You are on page 1of 5

Đề bài: Phân tích bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt

Bài làm
Trong bài thơ “Đò lèn”, nhà thơ Nguyễn Duy viết:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”
Từ xưa đến nay, tình cảm bà cháu sâu nặng, thắm thiết luôn là đề tài bất hủ của nghệ thuật. Từ truyện ngắn,
đến thơ ca hay cả những câu hát du dương đều thấp hoáng hình bóng của những con người đáng mến này. Hiểu
được điều này, Bằng Việt – người thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ đã lấy tất
cả tình yêu thương bà của mình, những kỉ niệm về bà cùng với ngòi bút tinh tế, sắc sảo, giàu cảm xúc đã khắc
họa thành công hình ảnh người bà trong gia đình với tình thương và đức hy sinh cao cả đồng thời đề cao tình
cảm đẹp đẽ, thấm đượm tình bà cháu qua bài thơ “Bếp lửa”.
Bài thơ “Bếp lửa” là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ, phong cách nghệ
thuật nhẹ nhàng, bình dị nhưng đậm chất triết lí của Bằng Việt. Tác phẩm được sáng tác vfao năm 1983, khi tác
giả đang đi du học ở Liên Xô. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm.
Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó, người cháu bộc lộ nỗi nhớ về
những kỉ niệm thời ấu thơ, được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà đồng thời thể hiện sự biết ơn, kính
trọng của người cháu đối với bà, với gia đình, với quê hương, đất nước.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu.
Ở phương xa, người cháu luôn nhớ về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân, có bà và có cả những kỉ niệm
thời thơ ấu. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt nguồn từ hình ảnh “bếp lửa” năm xưa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắm mưa.”
Ba tiếng “một bếp lửa” được điệp lại hai lần, trở thành một điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu
lắng, gợi nhắc về một hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình Việt Nam, gắn liền với những người bà,
người mẹ, với những bữa cơm sum họp gia đình. Nhắc đến bếp lửa sẽ gợi cho tác giả những kỷ niệm về một
người bà tần tảo sớm hôm bên căn bếp nhỏ. Bởi vậy, bếp lửa có thể coi như là khơi nguồn cho mạch cảm xúc
của nhà thơ về bà của mình. Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ đến ngọn lửa bập bùng lúc ẩn, lúc hiện
trong màn sương sớm, trong ký ức con người. Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay bà che chắn cho ngọn lửa, gợi tấm
lòng, sự săn sóc của bà. Bếp lửa đã thắp lên trong cháu những kỷ niệm về bà, thổi bùng lên tình yêu thương và
nỗi nhớ bà da diết khôn nguôi. Sự “nồng đượm” kia không chỉ tả bếp lửa cháy đượm mà còn ẩn chứa tình cảm
trân trọng của tác giả đối với người đã cần mẫn, chăm chút thắp lên ngọn lửa ấy. Tác giả đã sử dụng biện pháp
tả thực kết hợp với biện pháp tu từ ẩn dụ để gợi bàn tay chăm chút của người bà cũng như tấm lòng chi chút của
người nhóm lửa. Hai hình ảnh sóng đôi đối nhau “chờn vờn sương sớm” – “ấp iu nồng đượm” đã tạo nên sự hòa
phối âm thanh làm cho câu thơ vừa nhẹ nhàng như khói bếp vừa trĩu nặng về thời gian. Để rồi không cầm được
cảm xúc, người cháu đã thốt lên : “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, thật giản dị mà vẫn trào dâng một tình
yêu thương bà vô hạn. Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của
người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia vả bao hảm cả
sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.Từ đó, sức
ấm và ánh sáng của hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp
kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu. Nếu như trong câu chuyện cổ tích và những người bạn cùng lứa khác có bà
tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã
gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa
cháu.
Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng không để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ
khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói,


Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu,
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”.
Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Hơn hai triệu người dân Việt Nam chết đói vì chính
sách cai trị dã man của giặc Nhật, giặc Pháp. Người chết như ngả dạ, người sống thì “dật dờ như những bóng
ma”. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời, đói đến nỗi phải ăn đất sét, những trăn trở
về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao… Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một
câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” như nhân đôi lên cái đói
khiến nó kéo dài lê thê trong thời gian dài đằng đẵng. Cai đói ấy đọng lại trong hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc
ngựa gầy”, cả người và ngựa dường như kiệt quệ, khô héo, như không còn sức sống. Hình ảnh ấy đã diễn tả
hoàn cảnh thiếu thốn của gia đình là một hình ảnh đậm chất hiện thực diễn tả sự xơ xác tiều tụy của những con
người người trong cuộc mưu sinh. “Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện
thực đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác,tiêu điều cùng những con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh. Không
trải qua cái đói quay, đói quắt thì Bằng Việt chẳng thể viết được những câu thơ chân thực đến thế! Ấn tượng
nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến
bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người
cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện. Sống mũi cay không phải vì “khói hun nhèm mắt cháu” mà bởi
vì sự xúc động của cháu khi nhớ đến những kí ức đau thương. Khói bếp của bà không thể làm no bụng cháu
nhưng chính nhờ điều đấy mà cháu may mắn được sống sót trong nạn đói năm ấy. Điều này cho thấy, mùi khói
bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thể chất và tâm hồn cháu. Với những hình ảnh tả thực miêu tả rõ nét
nhất về nạn đói năm 1945 đó là một lịch sử đau thương của dân tộc và sâu đậm nhất là mùi khói bếp in rõ trong
tâm trí của người cháu cũng như tuổi thơ nhiều gian khổ thiếu thốn.
Và như một thước phim quay chậm, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà ùa về đó là kỉ niệm tám
năm kháng chiến cùng bà đó cũng là năm tác giả sống trong sự cưu mang dạy dỗ của bà:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Khoảng thời gian tám năm cháu ở cùng bà đã để lại nhiều kỷ niệm với người cháu. Những năm tháng ấy là
những năm tháng hồn nhiên trong sáng và vô tư qua hình ảnh tâm tình với tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú là
âm thanh quen thuộc của đồng quê, nó như giục giã khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy
những hoài niệm nhớ mong. Tiếng tu hú gợi lên một không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại
rộn lên khắc khoải, da diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm. Bà vừa là cha vừa là mẹ của
người cháu được tác giả thể hiện qua các động từ “dạy, bảo, chăm” đã thể hiện tấm lòng bao la sự chăm chút
nâng niu của bà với đứa cháu bé nhỏ. Các điệp từ bà cháu được lặp lại bốn lần đan xen vào nhau gợi lên tình bà
cháu quấn quýt yêu thương. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm
bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu
thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình. Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi
chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hòa trên những cánh đồng xa” mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Nó diễn tả
nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà. Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò
chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc
bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú
vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài
niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.. Khổ thơ thứ ba đã gợi lên tình yêu thương sự đùm bọc
che chở và dạy dỗ của người bà là chỗ dựa tinh thần cho cháu đó cũng là nỗi nhớ thương bà và quê hương khắc
khoải đến quặn lòng của người cháu khi xa quê.
Chiến trang, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho
bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia
cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi…
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê
hoang tàn xơ xác trong khói lửa của chiến tranh. Ngọn lửa hung tàn đã đốt cháy ngôi nhà của hai bà cháu. Trên
cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy hình ảnh hàng xóm hiện lên qua từ láy “đỡ đần” đã cho thấy trong bom đạn
chiến tranh ngời lên vẻ đẹp của tình đoàn kết là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu.Điều
khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan,
đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ,kiên cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu
của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh. Vậy là bà đã gồng
mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa
cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc
kháng chiến chung của dân tộc. Bà không chỉ là chỗ dựa vững chắc cho hậu phương mà còn là điểm tựa vững
chắc cho cả tiền tuyến. Bà góp phần làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam vốn giàu lòng vị
tha giàu đức hi sinh.Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc. Qua đó, Bằng Việt đã
khắc họa nên dòng kỉ niệm như một thước phim quay chậm hiện lên chân thực và đầy xúc động. Những kí ức
ấy đã phản chiếu một tuổi thơ của cháu với bao vất vả, nhọc nhằn đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp của tình bà
cháu bằng lòng yêu thương và sự tần tảo sớm hôm bà đã chăm sóc, dạy bảo, cưu mang đứa cháu thơ dại, nhờ có
bà mà tuổi thơ của cháu bớt trống trải, cô đơn khi thiếu vắng tình cảm mẹ cha. Bởi vậy, cháu luôn biết ơn và
dành cho người bà của mình một tình yêu vô bờ bến.
Từ suy ngẫm về vai trò của người bà trong cuộc sống, tác giả tiếp tục khẳng định phẩm chất cao quý của
người bà:
"Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.”
Hình ảnh bếp lửa ở dòng thơ đầu là hình ảnh tả thực về sự vật hữu hình cụ thể gần gũi và gắn liền với những
gian khổ của đời bà. Từ hình ảnh bếp lửa tác giả liên tưởng đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng và khách quan.
Bếp lửa bà nhóm lên không chỉ bằng nguyên liệu bên ngoài mà chính bằng ngọn lửa từ trong lòng bà đó là ngọn
lửa của tình yêu thương của niềm tin, sự bền bỉ, sự bất diệt. Ngọn lửa ngày ngày bà nhóm cũng là nhóm niềm
vui niềm tin niềm yêu thương để nâng đỡ cháu trên suốt những chặng đường dài. Bà không chỉ là người nhóm
lửa giữ lửa mà còn là người truyền lửa ngọn lửa của sự sống của niềm tin cho các thế hệ nối tiếp nhau. Các
động từ “nhen, ủ, chứa” đã khẳng định ý chí bản lĩnh sống của bà cũng như của những người phụ nữ Việt Nam
lúc bấy giờ. Điệp ngữ, ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ mạnh mẽ đầy xúc
động tự hào thông qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa tác giả đã khẳng định vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại, đầy
yêu thương của bà hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng diệu kì. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi
đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền
lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Có thể thấy, trong suy nghĩ của nhà thơ, hình ảnh
bếp lửa không chỉ mang giá trị vật chất mà còn mang những giá trị tinh thần lớn lao. Bếp lửa không chỉ là thói
quen, là công việc hàng ngày của bà mà còn gắn liền với tình yêu thương và sự sẻ chia. Bà không chỉ là người
nhóm lửa mà còn là người giữ lửa tình yêu và truyền lửa niềm tin đến các thế hệ mai sau.
Từ ngọn lửa ấm nóng ấy, nhà thơ mở ra suy ngẫm về cuộc đời bà, về bếp lửa:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”
Từ láy “lận đận” đã diễn tả cuộc đời vất vả của bà kết hợp với “biết mấy nắng mưa” là ẩn dụ để chỉ những
thăng trầm của cuộc sống càng làm đậm thêm sự hi sinh cần mẫn của bà. Trải qua tất cả những khó khăn thách
thức ấy hình ảnh bà vẫn chưa bao giờ tách rời với bếp lửa. “Mấy chục năm rồi” lời thơ kể mà như đếm gợi lên
cả một tuổi thanh xuân vất vả, cả một đời người thức khuya dậy sớm gắn liền với khói bếp cay nồng. Ấy vậy
mà trong thói quen dậy sớm ta cảm nhận được sự tần tảo đức hi sinh vẫn nguyên vẹn như thuở nào. Điệp từ
“nhóm” ngân lên lan tỏa và khơi dậy biết bao yêu thương biết bao rung cảm và xúc động trong lòng người đọc.
Mỗi hình ảnh liệt kê trong mỗi câu thơ là cả một dòng suy ngẫm gợi lên trong cả tác giả lẫn độc giả. Bếp lửa ấp
iu nồng đượm ở khổ 1 nay được lặp lại làm mạch cảm xúc được nối liền ngân vang như một lời khẳng định về
sự cần mẫn khéo léo của bà. Chính tấm lòng nồng ấm đó đã “nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi” nuôi
cháu trong những lúc thiếu thốn, để từ đó bà nhắc cháu rằng không bao giờ được quên những năm tháng nghĩa
tình chia nhau từng củ khoai củ sắn cho đỡ đói lòng. Những năm tháng mà hai bà cháu sống trong sự đùm bọc,
san sẻ cùng xóm làng với “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”. câu thơ như một lời răn dạy cháu hãy luôn sống chan
hòa và biết nghĩ đến mọi người đừng ích kỷ cho riêng mình. Chính những bài học thầm lặng và cuộc sống ấy đã
rọi vào tâm hồn người cháu và thắp sáng những ước mơ khát vọng. Chính vì vậy tác giả đã thốt lên rằng: “nhóm
dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Qua đó ta đã thấy được và không chỉ thấu hiểu cháu mà còn là tấm gương cho
cháu noi theo. Ký ức tuổi thơ tuy không rõ ràng nhưng vẫn ghi dấu từng hình ảnh cụ thể “ khoai sắn” “ xôi gạo”
và tượng trưng “yêu thương”, “tâm tình” đan xen quấn quýt vào nhau giữa cuộc sống đời thường và giá trị tinh
thần. Bà thì nhóm lửa còn Bằng Việt thì nhóm lên biết bao hoài niệm khơi dậy bao đợt sóng yêu thương trong
lòng người đọc. Người bà ấy giản dị nhưng lại có một sức mạnh kỳ diệu. Để rồi từ đó nhà thơ thốt lên bao nhiêu
nhung nhớ và trân trọng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa” câu thơ với từ cảm thán “Ôi” như chất chứa dồn nén
biết bao điều. Trong đó là sức mạnh kỳ lạ không có gì có thể dập tắt được bếp lửa, nó cháy trong mọi hoàn
cảnh. Trong đó là sự thiêng liêng nhà thơ đã trân trọng gìn giữ nơi đất khách quê người đó là tổ ấm là cội
nguồn gia đình là cội nguồn quê hương. Đến đây ta mới thực sự cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của hình ảnh
“bếp lửa”. Hình ảnh ấy đã trở thành cái nền hoàn hảo để mở ra dòng suy ngẫm của cả tác giả lẫn độc giả về
cuộc đời tần tảo và nghĩa tình của bà.
Để giờ đây khi đang ở cách xa bà hàng nghìn dặm Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về người bà yêu
thương:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...”
Ở nước Nga xa xôi lạnh giá, bếp ga, bếp điện đã thay thế bếp củi nhem nhuốc khói nhưng hình ảnh người bà
và bếp lửa sớm mai vẫn còn đọng lại mãi trong tâm trí cháu. Bút pháp liệt kê và phép lặp cấu trúc “Có …trăm”
đã vẽ nên một chân trời bao la rộng lớn với biết bao điều vui tươi mới mẻ. Thế nhưng cuộc sống hiện đại ấy vẫn
không thể làm cháu nguôi đi nỗi nhớ đau đáu thường trực về bà một nỗi nhớ tới mức: “ chẳng lúc nào quên
nhắc nhở”. Người bà nói riêng hay người phụ nữ trong gia đình luôn gắn với những gì gần gũi, thân thiết nhất.
Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì, là nơi bình yên cuối cùng để trở về sau những thăng trầm của
cuộc đời.Trong dáng hình bình thường khiêm nhường ấy quả đổi ẩn giấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái để
họ trở thành hiện thân của gia đình quê hương đất nước. Nay ở nơi đất khách quê người, những câu thơ như hát
ra từ ngọn lửa ấm nóng năm xưa của bà càng gợi nhắc để người đọc thấm thía điều đó. Niềm kính yêu và trân
trọng đối với bà đã trở thành sự gắn bó đó với gia đình tình yêu và nỗi nhớ quê hương đất nước cũng như lòng
biết ơn của Bằng Việt đối với cội nguồn che chở nơi ấy. Để mỗi ngày mỗi giờ lòng ông đều vang lên một câu
hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” . Như vậy, đoạn thơ là sự bộc lộ tình cảm trực tiếp của người cháu
ở nơi phương xa dành cho bà ở quê nhà. Với cháu, dẫu cho thế giới ngoài kia mênh mông, rộng lớn với biết bao
điều hấp dẫn, mới mẻ thì cũng không thể nào khỏa lấp được nỗi nhớ nhà, nhớ bà, nhớ quê hương. Với cháu, bà
là thế giới, là quê hương, là nơi cháu luôn đau đáu nhớ về. Lời thơ là lời nhắn nhủ về đạo lí “Uống nước nhớ
nguồn”, về lối sống thủy chung, ân tình, ân nghĩa với quê hương. Ta chợt nhớ đến chàng trai trong bài ca dao
năm nào:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dải nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”
Qua việc vận dụng âm điệu thơ trữ tình, sâu lắng, ngôn ngữ thơ bình dị, mộc mạc, gần gũi, giọng điệu thủ
thỉ, tâm tình, tha thiết cùng với việc kết hợp nhiều biện pháp tu từ nghệ thuật như so sánh, liệt kê, câu hỏi tu từ,
… Bằng Việt đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu đồng thời thể hiện lòng kính
yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng như đối với gia đình, quê hương, đất nước.
Đó cũng chính là tình của người bà trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh, “Đò lèn” của Nguyễn Duy, là
bao người mẹ, người chị dịu dàng, đằm thắm đã tô đậm trang sử sáng ngời của dân tộc về hình ảnh người phụ
nữ Việt Nam anh hùng. Đọc xong bài thơ, người đọc như được sưởi chung với Bằng Việt hơi ấm của tình
thương gia đình, của cội nguồn, của Tổ quốc.
Bàn về văn chương, nhà thơ Phùng Quán có viết:
“Những phút ngã lòng
Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”
Thật vậy, trong hoàn cảnh phải đi du học ở đất nước Nga xa xôi, lạnh lẽo và trong tâm trí cứ mãi thường trực
những hình ảnh về quê nhà, về bà và bếp lửa. Lúc này, Bằng Việt đã “vịn câu thơ mà đứng dậy” qua thi phẩm
“Bếp lừa”. Bài thơ ra đời như một sự tự gửi gắm tâm tư, tự giãi bày những tình cảm chất chứa trong lòng không
nói ra được và chính nó đã làm nên giá trị nhân văn sâu sắc cho bài thơ. Qua hồi tưởng và suy ngẫm của mình,
bài thơ “Bếp lửa” đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc đông về người bà và tình bà cháu đồng thời thể hiện lòng
kính yêu của người cháu với bà, với quê hương, đất nước.

You might also like