Professional Documents
Culture Documents
Bài làm
Trong bài thơ “Đò lèn”, nhà thơ Nguyễn Duy viết:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”
Từ xưa đến nay, tình cảm bà cháu sâu nặng, thắm thiết luôn là đề tài bất hủ của nghệ thuật. Từ truyện ngắn,
đến thơ ca hay cả những câu hát du dương đều thấp hoáng hình bóng của những con người đáng mến này. Hiểu
được điều này, Bằng Việt – người thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ đã lấy tất
cả tình yêu thương bà của mình, những kỉ niệm về bà cùng với ngòi bút tinh tế, sắc sảo, giàu cảm xúc đã khắc
họa thành công hình ảnh người bà trong gia đình với tình thương và đức hy sinh cao cả đồng thời đề cao tình
cảm đẹp đẽ, thấm đượm tình bà cháu qua bài thơ “Bếp lửa”.
Bài thơ “Bếp lửa” là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ, phong cách nghệ
thuật nhẹ nhàng, bình dị nhưng đậm chất triết lí của Bằng Việt. Tác phẩm được sáng tác vfao năm 1983, khi tác
giả đang đi du học ở Liên Xô. Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm.
Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó, người cháu bộc lộ nỗi nhớ về
những kỉ niệm thời ấu thơ, được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà đồng thời thể hiện sự biết ơn, kính
trọng của người cháu đối với bà, với gia đình, với quê hương, đất nước.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh “bếp lửa” – nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu.
Ở phương xa, người cháu luôn nhớ về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân, có bà và có cả những kỉ niệm
thời thơ ấu. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt nguồn từ hình ảnh “bếp lửa” năm xưa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắm mưa.”
Ba tiếng “một bếp lửa” được điệp lại hai lần, trở thành một điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu
lắng, gợi nhắc về một hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình Việt Nam, gắn liền với những người bà,
người mẹ, với những bữa cơm sum họp gia đình. Nhắc đến bếp lửa sẽ gợi cho tác giả những kỷ niệm về một
người bà tần tảo sớm hôm bên căn bếp nhỏ. Bởi vậy, bếp lửa có thể coi như là khơi nguồn cho mạch cảm xúc
của nhà thơ về bà của mình. Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ đến ngọn lửa bập bùng lúc ẩn, lúc hiện
trong màn sương sớm, trong ký ức con người. Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay bà che chắn cho ngọn lửa, gợi tấm
lòng, sự săn sóc của bà. Bếp lửa đã thắp lên trong cháu những kỷ niệm về bà, thổi bùng lên tình yêu thương và
nỗi nhớ bà da diết khôn nguôi. Sự “nồng đượm” kia không chỉ tả bếp lửa cháy đượm mà còn ẩn chứa tình cảm
trân trọng của tác giả đối với người đã cần mẫn, chăm chút thắp lên ngọn lửa ấy. Tác giả đã sử dụng biện pháp
tả thực kết hợp với biện pháp tu từ ẩn dụ để gợi bàn tay chăm chút của người bà cũng như tấm lòng chi chút của
người nhóm lửa. Hai hình ảnh sóng đôi đối nhau “chờn vờn sương sớm” – “ấp iu nồng đượm” đã tạo nên sự hòa
phối âm thanh làm cho câu thơ vừa nhẹ nhàng như khói bếp vừa trĩu nặng về thời gian. Để rồi không cầm được
cảm xúc, người cháu đã thốt lên : “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, thật giản dị mà vẫn trào dâng một tình
yêu thương bà vô hạn. Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của
người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia vả bao hảm cả
sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.Từ đó, sức
ấm và ánh sáng của hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp
kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu. Nếu như trong câu chuyện cổ tích và những người bạn cùng lứa khác có bà
tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã
gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa
cháu.
Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng không để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ
khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói: