You are on page 1of 6

CHUYỆN NGƢỜI CON GÁI NAM XƢƠNG – Nguyễn Dữ

“Đau đớn thay phận đàn bà


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Đó không chỉ là hai câu thơ quen thuộc trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du mà hơn như thế, nó còn là một lời
tổng kết vô cùng xác đáng cho cuộc đời, thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công, oan
trái. Cũng bởi vì người phụ nữ chịu nhiều bất công như thế mà đề tài viết về họ đã trở nên quen thuộc trong văn
chương trung đại. Cùng với đề tài này, Nguyễn Dữ có tác phẩm nổi tiếng của văn xuôi trung đại Việt Nam giai
đoạn thế kỉ XVI- XVII - "Chuyện người con gái Nam Xương”. Truyện viết về nàng Vũ Nương xinh đẹp nhưng
số phận oan nghiệt.
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Nguyễn Dữ người huyện Thanh Miện, tỉnh Thái Dương.
- Ông là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, “dông bão nổ trăm miền”, xã hội là cái “vực thẳm đời nhân loại”
chỉ thấy bóng tối đùn ra trận gió đen”, nên sau khi đỗ hương cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở
ẩn. Đó là hình thức bày tỏ thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp
thời.
2. Tác phẩm:
a. “Truyền kì mạn lục”:
- Là ghi chép tản mạn về những điều kì lạ vẫn được lưu truyền.
- Viết bằng chữ Hán, được xem là “Thiên cổ kì bút” (áng văn hay ngàn đời).
- Gồm 20 truyện, đề tài phong phú.
- Nhân vật
+ Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát sống cuộc sống yên bình, hạnh phúc,
nhưng lại bị những thế lực tàn bạo và lễ giáo phong kiến nghiệt ngã đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, bị thương,
bất hạnh vì oan khuất.
+ Hoặc một kiểu nhân vật khác, những trí thức tâm huyết với cuộc đời nhưng bất mãn với thời cuộc, không chịu
trói mình trong vòng danh lợi, sống ẩn dật để giữ được cốt cách thanh cao.
b. Văn bản:
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyền thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên là
“Vợ chàng Trương”.
- So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, “Chuyện người con gái Nam Xương” phức tạp hơn về tình tiết và
sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn.
3. Tóm tắt văn bản:
“Chuyện người con gái Nam Xương” viết về một cuộc đời, một số phận đầy oan khuất của một thiếu phụ tên là
Vũ Thị Thiết. Đó là người con gái thùy mị, nết na, đức hạnh và xinh đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được
bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, tối tối, nàng thường
chỉ bóng mình trên tường và bảo đó là cha nó. Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, bế con ra thăm mộ mẹ,
con trẻ lạ TS quẫy khóc, TS dỗ dành đứa bé ngây thơ nói về người đêm đêm vẫn đến nhà. Sẵn có tính hay ghen,
nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi. Minh oan không được, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng
Giang tự vẫn. Khi Trường Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, chung lập đàn giải oan cho nàng.
II. Đọc - hiểu văn bản:
1. Nhân vật Vũ Nƣơng:
a. Vẻ đẹp phẩm chất:
- Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương tính đã “thuỳ mị nết na lại thêm tư dung
tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo. Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất
của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
* Trƣớc hết Vũ Nƣơng là ngƣời phụ nữ thuỷ chung, son sắc trong tình nghĩa vợ chồng:
Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không
dùng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một
người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!
- Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở
biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm
thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê
cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu
dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm
thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn
lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến
cho tiện thiếp băn khoăn lo lắng. “Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình:
“Nhìn trăng soi thành cũ, lại sữa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình,
thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng. Đúng là lời nói, cách nói
của 1 một người vợ, hết mực thùy mị dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử
thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
- Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son
sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm
tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầyvườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn
được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi
cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người
chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
"... Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong..."
(Chinh phụ ngâm)
=> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi thủy chung,
thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
- Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen
bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của
mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu... cách biệt ba năm giữ gìn một
tiết..."Những lời nói nhún nhường tha thiết đó chothấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng,
niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
- Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ
chồng con. Vừa gặp lại Phan Lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt cách trở về với
chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không bị chút
thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.
* Vũ Nƣơng còn là ngƣời con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một ngƣời mẹ hiền đầy tình yêu thƣơng con.
- Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng
dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.
- Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo.
Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn, để bà vơi bớt nỗi nhớ
thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình.
Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu
thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con
cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
- Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh
vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên
vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng
tình cảm của người cha.
=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa
thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.
b, Số phận oan nghiệt, bất hạnh:
* Là nạn nhân của chế độ nam quyền, một xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và tự do.
- Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương
và Trường Sinh có phần không bình đẳng, Vũ Nương “vốn con kẻ khó” còn Trường Sinh lại là “nhà giàu” đến
độ khi T. Sinh muốn cưới xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách bức giàu nghèo ấy khiến Vũ
Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng.
* Là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:
- Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân của chế độ phụ quyền phong kiến mà còn là nạn
nhân của chiến tranh phong kiến của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh
phúc, cuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mình Vũ Nương với mẹ già và
đứa con còn chưa ra đời. Suốt ba năm, nàng phải gánh vác trọng trách gia đình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già,
chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng triền miên theo năm tháng.
- Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi
nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trường Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.
* Đỉnh điểm của bi kịch là khi gia đình tan vỡ, bản thân phải tìm đến cái chết.
- Là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan và đối xử bất công, tàn nhẫn.
- Nghe lời ngây thơ của con trẻ Trương sinh đã nghi oan cho vợ, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van
xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm. Vũ Nương đau đớn vô cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị,
bôi bẩn bởi chính người chồng mà mình yêu thương.
- Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt.
* Cái kết thúc tưởng là có hậu hoá ra cũng chỉ đậm tô thêm tính chất bị kịch trong thân phận Vũ Nương.
+ Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơ ước của tác giả về một kết thúc tốt lành cho người
lương thiện, niềm khát khao một cuộc sống công bằng nới cái thiện cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.
+ Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tính chất bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương hiện về uy nghi,
rực rỡ nhưng đó chỉ là sự hiển linh trong thoáng chốc, là ảo ảnh ngắn ngủi và xa xôi. Sau giây phút đó nàng vẫn
phải về chốn làng mây cung nước, vợ chồng con cái vẫn âm dương đôi ngả. Hạnh phúc lớn nhất đời người đàn
bà ấy là được sum họp bên chồng bên con cuối cùng vẫn không đạt được. Sự trở về trong thoáng chốc và lời từ
biệt của nàng đã hé ra cái sự thực cay đắng là cái nhân gian đầy oan nghiệt, khổ đau nàykhông có chốn dung thân
cho người phụ nữ vì thế mà “Thiếp chẳng thể trở lại chốn nhân gian được nữa”
=> Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng, oan nghiệt.
Bi kịch của VN là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con
người.
=>Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ
nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong
kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ
cần khai thác chân dung VN đã đủ thấy chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Dữ.
2. Các chi tiết kì ảo:
a. Những chi tiết kì ảo:
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
- Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được dãi yến và gặp, trò chuyện với Vũ Nương, được trở về dương
thế.
- Vũ Nương hiện về sau khi Trường Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang.
b. Ý nghĩa:
- Tăng sức hấp dẫn bằng sự li kì cuả câu chuyện và trí tượng tượng phong phú của tác giả.
- Hoàn chính thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương, một người dù đã ở thế giới khác, vẫn quan tâm đến
chồng con, nhà cửa, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự. - Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu,
thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng: người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất, cuối
cùng sẽ được minh oan.
- Khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Tố cáo XHPK nam quyền nhiều bất công đối với người phụ nữ.
3. Ý nghĩa chi tiết cái bóng:
a. Cách kể chuyện:
- Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn so với
truyện cổ tích.
- Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng là nó.
b. Góp phần thể hiện tính cách nhân vật
- Bé Đản ngây thơ.
- Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.
- Vũ Nương yêu thương chồng con.
c. Cái bóng góp phần tố cáo xã hội phong kiến hung tàn, khiến hạnh phúc của ngƣời phụ nữ hết sức mong
manh.
III. Tổng kết:
1. Nghệ thuật:
- Khai thác vốn văn học dân gian.
- Sáng tạo về nhân vật, sáng tạo trong cách kể chuyện, sử dụng yếu tố truyền kì cùng với yếu tố có thực.
- Sáng tạo nên một kết thúc tác phẩm không mòn sáo.
2. Nội dung:
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tình của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể
hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời
khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.

Kết bài
Bằng nghệ thuật kể truyện độc đáo, xen lẫn giữa hiện thực và kì ảo, giữa tình tiết đời thường với
sự sáng tạo của nhà văn, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương - người đại diện
cho bi kịch bất hạnh của người phụ nữ. Thông qua số phận cuộc đời đầy nước mắt của nàng, nhà văn đã mạnh
dạn lên án, tố cáo một xã hội bạo tàn, phi nhân, tồn tại với rất nhiều những bất công ngang trái, dồn đẩy người
phụ nữ vào đường cùng không lối thoát. Đồng thời qua câu chuyện, nhà văn đã lên tiếng đòi lại sự công bằng,
hạnh phúc cho những người phụ nữ đương thời, khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vốn có của họ.
Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc giàu tình yêu thương con người của nhà văn Nguyễn Dữ.
Mặc dù, truyện đã cách xa chúng ta hàng thế kỉ nhưng những thông điệp, ý nghĩa, giá trị của truyện và hình
tượng Vũ Nương mãi mãi còn vang vọng đến ngày hôm nay và mãi mãi mai sau.
BÀI TẬP: Đóng vai Trƣơng Sinh kể lại Chuyện ngƣời con gái Nam Xƣơng.
Bài làm
Trong cuộc đời mỗi một người, chắc hẳn ai cũng đã từng phạm phải những sai lầm. Tuy nhiên, sai lầm đó có
ảnh hưởng gì đến cuộc sống hay không và cách ta đối diện với nó, sửa chữa nó như thế nào mới là quan trọng.
Tôi đã từng mắc một sai lầm mà cho đến nay tôi vẫn không thể tha thứ cho chính mình được. Đó là việc tôi đã
gây nên cái chết của vợ tôi. Nếu các bạn đã và đang có những hành động như tôi ngày đó, hãy sửa sai ngay khi
còn có thể, bởi bây giờ tôi có hối hận cũng không kịp nữa rồi.
Tôi tên là Trương Sinh. Cha tôi mất sớm nên tôi sống với mẹ được cưng chiều nên lười học và nghỉ học rất
sớm. Đến tuổi lấy vợ, tôi có để ý một cô gái xinh đẹp, thùy mị và nết na tên là Vũ Thị Thiết. Thấy nàng vừa xinh
đẹp, vừa hiền lành, tôi đã xin mẹ tôi một trăm lạng để cưới nàng về. Tôi đã không trân trọng nàng từ khi tôi dùng
tiền để hỏi cưới cô ấy mà không hề quan tâm xem cô ấy có yêu mình hay không. Nhưng vợ tôi quả là một người
phụ nữ vẹn toàn. Cưới nàng về, tôi và mẹ được chăm sóc chu đáo, cơm nước, nhà cửa lúc nào cũng tươm tất. Ấy
vậy mà tôi chẳng những không biết hạnh phúc với hiện tại mà còn đi ghen tuông với vợ những chuyện vụn vặt
cỏn con, tôi không muốn một người đàn ông nào bén mảng đến bên vợ mình. Thế rồi cũng vài năm trôi qua, Vũ
nương và tôi đón tin vui đầu tiên. Đó là gia đình sắp có thêm một thành viên mới, tôi sung sướng lắm! Nhưng ai
ngờ đâu, chiến tranh lại đột ngột ập đến, tôi bắt buộc phải đi lính, để lại mẹ và vợ ở nhà. Trước lúc chia tay, vợ
tôi có nói với tôi rằng: “Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong chàng được đeo ân phong hầu, mặc áo
gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ.” Nghe được những lời từ vợ, tôi cảm
thấy an lòng.
Ở nhà, vợ tôi vẫn là một người đảm đang, tháo vát và chu toàn. Chẳng lâu sau, con tôi ra đời, vợ tôi đặt tên cho
là Đản. Cả nhà ba mẹ con, bà cháu nương tựa lẫn nhau mà sống. Tôi ở chiến trường vẫn không nguôi nhớ về quê
nhà, nhớ về mẹ, về vợ và cả về đứa con tôi chưa từng được một lần gặp mặt nữa. Nhưng rồi chuyện gì đến cũng
sẽ đến, mẹ tôi già cả nên bị lâm bệnh nặng. Trước lúc bà qua đời, bà đã có lời trăn trối với vợ tôi: “Ngắn dài có
số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải là không muốn đợi chồng con trở về. Song lòng tham vô cùng mà vận trời
khó tránh. Nước hết, chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không
khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được, sau này, trời
xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng
như con đã chẳng phụ mẹ.”
Cả đời mẹ tôi tần tảo nuôi dạy tôi nên người, đến lúc chết dù không được nhìn mặt con trai nhưng lại có một
nàng dâu coi bà chẳng khác nào cha mẹ đẻ, bà cũng rất yên lòng. Nếu tôi có thể hiểu được vợ tôi như bà thì tốt
biết mấy. Có thể mọi chuyện sẽ chẳng ra nông nỗi này! Vợ tôi lo tang ma cho mẹ thay tôi vô cùng chu đáo. Ai
nấy đều cảm động trước tấm lòng của nàng.
Rồi thời gian cũng trôi qua đi, chiến tranh tạm chấm dứt, tôi háo hức trở về với vợ con ở quê nhà. Hay tin mẹ
đã mất, tôi đau buồn khôn xiết, liền đi ra mộ của mẹ ngay. Nhưng vì không biết đường, tôi để con trai tôi chỉ
đường để cùng đi ra đó. Đến nơi, chẳng hiểu sao thằng bé cứ khóc, tôi mới dỗ dành con:
- Nín đi con, đừng khóc nữa! Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi!
Vừa nói xong, nó đã hỏi lại tôi:
- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Tôi ngạc nhiên lắm! Vợ tôi có người nào khác ngoài tôi ư? Nàng ta lại dám không chung thủy với chồng của
mình ư? Tôi gặng hỏi con và biết được rằng có một người đàn ông đêm nào cũng đến, vợ tôi ngồi cũng ngồi, vợ
tôi đứng cũng đứng, nhưng chưa bao giờ người đàn ông đó bế con tôi cả. Máu ghen tuông vốn có của tôi trỗi dậy,
tôi liền về nhà, quát tháo ầm ĩ. Vợ tôi khóc, bảo rằng:
- Thiếp vốn con nhà nghèo khó, may được nương tựa nhà giàu. Vợ chồng sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia
phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng, ngõ liễu
đường hoa, chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết như lời chàng nói. Dám xin chàng cho thiếp được bày tỏ, để cởi
mối nghi ngờ. Mong chàng đừng nghi oan cho thiếp!
Nhưng lúc đó tôi không nghe nàng giải thích mà mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi, mặc cho làng xóm can ngăn.
Lúc này nàng lại nói tiếp:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa
tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân con én lìa đàn, nước thẳm
buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa?
Trước những lời minh oan khẩn thiết ấy, tôi lại nhẫn tâm đuổi nàng đi mà không phân rõ đúng sai, tìm hiểu mọi
việc. Tôi trách mình khi ấy quá đa nghi, vội vàng, để rồi vợ tôi phải tìm đến cái chết. Tôi không bao giờ quên
những lời mà nàng nói trước khi trẫm mình xuống sông:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông
có linh, xin ngài chứng giám! Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xin vào nước làm ngọc Mị
Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá
tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Vợ tôi đã phải chọn cách đau đớn nhất là tìm đến cái chết. Chỉ có cái chết mới có thể chứng minh cho sự trong
sạch của nàng. Sau khi vợ mất,đêm đến khi tôi bế con, thấy cái bóng ở trên tường, con tôi mới chỉ và bảo: “Cha
Đản đến rồi kìa”. Hóa ra, người tình của vợ tôi là cái bóng, vợ tôi muốn dỗ dành con, bớt đi sự cô đơn nên mới
bảo đấy là cha đứa bé… Mà tôi lại không hề biết, lại đi trách mắng, lăng mạ, xỉ nhục và đuổi vợ đi, khiến cho vợ
tôi phải chết, chết trong sự oan ức. Tôi đau lòng và dằn vặt bản thân và cảm thấy hối hận cho sự ghen tuông mù
quáng của mình. Ước gì thời gian quay trở lại để tôi bù đắp cho vợ nhưng tất cả đã muộn. Một hôm tôi được
Linh Phi – người cùng làng báo nhưng không tin, khi nhận được chiếc hoa vàng, tôi mới sợ hãi. Tôi lập một đàn
tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Tôi thấy bóng hình vợ hiện về và bảo: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể
trở về nhân gian được nữa”. Nghe lời nói ấy tôi càng cảm thấy giận và không thể tha thứ cho bản thân mình.
Nhưng còn con trai nên tôi phải sống và nuôi con khôn lớn mới mong có thể chuộc lại một phần lỗi lầm với vợ
mình.Tôi hiểu ra rằng, khi yêu một người thì cần phải có sự tin tưởng, cần phải đặt niềm tin vào người đó chứ
đừng ghen tuông mù quáng. Nếu có chuyện gì xảy ra thì cần phải tìm hiểu thật kĩ trước khi làm gì bởi khi ta
nóng giận có thể hành xử mất kiểm soát, dẫn đến hậu quả khôn lường.
Từ câu chuyện của mình, tôi muốn nhắn gửi đến tất cả các bạn, nếu ai đang trong một mối quan hệ tình yêu,
tình vợ chồng thì nên biết tôn trọng và thấu hiểu đối phương. Đừng ai như tôi, để ghen tuông làm mờ đôi mắt.
Cuộc đời tôi đã không thể cứu vãn và sửa chữa được sai lầm, còn các bạn thì vẫn còn rất nhiều cơ hội. Hãy biết
đối xử với người khác thật tốt và thận trọng trong từng hành động để không phải hối hận về bất cứ điều gì.

You might also like