You are on page 1of 10

“Tuổi hai mươi làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi


Thì còn chi Tổ quốc”
Những vần thơ ấy của Thanh Thảo vang lên thấy xót xa thay cho những
người lính đang tuổi xuân xanh nhưng cũng tưởng nhớ và biết ơn thật nhiều vì
những sự hi sinh thầm lặng cho đất nước không còn súng đạn, cho dân tộc vắng
bóng quân thù. Hòa chung không khí của năm tháng chiến tranh, văn học nghệ
thuật ra đời như hồi chuông cổ vũ chiến đấu. Và tác phẩm “Đồng chí” của Chính
Hữu cũng được hoài thai từ đó. Bài thơ dưới ngòi bút mộc mạc của nhà thơ Chính
Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng cũng
thấm đẫm tình đồng chí trong những năm tháng kháng chiến.
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống
bằng những gam màu hiện thực. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim của mình để
“hút nhụy đời” tưới tắm cho những cánh đồng văn học. Ở cánh đồng ấy, có một
khoảng trời dành riêng cho văn học cách mạng, văn học của hiện thực tàn khốc mà
cũng đẹp đẽ vô cùng. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh
người lính mãi là hình ảnh cao quý và đẹp đẽ nhất. Hình ảnh ấy đã đi vào lòng
người và văn chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những
tác phẩm ra đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những
người lính Cụ Hồ là bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Bằng những rung động mới
mẻ và sâu lắng cũng như sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ Đồng
Chí, Chính Hữu đã diễn tả một cách sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của
những anh bộ đội thời kháng chiến. Chính Hữu sinh năm 1926 và mất năm 2007.
Ông là nhà thơ, là chiến sĩ trong suốt thời gian chống Pháp – Mỹ. 1946, ông gia
nhập Trung đoàn thủ đô. Năm 1947, Chính Hữu bắt đầu làm thơ. Sáng tác của ông
chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc.
Đặc biệt là tình cảm đồng chí, đồng đội thân thiết, keo sơn, sự gắn bó của tiền
tuyến với hậu phương.
Bài thơ Đồng Chí sáng tác mùa xuân 1948, thời kì đầu của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp.Đầu nằm 1948 ( sau chiến dịch Việt Bắc thu đông năm
1947), Chính Hữu từng tham gia quân đội, ông là chính trị viên đại đội. Bản thân
ông có rất nhiều nhiệm vụ, đặc biệt là nhiệm vụ chăm sóc thương binh, bệnh binh
và chôn cất một số tử sĩ. Sau chiến dịch, do bận quá nhiều công việc nên ông bị ốm
nặng, phải nằm lại điều trị ở khu căn cứ. Đơn vị đã cử 1 đồng chí chiến sĩ ở lại
chăm sóc cho ông. Đó là một người đồng chí vô cùng tận tụy đã giúp ông vượt qua
khó khăn, hiểm nghèo của bệnh tật. Cảm động trước tấm lòng của người ban -
người chiến sĩ - đồng đội của mình, ông viết bài thơ này như một sự biết ơn sâu sắc
và chân thành nhất. Bài thơ được đánh giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai
đoạn chống Pháp 1946-1954, nó đã làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính
Hữu. Các bài thơ thành công cùng thời kì chống Pháp, cùng đề tài người
lính:”Nhớ”-Hồng Nguyên,”Tây Tiến”_Quang Dũng.Còn thời kì kháng chiến
chống Mỹ thì có các bài thơ tiêu biểu về người lính :”Bài thơ về tiểu đội xe không
kính”_ Phạm Tiến Duật, “ Khoảng trời hố bom” _ Lâm thị Mỹ Dạ, và truyện ngắn
“ Những ngôi sao xa xôi” _ Lê Minh Khuê…Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội
thắm thiết , sâu nặng của những người lính cách mạng. Đồng thời còn làm hiện lên
hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp. Bài thơ theo thể tự do, câu thơ dài ngắn khác nhau, hai
mươi dòng thơ chia làm ba đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh
của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc
được dẫn dắt để dồn vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm. Sáu dòng đầu có
thể xem là sự lí giải về các cơ sở của tình đồng chí. Dòng bảy có cấu trúc đặc
biệt( chỉ một từ với dấu chấm than) như một phát hiện,một lời khẳng định sự kệt
tinh tình cảm giữa những người lính. Mười dòng tiếp thoe, mạch cảm xúc sau khi
dồn tụ ở dòng bảy lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ
thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó. Ba dòng thơ cuối được tác giả
tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc “ Đầu súng
trăng troe “ như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính.

Bài thơ mở đầu bằng hai câu đối nhau rất hoàn chỉnh:

“ Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Hai câu thơ đầu tiên giới thiệu quê hương “anh” và “ tôi” những người lính
xuất thân là nông dân. Họ đang tâm sự với nhau về quê hương, về xuất thân của
mình. “ Quê hương anh “ và “ làng tôi “ đặt ở đầu hai câu thơ đầu tiên để giúp
người đọc hiểu rằng họ không phải xuất thân từ chốn thành thị trù phú, sầm uất mà
là những miền quê khác nhau nhưng đều có chung một điểm : nghèo khó, đó là
những mảnh đất cằn cỗi, bạc màu… Chính vì có được sinh ra và lớn lên ở chốn
thôn quê đầy vất vả, lam lũ nên một phần nó cũng ngấm sau vào tiềm thức các anh,
tạo nên những người lính rất đỗi bình dị, mộc mạc mà vẫn mang nét đặc trưng và
hiên ngang như vậy. “ Nước mặn đồng chua” là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó
làm ăn, sinh sống, còn “ đát cày lên sỏi đá” là nơi đồi núi, trung du, khó canh tác.
Hai câu sử dụng sáng tạo thành ngữ chỉ nói về địa hình, về đất đai- mối quan tâm
hàng đầu của người nông dân, cho thấy sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân
nghèo khó là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng. Ở câu đầu,
tác giả sử dụng câu thơ sóng đội, mượn những thành ngữ dân gian và sáng tạo nó
khi nói về quê hương, xuất thân của những người lính. Lời thơ rất chân thành, giản
dị, dân dã, mộc mạc như chính phẩm chất của những người chiền sĩ nông dân. Vì
thế mà cơ sở đầu tiên hình thành tình đồng chí đó là cùng cảnh ngộ xuất thân, đồng
thời nó còn là mảnh đất màu mỡ để tình đồng đội phát triển và nảy nở.

Dù có cùng cảnh ngộ xuất thân, nhưng hai anh đều sinh ra và lớn lên ở
những nơi khác nhau, được giáo dục và nuôi dưỡng khác nhau, thế mà hai anh có
thể gặp được nhau và gắn bó với nhau được đến vậy. Đây quả thật là định mệnh
mà Chính Hữu tinh tế tái hiện để khơi nguồn cho tình cảm đồng đội:

“Anh với tôi đôi người xa lạ


Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”

“Anh với tôi đôi người xa lạ”. Từ đôi được tác giả sử dụng thay cho từ đồng
nghĩa “hai” lại có tác dụng, có giá trị biểu đạt rất lớn. Đã là “đôi” tức là lúc nào
cũng gắn bó chặt chẽ, lúc nào cũng hiểu lẫn nhau, và sợi dây tình cảm lúc nào cũng
bền chặt, thắm thiết. Cách dùng từ ngữ giản dị, không hoa mĩ này của tác giả như
một lời khẳng định, khẳng định tình thân, sự gắn bó giữa hai người lính, cái đẹp đẽ
của tình người – tình đồng chí. Ban đầu là “người xa lạ”, rồi là “chẳng hẹn” mà
“quen” đã hé mở rằng đây có lẽ là một mối lương duyên được hình thành từ dòng
máu chảy trong người hai anh, cả hai đều là người con đất Việt, mang trong mình
niềm tin yêu của cả dân tộc. Tự phương trời tuy chẳng quen nhau nhưng do cùng
một nhịp đập của trái tim, cùng tham gia chiến đấu, giữa họ nảy nở một thứ tình
cảm cao đẹp đó là tình đồng chí. Tình cảm ấy không chỉ lafcungf cảnh ngộ mà còn
là sự gắn kết trọn vẹn về cả lí trí, lẫn lí tưởng và mục đích cao cả đó là chiến đấu
giành độc lập tự do cho Tổ quốc.

Với tình cảm đồng đội gắn bó keo sơn, những người lính đồng lòng sát cánh
bên nhau để cùng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”

“Súng bên súng” là cách nói rất hình tượng và giàu cảm xúc để chỉ những
con người cùng chung lí tưởng chiến đấu, nói về cái chung về hoàn cảnh, kẻ thù,
chung một trận tuyến, một khao khát độc lập tự do Họ sẵn sàng hi sinh cả tính
mạng của mình vì hòa bình của dân tộc bởi “không có gì quý hơn độc lập tự do”.
“đầu sát bên đầu” còn là cái chung về tâm tư, tình cảm, sự quyện hòa tâm hồn của
đôi bạn tâm giao. Nó diễn tả sự đồng ý, đồng tâm, đồng lòng của những người
đồng chí với nhau. Hình ảnh giàu cảm xúc đó còn cả ngợi sự đoàn kết giữa hai anh
bộ đội cụ Hồ: trong chiến đấu gian khổ vẫn kề vai sát cánh, trong khó khăn đời
lính thì chia cho nhau từng lời tâm sự, san sẻ cho nhau hơi ấm chung chăn trong
đêm khuya giá rét. Tình đồng chí còn được nảy nở và trở nên bền chặt trong sự
chan hòa chia sẻ mọi gian lao cũng nhu niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỉ
của những ngươi bạn chí cốt. Cái chăn đắp chung ấy có lẽ không chỉ là chiếc chăn
bình thường, mà là chiếc chăn của tình đồng đội, chiếc chăn ấm nồng sưởi nóng
tâm hồn người lính trong cái rét buốt da thịt triền miên, cái lạnh lùng vô tình của
súng ống đạn bom. Đắp chung chăn, anh và tôi cùng chia nhau hơi ấm tâm hồn,
tiếp thêm cho nhau sức mạnh tinh thần để rồi thêm nữa sự mạnh mẽ, cứng rắn. Đắp
chung chăn nghĩa là chung cái khắc nghiệt, khó khă của cuộc đời người lính, nhất
là chung hơi ấm để vượt qua cái lạnh mà sự gắn bó la thành thật với nhau. Câu thơ
đầy ắp kỉ niệm và thật ấm áp tình đồng chí, đồng đội. Đắp chăn chung, hai người
bộ đội đã như anh em một nhà, chia ngọt sẻ bùi, tình thân thắm thiết đến mức
không thể diễn tả nổi. Nói đến cái lạnh buốt của đêm rừng nhưng người đọc vẫn
cảm nhận được hơi ấm tỏa ra từ ngọn lửa mang tên “tình đồng đội” trong sâu thẳm
trái tim, hơi ấm mà cả người lính lẫn người đều chẳng thể nào quên được: “Bát
cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Không chỉ với “Đồng chí”, hồn thơ cách mạng
Chính Hữu cũng khắc họa tình đồng chí, đồng đội thật sâu sắc trong ‘Giá từng
thước đất”:

“Đồng đội ta
là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.”

Chính tình đồng chí đã khiến “đôi người xa lạ” có thể trở thành “đôi tri kỉ”.
Một hình ảnh đối lập đẹp đến nao lòng. Bạn tri kỉ thật sự không dễ kiếm, có khi cả
đời vẫn không tìm được một ai. Vậy mà hai anh lính lại thành tri kỉ của nhau, gắn
bó với nhau nhanh chóng như vậy, bất chấp chiến trường nhiều kẻ địch, đường
rừng lắm chông gai. Tình cảm đồng đội đúng thật bất diệt, mãnh mẽ đến kì lạ.
Nhìn lại cả bảy câu thơ đầu, chỉ có duy nhất môt từ “chung” nhưng bao hàm nhiều
ý nghĩa đó là chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung một khát
vọng. Như vậy, từ rời rạc riêng lẻ, hai người đã dần nhập thành chung, thành một,
khó tách rời.

Câu thơ từ bảy, tám từ đột ngột rút lại thành hai tiếng “đồng chí!” tha thiết,
dâng trào cảm xúc. Không chỉ đóng vai trò là tiếng gọi quân đội trang nghiêm mà
đó còn là tiếng gọi chân thành từ sâu thẳm con tim người lính chiến, là tiếng gọi
reo vui của hai con người cùng chung chí hướng, cùng chung lý tưởng, mục đích
khi đứng dưới lá cờ Cách mạng. Hai tiếng ấy kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu
lắng. Câu thơ tạo một nét nhấn như một điểm chốt, một điểm tựa, như đòn gánh
hai đầu câu thơ của phần một và phần hai của bài thơ. Và chính vì thế người ta gọi
đó là câu thơ bản lề. Nó vang lên như một phát hiện, một khẳng định, một tiếng gọi
trầm lắng, xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng thiêng
liêng ấy. Câu thơ như gắn kết hai phần bài thơ với nhau. Câu thơ ấy như một viên
ngọc làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của một tình cảm cách mạng mới mẻ chỉ
có ở thời đại mới – thời đại kháng chiến chống Pháp. Câu thơ thứ bảy là một câu
thơ đặc biệt, giản dị, sáng ngời và thiêng liêng.

Tình đồng đội chân thành đã giúp các anh lính vượt qua bao khó khăn, bao
nỗi nhớ về quê hương, làng xóm:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Đó là tình bạn tri kỉ của những người lính, hiểu bạn như hiểu mình và còn vì
mình là người trong cuộc, người cùng cảnh ngộ. Với người nông dân thì ruộng
nương, gian nhà là cả cơ nghiệp, là ước mơ ngàn đời của họ, họ luôn gắn bó, giữ
gìn và chắt bóp cho những gì mình có. Vậy mà họ đã gác lại hết tất cả để ra đi đánh
giặc. Câu thơ: “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” hết sức tạo hình và biểu cảm.
Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi, biết người thân ở lại sẽ cô đơn,
trống trải nhưng cũng “mặc kệ” thì đó quả là sự hi sinh lớn lao và đó cũng là quyết
chí ra đi mà không dửng dưng, vô tình. Những câu thơ trong bài thơ “Tống biệt
hành” của nhà thơ Thâm Tâm cũng nói về ý chí quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn của
con người:
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.”
Hoặc trong thơ ca của Nguyễn Đình Thi cũng có câu nói về nội dung này:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Các anh chiến sĩ hiểu rõ lòng nhau và còn hiểu rõ nỗi niềm người thân của
nhau ở hậu phương. “Giếng nước”, “gốc đa” là hình ảnh hoán dụ kết hợp với nhân
hóa qua động từ “nhớ” gợi nhắc về quê hương, về người thân nơi hậu phương của
người lính. Như vậy, câu thơ nói nhớ quê hương nhớ người lính mà thực chất là
người lính nhớ nhà, nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. Vậy là người lính đã chia
sẻ với nhau mọi tâm tư, nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyện thầm kín nhất. Họ
chung sống với nhau trong kỉ niệm, trong nỗi nhớ và vượt lên trên nỗi nhớ.
Không chỉ chia sẻ với nhau những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện
tâm tình nơi quê nhà mà họ còn chia sẻ cả những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời
người lính:
“Sốt run người vùng trán ướt mồ hôi”.

Họ đã nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống, cùng chịu
bệnh tật và sự hành hạ của những con sốt rét rừng ghê gớm mà hầu như người lính
nào cũng phải trải qua. Cơn ớn lạnh của căn bệnh sốt rét xuất hiện trong tác phẩm
Đồng Chí của Chính Hữu,vậy thì cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong Tây Tiến của
Quang Dũng cũng không thể không nói tới:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”

Họ cùng chung những thiếu thốn, cùng đói, cùng rách. Đây là hoàn cảnh
chung của bộ đội ta trong những năm đầu kháng chiên chống Pháp. Những hình
ảnh được tác giả miêu tả rất cô đọng và gợi cảm biết bao, từ đó diễn tả sự gắn bó,
đồng cam cộng khổ của các anh, giúp các anh vượt qua mọi thiếu thốn, gian truân
đời lính:
Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

“Miệng cười buốt giá” cười trong buốt giá để lòng ấm lên,cái cười đầy cảm
thông giữa những người đồng đội và từ đó trong “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” cũng có xuất hiện một nụ cười:

“Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Ta có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc,những cơn ớn lạnh của căn
bệnh sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu.Nếu như Thôi Hữu viết về cái
lạnh xé da xé thịt để khắc họa những con người chấp nhận hi sinh “Đem thân xơ
xác giữ sơn hà”,Quang Dũng lại nói về sốt rét để tô đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ
thì Chính Hữu nói về cái lạnh giá,cái khắc nghiệt của sốt rét để nói về tình đồng
chí,đồng đội trong những thời gian khó khăn,gian khổ nhất.Hình ảnh đối xứng
“anh – tôi”, “áo anh – quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí
luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong lúc khó khăn, các anh đã
cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng
chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”,
bằng tình yêu thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” ở núi rừng Việt
Bắc.Cái “miệng cười buốt giá” là cái cười trong lúc gian khổ ,cười trong buốt giá
để lòng được ấm lên.Giá buốt nhưng không lạnh lẽo vì tinh thần đồng đội đã sưởi
ấm trái tim của mỗi người lính.Điểm tựa vững chắc cho người lính chính là những
người đồng đội bên mình,người có chung chí hướng,chung lí tưởng,chung khát
vọng để giành lại độc lập cho dân tộc,tự do cho đồng bào.Vì đã quá vất vả,khổ cực
nên chỉ cần một chi tiết nhỏ của đời sống khiến những người lính nhìn thấu và
thương nhau nhiều hơn.Thứ tình cảm đó có lẽ không bao giờ có thể quên được.

Những người lính quên mình đi để động viên nhau, trao cho nhau hơi ấm:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”


Trên mặt trận khắc nghiệt và gian khổ ấy, họ đã sống và chiết đấu hết mình,
họ cùng nhau vượt qua những khó khăn vất vả, họ dành một tình cảm chân thành
nhất cho nhau. Qua hành động “tay nắm lấy bàn tay”, những người chiến sĩ như
đang truyền cho người bạn của mình những hơi ấm của tình yêu thương đong đầy,
để vững bước trên chiến trường đầy chông gai, vất vả.Và cũng từ đó trong bài
“Thơ về tiểu đội xe không kính” cũng đã xuất hiện những cái bắt tay thể hiện tinh
thần đồng đội:

“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

Đây là một cử chỉ rất cảm động chứa chan tình cảm chan thành. Nó không
phải cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau trong cái đói,
cái rét để truyền cho nhau hơi ấm, để vượt lên buốt giá. Người ta gọi nó là những
bàn tay như biết nói. Trogn suốt cuộc kháng chiến trường kì đầy gian lao, vất vả
ấy, tình cảm đồng chí đã đi vào chiều sâu của sự sống và tâm hồn người chiến sĩ để
trở thành những kỉ niệm không bao giờ quên. Câu thơ không chỉ nói lên tình cảm
gắn bó sâu nặng của những người lính mà còn thể hiện sức mạnh của tình cảm ấy.

Ba câu cuối của bài thơ là biểu tượng đẹp nhất, giàu chất thơ nhất về tình
đồng chí, đồng đội cao đẹp. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh rất đặc sắc:

“Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”

Công việc thực sự của người lính, và tình đồng chí được tôi luyện trong thử
thách, gian nan, trong công việc đánh giặc thực sự là thử thách lớn nhất. Cũng
chính ở cái nơi mà sự sống, cái chết chỉ kề nhau trong gang tấc ấy thì tình đồng chí
mới thực sự thiêng liêng. Ba câu thơ cuối như đã dựng nên bức tượng đài về tình
đồng chí. Trên cái nền hùng vĩ và khắc nghiệt của thiên nhiên nhưng những người
lính vẫn đứng cạnh nhau, im lặng, phục kích chờ giặc tới. Từ “chờ” được tác giả
đặt trong tư thế chủ động. Hình ảnh họ sát cánh bên nhau vững chãi làm mờ đi cái
gian khổ ác liệt của cuộc chiến, tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù.
Tình đồng chí khiến họ sẵn sàng chiến đậu, vẫn lạc quan và yêu đời giữa hiểm
nguy, gian lao. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, bất ngờ, là
điểm nhấn của ba phần, nốt nhạc ngân vang âm hưởng của cả bài thơ. Hình ảnh thơ
rất chân thực và cũng rất lãng mạn. Hình ảnh này được nhận ra từ những đêm hành
quân, phục kích chờ giặc. Trong những đêm chờ giặc, người lính còn có thêm một
người bạn nữa là trăng. Trăng treo lên nền trời, nhìn lên trăng như treo trên đầu
ngọn súng. Chỉ ba câu đã tạo nên bức tranh đẹp về tình đồng chí của người lính
chiến đấu, là biểu tưởng đẹp đẽ giàu chất thơ về cuộc đời người chiến sĩ, của tình
đồng đội.

Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu
đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên với thi phẩm “Đồng chí’’. Bất cứ
nhan đề của tác phẩm nào cũng thể hiện được một cách khái quát nội dung, tư
tưởng, chủ đề của tác phẩm đó cũng như tình cảm của nhà thơ, nhà văn. “ Đồng
chí” : ( “đồng” là cùng, “chi” là chí hướng). “ Đồng chí “ là chung chí hướng,
chung lí tưởng. Người cùng trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách
mạng thường gọi nhau là “ đồng chí “. Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, “
đồng chí “ là cách xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể cách mạng, đơn
vị bộ đội. Vì vậy, tình đồng chí là bản chất cách mạng của tình đồng đội và thể
hiện sâu sắc tình đồng đội của những người lính trong chiến tranh. Hình ảnh thơ
chân thực, bình dị, gợi tả, có sức khái quát cao nhằm diễn tả cụ thể quá trình phát
triển của một tình cảm cách mạng thiêng liêng – tình đồng chí – một thứ tình cảm
không phô trương mà vô cùng lãng mạn và thi vị. Với giọng điệu thơ trữ tình, giàu
cảm xúc, tha thiết như một lời tâm tình sâu sắc, ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn
rất cô đọng, chứng tỏ sự gọt giũa cẩn thận của tác giả kết hợp với những hình ảnh
liên tưởng lãng mãn sâu sắc, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, cảm động tình
đồng chí vững vàng của các anh lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược. Dẫu còn gặp nhiều khó khăn trắc trở, nhưng tình đồng chí của họ vẫn
vượt lên hết thảy và trở thành tình cảm đẹp đẽ nhất, đáng trân trọng nhất giữa
những người bộ đội. Tác giả Chính Hữu đã thể hiện chân thực hình tượng người
người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ qua những chi tiết, hình ảnh,
ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm. Không chỉ tỏa sáng với
nghệ thuật và nội dung nổi bật của mình, bài thơ hay còn phải là bài thơ chạm đến
trái tim độc giả, là sợi dây liên kết giữa người nghệ sĩ và bạn đọc trở nên khăng
khít, gắn bó hơn. Thơ ca là phương tiện để nhà thơ mở cánh cửa lòng mình đến với
mọi người, và hơn thế thơ còn là cầu nối tâm hồn của mọi người tìm đến với nhau.
Các nhà thơ lam thơ khi tình cảm dâng trào mãnh liệt trong trái tim, họ có nhu cầu
muốn được sẻ chia, tìm được sự đồng điệu từ phía người đọc. Đó chính là sự gắn
kết giữa nhà thơ và bạn đọc trong hai quá trình sáng tác – tiếp nhận. “Đồng chí”
cũng chính là một minh chứng sống động cho nhận định trên, tác phẩm đã đem đến
cho bạn đọc những cái nhìn và cảm nhận sâu sắc về tình động chí thắm thiết, là cầu
nối tình cảm giữa Chính Hữu và độc giả.

Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng
trái tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên
nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sấng thuần khiết nhất,
đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Chiến tranh trôi qua, hoà bình đã
được lặp lại nhưng chúng ta vẫn không thể nào quên được sự tàn khốc của nó. Dù
là vậy thì những năm tháng chiến tranh ấy vẫn sẽ là một chương trong những trang
sử hào hùng của dân tộc ta. Tác phẩm “Đồng chí"- một bài thơ như kể lại những
giây phút không thể phai mờ trong lòng những người đồng chí sẽ mãi là bài ca bất
tận trong lòng bạn đọc.

Thành viên trong nhóm:

Đỗ Châu (NT)

Nguyễn Hà Ly

Vũ Bảo Châu

Văn Khánh Vân

Dương Thanh Tú

Trương Ngọc Bích

Trương Hà Phương

Dương Thùy Linh

You might also like