghi, hay
ghen, đối với vợ phòng ngừa quá sức”.
- Trước khi Trương Sinh đi lính, chàng quỳ xuống đất vâng lời mẹ dạy, không chủ động
dặn vợ mà lắng nghe vợ dặn.
- Hết chiến tranh, Trương Sinh trở về mang tâm trạng nặng nề khi mẹ đã mất. Trong hoàn
cảnh như thế, lời nói ngây thơ đã kích động tính ghen tuông của chàng.
+Cách xử sự của Trương Sinh hồ đồ và độc đoán. Không cần hỏi với vợ nửa lời, vừa về
đến nhà, chàng đã “la um lên cho hả giận“. Chàng không đủ bản lĩnh để phán đoán, phân tích,
bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng,
cũng nhất quyết không nói ra duyên cớ để cho vợ có cơ hội minh oan. Nút thắt ngày một chặt,
kịch tính ngày một cao. Trương Sinh trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo “mắng nhiếc nàng và
đánh đuổi đi” dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Đáng giận hơn, cái chết của Vũ
Nương vẫn không thể làm cho Trương Sinh tỉnh ngộ để tin nàng trong sạch. Chàng vẫn “ giận
là nàng thất tiết“ và chỉ động lòng thương.
- Sau khi Vũ Nương tự vẫn, trong đêm, phòng không vắng vẻ, ngồi với con bên ngọn đèn,
đứa bé trỏ bóng Trương Sinh trên tường nói đó là cha Đản lại đến, Trương Sinh mới hiểu nỗi
oan của vợ mình phải chịu.
- Nhờ Phan Lang, Trương Sinh có cơ hội giải oan cho vợ nhưng kết cục vợ chàng vẫn
không thể quay trở về nữa và chàng phải mãi sống trong sự ân hận.
=>Trương Sinh là điển hình cho quyền lực và tính cách của người chồng trong chế độ
phong kiến nam quyền là gia trưởng, độc đoán, coi thường nhân phẩm thậm chí coi thường
mạng sống của vợ. Chàng là con đẻ của chế độ nam quyền bất công, thiếu lòng tin và thiếu tình
thương ngay cả với người thân yêu nhất.

3. Những yếu tố kì ảo:


3.1. Các yếu tố kỳ ảo trong truyện:
+ Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
+ Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp, gặp lại Vũ Nương,
được sứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
+ Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo rồi
lại biến đi mất.
3.2. Ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo:
+Làm nên đặc trưng của thể loại truyện truyền kì và làm câu chuyện thêm sâu sắc, hấp
dẫn.

Văn học là nhân học Trang 8


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
+ Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương: Nặng tình, nặng nghĩa,
quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, thương nhớ quê nhà và nàng vẫn khao khát được
phục hồi danh dự.
+ Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện:Vũ Nương đã được sống một
cuộc sống khác, ở một thế giới khác, giàu sang, được tôn trong, được yêu thương.
+ Thể hiện ước mơ về lẽ công bằng ở đời của nhân dân ta: ở hiền gặp lành, cái thiện bao
giờ cũng chiến thắng cái ác.
+ Chi tiết Vũ Nương trở về trong chốc lát chỉ là một ảo ảnh, một phút an ủi cho người bạc
mệnh chứ không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện: Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách ở
giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia lìa đôi ngả. Vợ chồng không thể nào hàn
gắn, Trương Sinh vĩnh viễn sống trong sự cô đơn và ân hận, bé Đản vĩnh viễn sống thiếu tình
cảm của mẹ. Vũ Nương không trở về trần gian được nữa. Qua những chi tiết này, truyện còn
cho thấy nỗi oan của người phụ nữ không một đàn tràng nào giải nổi. Sự hối hận muộn màng
của Trương Sinh, đàn cầu siêu của tôn giáo đều không cứu vãn được cuộc đời của người phụ
nữ. Lời từ biệt của Vũ Nương như một lời tố cáo xã hội phong kiến đầy oan nghiệt, khổ đau,
không chốn dung thân cho người phụ nữ. Điều đó thể hiện sự tỉnh táo trong cảm quan hiện thực
của Nguyễn Dữ và niềm thương cảm của tác giả với cuộc đời của những người phụ nữ trong xã
hội phong kiến.
3.3. Cách đưa các chi tiết kì ảo:
- Các yếu tố kì ảo được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực về địa danh (bến đò Hoàng
Giang, ải Chi Lăng), về thời điểm lịch sử (cuối đời Khai Đại nhà Hồ), nhân vật lịch sử (Trần
Thiêm Bình), sự kiện lịch sử (quân Minh xâm lược nước ta), về trang phục của các mĩ nhân, về
tình cảnh nhà Vũ Nương không người chăm sóc sau khi nàng mất...
- Cách thức này làm cho thế giới kì ảo trở nên lung linh, mơ hồ trở nên gần gũi với cuộc
đời thực, làm tăng độ tin cậy cho người đọc.
4. Chi tiết chiếc bóng:
- Chi tiết chiếc bóng có ý nghĩa đặc biệt vì nó tạo nên cách thắt nút, mở nút hết sức bất ngờ
và sự hấp dẫn cho câu chuyện:
*Thắt nút:
+ Với Vũ Nương: Trong những ngày xa chồng, nàng thường chỉ chiếc bóng của mình nói
là cha Đản. Cái bóng là biểu hiện của tình yêu thương của Vũ Nương với con, không muốn con
thiếu vắng hình bóng người cha.Đồng thời cái bóng còn thể hiện lòng chung thuỷ của nàng,
giúp nàng nguôi đi nỗi nhớ chồng trong thời gian chồng xa nhà.
+ Với bé Đản: Cái bóng chính là người cha đêm nào cũng về, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản
ngồi cũng ngồi nhưng nín thin thít và không bao giờ bế nó.

Văn học là nhân học Trang 9


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
+ Với Trương Sinh: Cái bóng qua lời nói ngây thơ của bé Đản đã làm Trương Sinh nảy
sinh mối nghi ngờ với Vũ Nương khiến nàng không thể minh oan và gieo mình xuống dòng
Hoàng Giang tự vẫn. Cái bóng trở thành nguyên nhân trực tiếp của nỗi oan khuất , cái chết bi
thảm của nhân vật Vũ Nương.
* Mở nút:
+ Nhờ cái bóng trên tường mà bé Đản trỏ vào và nói ”cha Đản lại vê kia kìa” khiến
Trương Sinh hiểu được nỗi oan của vợ, hóa giải toàn bộ nghi ngờ và nỗi oan ức cho Vũ Nương.
- Cái bóng làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức và tố cáo XHPK nam quyền đầy
bất công với người phụ nữ thêm phần sâu sắc.
Qua chi tiết cái bóng, tác giả muốn nói: trong XHPK thân phận người phụ nữ mong manh
và rẻ rúng chẳng khác nào cái bóng trên tường.

B. BÀI TẬP
Bài số 1: Trong Chuyện người con gái Nam Xương , chi tiết chiếc bóng có ý nghĩa gì trong
cách kể chuyện. Hãy viết 1 đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về chi tiết này.
Bài số 2: Chuyện người con gái Nam Xương có nhiều yếu tố kì ảo. Hãy chỉ ra những yếu
tố kì ảo trong truyện và cho biết tác giả muốn thể hiện điều gì qua các yếu tố kì ảo đó.
Bài số 3: Suy nghĩ của em về cái chết của Vũ Nương.
Bài số 4. Vẽ sơ đồ mindmap nhân vật Vũ Nương. Học thuộc dẫn chứng.
Bài số 5. Hãy tóm tắt ngắn gọn tác phẩm theo bảng sau:
Hoàn cảnh Sự kiện

Văn học là nhân học Trang 10


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9

Bài số 7. Hoàn thành bảng thống kê sau:


Tác Thể Hoàn cảnh sáng Nội dung Nghệ thuật
giả loại tác

Văn học là nhân học Trang 11


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
BÀI 2. HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
A. KIẾN THỨC
I. VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1.Tác giả:
- Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, Hà Nội.
- Dòng họ nổi tiếng với truyền thống nghiên cứu, sáng tác văn chương. Gồm nhiều tác giả: Ngổ
Thì Chí, Ngô Thì Du, Ngo Thì Nhậm ...
- Hai tác giả chính:
+Ngô Thì Chí (1753-1788), em ruột Ngô Thì Nhậm, làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống, tuyệt
đối trung thành với nhà Lê, từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm
ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Dâng “Trung hưng sách” bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó,
được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong lập nghĩa binh chống lại
Tây Sơn. Trên đường đi, ông bị bệnh mất tại Bắc Ninh. Nhiều tài liệu nói, ông viết 7 hồi đầu
của tác phẩm.
+Ngô Thì Du (1772-1840) anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí, học giỏi nhưng không đỗ đạt.
Dưới triều Tây Sơn, ông sống ẩn ở Hà Nam.Thời nhà Nguyễn ông làm quan đến năm 1827 thì
về nghỉ. Ông là tác giả của 7 hồi tiếp theo.
- Ba hồi cuối có thể do 1 người khác viết đầu thời Nguyễn.
2. Tác phẩm
- "Chí"là thể văn ghi chép sự vật, sự việc.
- Trong văn học Việt Nam thời trung đại, "Hoàng lê nhất thống chí" là một tác phẩm văn xuôi
chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc cả về nội dung cũng như
nghệ thuật.
- Với nội dung viết về những sự kiện lịch sử diễn ra trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ
XVIII - đầu THẾ kỉ XIX ( cuối Lê đầu Nguyễn),tác phẩm chịu ảnh hưởng lối viết tiểu thuyết
chương hồi của Trung Quốc cũng như quan niệm văn sử bất phân - nét đặc thù của văn học
trung đại Việt Nam.
- Nếu xét về tính chân thực lịch sử, tác phẩm có thể được xếp vào loại kí sự lịch sử. Nhưng xét
về hình thức kết cấu, nghệ thuật khắc họa nhân vật, Cách miêu tả, tự sự... thì tác phẩm lại mang
đậm chất tiểu thuyết.Có lẽ vìthế mà "Hoàng Lê nhất thống chí" được xếp vào loại tiểu thuyết
lịch sử.
- Tác phẩm gồm có tất cả 17 hồi, trên đây trích phần lớn hồi thứ mười bốn, viết về sự kiện vua
Quang Trung đại phá quân Thanh.
2.Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh sáng tác:
- Tác phẩm ra đời trong giai đoạn đầy biến động của xã hội VN khoảng cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ
19. Chế độ phong kiến VN khủng hoảng trầm trọng, phong trào nông dân nổ ra khắp nơi tiêu
biểu là phong trào Tây Sơn.
- Trong văn học Việt Nam thời trung đại, "Hoàng lê nhất thống chí" là một tác phẩm văn xuôi
chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc cả về nội dung cũng như
nghệ thuật.

Văn học là nhân học Trang 12


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
- Với nội dung viết về những sự kiện lịch sử diễn ra trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ
XVIII - đầu THẾ kỉ XIX ( cuối Lê đầu Nguyễn),tác phẩm chịu ảnh hưởng lối viết tiểu thuyết
chương hồi của Trung Quốc cũng như quan niệm văn sử bất phân - nét đặc thù của văn học
trung đại Việt Nam.
- Nếu xét về tính chân thực lịch sử, tác phẩm có thể được xếp vào loại kí sự lịch sử. Nhưng xét
về hình thức kết cấu, nghệ thuật khắc họa nhân vật, Cách miêu tả, tự sự... thì tác phẩm lại mang
đậm chất tiểu thuyết.Có lẽ vìthế mà "Hoàng Lê nhất thống chí" được xếp vào loại tiểu thuyết
lịch sử.
- Tác phẩm gồm có tất cả 17 hồi, trên đây trích phần lớn hồi thứ mười bốn, viết về sự kiện vua
Quang Trung đại phá quân Thanh.

b) Thể loại: viết theo thể chí, một lối văn ghi chép sự vật, sự việc, con người. Cũng có thể
xem là 1 tiểu thuyết Lịch sử kết cấu chương hồi
c) Nội dung:
- Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả họ Ngô Thì đã tái hiện
chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân
Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
d) Tóm tắt:
- Trước thế mạnh của giặc, quân Tây Sơn ở Thăng Long, rút quân về Tam Điệp và cho người
vào Phủ Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ.
- Nhận được tin ngày 24/11, Nguyễn Huệ liền tổ chức lại lực lượng chia quân làm hai đạo
thuỷ - bộ.
- Ngày 25 tháng Chạp, làm lễ lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung, trực tiếp chỉ đạo hai đạo
quẩn tiến ra Bắc.
- Ngày 29 tháng Chạp, quân Tây Sơn ra đến Nghệ An, Quang Trung cho dừng lại một ngày,
tuyên thêm hơn 1 vạn tinh binh, mở một cuộc duyệt binh lớn.
- Ngày 30, quân của Quang Trung ra đến Tam Điệp, hội cùng Sở và Lân. Quang Trung đã
khẳng định : "Chẳng quá mười ngày cỏ thể đuổi được người Thanh". Cũng trong ngày 30,
giặc giã chưa yên, binh đao hãy còn mà ông đã nghĩ đến kế sách xây dựng đất nước mười
năm sau chiến tranh. Ông còn mở tiệc khao quân, ngầm hẹn mùng 7 sẽ có mặt ở thành
Thăng Long mở tiệc lớn. Ngay đêm đó, nghĩa quân lại tiếp tục lên đường. Khi quân Tây Sơn
ra đến sông Thanh Quyết gặp đám do thám của quân Thanh, Quang Trung ra lệnh bắt hết
không để sót một tên.
- Rạng sáng ngày 3 Tết, nghĩa quân bí mật bao vây đồn Hạ Hồi và dùng mưu để quân Thanh
đầu hàng ngay, hạ đồn dễ dàng.
- Rạng sáng ngày mùng 5 Tết, nghĩa quân tấn công đồn Ngọc Hồi. Quân giặc chống trả
quyêt liệt, dùng ống phun khói lửa ra nhằm làm ta rối loạn, nhưng gió lại đổi chiều thành ra
chúng tự hại mình. Cuối cùng, quân Thanh phải chịu đầu hàng, thái thú Điền châu sầm Nghi
Đống thắt cổ tự tử.
- Trưa mùng 5 Tết, Quang Trung đã dẫn đầu đoàn quân thắng trận tiến vào Thăng Long.
Đám tàn quân của giặc tìm về phía đê Yên Duyên gặp phục binh của ta, uốn theo đường
Vịnh Kiều lại bị quân voi ở Đại áng dồn xuống đầm Mực giày xáo, chết hàng vạn tên. Một
Văn học là nhân học Trang 13
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
số chạy lên cầu phao, cầu phao đứt, xác người ngựa chết làm tắc cả khúc sông Nhị Hà.
Mùng 4 Tết nghe tin quân Tây Sơn tấn công, Tôn Sỹ Nghị và Lê Chiêu Thống đã vội vã bỏ
lên biên giới phía bắc. Khi gặp lại nhau, Nghị có vẻ xấu hổ nhưng vẫn huyênh hoang. Cả hai
thu nhặt tàn quân, kéo về đất Bắc.
e) Nhan đề:
Hoàng Lê nhất thống chí: ghi chép về sự thống nhất của vương triều Lê dưới thời tây Sơn
diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang trung- Nguyễn Huệ
a) Quang Trung là người có ý chí, hành động mạnh mẽ, quyết đoán
- Nghe tin giặc tới Thăng Long, ông không hề nao núng định thân chinh cầm quân đi ngay.
- Trong vòng hơn 1 tháng, ông làm được biết bao việc có ích, nhanh chóng: Tế cáo trời đất, lên
ngôi, đốc suất đại binh,gặp gỡ và bàn thảo chiến lược với “người cống sĩ ở huyện La Sơn,phủ
dụ quân lính, hoạch định phương lược tiến đánh, tuyển mộ quân lính, duyệt binh, tiến đánh,
đánh trận nào thắng trận ấy…
b.Quang Trung là vị vua có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng
- Sáng suốt ở việc lên ngôi:
Khi mấy vạn quân Thanh hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc mạnh, tình thế khẩn cấp, vận
mệnh đất nước ”ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế để “chính vị hiệu”
với mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là để yên kẻ phản trắc và giữ
lấy lòng người, được nhân dân ủng hộ.
- Sáng suốt ở việc phân tích thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch:
+ Trong lời phủ dụ đối với quân sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An, ông đã khẳng định độc lập
chủ quyền dân tộc, đồng thời vạch rõ dã tâm xâm lăng bên dưới chiêu bài giúp đỡ nhà Lê của
giặc : “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương
Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác.
Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc, giết hại nhân dân, vơ vét của cải,
người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đánh đuổi chúng đi.”
+ Quang Trung đã khích lệ tướng sĩ dưới quyền bằng việc nhắc lại truyền thống chống giặc
ngoại xâm của nhân dân ta từ xưa qua những tấm gương chiến đấu dũng cảm của cha ông ta từ
xưa: : “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên
có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn
bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được
chúng về phương Bắc.”
+ Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người
phù Lê thay lòng đổi dạ với mình nên ông đã có lời dụ với quân lính vừa chí tình vừa nghiêm
khắc: “Các người đều là những người có lương tri,lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp
Văn học là nhân học Trang 14
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
lực để dựng lên công lớn. Chớ quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết
chết ngay tức khắc, chớ bảo là ta không nói trước!”.
- Sáng suốt trong việc xét đoán, dùng người:
+Vua Quang Trung hiểu được Sở, Lân trong việc rút quân của 2 vị tướng này. Đúng ra quân
thua chém tướng nhưng ông hiểu lòng họ, sức mình ít không địch nổi quân hùng tướng hổ nhà
Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Vậy Sở, Lân
không bị trừng phạt mà còn được ngợi khen.
+ Ông còn đánh giá rất cao Ngô Thì Nhậm và sử dụng như một vị quân sư ”đa mưu túc trí”.
Việc Sở và Lân rút chạy, Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực
lượng vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời lẽ
khôn khéo để dẹp việc binh đao.
c. Quang Trung có tầm nhìn xa trông rộng:
- Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào, ông đã tính toán chu đáo đầy đủ, nói
chắc như đinh đóng cột “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính
sẵn”.Không chỉ nói suông, ông còn đưa ra ngày tháng hạn định rõ ràng để đuổi giặc ra khỏi đất
nước. “Đến tối ngày 30 Tết lập tức lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành
Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác.”
- Ông tính cả quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm sau khi thắng với chủ trương “Dẹp việc
binh đao để phúc cho dân”...Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng,
bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng? ”
d. Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người:
- Cách sắp xếp quân lính của nhà vua trong cuộc duyệt binh ở Nghệ An rất hợp lí : “đem số thân
quân ở Thuận Hóa, Quảng Nam chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, còn số lính mới tuyển ở
Nghệ An thì làm trung quân”. Số thân quân đã có kinh nghiệm tác chiến sẽ vừa bao bọc, giữ
vừng phòng tuyến, vừa tiện việc huấn luyện cho số quân mới tuyển. Chi tiết ấy tuy nhỏ nhưng
cũng đã nói lên cái tài của người cầm quân biết suy nghĩ thấu đáo, cẩn trọng từng chút một.
- Tài dụng binh như thần của vua Quang Trung được khắc họa nổi bật và rõ nét nhất qua cuộc
hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử dân tộc. Vừa hành quân vừa đánh giặc mà
Quang Trung hoạch định kế hoạch từ 25 tháng Chạp đến mùng 7 tháng Giêng sẽ vào ăn Tết ở
thành Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức 2 ngày.
- Hành quân liên tục như vậy nhưng cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề. Đội quân đó không phải toàn
lính thiện chiến (có cả lính mới) nhưng dưới tài chỉ huy của Quang Trung đã trở thành đội quân
dũng mãnh, đánh đâu thắng đấy, đều rất chớp nhoáng..
- Linh hoạt trong kế sách đánh giặc, ở mỗi trân đánh chọn phương lược tiến đánh khác nhau
nhưng rất phù hợp và hiệu quả: Trận Phú Xuyên đánh bí mật, trận Hạ Hồi đùng cách đánh mưu
lược, táo bạo chắc thắng, trận Ngọc Hồi dùng cách đánh giáp lá cà nhưng mưu trí mạnh mẽ…

Văn học là nhân học Trang 15


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
e) Quang trung là vị vua lẫm liệt trong chiến trận:
- Thân chinh cầm quân- tổng chỉ huy chiến dịch thực sự: hoạch định phương lược tiến đánh, tổ
chức quân sĩ, tự thống lĩnh một mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn, bày mưu
tính kế.
- Trong cảnh “ khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì ” nổi bật lên là h/ảnh vị chỉ huy
cưỡi voi đi đốc thúc.
=> Quang Trung là hình ảnh sáng ngời, biểu tượng cho tinh thần và sức mạnh quật cường,
cho ý chí độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ấy mãi khắc ghi trong chúng ta niềm
tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta và lòng biết ơn sâu sắc về người con
ưu tú của cả dân tộc.

2. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống
a. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh
+Tôn Sĩ Nghị là tên tướng kiêu căng, chủ quan, tự phụ. Hắn kéo quân vào Thăng Long dễ dàng
”ngày đi đêm nghỉ” như đi trên đất bằng, cho là vô sự không đề phòng gì, chỉ lảng vảng ở bên
bờ sông, lấy thanh thế suông để dọa dẫm.
Y còn là một tên tướng bất tài, cầm quân mà không biết tình hình thực hư ra sao. Dù được vua
Lê Chiêu Thống báo trước, y vẫn không chút đề phòng, ham vui chơi, cùng mọi người chỉ chăm
chú vào việc yến tiệc, vui mừng không hề lo chi đến việc bất trắc
+Khi quân Tây Sơn đánh đến úp đồn Hà Hồi, trong đồn lúc đó mới biết, ai nấy đều rụng rời, sợ
hãi, vác khí giới đầu hàng. Đánh đến đồn Ngọc Hồi, giặc bắn súng chẳng trúng ai, phun khói
lửa, gậy ông đập lưng ông tự làm hại mình. Quân Tây Sơn tiến gần đánh giáp lá cà, quân Thanh
đánh không nổi bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ
tự tử. quân lính bị tiêu diệt, thây rải đầy đồng, máu chảy thành suối.
+ Ở Thăng Long, nghe tin cấp báo từ đồn Ngọc Hồi về, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không
kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp…chuồn trước qua cầu phao.
Quân thì ai nấy đều rụng rời sợ hãi xin ra hàng hoặc bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà
chết, đến nỗi sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa.
Cả đội binh hùng, tướng mạnh, chỉ quen diễu võ dương oai giờ đây chỉ biết tháo chạy, mạnh ai
nấy chạy, đêm ngày đi gấp không dám nghỉ ngơi.
*Nghệ thuật kể chuyện: Kể xen kẽ với những chi tiết tả thực cụ thể, chi tiết, sống động, nhịp
điệu nhanh,dồn dập gấp gáp gợi sự hoảng hốt của kẻ thù. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng
vẫn hàm chứa tâm trạng hả hê, sung sướng của người viết cũng như của dân tộc trước thắng lợi
của quân Tây Sơn.
b.Số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống
+ Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành đã vì lợi ích riêng mà đem vận mệnh của cả dân
tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược, lẽ tất nhiên họ phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh,
van xin, không còn tư cách của bậc quân vương, và kết cục cũng chịu chung số phận bi thảm
của kẻ vong quốc.
+Khi có biến, quân Thanh tan rã, Lê Chiêu Thống vội vã cùng bề tôi thân tín đưa thái hậu ra
ngoài, chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền của dân để sang sông, luôn mấy ngày không
ăn.May gặp người thổ hào thương tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn.

Văn học là nhân học Trang 16


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
+Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ biết nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Sau khi
sang Trung Quốc phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống người Mãn Thanh và cuối cùng gửi nắm
xương tàn nơi đất khách quê người.
*Nghệ thuật kể chuyện: Đoạn miêu tả vua tôi Lê Chiêu Thống nhịp điệu chậm hơn, tác giả
dừng lại miêu tả tỉ mỉ những giọt nước mắt thương cảm của người thổ hào, nước mắt tủi hổ của
vua tôi Lê Chiêu Thống, cuộc thết đãi thịnh tình của kẻ bề tôi…âm hưởng có phần ngậm ngùi
chua xót. Là những cựu thần của nhà Lê, các tác giả không thể nguỉ lòng trước sự sụp đổ của 1
vương triều mà mình từng phụng thờ, tuy vẫn hiểu đó là kết cục khó tránh khỏi.
III. LUYỆN TẬP
Bài 1. Lập sơ đồ mindmap phân tích nhân vật Vua Quang Trung.
Bài 2. Lập sơ đồ mindmap phân tích sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát
của vua tôi Lê Chiêu Thống.
Bài 3. Học thuộc dẫn chứng.
Bài 4. Hãy tóm tắt ngắn gọn hồi 14 tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” theo bảng:
Thời gian Sự kiện

Bài 5. Hoàn thành bảng thống kê sau về văn bản “Hoàng Lê nhất thống chí”
Tác Thể Hoàn cảnh sáng Nội dung Nghệ thuật
giả loại tác

Văn học là nhân học Trang 17


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
BÀI 3.TRUYỆN KIỀU
I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
1. Bản thân :
- Nguyễn Du: (1765- 1820)
- Tên chữ: Tố Như
- Tên hiệu: Thanh Hiên
- Quê: Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
2.Gia đình
- Cha là Nguyễn Nhiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức tể tướng, có tiếng là giỏi văn chương.
- Mẹ là Trần Thị Tần, một người đẹp nổi tiếng ở Kinh Bắc (Bắc Ninh- đất quan họ)
- Các anh đều học giỏi, đỗ đạt làm quan to, trong đó có Nguyễn Khản (cùng cha khác mẹ) làm
quan thượng thư dưới triều Lê Trịnh, giỏi thơ phú
-> Gia đình: đại quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn chương.
-> Ông thừa hưởng sự giàu sang phú quý, có điều kiện học hành- đặc biệt thừa hưởng truyền
thống văn chương.
3. Thời đại
Cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, đây là thời kì lịch sử có những biến động dữ dội :
- Chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng, giai cấp thống trị thối nát, tham lam, tàn bạo, các
tập đoàn phong kiến (Lê-Trịnh, Trịnh- Nguyễn) chém giết lẫn nhau.
- Nông dân nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn.
MR:-> Tình hình thời đại có tác động tới tình cảm, nhận thức của tác giả, ông hướng ngòi
bút vào hiện thực:
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
4. Cuộc đời.
- Lúc nhỏ: 9 tuổi mất cha, 12 tuổi mất mẹ, ở với anh là Nguyễn Khản.
- Trưởng thành:
+ Khi thành Thăng Long bị đốt, tư dinh của Nguyễn Khản cháy, Nguyễn Du đã phải lưu lạc ra
đất Bắc (quê vợ ở Thái Bình) nhờ anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn 10 năm trời (1786- 1796).
+ Từ một cậu ấm cao sang, thế gia vọng tộc, từ một viên quan nhỏ đầy lòng hăng hái phải rơi
vào tình cảnh sống nhờ. Mười năm ấy, tâm trạng Nguyễn Du vừa ngơ ngác vừa buồn chán,
hoang mang, bi phẫn.
+ Khi Tây Sơn tấn công ra Bắc (1786), ông phò Lê chống lại Tây Sơn nhưng không thành.
+ Năm 1796, định vào Nam theo Nguyễn ánh chống lại Tây Sơn nhưng bị bắt giam ba tháng rồi
thả.
+ Từ năm 1796 đến năm 1802, ông ở ẩn tại quê nhà.
+ Năm 1802, Nguyễn ánh lên ngôi. Trọng Nguyễn Du có tài, Nguyễn Anh mời ông ra làm
quan. Từ chối không được, bất đắc dĩ ông ra làm quan cho triều Nguyễn.
Văn học là nhân học Trang 18
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
- 1802: làm quan tri huyện Bắc Hà.
- 1805- 1808: làm quan ở kinh đô Huế.
- 1809: Làm cai bạ tỉnh Quảng Bình.
- 1813: Thăng chức Hữu tham tri bộ Lễ, đứng đầu một phái đoàn đi sứ sang Trung Quốc lần thứ
nhất (1813- 1814).
- 1820, chuẩn bị đi sứ sang Trung Quốc lần 2 thì ông nhiễm dịch bệnh ốm rồi mất ở Huế (16-
9-1820).
->Nhận xét :
- Cuộc đời của ông chìm nổi, gian truân, đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều hạng người. Cuộc đời từng
trải, vốn sống phong phú, có nhận thức sâu rộng, được coi là một trong năm người giỏi nhất
nước Nam.
- Là người có trái tim giàu lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc với những người nghèo khổ, với
những đau khổ của nhân dân.
*Những tác phẩm chính:
Tác phẩm chữ Hán:
- Thanh Hiên thi tập (1787-1801)
- Nam Trung tạp ngâm (1805- 1812)
- Bắc hành tạp lục (1813- 1814)
Tác phẩm chữ Nôm:
- Truyện Kiều
- Văn chiêu hồn.
...
II. GIỚI THIỆU TRUYỆN KIỀU
1. Nguồn gốc:
- Dựa theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng
phần sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn.
- Lúc đầu có tên: “ Đoạn trường Tân Thanh” (Tiếng kêu mới về nỗi đau thương đứt ruột), sau
đổi thành “Truyện Kiều”.
* Thời điểm sáng tác.
- Viết vào đầu thế kỉ XIX (1805- 1809).
- Gồm 3254 câu thơ lục bát
- Xuất bản 23 lần bằng chữ Nôm, gần 80 lần bằng chữ quốc ngữ.
2. Tóm tắt tác phẩm:
* Phần 1: Gặp gỡ và đính ước
+ Gia thế - tài sản
+ Gặp gỡ Kim Trọng
+ Đính ước thề nguyền
* Phần 2: Gia biến và lưu lạc
Văn học là nhân học Trang 19
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
+ Bán mình cứu cha
+ Vào tay họ Mã, định tự tử
+ Mắc mưu Sở Khanh, vào lầu xanh lần 1
+ Gặp gỡ làm vợ Thúc Sinh bị Hoạn Thư đầy đoạ
+ Vào lầu xanh lần 2, gặp gỡ Từ Hải
+ Mắc lừa Hồ Tôn Hiến, tự tử
+ Nương nhờ cửa phật
* Phần 3:
Đoàn tụ với gia đình, gặp lại người xưa.
• ĐOẠN VĂN TÓM TẮT
Gia đình Vương viên ngoại thuộc tầng lớp trung lưu có 3 người con: Thúy Kiều, Thúy Vân
và Vương Quan. Thúy Kiều nổi tiếng tài sắc.Trong tiết thanh minh tảo mộ, nàng gặp Kim
Trọng - 1 người hào hoa phong nhã. Sau đó, hai người thề nguyền đính ước chung thuỷ với
nhau suốt đời.Rồi Kim Trọng về hộ tang chú, gia đình Kiều mắc oan. Nàng phải dứt tình với
Kim Trọng, bán mình cứu cha và em. Nàng rơi vào tay Mã Giám Sinh, Tú Bà - bọn trùm lầu
xanh. Đau khổ, Kiều tự vẫn nhưng không chết.Nàng bị lừa trốn cùng Sở Khanh, bị bắt lại, bị
đánh đập, nàng đành chịu tiếp khách.
Ở lầu xanh, nàng gặp Thúc Sinh - 1 người buôn giàu có, chuộc nàng lấy làm vợ lẽ.Nhưng
chưa được 1 năm lại bị mẹ con Hoạn Thư bày mưu bắt về đánh đạp, bắt làm con ở, bắt hầu đàn,
hầu rượu, bắt ra ở Quan âm các. Lo sợ, Kiều lại bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư nhưng lại rơi vào
lầu xanh khác.
Ở lầu xanh lần này, Kiều gặp Từ Hải – người anh hùng trí dũng. Nhờ uy danh, Từ Hải, Kiều
đã báo ân trả oán. Chẳng được bao lâu, Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến chết đứng.Kiều bị làm
nhục, bị ép gả cho Thổ Quan.Quá tủi cực, Kiều tự vẫn ở sông Tiền Đường nhưng được sư Giác
Duyên cứu sống.
Lại nói về Kim Trọng, khi biết Thúy Kiều đẳ bán mình, cho dù gia đình đã gả Thúy Vân cho
nhưng chàng vẫn không nguôi nhớ Kiều. Sau khi đã đỗ đạt làm quan, Kim Trọng đã cất công
ròng rã đi tìm Kiều.Đến sông Tiền Đường, biết nàng tự vẫn, Kim Trọng đã lập đàn giải
oan.Tình cờ sư Giác Duyên đi ngang qua, thế là Kiều được đoàn tụ cùng gia đình. Gia đình ép
Kiều nối lại duyên xưa với Kim Trọng, từ chối không được nên nàng đành thuận tình nhưng lại
xin K.Trọng đổi tình vợ chồng thành tình bè bạn.
3.Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
a/Giá trị nội dung:
*Giá trị hiện thực: .
- Truyện Kiều phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và thế lực hắc ám chà đạp lên
quyền sống của con người:
- Truyện Kiều phơi bày nỗi khổ đau của những con người bị áp bức, đ.biệt là người phụ nữ.
➢ Truyện Kiều là tiếng kêu thương của những người lương thiện bị áp bức, bị đoạn đầy.
Văn học là nhân học Trang 20
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
*Giá trị nhân đạo:
- “Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm
chất của con người:
+ Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ đẹp đẽ của mình về một tình yêu tự
do, trong sáng, chung thủy trong xã hội mà quan niệm hôn nhân phong kiến còn hết sức khắc
nghiệt. Mối tình Kim - Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học
dân tộc.
+ Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một
xã hội bất công, tù túng đầy ức chế, tàn bạo. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Từ Hải -
người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả cái xã hội bạo tàn ấy. Từ Hải là khát
vọng của công lí, là biểu tượng cho tự do dân chủ.
+ Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người: vẻ đẹp tài
sắc, trí tuệ thông minh,lòng hiếu thảo, ữái tim nhân hậu, ý thức vị tha, đức thủy chung. Thúy
Kiều, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó!
- “Truyện Kiều” còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống con
người. Thế lực tàn bạo đó, khi là bộ mặt bọn quan lại tham lam, đê tiện, bỉ ổi - đầu mối của mọi
xấu xa trong xã hội (Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà...), có khi lại là sự tàn phá,
hủy diệt hung hiểm của đồng tiền trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, trong tay bọn người bất
lương tàn bạo đã phát huy tất cả sức mạnh của nó, đổi trắng thay đen, biến con người thành thứ
hàng hóa để mua bán.
b/Gía trị nghệ thuật: Truyện Kiều được coi là đỉnh cao nghệ thuật của Nguyễn Du.
* Về ngôn ngữ: Tiếng Việt trong Truyện Kiều không chỉ có chức năng biểu đạt (phản ánh),
biểu cảm (bộc lộ cảm xúc) mà còn có chức năng thẩm mĩ (vẻ đẹp của ngôn từ).
* NT tự sự (kể chuyện) đã có sự phát triển vượt bậc.
*Nghệ thuật miêu tả:
- Nghệ thuật tả người:
▪ Nhân vật chính diện:
- Thúy Kiều, Thúy Vân là nhân vật chính diện, thuộc kiểu nhân vật lí tưởng trong Truyện
Kiêu. Đê khăc hoạ vẻ đẹp của họ, Nguyên Du đã sử dụng bút pháp ước lệ - lây vẻ đẹp của thiên
nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ thể mà chủ yếu là tả
để gợi.
- Đặc tả vẻ đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du tập trung miêu tả các chi tiết trên khuôn mặt
nàng bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật liệt kê -» Thúy Vân xinh đẹp, thuỳ mị, đoan trang,
phúc hậu và khiêm nhường.
- Đặc tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du tập trung miêu tả vẻ đẹp của tài và sắc:
+ Tác giả miêu tả khái quát “sắc sảo mặn mà
+ Đặc tả vẻ đẹp đôi mắt: vừa gợi vẻ đẹp hình thửc vừa gợi vẻ đẹp tâm hồn (hình ảnh ước
lệ).
Văn học là nhân học Trang 21
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
+ Dùng điển cố “nghiêng nước nghiêng…” diễn tả vẻ đẹp hoàn hảo có sức lôi cuốn mạnh
mẽ.
+ Tài năng: phong phú đa dạng, đều đạt tới mức lí tưởng.
- Cái tài của Nguyễn Du ở chỗ miêu tả ngoại hình nhân vật làm hiện lên vẻ đẹp tính cách và
tâm hồn. Và đằng sau những tín hiệu ngôn ngữ lại dự báo về số phận nhân vật.
+ "Thua, nhường”→ Thúy Yân có cuộc sống êm đềm, suôn sẻ.
+ Hờn, ghen ”→ Thúy Kiều bị thiên nhiên đố kị, ganh ghét → số phận long đong, bị vùi
dập.
Nhân vật phản diện:
- Tác giả sử dụng bút pháp tả thực.
- Kết hợp nghệ thuật kể chuyện với miêu tả ngoại hình, cử chỉ, ngôn ngữ đối thoại để khắc hoạ
tính cách nhân vật.
* Nghệ thuật tả cảnh:
Tả cảnh thiên nhiên:
- Nhà thơ điểm vài chi tiết, tả để gợi là chính.
- Từ ngữ, hĩnh ảnh giàu chất tạo hình.
- Thiên nhiên được miêu tả trong những thời gian, thời điểm khác nhau.
Tả cảnh ngụ tình:
- Cảnh thiện nhiên là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc của mình (Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngung
Bích”)
4. Ảnh hưởng của tác phẩm:
- “Truyện Kiều” hàng trăm năm được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phuc lớn đối với mọi
tâng lớp độc giả.
+“Truyện Kiều” không biết tự bao giờ đã đi vào đời sống của nhân dân, và đã trở thành lời ăn
tiếng nói của những người dân bình dị nhất cho đến những người trí thức, am hiểu về văn
chương bác học.
+ Trong ca dao, người ta thấy có rất nhiều câu có vận dụng những hình ảnh trong “Truyện
Kiều”. Ví dụ:
“Sen xa hồ, sen khô hồ cạn,
Liễu xa đào liễu ngả liễu nghiêng.
Anh xa em như bến xa thuyền.
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi!”
+ “Truyện Kiều” đã trở thành sức sống của dân tộc, là thứ thưởng ngoạn cho tao nhân mặc
khách của mọi thời. Có câu:
“Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà mạn hảo, xem Nôm Thúy Kiều”.
- “Truyện Kiều” được giới thiệu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Người ta đã dịch
“Truyện Kiều” ra nhiêu thứ tiếng và nhiều người nước ngoài đã nghiên cứu về “Truyện Kiều”.
Văn học là nhân học Trang 22
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
BTVN:
Bài 1. Nêu hoàn cảnh sáng tác “Truyện Kiều”. Theo em, hoàn cảnh ấy có ảnh hướng như thế
nào tới ý nghĩa tác phẩm?
Bài 2.Tóm tắt “Truyện Kiều” bằng một đoạn văn khoảng 15 câu.
Bài 3.Nêu tên gọi khác của “Truyện Kiều” và giải thích ý nghĩa của tên gọi ấy.
Bài 4. Em hãy trình bày những hiểu biết của mình về tác giả Nguyễn Du. Theo em, những yếu
tố trong cuộc đời ông có ảnh hưởng như thế nào đến việc sáng tác “Truyện Kiều”?
Bài 5.Nêu rõ giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm “Truyện Kiều”.

Văn học là nhân học Trang 23


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
BÀI 4. TRÍCH ĐOẠN: CHỊ EM THÚY KIỀU
(Trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du)
I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN
1/ Vị trí đoạn trích
- Đoạn trích thuộc phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều: Gặp gỡ và đính ước.
- Sau 4 câu thơ kể về gia đình họ Vương:
Có nhà viên ngoại họ vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
là 24 câu thơ để nói về chị em Thúy Kiều, Thúy Vân.
2/Bố cục đoạn trích: 4 phần
- Bốn câu thơ đầu: Giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều
- Bốn câu thơ tiếp: Gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân
- Mười hai câu thơ tiếp: Gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều
- Bốn câu thơ cuối: Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em
=> Bố cục của đoạn trích rất chặt chẽ. Ở đây, đại thi hào Nguyễn Du đã dẫn người đọc đi từ
cảm nhận chung về vẻ đẹp của hai chị em, sau đó chiêm ngưỡng bức chân dung cụ thể của từng
người, sau cùng thì tìm hiểu cuộc sống chung của họ. Hơn nữa, Cụ Tố Như đã có sự sắp đặt với
dụng ý nghệ thuật rõ ràng: Tác giả tả người em trước, tả cô chị sau, số lượng câu tả chị gấp 3
lần tả cô em. Từ đó, ta có thể thấy rằng: gợi tả Thuý Vân thực ra là để làm nền, làm nổi bật bức
chân dung sắc - tài - tình của nhân vật trung tâm của tác phẩm, đó là Thuý Kiều.

3/Giải thích nghĩa của của từ:


- Tố nga: chỉ người con gái đẹp
- Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết
trắng và trong sạch => Ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
- Khuôn trăng đầy dặn: gương mặt đầy đặn như trăng tròn; nét ngài nở nang: ý nói lông mày
hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp => Nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ
tiếng Việt có câu: “Mắt phượng mày ngài”.
- Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về người phụ nữ)
- Làn thu thủy: làn nước mùa thu; Nét xuân sơn: nét núi mùa xuân => ý nói mắt đẹp, trong
sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp thanh thoát như nét núi mùa xuân.
- Nghiêng nước nghiêng thành: Lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một
cái thì thành người ta xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả => Ý
nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành
mất nước.

Văn học là nhân học Trang 24


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
II/ PHÂN TÍCH
1/ Giới thiệu chung về hai chị em.
- Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã giới thiệu chung về vị trí, thứ bậc và đánh giá khái
quát về hai nàng Kiều:
“ Đầu lòng hai ả tổ nga,
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân”
+ Lời thơ thật ngắn gọn và súc tích, thi sĩ đã giới thiệu cho chúng ta biết đầy đủ thông tin về hai
nàng Kiều. Đó là hai người con gái đẹp (hai ả tố nga) và là hai người con gái đầu lòng của gia
đình họ Vương. Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân. Nhịp thơ đều đặn (2/2/2) đã tạo nên sự cân
xứng, hài hoà, nhẹ nhàng và đều đặn trước- sau khi giới thiệu hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
+ Ẩn chứa đằng sau giọng thơ bình thản, tưởng chường như để tóm tắt giới thiệu là niềm tự hào,
yêu mến, trân trọng của tác giả dành cho hai chị em.
+ Câu thơ thứ hai là câu ghép với hai vế khẳng định, Nguyễn Du như nhắc tới một điều tất yếu
trong gia đình: Thúy Kiều là chị sẽ có trách nhiệm gánh vác gia biến, phải là người bán mình
chuộc cha, còn Vân là em sẽ nghe lời chị, mà trả nghĩa cho chàng Kim.
➔ Hai câu thơ đầu hình thức là những câu giới thiệu nhưng thực chất tác giả dã dự báo
tương lai hai nàng Kiều.
- Qua lời giới thiệu của tác giả, vẻ đẹp chung của hai nàng Kiều được bộc lộ ở câu tiếp
theo:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần”.
Câu thơ ngắt nhịp 3/3 dứt khoắt, nhấn mạnh trong giọng điệu và nghệ thuật tiểu đối khiến vẻ
đẹp chung của hai Kiều trong lời thiệu thêm nổi bật. Bằng phương thức miêu tả qua hai hình
ảnh ước lệ, ẩn dụ, thiên tài Nguyễn Du đã phác hoạ vẻ đẹp toàn mĩ trong cốt cách và phẩm cách
của hai chị em. Cả hai Kiều đều có cốt cách duyên dáng, thanh cao như mai; tâm hồn, phẩm
hạnh trắng trong như tuyết. Biểu tượng thiên nhiên “ mai”, “tuyết” ấy đã tôn vẻ đẹp của hai chị
em lên đến độ toàn bích trong cách nói kiệm lời, cô đúc của thi sĩ.
- Từ việc gợi tả khái quát vẻ đẹp chung của hai người con gái, ông đã khẳng định:
“Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Với cách ngắt nhịp 4/4, nghệ thuật tiểu đối, cách sử dụng thành ngữ Tiếng Việt (mười phân vẹn
mười) và phương thức biểu đạt biểu cảm, tác giả đã khẳng định, nhấn mạnh vẻ riêng của từng
người nhưng cả hai đều là những trang tuyệt sắc giai nhân. Lời khen của thi nhân chia đều cho
cả Kiều và Vân.
2/Nhân vật Thúy Vân
Thuý Vân- người con gái phúc hậu, đoan trang:
- Thi sĩ đã dành cho Thuý Vân những nét vẽ rất cụ thể, chi tiết, mỗi câu thơ nói về Thúy
Vân là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung của giai nhân. Cảm nhận chung về Thuý Vân, đó là
vẻ đẹp “ trang trọng ”, “đoan trang” -một vẻ đẹp cao sang, quý phái:
Vân xem trang trọng khác vời
Văn học là nhân học Trang 25
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
- Từ lời nhận xét chung đó, Nguyễn Du tiếp tục phác hoạ những nét cụ thể hơn. Để miêu
tả Thúy Vân, tác giả đã sử dụng tiết để các hình ảnh ước lệ trượng trưng, pháp liệt kê, nhân hóa
thật tài tình.
- Vẻ đẹp Thuý Vân, trước hết, được toát lên từ khuôn mặt, nét ngài:
“Khuôn trăng đày đặn, nét ngài nở nang”
+ “Khuôn trăng”, “nét ngài” là hai hình ảnh ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ đặc sắc. “Khuôn trăng”
gợi lên một khuôn mặt phúc hậu, tròn trịa, tươi sáng như trăng rằm. Nét ngài có thể hiểu theo
hai cách khác nhau. Nét ngài có thể là đôi lông mày sắc nét, đậm như con ngài, bởi người ta
thường nói “Mắt phượng mày ngài” để chỉ một đôi mắt đẹp. Nhưng cũng có thể hiểu “nét ngài”
theo cách đọc chệch âm là nét người, nhằm miêu tả một thân hình đầy đặn, tràn đầy sức sống
của tuổi thanh xuân.
+ Các từ “đầy đặn”, “ nở nang” sử dụng thật giản dị nhưng sức diễn tả lại rất lớn; nó không chỉ
gợi tả sự đầy đặn, nở nang trong nhan sắc mà đây còn là sự đầy đặn, mĩ mãn của số phận, của
cuộc đời nàng.
- Khuôn mặt như đẹp hơn, rạng rỡ và tươi sáng hơn khi Thuý Vân cười.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
+ “Hoa cười” là nụ cười tươi như hoa.Nghệ thuật nhân hoá ấy gợi sự tươi tắn của nụ cười, của
khuôn mặt, của nhan sắc giai nhân.Vì thế, Thuý Vân cũng dễ chiếm được cảm tình của mọi
người.
+ Vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Thuý Vân còn bộc lộ trong ngôn ngữ, lời nói của nàng. Mỗi
khi Thuý Vân “thốt” ra thì âm thanh nghe nhẹ nhàng, trong trẻo như “ngọc” vậy.
- Còn mái tóc của Vân óng ả, bồng bềnh, mềm mại hơn cả mây, làn da của nàng mịn
màng, trắng sáng hơn cả tuyết: Mây thua nước tóc thuyết nhường màu da
Nhưng vẻ đẹp đó lại tạo nên một sự hoà hợp với thế giới xung quanh nên thiên nhiên sẵn sàng
chấp nhận chịu “thua”, chịu “nhường”. Nghệ thuật nhân hoá khiến thiên nhiên như có hình thể
và tính cách như con người. Hai từ “ thua”, “ nhường” được sử dụng rất tinh diệu. Nó vừa đặc
tả vẻ đẹp của Thuý Vân, vừa thể hiện dự cảm của Nguyễn Du về số phận của nàng - một số
phận, một cuộc đời bình lặng, êm ả, không sóng gió. Nàng sinh ra dường như là để hưởng cuộc
sống phong lưu, an nhàn. MR:Ý thơ thể hiện rõ thuyết thiên mệnh, bởi Nguyễn Du từng
quan niệm trong “Truyện Kiều” rằng:
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
- Rõ ràng, Thuý Vân đẹp - một vẻ đẹp khá sắc nét nhưng vẫn hồn hậu, thuỳ mị. Vẻ đẹp
viên mãn ấy trong trẻo như suối đầu nguồn, như trăng đầu tháng.
→Với bốn dòng thơ thôi vậy mà cũng đủ vẽ lên một sắc đẹp tươi tắn, trẻ trung, kiều
diễm 1 cô gái đang độ trăng tròn. Nó đã phần nào thể hiện được con mắt nhìn người
sâu sắc và nghệ thuật miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du.

Văn học là nhân học Trang 26


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
3/Nhân vật Thúy Kiều.
Thúy Kiều – Người con gái tài sắc vẹn toàn.
*Nhan sắc:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
- Mặc dù tả Thuý Vân khá kĩ lưỡng nhưng Nguyễn Du vẫn còn chỗ dành cho Thuý Kiều
bởi với nghệ thuật đòn bẩy, Thúy Vân trở thành điểm tựa để chân dung Thúy Kiều nổi bật hẳn
lên “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Kiều không chỉ sắc sảo mặn mà trong nhan sắc mà còn sắc
sảo về trí tuệ và “ mặn mà” trong tình cảm. So với Vân, Kiều có phần nổi trội hơn.
- Khác với Thuý Vân, khi gợi tả vẻ đẹp của Thuý Kiều, Nguyễn Du không liệt kê, không
miêu tả chi tiết, cụ thể; ngòi bút của ông chỉ ngưng đọng ở đôi mắt (bút pháp miêu tả điểm
nhãn)
“ Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”.
Đôi mắt ấy đẹp long lanh, trong sáng như làn nước mùa thu gợn sóng, có sức cuốn hút mãnh liệt
và hình như ẩn chứa một sự tinh anh trong tâm hồn và trí tuệ; nó lại ẩn dưới lớp lông mày thanh
tú, tươi tắn như dáng núi mùa xuân “nét xuân sơn”.
- Những hình ảnh trong trẻo mỹ lệ của thiên nhiên dưới hình thức nghệ thuật ẩn dụ, ước lệ,
tiểu đối được sử dụng tuyệt vời như đúc lại vẻ đẹp của giai nhân trong câu thơ sáu chữ để rồi
mở rộng hơn, nâng cao hơn vẻ đẹp ấy đến tột đỉnh:
“Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
+ Vẻ đẹp của Kiều khiến cho hoa cũng phải “ghen”, liễu cũng phải “ hờn”, hay nói cách khác
nhìn vẻ đẹp của Thúy Kiều thiên thiên, tạo hóa đã nhận ra khuyết điểm của mình, để rồi mặc
cảm với chính mình, từ đó mới nảy sinh thái độ ghen ghét, đố kị.
+ Nghệ thuật ẩn dụ, nhân hoá, tiểu đối trong câu thơ này đựợc sử dụng một cách tài tình khiến
cho tính chất đố kị giữa vẻ đẹp của Kiều và thiên nhiên càng tăng thêm gấp bội. Một lần nữa,
chúng ta lại thấy tài năng sử dụng ngôn từ của Nguyễn Du tuyệt vời đến mức nào bởi chỉ bằng
hai chữ “ghen”, “hờn” thôi vậy mà tác giả vừa gợi tả được vẻ đẹp tuyệt mĩ của Thuý Kiều, vượt
lên trên chuẩn mực của thiên nhiên tạo hóa làm cho nước nghiêng, thành đổ lại vừa dự báo
được tương lai, số phận, cuộc đời của nàng: lành ít, dữ nhiều – một cuộc đời nhiều sóng gió, bể
dâu, một cuộc đời nhiều khổ đau, bất hạnh. (bể dâu: thương hải biến vi tang điền – biển xanh
biến thành ruộng dâu). MR:Một lần nữa, câu thơ thể hiện rõ ảnh hưởng của thuyết thiên
mệnh, như Nguyễn Du từng viết:
Lạ gì bỉ sắc tư thân,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
- Vẻ đẹp nhan sắc còn được nhấn mạnh hơn qua việc sử dụng thành ngữ ở câu: Một hai

Văn học là nhân học Trang 27


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
nghiêng nước nghiêng thành. Vẻ đẹp của Kiều khiến người ta có thể say đắm mà mất thành mất
nước. (Lấy ý trong câu thơ cổ của Trung Hoa: nhất cố khuynh nhân thành, tái cô khuynh nhân
quốc – ngoảnh lại nhìn một lần khiến nước người ta xiêu, ngoảnh lại nhìn một lần nữa khiến
thành người ta đổ)
➔ Như vậy, năm câu thơ không chỉ miêu tả vẻ đẹp tuyệt sắc, tuyệt mĩ của Kiều với thái độ
ngợi ca mà ẩn sau đó còn là sự xót thương với dự cảm về một thân phận nhiều cơ cực,
bấp bênh của nàng.
* Tài năng – tâm hồn:
- Trong 12 câu miêu tả Kiều, Nguyễn Du dành 7 câu nói về tài năng của nàng. Đây là điểm khác
biệt so với Thúy Vân và là sự sáng tạo của Nguyễn Du so với bản gốc “Kim Vân Kiều truyện”.
- Kiều không chỉ đẹp mà còn là một cô gái thông minh và rất mực tài hoa: Sắc đành đòi một tài
đành họa hai. Về nhan sắc Kiều là số một, về tài năng họa may mới có người thứ hai như Kiều.
- Tài năng ấy được thể hiện qua sáu câu thơ đặc sắc:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
- Kiều có trí thông minh thiên bẩm “Thông minh vốn sẵn tính trời”
- Theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, một người con gái có tài năng phải giỏi “ cầm, kì,
thi, hoạ”. Kiều đã đạt đến mức lý tưởng ấy khi miêu tả tài năng ở cầm, thi, họa. Đặc biệt sở
trường hơn người của nàng là tài đánh đàn: “ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Cụm từ
“ăn đứt” là hơn hẳn, trên hết tiếng đàn của cả người Hồ (Hồ cầm).
MR:Cũng bởi vậy mà Nguyễn Du đã 4 lần nhắc tới tài đàn của Kiều trong 4 hoàn cảnh
khác nhau. Khi thì mặn nồng da diết (với Kim Trọng), khi xót xa đau đớn (gặp Thúc
Sinh), khi thì tủi cực (gặp Hồ Tôn Hiến), lúc lại bẽ bàng, khách sáo (đoàn tụ Kim Trọng).
Tuy vậy, người đọc vẫn nhớ tới tiếng đàn khi trong khi đục, khi mau khi khoan của nàng:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
- Không chỉ vậy, tô đậm tài năng của Kiều, Nguyễn Du còn miêu tả tài sáng tác nhạc của
Kiều. “Thiên bạc mệnh” là tên bản nhạc của Kiều viết dành cho những người phụ nữ xấu số,
bất hạnh. Khúc “Bạc mệnh” khiến ai nghe cũng buồn thảm “Một thiên Bạc mệnh lại càng não
nhân”. Cung đàn mà Kiều sáng tác ấy chính là tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm, là
tiếng nói nội tâm sâu sắc; nó vừa chứng tỏ cái “tài” vừa thể hiện cái “tình” của nàng đối với
cuộc đời. Nhưng dường như, khúc nhạc ấy cũng dự báo tương lai của nàng, rằng số phận nàng
Văn học là nhân học Trang 28
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
cũng sẽ long đong, oai oán chẳng khác nào những bản nhạc nàng viết ra, bởi “Có tài mà cậy chi
tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần.”
→ Chỉ bằng mấy câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du không chỉ miêu tả được vẻ đẹp của Thúy
Kiều mà còn dự báo trước tương lai của nàng, không những truyền cho người đọc tình cảm
yêu mến nhân vật mà còn truyền cả nối lo âu phấp phỏng về tương lai nhân vật. Một hồng
nhan bạc phận theo đúng điều Nguyễn Du viết ngay đầu tác phẩm “Truyện Kiều”:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
4/ Bốn câu thơ cuối
Nguyễn Du nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
- Ở đây, ông đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ (Phong lưu rất mực hồng quần; Êm đềm
trướng rủ màn che) để nhấn mạnh cuộc sống phong lưu, êm đềm của chị em Thuý Kiều. Họ đều
đã “ xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”.
- Cái hay của câu thơ này là ở cách sử dụng phối hợp các phụ âm một cách tài tình. Một
câu thơ mà thi sĩ đã dùng tới bốn phụ âm “x” ( xuân xanh xấp xỉ), hai phụ âm “t” (tới tuần), hai
phụ âm “ c - k” (cập kê). Sự cộng hưởng của các phụ âm này trong một dòng thơ đã tạo nên âm
điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên vui, êm ấm của thiếu nữ phòng khuê.
- Với việc dùng một loạt từ Hán – Việt: “Phong lưu”, “hồng quân”, “cập kê” và thành ngữ
Tiếng việt “trướng rủ màn che”, đảo ngữ đảo từ láy “êm đềm” lên đầu, ẩn dụ “ong bướm”
(chuyện tình cảm nam nữ nhưng có phần không đứng đắn), câu phủ định mà để khẳng định
“mặc ai”, tác giả đã nhấn mạnh cả hai chị em đã đến tuổi yêu, tuổi lấy chồng. Mặc dù vậy, họ
vẫn giữ được nề nếp gia đình:
“ Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
- Sự đối lập giữa khát vọng và thái độ của chị em Thuý Kiều càng làm tăng thêm vẻ đẹp về
đức hạnh của hai người, khiến ai cũng động lòng trắc ẩn.
III. TỔNG KẾT
1. Giá trị về nội dung:
- Khắc họa chân dung tuyệt mĩ của chị em Thúy Kiều, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về
kiếp người tài hoa bạc mệnh của Thúy Kiều.
- Thể hiện cảm hứng nhận văn sâu sắc: trân trọng, đề cao, ca ngợi vẻ đẹp của con người.
- Mang tư tưởng thuyết thiên mệnh của Nguyễn Du khi dự đoán tương lai 2 chị em.
Văn học là nhân học Trang 29
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
2. Giá trị về nghệ thuật:
- Thúy Kiều, Thúy Vân là nhân vật chính diện, thuộc kiểu nhân vật lí tưởng trong Truyện
Kiều. Để khắc họa vẻ đẹp của nhân vật lí tưởng, Nguyễn Du đó sử dụng bút pháp ước lệ
-lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp của con người.Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ
thể mà chủ yếu tả để gợi.Sử dụng biện pháp đòn bẩy làm nổi bật hình ảnh Thúy Kiều.
- Kết hợp thành ngữ, điển tích.
- BPTT ẩn dụ, nhân hóa.
- Thể loại thơ lục bát với độ luyến láy âm điệu, giọng điệu đầy niềm tự hào, ngợi ca.
3. Đánh giá
-Đoạn trích mang âm hưởng giá trị nhân đạo sâu sắc.Còn “Truyện Kiều” là kiệt tác văn học dân
tộc. Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào của dân tộc, lay động biết bao trái tim thế hệ mai sau.
Như nhà thơ Tố Hữu từng viết trong “Kính gửi cụ Nguyễn Du”:
Tiếng thơ lay động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày.
-Để kết thúc bài phát biểu đáng nhớ trong lần công du tới Hà Nội, ông Obama trích dẫn Truyện
Kiều – áng thơ bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du:
“Rằng trăm năm cũng từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi”.
BTVN:
1. Học thuộc đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
2. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phép lập luận diễn dịch phân tích vẻ đẹp nhân vật
Thúy Kiều. Trong đoạn sử dụng câu nghi vấn và trợ từ (chỉ rõ).
3. Viết đoạn văn khoảng 15 câu theo phép lập luận quy nạp phân tích vẻ đẹp nhân vật Thúy
Kiều. Trong đoạn sử dụng câu cảm thán và quan hệ từ (chỉ rõ)

PHIẾU BÀI TẬP “CHỊ EM THÚY KIỀU”


Bài 1. Học thuộc đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. Nêu vị trí đoạn trích, bố cục của văn bản
“Hai chị em Thúy Kiều”.
Bài 2. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phép lập luận diễn dịch phân tích vẻ đẹp nhân vật
Thúy Vân. Trong đoạn sử dụng câu nghi vấn và trợ từ (chỉ rõ).
Bài 3.Viết đoạn văn khoảng 15 câu theo phép lập luận quy nạp phân tích vẻ đẹp nhân vật
Thúy Kiều. Trong đoạn sử dụng câu cảm thán và quan hệ từ (chỉ rõ)
Bài 4. Hệ thống kiến thức bài theo bảng sau:

Chỉ rõ nghệ Thơ (gạch chân tín hiệu nghệ thuật) Nêu nội dung, ý nghĩa
thuật

Văn học là nhân học Trang 30


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
…………………. Đầu lòng hai ả tố nga …………………………….
…………………. Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. …………………………….
…………………. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, …………………………….
…………………. Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. …………………………….
…………………. …………………………….

…………………. Vân xem trang trọng khác vời, …………………………….


…………………. Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. …………………………….
…………………. Hoa cười, ngọc thốt đoan trang, …………………………….
…………………. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. …………………………….
…………………. …………………………….

…………………. Kiều càng sắc sảo mặn mà, …………………………….


…………………. So bề tài sắc lại là phần hơn. …………………………….
…………………. Làn thu thủy, nét xuân sơn, …………………………….
…………………. Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. …………………………….
…………………. Một hai nghiêng nước nghiêng thành, …………………………….
…………………. Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. …………………………….
…………………. Thông minh vốn sẵn tính trời, …………………………….
…………………. Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm. …………………………….
…………………. Cung thương làu bậc ngũ âm, …………………………….
…………………. Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. …………………………….
…………………. Khúc nhà tay lựa nên chương, …………………………….
…………………. Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân. …………………………….
…………………. …………………………….
…………………. …………………………….
…………………. …………………………….

…………………. Phong lưu rất mực hồng quần, …………………………….


…………………. Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê. …………………………….
…………………. Êm đềm trướng rủ màn che, …………………………….
…………………. Tường đông ong bướm đi về mặc ai. …………………………….
…………………. …………………………….

Văn học là nhân học Trang 31


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
BÀI 5. KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN
1/ Vị trí đoạn trích:
- Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc.
- Gia đình gặp tai biển, Kiều phải bán mình cứu cha và em. Tưởng là bán mình làm vợ lẽ,
không ngờ bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục và đưa về lầu xanh, lại còn bị Tú Bà mắng nhiếc,
đánh đập. Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống
lầu xanh.Đau đớn, phẫn uất, tủi nhục, nàng định tự vẫn.Tú bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên
giải, dụ dỗ Kiều. Mụ đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để
chuẩn bị một âm mưu đê tiện hơn.
2/Bố cục: 3 phần
- Sáu câu thơ đầu: hoàn cảnh cô đơn của Kiều ở lầu Ngưng Bích.
- Tám câu thơ tiếp theo: Kiều thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ
- Tám câu thơ cuối: cảnh được cảm nhận qua tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều.
3/Giải thích từ:
- Khoá xuân: khoá kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý ngày xưa không được
ra khỏi phòng); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
- Tẩm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thuỷ chung gắn bó.
- Duềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển
II/PHÂN TÍCH
1/Sáu càu thơ đầu
Khung cảnh trước lầu Ngưng Bích và hoàn cảnh cô đơn của Thúy Kiều

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,


Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
a.Câu thơ đầu tiên: giới thiệu lầu Ngưng Bích
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
- Ngay ở câu thơ đầu tác giả đã cho thấy hoàn cảnh của Kiều. “Ngưng Bích” là ngưng lại một màu
xanh.Cái tên gọi đã gợi lên vẻ đẹp kết tụ của thiên nhiên, đất trời, vạn vật.Nó còn khiến ta nhận ra
một không gian cao vời vợi.
- “Khóa xuân” là nghệ thuật chơi chữ, nghĩa là nơi khóa kín tuổi xuân, giam lỏng cuộc đời Thúy
Kiều. Hóa ra một nơi sơn thủy hữu tình như vậy lại là nơi giam lỏng người con gái.
b. 3 câu tiếp: Bức tranh thiên nhiên đẹp, lãng mạn trước lầu Ngưng Bích.
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung

Văn học là nhân học Trang 32


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
-Ngay câu đầu, tác giả đã vẽ nên không gian cao rộng “non xa-trăng gần”. HÌnh ảnh thơ cho thấy vị
trí Kiều đang ở trên lầu cao quan sát xung quanh, vì thế mà không gian dãn nở ba chiều: chiều cao
của bầu trời (trăng), chiều xa của núi, chiều sâu của biển. Không gian rộng lớn ấy càng khiến con
người ta trở nên nhỏ bé, rợn ngợp, cô đơn.
- Bức tranh thêm phần lãng mạn, cổ điển với hai tông màu đen – trắng. Ánh trăng bàng bạc lan tỏa
không gian, in hình những dãy núi cắt vệt rõ nét trên nền trời. Không gian lãng mạn, thơ mộng như
bao trùm cảnh vật.
- Đến hai câu sau, cảnh được tô điểm sinh động. Tác giả đã mở rộng không gian ra nhiều chiều
hướng qua từ láy “bát ngát”. Nhưng không gian càng mở rộng ra nhiều chiều kích bao nhiêu, thì
dường như con người càng nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng bấy nhiêu.
- Bức tranh không chỉ có trăng, núi mà còn có “cát vàng cồn nọ” – cồn cát, bụi hồng dặm kia – dặm
hồng. NT Tiểu đối “cồn nọ - dặm kia” với hai hình ảnh “cát vàng – bụi hồng” đã tô điểm cho bức
tranh sơn thủy hữu tình.Nhưng hai chỉ từ “nọ - kia” lại khiến không gian trở nên vỡ vụn.Cảnh tuy
đẹp mà lại rời rạc, vô hồn, không liên kết. Phải chăng sau bức tranh thiên nhiên lãng mạn ấy là tâm
trạng cô đơn, lạc lõng của con người?
->như vậy, những câu thơ đầu tiên đã sử dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình. Cảnh thì thơ
mộng, bình yên vằng lặng, nhưng tâm trạng con người thì cô đơn, lẻ loi.
c. Hai câu thơ tiếp: hé mở tâm trạng Thúy Kiều
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
- Hai câu thơ khắc họa rõ nét tâm trạng của Kiều qua từ láy “bẽ bàng” (là tủi cực, xấu hổ). Nghĩ
đến thân mình, Kiều không tránh khỏi sự hổ thẹn, bởi vì “Con ong đã tỏ đường đi lối về”(vì bị
Mã Giám Sinh lừa gạt, nên nàng đã “thất thân với MGS). Hơn nữa, Kiều lại phụ tình Kim
Trọng, cha mẹ ở phương xa chưa biết thế nào. Vì thế, từ láy “bẽ bàng” như gói trọn cảm xúc
của Kiều.
- Ngày lại qua ngày, Kiều chỉ biết làm bạn với áng mây buổi sớm, ngọn đèn canh khuya “Bẽ
bàng mây sớm đèn khuya”.
- Cụm từ “Mây sớm đèn khuya” là cách nói ước lệ, gợi thời gian tuần hoàn khép kín. Nó chỉ
thời gian một ngày trôi qua chậm chạp, nặng nề, uể oải. Từ sáng đến tối, bước đi của thời gian
như từng bước tâm trạng, Kiều ngồi đó như một cái xác không hồn, vô cảm, đếm từng giờ từng
khắc trôi qua. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng
chán ngán, buồn tủi.
- MR: Như vậy, thời gian trong “Truyện Kiều” luôn được miêu tả theo tâm trạng con
người, khi vui thì “Ngày vui ngắn chửa tày gang”, khi buồn thì “Ba thu dọn lại một ngày
dài ghê”. Chỉ một hình ảnh thơ nhưng đã khái quát được quan niệm thời gian trong
“Truyện Kiều”. Đúng như lời giáo sư Đặng Thanh Lê nhận xét : “Trong “Truyện Kiều”,
Văn học là nhân học Trang 33
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
thời gian cũng là một nhân vật tâm lí, tồn tại song song trong thế giới con người để phác
họa chân dung con người.”.
- Câu thơ cuối chỉ ra mối quan hệ giữa người và cảnh: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
Sớm và khuya, đêm và ngày, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp lóp những nỗi
niềm chua xót, đau thương khiến tấm lòng như bị chia xé. Điệp từ “nửa” và chữ “chia” khiến
cho cảnh vật không hề ăn khớp với tâm trạng con người. Cảnh thì lãng mạn còn người lại bơ
vơ, lẻ loi, bối rối, bồn chồn.
→Như vậy, sáu câu thơ đầu tiên đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích.
Không gian cao rộng, mênh mông, hữu tình nhưng tâm trạng con người thì lẻ loi, cô đơn.
Qua hoàn cảnh của Kiều, tác giả bộc lộ thái độ đồng cảm sâu sắc.
2. Tám câu tiếp:Nỗi nhớ của Kiều với Kim Trọng và cha mẹ (phẩm chất tốt đẹp của người
phụ nữ)
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
- Trong tám câu thơ, Thúy Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau bởi:
+ Với Kim Trọng, nàng là người phụ tình, phụ nghĩa
+ Với cha mẹ, Kiều đã bán mình chuộc cha, nên phần nào làm tròn chữ “hiếu”
Vì vậy, tác giả để Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau vì muốn khẳng định Thúy Kiều
biết nghĩ cho người khác, cảm thấy mình có lỗi với Kim Trọng. Kiều vừa là người yêu thủy
chung son sắt, vừa là đứa con hiếu thảo.
=> Nguyễn Du trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống.
a. Kiều nhớ đến Kim Trọng
- Kiều nhớ về lời thề nguyền của tình yêu “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”.Đây là kỉ
niệm đêm thề nguyền, Kim – Kiều cùng uống rượu dưới trăng. Đối với người con gái, tình
yêu đầu đời trong sáng, ngọt ngào bao nhiêu thì khi xa cách càng đau đớn bây nhiêu. Vì thế
kỉ niệm càng đẹp thì nỗi nhớ càng da diết, đớn đau. Phải chăng đây là thiên tình sử đẹp
nhất trong văn học được Nguyễn Du miêu tả: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh
hai miệng một lời song song.”
- Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết mình bán mình, vẫn ngày đêm ngóng đợi tin
nàng: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.Ý thơ như nặng trĩu tâm tư với nỗi dày
vò.Thực ra trong lòng Kiều đau đáu hướng về Kim Trọng nên mới tưởng tượng như vậy.
- Từ láy “bơ vơ” kết hợp với hình ảnh “bên trời góc bể” gợi ra hình bóng lẻ loi của Kiều, khi
nàng vò võ nơi phương trời xa, trông tin về người yêu trong vô vọng.
Văn học là nhân học Trang 34
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
- Nàng nhớ người Kim trọng với tâm trạng đau đớn: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
• Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng son sắt thủy chung của Kiều đối với Kim Trọng không
bao giờ có thể nguôi, tình yêu của nàng không bao giờ phai nhạt.
• Nhưng qua lời thơ, người đọc còn cảm nhận được nỗi đau đớn của Thúy Kiều khi tấm
lòng son, tấm lòng trinh bạch của nàng bị vùi dập, hoen ố, biết bao giờ gột rửa cho
hết. Trong nỗi nhớ Kim Trọng có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.
->Dù hiểu theo cách nào, người đọc cũng nhận ra một người phụ nữ thủy chung, nặng tình,
nặng nghĩa, trọng danh dự nhân phẩm
b.Nỗi nhớ của Kiều về cha mẹ
- Nàng thấy “xót” khi tưởng tượng, ở chốn quê nhà, cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng chờ tin tức
của mình.
- Nàng nhớ thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể phụng dưỡng song thân.
- Từ khi xa nhà đến nay mới đó mà Kiều tưởng như “Sân Lai cách mấy nắng mưa”, cảnh quê nhà
đổi thay nhiều, “gốc tử” đã lớn “vừa người ôm”, cha mẹ ngày một thêm già yếu. Càng nghĩ Kiều
càng thêm xót xa cho cha mẹ.
- Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh, những điển cố “Sân Lai”, “gốc tử” đã diễn tả tấm lòng hiểu
thảo và nỗi nhớ thương cha mẹ của Thúy Kiều.
+ Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh”: miêu tả hành động chăm sóc cha mẹ, đó là vào mùa hè
lấy tay quạt mát cho cha mẹ, mùa đông ủ ấm cho cha mẹ. Từ đó Nguyễn Du miêu tả tấm lòng
hiếu thảo của Kiều.
+ Hai điển tích “sân Lai”, “gốc tử”:
.Sân Lai: sân nhà lão Lai Tử, người đã già những vẫn nhảy múa trước sân để cha mẹ vui lòng
. Gốc tử: gốc cây thị, chỉ cha mẹ Kiều đã già yếu, con cái trưởng thành
➔ Thể hiện sự lo lắng của Kiều dành cho cha mẹ ngày một già yếu
→Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng.Hoàn cảnh của nàng
lúc này thật xót xa, đau đớn nhưng này đã quên đi cảnh ngộ của bản thân để hướng yêu thương
vào những người thân yêu nhất. Trái tim nàng thật giàu yêu thương, giàu đức hi sinh. Nàng thật
sự là một người tình thủy chung, một người con hiếu thảo, một người có tấm lòng vị tha cao cả
đáng quý và trọng danh dự, nhân phẩm.
→Qua đây, tác giả thể hiện thái độ trân trọng trước vẻ đẹp về nhân cách của Kiều.
3. Tám câu còn lại : Tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích qua cái nhìn cảnh vật
- Tám câu thơ cuối đã tạo nên bộ tứ bình xuất sắc của văn học trung đại. Thông thường, khi
nhắc đến tứ bình, người ta thường hay nhắc đến 4 mùa (xuân, hạ, thu, đông), tứ quý (tùng, cúc,
trúc, mai), tứ linh (long, li, quy, phượng), tứ nghề (ngư, tiều, canh, mục), còn tứ bình ở đây lại
là bốn tâm trạng khác nhau của Kiều. Không chỉ vậy, đoạn thơ còn sử dụng thành công bút
pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc kết hợp với miêu tả tâm lí nhân vật để khắc họa hình ảnh Kiều
trong tâm lí bất an, buồn lo, tủi cực.
- Điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu lục kết hợp với các câu hỏi tu từ khiến cho cả đoạn

Văn học là nhân học Trang 35


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
thơ là một câu hỏi lớn, là nỗi trăn trở của tác giả về tương lai của Kiều.
-Ở đoạn này, mỗi hình ảnh thiên nhiên là một ẩn dụ về tâm trạng con người.
a.Bức tranh 1.
- Cánh buồm “thấp thoáng” nơi của bể chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của Kiều.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
+Tác giả đã lựa chọn không gian cửa bể - là cửa sông, cửa biển ở khúc thượng nguồn đầy dữ
dội để hướng điểm nhìn của Kiều.
+ Không chỉ vậy, thời gian “chiều hôm” mang tính ước lệ tượng trưng trong văn học trung đại
thường gợi nỗi buồn tha hương – nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Ánh nắng chiều đổ ập xuống
không gian cửa bể, nhấn mạnh nỗi buồn tha hương, lữ thứ.
MR:Ta vẫn còn nhớ niềm hoài cổ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: Dấu xưa xe ngựa hồn
thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” (Thăng Long thành hoài cổ)
+ Giữa không gian cao vời vợi ấy, Thúy Kiều tập trung vào hình ảnh con thuyền, cánh buồm.
“Ai” là đại từ phiếm chỉ, là một người hoặc nhiều người, nó khắc họa đôi mắt đang kiếm tìm.
Phải chăng đây là con thuyền chở nỗi nhớ nhà, nhớ quê.
+ Hình ảnh cánh buồm trôi nổi bấp bênh trên dòng sông gợi nhiều liên tưởng. Có người cho
rằng đó là cảnh buồm thực mà kiều đang trông ngóng.Tuy nhiên cách lí giải này chưa thực sự
phù hợp với thực tế trong xã hội xưa khi giao thông chủ yếu là đường thủy.Nhiều ý kiến cho
rằng cánh buồm chính là ẩn dụ cho cuộc đời trôi nổi, bấp bênh của Kiều, bởi giờ đây nàng
không biết sẽ đi đâu về đâu.
+ Từ láy “thấp thoáng, xa xa” miêu tả cảnh buồm đang biến mất khỏi tầm mắt của nàng để lẫn
vào không gian. Thực chất, hai từ láy khắc họa hình ảnh Kiều ngồi đây như chôn chân bó gối
nhưng linh hồn thì đã cuốn theo cánh buồm. Cuộc sống quá tẻ nhạt mà tâm hồn thì bơ vơ, bất
định.
+MR: Hình ảnh cánh buồm của Nguyễn Du giúp ta liên tưởng tới cách miêu tả trong thơ
mới với “Cánh buồm” của Nguyễn Bính: Anh đi đấy, anh về đâu/ Cánh buồm nâu…cánh
buồm nâu…cánh buồm.
➔ Như vậy, ở cặp thơ đầu tiên, Thúy Kiều tập trung vào điểm nhìn cánh buồm và con
thuyền nhưng nàng không hề thấy sự liên kết, an ủi mà chỉ là nỗi lo lắng, bất an.
b. Bức tranh 2.
-Kiều bắt gặp cánh hoa trôi man mác giữa dòng nước gợi nỗi buồn vê thân phận nổi trôi, lênh
đênh, không biết đi đâu về đâu.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
+Ở cái nhìn thứ hai, Kiều hướng về ngọn nước mới sa. Đây là cách miêu tả thác nước từ trên
cao đổ ập xuống đầy dữ dằn, nguy hiểm như muốn cuốn phăng đi tất cả.Trước cảnh tượng ấy,
hiếm có ai mà không sợ hãi, lo lắng.

Văn học là nhân học Trang 36


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
+ NT tương phản giữa hình ảnh “hoa trôi” với “ngọn nước mới sa” tạo ra nhiều ám ảnh với
người đọc. “Hoa” vốn là biểu tượng cho sự mỏng manh, yếu đuối, nhẹ nhàng.“Hoa” chỉ đẹp khi
ở trên cành, được nâng niu, chăm chút.Thế mà nay đóa hoa ấy lại bị vùi dập bởi dòng nước
chảy siết.Động từ “trôi” càng nhấn mạnh vào sự buông xuôi, phó mặc.Phải chăng đóa hoa ấy
chính là ẩn dụ cho thân phận của Kiều đang trôi dạt giữa dòng đời nghiệt ngã.
+ MR: hình ảnh thơ khiến ta nghẹn ngào nhớ tới thân phận người phụ nữ trong ca dao:
“Thân em như trái bần trôi/ Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?”
+ Từ láy “man mác” đặt ở giữa câu như làm nổi bật tâm trạng nàng Kiều. Đó là nỗi buồn vương
rất nhẹ mà rất thấm, dai dẳng mà quyết liệt. Chỉ một từ láy thôi đủ cho ta cảm nhận đôi mắt
Kiều như thấm đẫm nỗi buồn.
+ Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?” không phải để hỏi, cũng ko cần trả lời. Phải chăng đó là câu
hỏi hư vô nhấn mạnh vào nỗi khắc khoải của Kiều, biết đến bao giờ, biết về đâu để tìm lại ngôi
nhà yên ấm trước đây.
➔ Như vậy, qua cảnh thứ hai với hình ảnh ngọn nước, đóa hoa, ta cảm thông trước nỗi xót
xa của kiều. MR:Bởi vậy mà Mộng Liên Đường Chủ Nhân từng nhận xét: Nguyễn
Du viết Kiều máu rỏ trên đầu ngọn bút”. Quả thực mỗi câu mỗi chữ trong bộ tứ
bình như đang gỉ máu khi khắc họa tâm trạng Kiều: bơ vơ, lưu lạc.
c. Bức tranh thứ 3.
- Nội cỏ rầu rầu giữa chân mây mặt đất gợi tâm trạng bi thương, tuyệt vọng về một tương lai mù
mịt.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
+ Kiều thay đổi điểm nhìn mong tìm kiếm chút niềm vui nhưng lại gặp hình ảnh “nội cỏ rầu
rầu”. Từ láy “rầu rầu” là từ láy thanh trắc, âm khép đứng cuối câu như kéo trùng câu thơ xuống
trở nên nặng trĩu. Từ láy gợi ra hình ảnh sắc cỏ sau mưa bị dập nát héo úa trở nên tàn tạ khác
hẳn với thảm cỏ non xanh xa tít tắp chân trời trong tiết thanh minh. Không chỉ vậy, từ láy “rầu
rầu” còn gợi ra tâm trạng dày vò, bất an vừa thương cha mẹ, vừa nhớ Kim Trọng, vừa lo lắng
cho bản thân của Kiều.
+ Không gian được mở rộng ra “chân mây mặt đất” nhưng đó không phải là sự khoáng đạt, thư
thái mà là một cảnh vật hỗn loạn diễn ra trước mắt. Mây ở trên trời như sà xuống mặt đất, tạo
cảnh tượng hùng vĩ mà dữ dội. Ý thơ này tiếp thu từ hai câu thơ của Đỗ Phủ trong “Thu hứng”:
“Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thượng phong vân tiếp địa âm”
+ Không gian chỉ độc một màu xanh của cỏ. Từ láy “xanh xanh” tạo cảm giác đầy mịt mùng,
não nề.
➔ Bức tranh thứ ba đẩy tâm trạng Kiều lên nỗi tuyệt vọng, buồn đau
d. Bức tranh thứ tư: Nỗi lo sợ trước tương lai.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Văn học là nhân học Trang 37
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
- Cuối cùng là hình ảnh thiên nhiên dữ dội với “gió cuốn mặt duềnh”, “ầm ầm tiếng sóng” cho
thấy tâm trạng lo sợ hãi hùng trước những tai hoạ đang rình rập nàng.
+ Hai câu thơ khép lại bức tranh tứ bình là hai hình ảnh sóng và gió. Đây là những hình ảnh tô
đậm sự dữ dội, nguy hiểm của thiên nhiên.Nó khác hẳn với bức tranh thiên nhiên ở sáu câu thơ
đầu bởi thiên nhiên đã không còn lãng mạn, thơ mộng nữa.
+ Sóng và gió chính là hình ảnh ẩn dụ cho phong ba bão táp, cho những tai ương chuẩn bị ập
đến cuộc đời Kiều.
+ Các động từ mạnh “cuốn”, “kêu” khắc họa tiếng sóng ở cửa bể chiều hôm như phá tan không
gian, như xé toạc tâm trí Kiều, không còn chút bình yên, tĩnh lặng nào nữa.
+ NT đảo ngữ, đảo từ láy “ầm ầm” lên đầu khắc họa tính chất dữ dội, hoang dại, bí hiểm của
thiên nhiên. Đến đây, không còn là thân phận nhỏ bé của Kiều nữa mà cái nhìn của nàng đã bị
nuốt chửng bởi tai ương đang chuẩn bị ập xuống.
+ Bức tranh thứ tư chính là nỗi sợ hãi, lo lắng trước tương lai nhiều sóng gió, truân chuyên.
Đoạn trích cũng là sự dự báo sự kiện sắp xảy ra, khi Kiều bị Sở Khanh lừa gạt, rơi vào bẫy của
Tú Bà khiến Kiều phải đau đớn chấp nhận tiếp khách.
- Về nghệ thuật:
o Để khắc họa tâm trạng của Kiều, tám câu thơ này có đến 4 lần tác giả sử dụng điệp ngữ
“buồn trông” đặt ở đầu các câu sáu chữ kết hợp với các hình ảnh (biển, thuyền, ngọn
nước, hoa trôi, nội cỏ, chân mây mặt đất, gió, tiếng sóng) đứng sau đó diễn tả nỗi buồn
dằng dặc tưởng như không bao giờ kết thúc, với nhiều cấp độ khác nhau.
o Câu hỏi tu từ và các từ láy, chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ
láy tượng thanh ở câu cuối, tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tãng, dâng lên
lớp lớp.
o Đoạn thơ này được coi là kiểu mẫu cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của văn chương cổ.
Mỗi cảnh vật gắn liền nỗi buồn khác nhau, nỗi buồn ấy càng ngày càng mãnh liệt, da diết
hơn như những lớp sóng đang dồn dập, tới tấp, xô đẩy cuộc đời Kiều.
→Ở đây không chỉ có cảnh đẹp, tình sầu, mà lòng nhà thơ cùng hoà với lòng nhân vật, cùng
đồng cảm với nỗi đau tê tái trong tâm hồn và số phận nàng Kiều đồng thời, lời thơ còn như dự
báo về một chuỗi ngày đau thương, khủng khiếp đang chờ đợi nàng phía trước.
III. TỔNG KẾT
1.Nội dung
- Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đó thể hiện chân thực cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi đáng
thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi
bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
- Thể hiện được thái độ cảm thương sâu sắc với nỗi đau của Kiều đồng thời ca ngợi phẩm chất
đẹp đẽ của nàng.
2.Nghệ thuật: Nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình hay nhất trong
Truyện Kiều, sử dụng thành ngữ, điển tích, điển cố, từ láy, các câu hỏi tu từ.
Văn học là nhân học Trang 38
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
PHIẾU BÀI TẬP “KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH”
Bài 1. Học thuộc đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Nêu vị trí đoạn trích, bố cục của văn bản.
Bài 2. Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phép lập luận diễn dịch phân tích hoàn cảnh cô đơn tội
nghiệp của Thúy Kiều. Trong đoạn sử dụng trợ từ (chỉ rõ).
Bài 3.Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phép lập luận quy nạp phân tích nỗi nhớ Kim Trọng và
nỗi nhớ cha mẹ của Kiều. Trong đoạn sử dụng câu cảm thán. (chỉ rõ)
Bài 4.Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phép lập luận t-p-h phân tích 8 câu thơ cuối trong đoạn
trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Trong đoạn sử dụng phó từ. (chỉ rõ)
Bài 4. Hệ thống kiến thức bài theo bảng sau:

Chỉ rõ nghệ thuật Thơ (gạch chân tín hiệu nghệ thuật) Nêu nội dung, ý nghĩa

…………………. …………………………………………… …………………………….


…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………. …………………………………………… …………………………….
…………………………………………… …………………………….
…………………………………………… …………………………….
……………………………………………

Văn học là nhân học Trang 39


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
BÀI 6. TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN

Nguyễn Đình Chiểu


I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1/Tác giả:
- (1822 -1888): Tân Khánh - Tân Phú - Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh).
- Cuộc đời ông có nhiều đau khổ, tuổi thơ lận đận.
- 1843 thi đỗ tú tài, 1847 chuẩn bị thi cao hơn thì bất hạnh ập tới, ông bị mủ mắt.
- Đường công danh nghẽn lối, tình duyên trắc trở. Bạo ước mơ tan vỡ.
- Ông về quê dạy học, làm thuốc, sóng cuộc sống thanh bạch. Thực dân Pháp xâm lược, ông
đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan, dân lầm than.
- Tác giả không gục ngã trước số phận oan nghiệt, ông ngẩng cao đàu mà sổng, sống có ích
đến hơi thở cuối cùng.
- Trong các nhà văn Việt Nam xưa nay, ông là nhà văn đau khổ nất, mù loà, học vấn dở
dang, nghèo khổ, sống trong cảnh lầm than nhưng ông sống một cuộc đời đạo đức cao cả,
đầy nghị lực.
- Ông để lại cho đời một sự nghiệp văn chương có giá trị lớn với nhiều truyện thơ, bài thơ,
văn tế.... Tất cả đều viết bằng chữ Nôm. Nổi tiếng nhất truyện thơ Nôm : Lục Tham
khảo thêm:
- Sinh ra ở quê mẹ: Gia Định
- Con quan, được nuôi dạy chữ ngay từ nhỏ, 12 tuổi theo cha (Nguyễn Đình Huy) chạy loạn
về quê nội (Huế). Tại đây ông tiếp tục học hành, đỗ tú tài ở Gia Định ( 1843). Năm 1849, ông ra
Huế dự thi Hội, đang chờ thi thì mẹ mất ở trong Nam, ông bỏ thi về chịu tang, khóc mẹ mù cả
hai mắt.
- Học giỏi đỗ tú tài năm 26 tuổi.
- Bị mù, từ đó mở trường dạy học và làm thuốc tại quê nhà.
- 1858, Pháp đánh vào Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu chạy về Cần Giuộc- Ba Tri. Pháp mua
chuộc ông không được: “Đất vua đã mất, đất của riêng tôi nào có đáng gì”.
- Ông mất năm 1888 tại Ba tri (Bến tre).
-> Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sống đầy nghị lực, sống bằng khí phách luôn
vượt lên bất hạnh và khổ đau để làm những việc có ích cho dân cho nước, sống có đạo đức cao
cả, yêu thương nhân dân, chống lại kẻ xâm lược.
+ Cùng các lãnh tụ nghĩa quân (Trương Định, Phan Tòng) bàn mưu kế chống Pháp.
+ Ông sáng tác nhiều thơ văn khích lệ tinh thần yêu nước, chiến đấu của nhân dân Nam Bộ.
+ Ông gánh vác và nêu cao gương sáng cả 3 cương vị: thầy giáo, thầy thuốc, nhà thơ yêu nước.
* Sự nghiệp thơ văn: toàn bộ viết bằng chữ Nôm: Truyện thơ Lục vân Tiên, Ngư Tiều y thuật
vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, văn tế trương Định...

Văn học là nhân học Trang 40


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
2/ Tác phẩm “ Lục Vân Tiên”
a/Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác:
- Truyên thơ Nôm có 2082 câu thơ lục bát, được sáng tác vào những năm 50 mươi của thế
kỷ 19. Truyện được lưu truyền rộng rãi, có sức sống mạnh mẽ và lâu bền trong lòng nhân
dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ.
b/Kết cấu:
- Theo thể loại truyền thống của phương Đông( kiểu chương hồi, xoay quanh diễn biến
cuộc đời chính các nhân vật).
- Cốt truyện chia làm 4 phần.
o LVT đánh cướp cứuKNN
o LVT gặp nạn được cứu gíup
o KNN gặp nạn vẫn giữ được lòng chung thuỷ.
o LVT và KNN gặp lại nhau.
c/Tóm tắt:
- LVT xuất thân con nhà nghèo khô ngô tuấn tú” văn võ song toàn”. Trên đường về kinh
dự thi gặp và đánh tan bọn cướp cứu KNN và nàng hầu. KNN mang theo hình bóng của
LVT - người có ơn cứu mạng mình. LVT ghé thăm nhà Võ Công - gia đình hứa gả con
gái cho chàng. LVT gặp bạn tốt: Vương Tử Trực, Hớn Minh, kẻ xấu: Trịnh Hâm, Bùi
Kiệm.
- Sắp vào trường thi, LVT nghe tin mẹ mất. Chàng bỏ thi, khóc thương xót mẹ mù cả hai
mắt. Chàng bị bọn xấu lừa gạt lấy hết tiền, bị Trịnh Hâm đảy xuống sông được Giao
Long và vợ chồng Ngư ông cứu vớt.
- LVT tìm đến nhà Võ Công thì bị hắt hủi, bỏ vào hang sâu, chàng được thần núi và ông
Tiều cứu giúp. Chàng gặp Hớn Minh, họ sống trong một ngôi chùa. Võ Công định gả con
gái cho Vương Tử Trực( khi chàng thi đỗ trở về tìm VT), bị chàng mắng, Võ Công xấu
hổ ốm chết.
- KNN, từ ngày được LVT cứu khỏi tây bọ cướp, nàng thề nguyền chung thuỷ với chàng.
Khi nàng bị bắt đị cống giặc Ô Qua, KNN nhảy xuống sông tự vẫn nhưng được quan thế
âm cứu gíup đưa vào nhà Bùi Kiệm, hắn ép KNN phải lấy hắn, nàng bỏ trốn được bà lão
trong rừng đưa về nuôi.
- LVT gặp thuốc tiên khỏi mắt. Chàng thi đỗ trạng nguyên, sau đấy được nhà vua cử đi dẹp
giặc Ô Qua. Thắng trận ữở về chàng gặp lại KNN. Từ đấy hai người nên vợ nên chồng
sống cuộc đời hạnh phúc.
d/ Giá trị tác phẫm:
* Giá trị nội dung:
o Vạch trần cái ác, cái xấu trong xã hội.
o Xem trọng tình nghĩa con người với con người.
o Đề cao tinh thần nghĩa hiệp sẵn sàng cứu khốn phò nguy, o Thể hiện khắt vọng của nhân
Văn học là nhân học Trang 41
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
dân cái thiện chiến thắng cái ác, công bằng, những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
o Hình tượng LVT là hình mẫu lý tưởng vì vậy được nhân dân tiếp nhận nồng nhiệt.
* Giá trị nghệ thuật:
- Truyện thơ Nôm; tính chất kể nhiều hơn là đọc, để xem.
- Truyện chú trọng đến diến biến hành động hơn là nội tâm. Tính cách nhân vật được bộc lộ
cử chỉ, hành động...

Văn học là nhân học Trang 42


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
ĐOẠN TRÍCH: LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA
(Trích “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu)
I/ KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1/Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần đầu của truyện.
2 /Bố cục :2 phần
Phần 1: Lục Vân Tiên đánh cướp.
Phần 2: Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga
2. Nội dung và nghệ thuật:
- Trên đường trở về nhà thăm cha mẹ trươc khi lên kinh đô thi, gặp bọn cướp đang hoành
hành LVT một mình một gậy”nhằm làng xông vô” đánh tan bọn cướp, cứu KNN và cô hàu Kim
Liên.
II/PHÂN TÍCH.
1/Hình ảnh Lục Vân Tiên
- Hình ảnh Lục VânTiên được khắc họa theo mô típ quen thuộc của truyện Nôm truyền
thông: một chàng trai tài giỏi cứu một cô gái thoát khỏi tình huống hiểm nghèo, rồi từ ân
nghĩa đến tình yêu... như chàng Thạch Sang đánh đại bàng, cứu công chúa Quỳnh Nga
(“Thạch Sanh”)
- Lục Vân Tiên là nhân vật lí tưởng của tác phẩm (thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của tác giả về
con người trong cuộc sống đường thời...)
a. Lục Vân Tiên đánh cướp:
- Đây là một chàng trai vừa rời trường học, bước vào đời lòng đầy hăm hở, muốn lập công
danh, thi thố tài năng, cứu người giúp đời. Trận đụng độ với bọn cướp Phong Lai hung
dữ là thử thách đầu tiên, cũng là cơ hội hành động dành cho chàng.
- Bốn câu thơ đầu làm hiện lên hình ảnh một chàng trai giàu lòng nghĩa hiệp, giữa đường
gặp chuyện bất bình thì sẵn sàng xả thân ra tay cứu giúp, không cân phải so đo tính toán.
- Vân Tiên chỉ có một mình với tay không đánh giặc, trong khi bọn cướp đông đảo, gươm
giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng. Vậy mà chàng không hề run sợ, vẫn “bẻ cây làm gậy” xông
vào đánh cướp. Hành động mau lẹ đến thế phải của một người gan góc, quả cảm ,coi việc
cứu dân là trách nhiệm của bản thân.
- Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh được miêu tả thật đẹp, thật oai hùng. Bọn cướp
“bốnphía bủa vây bịt bùng” nhưng Vân Tiên không chút nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
-> Không tả tỉ mỉ trận chiến, chỉ bằng mấy dòng thơ ngăn gọn mà đặc sắc cùng nghệ thuật so
sánh, tác giả đã làm nổi bật một dũng tướng đánh nhanh, kín võ, sánh ngang Triệu Tử Long thời
Tam Quốc trong trận phá vòng vây quân Tào bảo vệ ấu chúa. Sức mạnh của chàng là kết tinh
sức mạnh của nhân dân, của điều thiện nên nó vô địch:
Lâu la bổn phía võ tan,

Văn học là nhân học Trang 43


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
-> Lời thơ chân chất, mộc mạc song hồn thơ thì chan chứa dạt dào. Nó nêu bật một chân lý: kẻ
bất nhân độc ác thì thảm bại, người anh hùng làm việc nghĩa tất yếu sẽ chiến thắng. Vân Tiên đã
chiến thắng bởi sức mạnh của nhân nghĩa, của lẽ phải, sức mạnh của tình yêu thương và lòng
dũng cảm kiên cường. Chàng chính là hiện thân của người anh hùng thượng vố, sẵn sàng cứu
khốn phò nguy, dám bênh vực kẻ yếu, tiêu diệt mọi thế lực bạo tàn.
b. Cuộc trò chuyện của Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga
- Cách cư xử của Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp bộc lộ tư cách con
người chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài cũng rất từ tâm nhân hậu.
- Thấy hai cô gái còn chưa hết sợ hãi, Vân Tiên đã có những lời nói, hành động, cử chỉ:
+ Ần cần hỏi han
+ An ủi họ.
+ Giữ lễ nghi của người quân tử.
- Khước từ sự đền đáp của Kiều Nguyệt Nga, không tham vàng bạc, danh vọng.
- Làm việc nghĩa là bổn phận, lẽ tự nhiên của người quân tử.
- Nụ cười của Yân Tiên chửa đựng sự vô tư, trong sáng, trọng nghĩa khinh tài: “làm ơn há dễ
trông người trả ơn”
=> Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ẩy cũng phi anh hừng.
=> Với phẩm chất cao đẹp, Lục Vân Tiên đã trở thành một hình tượng lí tưởng để Nguyễn
ĐìnhChiểu gửi gắm vào đó niềm tin và ước vọng của mình.
2/Hình ảnh Kiều Nguyệt Nga .
- Đây là nhân vật lí tưởng thể hiện quan điểm của tác giả về hình mẫu một người phụ nữ có
tài sắc, học thức, rất đỗi kiên trinh, thuỷ chung, trong sáng.
- Nàng xưng hô khiêm nhường. Nàng thực hiện phép tắc lễ nghi trong giao tiếp với LVT
bằng thái độ và lời lẽ kính trọng. Nàng giãi bày hoàn cảnh của mình với một giọng kể dịu
dàng, mực thước...
- Mỗi cử chỉ, lời nói của nàng đều toát lên vẻ thuỳ mị nết na của một người con gái có học
thức, hiểu rõ phép tắc lễ nghi.
- Hơn thế nữa, nàng còn chịu ơn LVT, lại là ơn trọng bởi đó không chỉ là ơn cứu mạng, mà
còn cứu cả cuộc đời, cả tính mạng. Vì vậy, KNN đang băn khoăn tìm cách để trả ơnLVT:
mời chàng về nhà để ”đền ân”, xin tặng trâm cài đầu cho chàng...Và khi mọi đề nghị của
nàng bị LVT từ chối thì nàng” xin đưa một bài thơ giã từ”, ơn chuyển thành nghĩa, nghĩa
chuyển thành tình, dù khác mối tình “sét đánh” Kim Trong và Thùy Kiều nhưng diễn
biến trong tình cảm của KNN hoàn toàn logic.

Văn học là nhân học Trang 44


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
- Từ giây phút gặp gỡ ấy cho đến suốt cuộc đời, KNN đã tự nguyện gắn bó với chàng trai nghĩa
hiệp ấy, thủy chung son sắc, dám liều mình để giữ trọn ân tình.
> Vẻ đẹp trong tâm hồn nàng đã toả sáng, tạo thành một bức chân dung tuyệt đẹp về người phụ
nữ, chinh phục được niêm cảm mên của nhân dân.
PHIẾU BÀI TẬP
Câu 1.Nêu vị trí, bố cục của đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
Câu 2.Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu nêu cảm nhận của em về nhân vật Lục Vân Tiên
trong đoạn trích.
Câu 3.Viết đoạn văn quy nạp khoảng 12 câu nêu cảm nhận của em về nhân vật Kiều Nguyệt
Nga trong đoạn trích.
Câu 4. Hệ thống kiến thức theo bảng:
Chỉ rõ nghệ Thơ (gạch chân tín hiệu nghệ thuật) Nêu nội dung, ý nghĩa
thuật
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Hành động Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô. Mạnh mẽ, dứt khoát
Lời nói Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ, Lời nói khảng khái, uy
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.” phong
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
“Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
Trước gây việc dữ tại mầy,
Truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng.” Tương quan lực lượng
So sánh Vân Tiên tả đột hữu xông, Hình ảnh đẹp trong trận
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang. đánh: dũng mãnh, tài ba
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay. Tài năng, tinh thần vị nghĩa
Kết cục Phong Lai trở chẳng kịp tay, vong thân
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Hình thức ngôn Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
ngữ đối thoại Hỏi: Ai than khóc ở trong xe nầy?” Hỏi han
Thưa rằng: “Tôi thiệt người ngay,
Sơ cơ nên mới lầm tay hung đồ.
Trong xe chật hẹp khôn phô,
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng.”
Vân Tiên nghe nói động lòng, Thương cảm
Đáp rằng: “Ta đã trừ dòng lâu la. An ủi
Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Giữ lễ nghi
Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Tiểu thơ con gái nhà ai, Hỏi han ân cần

Văn học là nhân học Trang 45


NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì?
Chẳng hay tên họ là chi?
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
Trước sau chưa hãn dạ nầy,
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?”
Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga, Trình bày hoàn cảnh đầy
Con nầy tì tất tên là Kim Liên. đủ, rõ ràng
Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
Sai quân đem bức thư về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha, Nết na, mực thước
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành.
Chẳng qua là sự bất bình,
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi. Trọng ân nghĩa
Trước xe quân tử tạm ngồi, Xưng hô khiêm nhường
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần, Xin đền ân nghĩa
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.”
Vân Tiên nghe nói liền cười:
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn. Quan niệm làm việc nghĩa
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi, QUan niệm về người anh
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. hùng.

Văn học là nhân học Trang 46

You might also like