Professional Documents
Culture Documents
Chuyên đề 1:
LỚP 9A8 - LQĐ VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
BÀI 1.CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
Nguyễn Dữ
I/KIẾN THỨC CƠ BẢN:
1/Tác giả:
- Vị trí: được đánh giá là nhà văn đầu tiên biết quan tâm đến người phụ nữ (Vũ Khâm
Lân).
- Nguyễn Dữ (không rõ năm sinh, năm mất) sống vào thế kỉ 16 (giai đoạn phong kiến lâm
vào cảnh loạn li suy yếu với nhiều cuộc chiến tranh pk loạn lạc liên miên ). Quê quán: Thanh
Miện, Hải Dương.
-GĐ: sinh ra trong một gđ gốc nho, từng thi đỗ làm quan rồi cáo quan về ở ẩn.
- Ông là học trò xuất sắc của Tuyết Giang Phu Tử - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vì thời cuộc,
ông làm quan một năm rồi từ quan, ở ẩn tại Thanh Hoá.Ông là một ẩn sĩ tiêu biểu, một nhà nho
luôn sống thanh cao trọn đời.Người đặt nền móng cho văn chương tự sự nước nhà.
- ND sáng tác:
+ Phản ánh chân thực bức tranh XHPK VN đương thời
+Mang giá trị hiện thực sâu sắc
2/Tác phẩm:
a/Hoàn cảnh sáng tác:
- Vào thế kỉ 16: chế độ phong kiến đang suy vong, bất công, tàn bạo, gây nhiều đau khố
chomọi người, nhất là người phụ nữ.
- Tác giả mượn yếu tố hoang đường để phản ánh văn đề của hiện thực, dựa vào cơ sở một
truyện cổ tích thêm nội dung mang yếu tố thời đại.
b/ Xuất xứ:“Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong số 20 truyện
trong“Truyền kỳ mạn lục”.Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian trong kho tàng cổ
tích Việt Nam “Vợ chàng Trương”.
c/ Thể loại:Truyện truyền kỳ.
- Xuất xứ: từ TQ, thời kì Minh Thanh
-Có yếu tố kì ảo, hoang đường
- NV chủ yếu: tri thức nghèo, người phụ nữ
- Chủ yếu viết bằng chữ Hán.
d/ Chủ đề:
- Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con
gái Nam Xương” thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ
đẹp truyền thống của những phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
- Trong thời gian chồng đi lính, Vn là người vợ hết mực thủy chung.
+ ND đã sd thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình kết hợp hình ảnh ước lệ tượng trưng để
khắc họa nỗi nhớ da diết của VN.
+ D/ch: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây
che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”
+ Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” gợi mùa xuân tươi thắm rực rỡ sắc màu; “mây che kín
núi” gợi mùa đông ảm đạm nhưng sự vật quấn quýt giao hòa. Trạng ngữ thời gian “mỗi khi”
miêu tả thời gian mang tính tuần hoàn lặp đi lặp lại, năm này qua năm khác nàng mòn mỏi chời
chồng.
+ Hình ảnh “góc bể chân trời” gợi không gian xa cách nghìn trùng. Chỉ một câu văn, người
đọc đã nhận ra nỗi buồn và nỗi nhớ chồng của biết bao người phụ nữ trong XHPK khi chiến
tranh phi nghĩa kéo dài liên miên.
MR: + Ta vẫn còn nhớ những câu thơ đầy cảm động trong “Chinh phụ ngân khúc”
của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm:
“Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
* Khi chồng đi lính trở về:
- Bị chồng nghi oan là thất tiết, Vũ Nương hết lời phân trần, tìm cách thanh minh mong
hàn gắn hạnh phúc gia đình. Hai lời thoại nói với chồng thể hiện rõ khao khát hàn gắn, cứu vãn
hạnh phúc gia đình của nàng.
- Lời thoại 1: nàng cầu xin Trương Sinh không nghi ngờ danh tiết của mình.
Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh.Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi
lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như chàng nói. Dám xin
bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
-> trong lời thoại này, Vũ Nương ý thức được thân phận vốn con kẻ khó kém mau mắn
được hưởng bổng lộc nhà giàu nhưng cũng trải qua không ít khó khăn để giữ gìn tổ ấm. Nàng
Văn học là nhân học Trang 4
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
đã kể ra những lí do vừa khách quan, vừa chủ quan để thuyết phục Trương Sinh, cùng cách
xưng hô “thiếp” – “Chàng” nhẹ nhàng, khéo léo. Lời cầu xin của VN là lời khẩn thiết chân
thành không phải để nói nàng là người có lỗi để thấy được Vũ Nương rất thông minh, luôn khao
khát hạnh phúc gia đình.
- Lời thoại 2: Vũ Nương dường như chỉ còn nỗi tuyệt vọng đau đớn:
Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm
gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống,
kêu xuân cái én lìa đàn, nước thảm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
➔ 5 thành ngữ liên tiếp: bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu
tàn trước gió kết hợp tích “núi Vọng Phu” như khẳng định tình cảm thủy chung son sắt của Vũ
Nương dành cho chồng. Không chỉ vậy, đây còn là nỗi đau tuyệt vọng khi mất đi hạnh phúc lứa
đôi. Qua đây ta cũng thấy được tấm lòng cảm thông của Nguyễn Dữ với thân phận người phụ
nữ trong xã hội xưa.
* Khi sống ở thuỷ cung: nàng vẫn nặng tình với quê hương, với chồng con. Trong cuộc
trò chuyện với Phan Lang, khi nghe Phan Lang nhắc tới quê hương, chồng con, thì nằng ứa hai
hàng lệ.
c. Vũ Nương là người mẹ thương con, người con dâu hiếu thảo.
* Nàng là một người mẹ hết mực yêu thương con
- Trong vai trò của người mẹ, Vũ Nương không được kể nhiều về những ngày tháng nuôi
bé Đản gian truân, vất vả. Nhưng qua hoàn cảnh “Bấy giờ, nàng đương có mang, sau khi xa
chàng vừa đầy tuần thi sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Đản”, ta thấy được nàng đã một mình
sinh con, yêu thương và chăm sóc con khi xa chồng.
- Đặc biệt, chi tiết hàng đêm, Vũ Nương trỏ bóng mình chỉ đó là cha Đản, vui chơi với
Đản, khỏa lấp đi nỗi thiếu vắng tình yêu thương. Nàng vừa là người mẹ tâm lí, yêu con, vừa có
trách nhiệm. Vũ Nương hiểu được đứa trẻ ngây thơ như Đản đâu phân biệt được thật giả nhưng
nàng hiểu những thiệt thòi của con. Thương con mà VN trở nên cao cả, vừa làm tròn trách
nhiệm của người mẹ nhưng lại gánh vác trọng trách của người cha.
* VN là người con dâu hiếu thảo:
- Nàng thay chồng chăm sóc mẹ những ngày chồng đi lính xa nhà.
- Khi mẹ chồng ốm, “nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn
khéo khuyên lơn”. Một câu văn ngắn chia làm 3 vế với cấu trúc song hành khẳng định tất cả
những cố gắng của Vũ Nương mong sao cứa chữa cho mẹ chồng. Ban đầu là lo lắng về vật chất
thuốc thang, sau đó là cúng bái tâm linh và động viên tinh thần mẹ. Những hành động này đâu
chỉ là trách nhiệm mà nó còn là cả tấm lòng chân thành. Nó xóa đi khoảng cách mẹ chồng nàng
dâu như một cuộc chiến không dứt trong xã hội.
- Khi mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo việc ma chay như đối với cha mẹ đẻ. Lời
của mẹ chồng trước lúc mất đã khẳng định tấm lòng hiếu thảo hết mức của Vũ Nương: “Sau
này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia
Văn học là nhân học Trang 5
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.” Nguyễn Dữ đã rất khéo léo đặt lời khen
khách quan từ phía mẹ chồng dành cho VN, rõ ràng lời khen ấy có trọng lượng nghìn vàng hơn
mọi lời khen trước đó. Chính từ câu nói ấy mà người đọc hi vọng vào một tương lai tốt đẹp đến
với nàng.
d.Vũ Nương là người phụ nữ trọng nhân phẩm, sống tình nghĩa và giàu lòng vị tha:
- Vũ Nương đã chọn cái chết để tự minh oan cho mình, để bảo vệ nhân phẩm của người
phụ nữ.
- Dù nhớ thương quê hứơng da diết, nàng vẫn giữ lời hứa với Linh Phi → coi trọng tình
nghĩa.
- Khi hiện về trong lễ lập đàn giải oan, Vũ Nương không một lời trách cứ Trương Sinh mà
chỉ là những lời dặn dò, tiễn biệt.
➢ Vũ Nương quả là ngưòi phụ nữ hoàn hảo, mang trong mình nét đẹp truyền thống lí
tưởng của người phụ nữ VN ở cả ba cương vị: người vợ, người mẹ, người con.
➢ Thể hiện thái độ ngợi ca của tác giả.
1.2. Vũ Nương phải chịu nhiều nỗi bất hạnh
a. Nàng phải chịu nỗi oan khuất:
- Sau ba năm mòn mỏi chờ mong cuối cùng Vũ Nương cũng được đón chồng trở về với hai
chữ bình yên như ước nguyện của nàng thủa tiễn chồng ra đi. Nhưng tưởng hạnh phúc sẽ mỉn
cười với nàng. Nhưng oái oăm thay cho cuộc đời số phận Vũ Nương: ngày sum họp cũng là
ngày nàng phải gánh chịu nỗi oan khuất, bị chồng nghi ngờ là thất tiết:
+ Nàng nhẫn nhục nhắc đến thân phận mình, đến tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm
lòng trong trắng thủy chung, cầu mong chồng đừng nghi oan nhưng cũng không hàn gắn được
hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
+Nàng thất vọng khi bị đối xử tàn nhẫn, bất công, không có quyền tự bảo vệ mình. Ước
mong duy nhất của nàng là “thú vui nghi gia nghi thất“ nhưng giờ đây hạnh phúc đã tan vỡ,
tình cảm thủy chung dành cho chồng bị phủ nhận, cả nỗi nhớ chồng mà hóa đá trước đây cũng
không còn. Cuộc sống với người phụ nữ khao khát yêu thương ấy chẳng còn ý nghĩa gì nữa.
- Bi kịch bị nghi oan của Vũ Nương là nỗi đau đớn mất đi lòng tự trọng, danh dự và nhân
phẩm. Nỗi oan ấy được tạo ra bởi thói ghen tuông vô lối, thói gia trưởng, ích kỉ của Trương
Sinh.
b. Bi kịch tận cùng khi nàng lựa chọn cái chết
- Tác giả miêu tả cái chết của Vũ Nương như một điều tất yếu để chứng minh cho tấm lòng
trinh bạch của nàng. Trong lời thoại thứ ba, nàng nói chuyện với trời như đang độc thoại với
mình.
Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay tiếng buộc, tiếng
chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trình
bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng
lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều
B. BÀI TẬP
Bài số 1: Trong Chuyện người con gái Nam Xương , chi tiết chiếc bóng có ý nghĩa gì trong
cách kể chuyện. Hãy viết 1 đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về chi tiết này.
Bài số 2: Chuyện người con gái Nam Xương có nhiều yếu tố kì ảo. Hãy chỉ ra những yếu
tố kì ảo trong truyện và cho biết tác giả muốn thể hiện điều gì qua các yếu tố kì ảo đó.
Bài số 3: Suy nghĩ của em về cái chết của Vũ Nương.
Bài số 4. Vẽ sơ đồ mindmap nhân vật Vũ Nương. Học thuộc dẫn chứng.
Bài số 5. Hãy tóm tắt ngắn gọn tác phẩm theo bảng sau:
Hoàn cảnh Sự kiện
b) Thể loại: viết theo thể chí, một lối văn ghi chép sự vật, sự việc, con người. Cũng có thể
xem là 1 tiểu thuyết Lịch sử kết cấu chương hồi
c) Nội dung:
- Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả họ Ngô Thì đã tái hiện
chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân
Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
d) Tóm tắt:
- Trước thế mạnh của giặc, quân Tây Sơn ở Thăng Long, rút quân về Tam Điệp và cho người
vào Phủ Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ.
- Nhận được tin ngày 24/11, Nguyễn Huệ liền tổ chức lại lực lượng chia quân làm hai đạo
thuỷ - bộ.
- Ngày 25 tháng Chạp, làm lễ lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung, trực tiếp chỉ đạo hai đạo
quẩn tiến ra Bắc.
- Ngày 29 tháng Chạp, quân Tây Sơn ra đến Nghệ An, Quang Trung cho dừng lại một ngày,
tuyên thêm hơn 1 vạn tinh binh, mở một cuộc duyệt binh lớn.
- Ngày 30, quân của Quang Trung ra đến Tam Điệp, hội cùng Sở và Lân. Quang Trung đã
khẳng định : "Chẳng quá mười ngày cỏ thể đuổi được người Thanh". Cũng trong ngày 30,
giặc giã chưa yên, binh đao hãy còn mà ông đã nghĩ đến kế sách xây dựng đất nước mười
năm sau chiến tranh. Ông còn mở tiệc khao quân, ngầm hẹn mùng 7 sẽ có mặt ở thành
Thăng Long mở tiệc lớn. Ngay đêm đó, nghĩa quân lại tiếp tục lên đường. Khi quân Tây Sơn
ra đến sông Thanh Quyết gặp đám do thám của quân Thanh, Quang Trung ra lệnh bắt hết
không để sót một tên.
- Rạng sáng ngày 3 Tết, nghĩa quân bí mật bao vây đồn Hạ Hồi và dùng mưu để quân Thanh
đầu hàng ngay, hạ đồn dễ dàng.
- Rạng sáng ngày mùng 5 Tết, nghĩa quân tấn công đồn Ngọc Hồi. Quân giặc chống trả
quyêt liệt, dùng ống phun khói lửa ra nhằm làm ta rối loạn, nhưng gió lại đổi chiều thành ra
chúng tự hại mình. Cuối cùng, quân Thanh phải chịu đầu hàng, thái thú Điền châu sầm Nghi
Đống thắt cổ tự tử.
- Trưa mùng 5 Tết, Quang Trung đã dẫn đầu đoàn quân thắng trận tiến vào Thăng Long.
Đám tàn quân của giặc tìm về phía đê Yên Duyên gặp phục binh của ta, uốn theo đường
Vịnh Kiều lại bị quân voi ở Đại áng dồn xuống đầm Mực giày xáo, chết hàng vạn tên. Một
Văn học là nhân học Trang 13
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
số chạy lên cầu phao, cầu phao đứt, xác người ngựa chết làm tắc cả khúc sông Nhị Hà.
Mùng 4 Tết nghe tin quân Tây Sơn tấn công, Tôn Sỹ Nghị và Lê Chiêu Thống đã vội vã bỏ
lên biên giới phía bắc. Khi gặp lại nhau, Nghị có vẻ xấu hổ nhưng vẫn huyênh hoang. Cả hai
thu nhặt tàn quân, kéo về đất Bắc.
e) Nhan đề:
Hoàng Lê nhất thống chí: ghi chép về sự thống nhất của vương triều Lê dưới thời tây Sơn
diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê.
II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang trung- Nguyễn Huệ
a) Quang Trung là người có ý chí, hành động mạnh mẽ, quyết đoán
- Nghe tin giặc tới Thăng Long, ông không hề nao núng định thân chinh cầm quân đi ngay.
- Trong vòng hơn 1 tháng, ông làm được biết bao việc có ích, nhanh chóng: Tế cáo trời đất, lên
ngôi, đốc suất đại binh,gặp gỡ và bàn thảo chiến lược với “người cống sĩ ở huyện La Sơn,phủ
dụ quân lính, hoạch định phương lược tiến đánh, tuyển mộ quân lính, duyệt binh, tiến đánh,
đánh trận nào thắng trận ấy…
b.Quang Trung là vị vua có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng
- Sáng suốt ở việc lên ngôi:
Khi mấy vạn quân Thanh hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc mạnh, tình thế khẩn cấp, vận
mệnh đất nước ”ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế để “chính vị hiệu”
với mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là để yên kẻ phản trắc và giữ
lấy lòng người, được nhân dân ủng hộ.
- Sáng suốt ở việc phân tích thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch:
+ Trong lời phủ dụ đối với quân sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An, ông đã khẳng định độc lập
chủ quyền dân tộc, đồng thời vạch rõ dã tâm xâm lăng bên dưới chiêu bài giúp đỡ nhà Lê của
giặc : “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương
Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác.
Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc, giết hại nhân dân, vơ vét của cải,
người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đánh đuổi chúng đi.”
+ Quang Trung đã khích lệ tướng sĩ dưới quyền bằng việc nhắc lại truyền thống chống giặc
ngoại xâm của nhân dân ta từ xưa qua những tấm gương chiến đấu dũng cảm của cha ông ta từ
xưa: : “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên
có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn
bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được
chúng về phương Bắc.”
+ Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người
phù Lê thay lòng đổi dạ với mình nên ông đã có lời dụ với quân lính vừa chí tình vừa nghiêm
khắc: “Các người đều là những người có lương tri,lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp
Văn học là nhân học Trang 14
NĂM HỌC 2021 - 2022 NGỮ VĂN 9
lực để dựng lên công lớn. Chớ quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết
chết ngay tức khắc, chớ bảo là ta không nói trước!”.
- Sáng suốt trong việc xét đoán, dùng người:
+Vua Quang Trung hiểu được Sở, Lân trong việc rút quân của 2 vị tướng này. Đúng ra quân
thua chém tướng nhưng ông hiểu lòng họ, sức mình ít không địch nổi quân hùng tướng hổ nhà
Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Vậy Sở, Lân
không bị trừng phạt mà còn được ngợi khen.
+ Ông còn đánh giá rất cao Ngô Thì Nhậm và sử dụng như một vị quân sư ”đa mưu túc trí”.
Việc Sở và Lân rút chạy, Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực
lượng vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời lẽ
khôn khéo để dẹp việc binh đao.
c. Quang Trung có tầm nhìn xa trông rộng:
- Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào, ông đã tính toán chu đáo đầy đủ, nói
chắc như đinh đóng cột “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính
sẵn”.Không chỉ nói suông, ông còn đưa ra ngày tháng hạn định rõ ràng để đuổi giặc ra khỏi đất
nước. “Đến tối ngày 30 Tết lập tức lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành
Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác.”
- Ông tính cả quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm sau khi thắng với chủ trương “Dẹp việc
binh đao để phúc cho dân”...Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng,
bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng? ”
d. Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người:
- Cách sắp xếp quân lính của nhà vua trong cuộc duyệt binh ở Nghệ An rất hợp lí : “đem số thân
quân ở Thuận Hóa, Quảng Nam chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, còn số lính mới tuyển ở
Nghệ An thì làm trung quân”. Số thân quân đã có kinh nghiệm tác chiến sẽ vừa bao bọc, giữ
vừng phòng tuyến, vừa tiện việc huấn luyện cho số quân mới tuyển. Chi tiết ấy tuy nhỏ nhưng
cũng đã nói lên cái tài của người cầm quân biết suy nghĩ thấu đáo, cẩn trọng từng chút một.
- Tài dụng binh như thần của vua Quang Trung được khắc họa nổi bật và rõ nét nhất qua cuộc
hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử dân tộc. Vừa hành quân vừa đánh giặc mà
Quang Trung hoạch định kế hoạch từ 25 tháng Chạp đến mùng 7 tháng Giêng sẽ vào ăn Tết ở
thành Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức 2 ngày.
- Hành quân liên tục như vậy nhưng cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề. Đội quân đó không phải toàn
lính thiện chiến (có cả lính mới) nhưng dưới tài chỉ huy của Quang Trung đã trở thành đội quân
dũng mãnh, đánh đâu thắng đấy, đều rất chớp nhoáng..
- Linh hoạt trong kế sách đánh giặc, ở mỗi trân đánh chọn phương lược tiến đánh khác nhau
nhưng rất phù hợp và hiệu quả: Trận Phú Xuyên đánh bí mật, trận Hạ Hồi đùng cách đánh mưu
lược, táo bạo chắc thắng, trận Ngọc Hồi dùng cách đánh giáp lá cà nhưng mưu trí mạnh mẽ…
2. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống
a. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh
+Tôn Sĩ Nghị là tên tướng kiêu căng, chủ quan, tự phụ. Hắn kéo quân vào Thăng Long dễ dàng
”ngày đi đêm nghỉ” như đi trên đất bằng, cho là vô sự không đề phòng gì, chỉ lảng vảng ở bên
bờ sông, lấy thanh thế suông để dọa dẫm.
Y còn là một tên tướng bất tài, cầm quân mà không biết tình hình thực hư ra sao. Dù được vua
Lê Chiêu Thống báo trước, y vẫn không chút đề phòng, ham vui chơi, cùng mọi người chỉ chăm
chú vào việc yến tiệc, vui mừng không hề lo chi đến việc bất trắc
+Khi quân Tây Sơn đánh đến úp đồn Hà Hồi, trong đồn lúc đó mới biết, ai nấy đều rụng rời, sợ
hãi, vác khí giới đầu hàng. Đánh đến đồn Ngọc Hồi, giặc bắn súng chẳng trúng ai, phun khói
lửa, gậy ông đập lưng ông tự làm hại mình. Quân Tây Sơn tiến gần đánh giáp lá cà, quân Thanh
đánh không nổi bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ
tự tử. quân lính bị tiêu diệt, thây rải đầy đồng, máu chảy thành suối.
+ Ở Thăng Long, nghe tin cấp báo từ đồn Ngọc Hồi về, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không
kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp…chuồn trước qua cầu phao.
Quân thì ai nấy đều rụng rời sợ hãi xin ra hàng hoặc bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà
chết, đến nỗi sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa.
Cả đội binh hùng, tướng mạnh, chỉ quen diễu võ dương oai giờ đây chỉ biết tháo chạy, mạnh ai
nấy chạy, đêm ngày đi gấp không dám nghỉ ngơi.
*Nghệ thuật kể chuyện: Kể xen kẽ với những chi tiết tả thực cụ thể, chi tiết, sống động, nhịp
điệu nhanh,dồn dập gấp gáp gợi sự hoảng hốt của kẻ thù. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng
vẫn hàm chứa tâm trạng hả hê, sung sướng của người viết cũng như của dân tộc trước thắng lợi
của quân Tây Sơn.
b.Số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống
+ Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành đã vì lợi ích riêng mà đem vận mệnh của cả dân
tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược, lẽ tất nhiên họ phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh,
van xin, không còn tư cách của bậc quân vương, và kết cục cũng chịu chung số phận bi thảm
của kẻ vong quốc.
+Khi có biến, quân Thanh tan rã, Lê Chiêu Thống vội vã cùng bề tôi thân tín đưa thái hậu ra
ngoài, chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền của dân để sang sông, luôn mấy ngày không
ăn.May gặp người thổ hào thương tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn.
Bài 5. Hoàn thành bảng thống kê sau về văn bản “Hoàng Lê nhất thống chí”
Tác Thể Hoàn cảnh sáng Nội dung Nghệ thuật
giả loại tác
Chỉ rõ nghệ Thơ (gạch chân tín hiệu nghệ thuật) Nêu nội dung, ý nghĩa
thuật
Chỉ rõ nghệ thuật Thơ (gạch chân tín hiệu nghệ thuật) Nêu nội dung, ý nghĩa