You are on page 1of 8

Từ một câu chuyện cổ tích của Việt Nam nói về nỗi oan của một người thiếu phụ.

Nguyễn Dữ đã viết lê “Chuyện người con gái Nam Xương” để lại bao ấn tượng
cho người đọc. Dưới ngòi bút nhân đạo của tác giả, hiện thực xã hôi thật khốc liệt
đầy bất công oan trái hiện lên đã đẩy bao con người, nhất là những người phụ nữ
vào những đau khổ, bất hạnh và mất mát. Tác phẩm như lời tố cáo xã hội phong
kiến bất công, nghiệp ngã đồng thời là tiếng nói ca ngợi những phẩm chất cao đẹp
của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Đặc biệt là đoạn trích làm nổi bật vẻ đẹp
phẩm chất tâm hồn của nàng khi tiễn chồng đi lính và những ngày xa chồng:
"Nàng rót chén rượu... cha mẹ đẻ mình"
Tác phẩm ra đời vào thế kỉ XVI, là thời điểm triều đình nhà Lê bắt đầu khủng
hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền binh, gây ra các
cuộc nội chiến kéo dài làm đời sống nhân dân vô cùng cực khổ cũng như gây ra bi
kịch cho bao gia đình. Nguyễn Dữ bất mãn với cuộc đời, không chịu trói mình
trong vòng danh lợi chật hẹp, chứng kiến những bất công trong xã hội phong kiến
ông đã viết tác phẩm "Truyền kì mạn lục" trong đó "Chuyện người con gái Nam
Xương" là thiên truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của kiệt tác văn chương cổ
ấy. Truyện có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian "Vợ chàng Trương", cốt truyện
xoay quanh số phận oan nghiệt của Vũ Nương - người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh
nhưng lại có số phận thảm ...thương, bi kịch. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái
chết thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm đã thể hiện niềm thương cảm đối với số
phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến đồng trời
truyện cũng ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của họ. Đoạn trích trên nằm ở phần đầu của
truyện kể về sự việc Vũ Nương tiễn chồng đi lính và những ngày tháng nàng phải
sống xa chồng trong niềm nhớ mong, thấp thỏm. Nhà văn Nguyễn Dữ đã đã đặt
nhân vật của mình vào trong các mối quan hệ gia đình, các tình huống, hoàn cảnh
để làm nổi bật những phẩm chất tốt đẹp của nàng.
LĐ1: Trước hết, Vũ Nương là người vợ thuỷ chung, đằm thắm, son sắt trong tình
nghĩa vợ chồng. Với chồng, nàng là người vợ hiền thục rất mực hoàn hảo, để giữ
được hoà khí vợ chồng, Vũ Nương luôn phải giữ gìn khuôn phép, ứng xử khéo léo,
tinh tế mọi lúc mọi nơi. Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy
ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Thấy trước được
những khó khăn mà Trương Sinh phải đối mặt, nàng bộc lộ nỗi lo lắng, cảm thông
cho những nỗi gian lao, vất vả mà chồng sẽ phải chịu đựng. Buổi tiễn chồng đi
lính, nàng rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời đằm thắm, tình nghĩa, nồng
đượm một tình yêu chung thuỷ: Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo
được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai
chữ bình yên, thế là đủ rồi. Cảm thông trước những nỗi vất vả, gian lao ấy, nàng
nói lên nỗi nhớ khắc khoải, nhớ nhung của mình bằng những lời nói ân tình, đằm
thắm, tha thiết. Ước mong của nàng thật bình dị lời lẽ dịu dàng, tha thiết ấy chứng
tỏ nàng không cần dang vọng chỉ mong một cuộc sống bình yên. Thứ mà nàng
khao khát là chồng trở về bình yên. Đối với nàng, tình yêu, hạnh phúc, sự ấm êm
của gia đình không gì đánh đổi được. Một cái nhìn về hạnh phúc thật dung dị mà
vô cũng đẹp đẽ. Ở đây, người đọc nhận ra hình ảnh một người vợ có tâm hồn nhân
hậu, thấm đượm nghĩa tình.
Nàng thấu hiểu, cảm thông cho nỗi vất vả, gian lao, những hiểm nguy mà
chồng phải chịu đựng nơi trận mạc: Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.
biết chồng dấn thân nơi trận mạc, nàng rất lo lắng và xót thương. Giặc cuồng còn
lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì,
khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nàng thấu hiểu cảm thông cho nỗi
vất vả, gian lao, những hiểm nguy mà chồng phải chịu đựng nơi trận mạt. Những
câu nói như thấm vào lòng người khiến ai đọc cũng xúc động. Lời văn biền ngẫu
như nhịp đập trái tim của người vợ trẻ thổn thức lo âu cho chồng. Những lời đó
thấm vào lòng người khiến ai ai cũng xúc động ứa hai hàng lệ. Qua lời nói dịu
dàng, nàng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ nhung da diết chồng trong niềm xúc động
nghẹn ngào, thổn thức bằng lời nói ân tình: Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo
rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người
đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng. Đúng là
lời nói, cách nói của một người vợ hết mực nết na, thuỳ mị, dịu dàng, từng nhịp,
từng nhịp biền ngẫu đối xứng, khoan hoà như nhịp đập của trái tim vậy. Vũ Nương
thương chồng hết mực và chính tình thương yêu đó đã biến thành sức mạnh để
nàng vượt qua bao khó khăn trong những ngày chồng vắng nhà. Trái tim ấy giàu
tình yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết chờ đợi để yên lòng người đi
xa, thật đáng trân trọng biết bao! Vũ Nương luôn khao khát hạnh phúc gia đình,
khao khát sum họp, đoàn tụ: "nàng không muốn xa cách nhưng buộc phải cách xa",
bởi vậy buổi chia tay này, lòng người nặng trĩu, nhuộm một mối tình muôn dặm
quan san.
Trong những ngày tháng xa chồng, những việc làm và tình cảm của nàng càng
đáng trân trọng hơn. Một mình nàng phải đảm đương mọi chuyện trong nhà. Một
mình nàng chia sẻ tình cảm yêu thương với mọi người trong nhà. Với chồng, nỗi
nhớ thương dài theo năm tháng "mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín
núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Hình ảnh ước lệ
"bướm lượn đầy vườn" chỉ cảnh sắc mùa xuân tươi vui; "mây che kín núi" là
không gian mùa đông ảm đạm. Từ cảnh sắc thiên nhiên là biểu tượng của thời gian
tác động tới tâm trạng nhớ mong, dẫu xa cách cô đơn, ngày ngày chờ đợi, ngón
trông đến thổn thức nhưng nàng luôn gìn giữ đức hạnh, một lòng chung thuỷ son
sắt "tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót".
Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính bản thân mình
phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ
Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong thời loạn lạc xưa
nay:
"Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong..."
(Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm)
Và có lẽ vẻ đẹp tâm hồn nàng đẩy lên đến cao độ qua hình ảnh chiếc bóng
trên vách. Để thoả nỗi nhớ chồng, nàng lấy việc chơi với con làm khuây rồi dưới
ảnh đèn đêm đêm nàng trỏ vào cái bóng của mình mà bảo là cha Đản. Hành động
đó khắc hoạ rõ nét, tấm lòng yêu thương khôn xiết của người mẹ dành cho con, để
con có cảm giác được sống trong sự sum họp, tình cảm ấm cúng của gia đình
nhưng cái chính là để vơi đi nỗi buồn đơn chiếc khi chồng đi xa. Một chi tiết tưởng
đơn giản ấy nhưng bao hàm biết bao ý nghĩa về lòng yêu thương, thủy chung son
sắt của nàng đối với chồng. Dù chiến tranh ngăn cách nhưng trong tâm hồn nàng,
hình bóng Trương Sinh vẫn khăng khít, gắn bó với nàng như hình với bóng không
rời nhau.
Trong những năm tháng đằng đẵng chồng còn ngoài nơi chiến địa, người thiếu
phụ đáng thương ấy đã ra sức tần tảo nuôi con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, ngày
đêm giữ gìn tiết hạnh hầu vun đắp dưỡng nuôi cho cái nguồn hạnh phúc mà nàng
đang mong đợi. Đối với mẹ chồng, nàng giữ vẹn đạo làm dâu thảo. Khi mẹ chồng
lâm bệnh, nàng chăm sóc tận tình, chu đáo, hết lòng yêu thương: Nàng hết sức
thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Nàng là
chỗ dựa tinh thần với những lời động viên ngọt ngào, an ủi. Lời trăng trối của bà
mẹ là minh chứng khách quan nhất ghi nhận và đánh giá công lao đức độ của Vũ
Nương đối với gia đình nhà chồng. Bà mong cho nàng được hưởng hạnh phúc.
Thông thường, nhất là trong xã hội cũ, mối quan hệ mẹ chồng con dâu thường căng
thẳng, phức tạp nhưng trước người con dâu hết mực thảo hiền như Vũ Nương thì
mẹ Trương Sinh không thể không yêu mến. Lời trăng trối là lời ước nguyện của
mong mỏi của bà rằng Vũ Nương sẽ được đền đáp xứng đáng. Khi mẹ chồng qua
đời, nàng đã chu toàn lo việc ma chay, tế lễ cẩn trọng "như đối với cha mẹ đẻ
mình". Đó là những việc làm không chỉ xuất phát từ trách nhiệm, bổn phận mà còn
từ tấm lòng rất thật thà, tình nghĩa, từ tình cảm yêu quý tận sâu trong đáy lòng,
thương như máu thịt của Vũ Nương với mẹ chồng. Có thể nói cuộc đời Vũ Nương
tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của một của người phụ nữ, một
người vợ chung thuỷ, một người con dâu hiếu thảo, một người mẹ yêu thương con
hết mực. Ở bất kì phương diện nào nàng cũng rất hoàn hảo. Vũ Nương đã nêu cao
phẩm hạnh của những người phụ nữ Việt Nam đảm đang giàu tình thương, thuỷ
chung, đáng được ngợi ca, sống một cuộc sống hạnh phúc suốt đời.
Đề 2:
Khái quát: Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người
con gái xinh đẹp nết na tên Vũ Thị Thiết- quê ở Nam Xương. Cuộc đời nàng là
một chuỗi dài bi kịch. Đoạn trích trên là phần giữa truyện kể lại việc Trường Sinh
đi lính về đau buồn vì nghe tin mẹ mất. Bởi tin lời nói ngây thơ của con trẻ,
Trương Sinh cho rằng vợ mình đã thất tiết nên đã có những hành động sỉ nhục,
lăng mạ, và đánh đập Vũ Nương tàn tệ khiến nàng phải tìm đến cái chết trên bến
Hoàng Giang.
Nguyễn Dữ đã giúp người đọc cảm nhận rõ về hoàn cảnh thiệt thòi của nàng Vũ
Nương khi trở thành vợ chồng Trương .Một cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình
yêu, lại có sự phân biệt giai cấp giàu nghèo đã khiến Vũ Nương luôn bị phụ thuộc
vào chồng .Đó cũng là cái cớ sau này Trương Sinh đối xử gia trưởng với vợ. Vũ
Nương đã làm tròn bổn phận của một người phụ nữ, người vợ, người mẹ, người
con ở cương vị nào là cũng làm rất hoàn hảo đang. Nàng đúng là một người phụ nữ
lý tưởng của gia đình. Nàng xứng đáng hưởng hạnh phúc nhưng hạnh phúc đã
không mỉm cười với nàng. Ngày Trương Sinh trở về cũng là lúc bi kịch cuộc đời
này xảy ra
Khi đưa Đản đi thăm mộ mẹ, sẵn buồn thương trong lòng đứa bé lại quấy khóc
Trương buột lời than thở: “ Nín đi con, đừng khóc! cha về, bà đã mất lòng cha
buồn khổ lắm rồi”. Ai ngờ câu nói tội nghiệp ấy lại là khởi nguồn cho những hành
động tội lỗi của chàng. Lời của đứa trẻ con ba tuổi hồn nhiên, ngây thơ đã kích
động tính đa nghi, thói ghen tuông trong lòng Trương Sinh. Lời nói được tách làm
hai phần nêu những thông tin mập mờ đáng suy ngẫm : “Ô hay! Thế ra ông cũng là
cha tôi ư!”. Thoạt đầu đứa trẻ ngạc nhiên thấy mình có hai người cha, một người
cha mới và một người cha cũ. Sau đó, đứa trẻ đã kể lại toàn bộ sự việc cho Trương
Sinh đó là một người “chỉ nín thin thít... một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ
Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.” Dẫu câu
chuyện con trẻ có nhiều điều mù mờ khó tin nhưng vốn tính đa nghi thêm lòng
ghen thái quá,Trưởng Sinh đinh ninh vợ không chung thủy ,phản bội mình “ Tính
chàng hay ghen ...ra được” với cách suy nghĩ hồ đồ, thiếu học ấy con người độc
đoán cả ghen ấy đã có một loạt những hành động phàm phu,thô bạo . Về đến nhà
chàng la um lên cho hả giận, tỏ thái độ nghi ngờ, đánh đập,vợ gặng hỏi nguồn cơn
để giãi bày ,chàng không cho cơ hội . Trương Sinh không đủ bình tĩnh phán
đoán ,phân tích lời con trẻ ,cũng chẳng thẳng thắn hỏi han chất vấn vợ “ Lấy truyện
bóng ...đi”.Ngay cả khi họ hàng làng xóm lên tiếng bênh vực ,biện bạch cho
vợ,chàng cũng bỏ ngoài tai.Xung đột gia đình đã bị chính Trương Sinh đẩy lên
đỉnh điểm . người đàn ông mạng nặng tư tưởng phụ quyền ấy chính là mầm họa
của cuộc đời Vũ Nương.
Bi kịch lớn của Vũ Nương chính là phải chịu nỗi can thất tiết- một vấn đề rất lớn,
quan trọng đối với cuộc đời người phụ nữ phong kiến trước cách cư xử của chồng.
Vũ Nương đã rất nhiều lần cố gắng thoát khỏi thảm kịch cuộc đời. Nàng sáng suốt
tìm cách giải toả nghi ngờ, gắng sức tự bảo vệ mình cũng là tự bảo vệ hạnh phúc
gia đình. Nàng đã khóc về phân trần mang chồng hiểu rõ nỗi lòng mình. Nàng tự
nói lại thân phận" vốn con kẻ khó..."nàng nói về tình nghĩa vợ chồng"sum họp...
nửa binh". Nàng cũng khẳng định lòng chung thủy" cách biệt ba năm...bén gót" để
cầu xin chồng đừng nghi can"dám xin bày tỏ...cho thiếp”. Vũ Nương nói vậy để
chàng hiểu được bản chất tốt của mình, tình cảm đợn chiếc và khẳng định tấm lòng
thuỷ chung, tỏng trắng của mình. Nàng cầu xinh chồng đừng nghi oan, nghĩa là hết
sức hàn gắn lại hanh phúc gia đình đang có nguy cơ bị đổ vỡ nhưng Trương Sinh
cố giấu đi chân tướng sự thật đẩy Vũ Nương đến bờ vực của sự đau khổ, bất lực.
Nàng bày tỏ nỗi thất vọng tràn trề.
Với Vũ Nương, “cái thú vui nghi gia nghi thất” chính là lí tưởng, mục đích sống và
tồn tại của nàng. Để rồi khi điểm tựa ấy bị vùi dập tả tơi bởi nỗi oan thất tiết “Nay
đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc
tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn
có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Nhà văn đã mượn thiên nhiên để biểu hiện
tâm trạng của con người theo phong cách ước lệ trung đại. Ngụ ý chỉ sự lụi tàn, thê
lương của mối nhân duyên đổ vỡ đã lột tả thành công nỗi thất vọng, ê chề, đau đáu
xâm chiếm cõi lòng của nàng.
Xúc động nhất là khi nghe lời than thở của Vũ Nương bên bờ sông Hoàng Giang.
Nàng không nói mà “than”, không than thở với chồng, với con người mà “ngửa
mặt lên trời”, than với trời, giãi bày tấm lòng và phẩm hạnh của của mình với vũ
trụ bao la. Vũ Nương đau đớn hiểu rằng cuộc hôn nhân hạnh phúc gia đình của
nàng không thể hàn gắn được thất vọng đến tột cùng, chán chường cũng đến tột độ
nhưng là vẫn “tắm gội chay sạch” vẫn giữ gìn bảo vệ hình hài tư dung đẹp đẽ để
gặp gỡ dòng sông quê hương, để tâm sự với trời đất " kẻ bạc mệnh này...phỉ nhổ”.
Đó là lời thề độc của nỗi đau khổ bị đẩy đến tột cùng, không còn con đường nào
khác. Vũ Nương nên hai giả định về kiếp sau của mình bằng hình ảnh đối lập:
“ngọc Mị Nương”, “cỏ Ngu Mỹ” và “mồi cho cá tôm... cơm cho diều quạ”. Tuy
giả định theo hai khả năng về phẩm chất của mình nhưng thực chất Vũ Nương
khẳng định trước sau khi sống cũng như khi chết mình vẫn luôn là một con người
chân chính, một người vợ đoan trang. Nói xong nàng quyết định trầm mình xuống
sông Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất, giải bày tấm lòng ngay thẳng, tấm
thân trinh bạch của mình. Hành động quyết liệt ấy đẩy truyện lên cao trào, kịch
tính. Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử vậy mà Trương Sinh
cũng chẳng một chút động lòng hay ân hận, day dứt. Hãn hữu lắm trong cái xã hội
ấy, một hành lang đạo lí hay một ai đó đứng ra bảo vệ, chở che cho thân phận bèo
dạt mây trôi của Vũ Nương nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong
kiến nói chung. Rõ ràng chính xã hội cũ đã sinh ra bao Trương Sinh với thói độc
đoán là nguyên nhân của những khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu.. Chết để
bảo vệ danh dự, để đấu tranh với sự ghen tuông mù quáng. Cái chết của nàng chính
là hồi chuông cảnh tỉnh cho những kẻ đa nghi hay ghen như Trương Sinh. Cách Vũ
Nương lựa chọn là một hành động bế tắc của người xưa nhưng lại là con đường
duy nhất có thể làm lúc ấy.
Nỗi oan khuất tột cùng của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một
trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong kiến vùi dập con người, nhất là người
phụ nữ. Có lẽ bi kịch của Vũ Nương không phải là trường hợp cá biệt mà khủng
khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân
mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Sự dứt áo ra đi
của nàng là một thái độ phủ định với dương thế, với xã hội bất công. Đây cũng là
thái độ đấu tranh đòi công lý của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy
tàn. Dù cái chết là một tấn bi kịch của người phụ nữ, nhưng họ đã thức tỉnh được
tầng lớp phong kiến, phụ quyền.. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ đã
góp phần khái quát nên thành lời kiếp đau khổ của người phụ nữ. Thân phận của
người phụ nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày đến bước đường cùng của cuộc đời, họ
chỉ biết tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội
phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đoán,
sống thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết
bi thương đầy oan trái cho Vũ Nương.Đớn đau thay số phận của nàng Tấm bi kịch
về cái đẹp bị chà nát phũ phàng. Và người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm bi kịch
về số phận người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng
đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra
mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh”
cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, “sum họp chưa thỏa tình
chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh”. Chiến tranh loạn lạc đã đẩy gia đình
nàng vào cảnh li tán, vợ chồng xa cách đôi người hai ngả. Ngày qua ngày, niềm tin
dành cho nhau cứ thế mà kiệt quệ, dẫn đến hiểu lầm. Có lẽ, trận chiến chính là cửa
ải thử thách tình yêu và niềm tin của Trương Sinh dành cho vợ. Và chàng đã thất
bại, mù quáng nghĩ oan và vu khống cho Vũ Nương. Rõ ràng, chiến tranh phong
kiến chính là ngòi nổ tiếp tay cho những bi kịch, giông bão trong cuộc đời người
phụ nữ bất hạnh ấy.
Trong ca dao cũng nhắc đến người phụ nữ với sự đau khổ tương tự:
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận
của người phụ nữ – “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ rơi vào
đâu : một nơi “đài các” hay ra “ruộng cày” ? Dù đó là đâu, dù muốn hay không họ
cũng phải chấp nhận.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số phận
của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy như thế nào. Bà đã viết:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công như vậy. Bà đã khẳng định người phụ
nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự cố gắng của bà chỉ như một tia
sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng, những đau
khổ ấy đến với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng thoả hiệp. Nếu
như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như họ không chọn cái chết để thanh minh thì
những bất công ấy sẽ không có điểu kiện phát triển.
Truyện được viết với thể loại "Truyền kì mạn lục" dựa trên truyện của vợ chồng
chàng Trương,khai thác vốn văn học dân gian.Sử dụng nhiều câu văn biền ngẫu
với điển cổ tích,thủ pháp ước lệ tượng trưng.Nghệ thuật truyện đầy sáng tạo xây
dựng tình huống giàu kịch tính,sử dụng yếu tố truyền kì xây dựng hình anh"cái
bóng" đầy dụng ý.Sử dụng hình ảnh so sánh,ẩn dụ,liệt kê sinh động tạo nên cách kể
truyện hấp dẫn.Tất cả góp phần khắc họa số phận bi thảm của Vũ Nương.Bi kịch
đời nàng là bản cáo trạng danh thép tố cáo chế độ phong kiến nam quyền độc
đoán,tố cáo chiến tranh phong kiế phi nghĩa. Nhân vật được xây dựng có tính cách
rõ nét đặt biệt là Vũ Nương.Kết thúc truyện bất ngờ không sáo mòn,hàm ý sâu sắc
Có thể nói, “ Chuyện người con gái Nam Xương ” của Nguyễn Dữ là kiệt tác của
nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là “ thiên cổ kỳ bút ”. Tác giả đã góp một
tiếng nói nhân ái, nhân đạo để đòi quyền được sống, được hạnh phúc của người
phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến suy tàn xưa. Thời gian đã trôi qua hàng
thế kỉ nhưng câu chuyện về nàng Vũ Nương của ông vẫn làm sao động trái tim biết
bao thế hệ bạn đọc, nó giúp ta hiểu thêm về vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội
ngày xưa. Từ đó, ta thêm trân trọng giá trị cuộc sống mới, cuộc sống bình đẳng,
cuộc sống mà người phụ nữ tự làm chủ cuộc đời và làm chủ chính bản thân mình.

You might also like