You are on page 1of 10

Trường :_____________________ Thứ___ ngày___tháng___năm 2023

Lớp:________________________ KIỂM TRA


Họ & Tên ___________________
Môn:____________Thời gian:____

Điểm Lời phê của thầy,cô giáo

Bài Làm

Có ai đó đã từng nói rằng: “Biển cả là nơi mà tất cả các nguồn nước trên thế
gian này đều đi ra từ đó nhưng nó không vơi, và cũng là nói đón nhận tất cả các
nguồn nước nhưng nó không đầy”. Văn học cũng như những nguồn nước, đều đi ra từ
biển cả cuộc đời. Ngày ngày, tiếng sóng thủy triều vẫn luôn âm vang chuyên chở
sóng biển đời thường đến với trang thơ. Nhưng sự chuyên chở ấy có bao giờ ngừng
nghỉ, cũng như mảnh đất hiện thực có bao giờ vơi đi, khi người nghệ sĩ đến đó để chở
nắng gió cuộc đời tưới mát muôn cây. Bởi lẽ vậy thơ ca phải gắn mình vào nguồn
mạch cuộc sống, phản ánh cuộc đời thông qua sáng tạo nghệ thuật, song sự phản ánh
ấy không phải là ghi chép máy móc mà là cả quá trình trải nghiệm, chọn lọc, hư cấu
của người nghệ sĩ. Chính Hữu khi đến với thơ ca cũng vậy, ông phải trải qua biết bao
“nắng gió cuộc đời” để góp nhặt vào trang thơ, kết tinh nên thi phẩm “Đồng chí”. Bài
thơ ca ngợi thứ tình cảm cao cả và thiên liêng vô cùng, không gì khác chính là tình
đồng chí. Nhà thơ Chính Hữu đã viết về tình cảm cao đẹp ấy đồng thời tái hiện lại
một cách chân thực hình ảnh người lính chống Pháp đến với cộng đồng ngôn từ.

Chính Hữu sáng tác thơ không nhiều nhưng sáng tác nào của ông cũng vững
vàng nơi cõi lòng người đọc và thách thức quy luật băng hoại của thời gian. Hoạt
động quân đội trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, là một trong
số những chiến sĩ tham gia chiến đấu vì độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam nên
thơ ông hầu như chỉ mang hai gam màu về người lính và chiến tranh. Thơ ông lặng lẽ
tưới tắm cho muôn loài với sự đặc sắc, với cảm xúc dồn nén, dồi dào, ngôn ngữ và
hình ảnh chọn lọc. Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu xuân năm 1948 khi tác
giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông năm 1947. Trong chiến
dịch này, Chính Hữu làm chính trị viên đại hội. Ông có rất nhiều nhiệm vụ đặc biệt là
chăm sóc một số anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau chiến dịch, vì làm
việc vất vả nên ông sinh ốm nặng phải ở lại đơn vị để điều trị. Đơn vị đã cử 1 đồng
chí ở lại để chăm sóc cho Chính Hữu và người đồng đội ấy đã rất tận tâm giúp ông
vượt qua cái khó khăn, ngặt nghèo của bệnh tật. Cảm động trước tấm lòng của người
bạn, ông đã viết bài thơ này thay cho lời cảm ơn chân thành tới người bạn nông dân
của mình.“Bài thơ được in trong tập “Đầu súng trăng treo” (1966). “Đồng chí” tuy có
nói về những thiếu thốn cơ cực của người lính nhưng vẫn chứa đầy sự lạc quan và ấm
áp tình người. Kể về những người lính bộ đội cụ Hồ đến từ những vùng miền khác
nhau, tác phẩm đã làm nổi bật lên mối giao cảm khăng khít giữa họ khi cùng nhau
đứng trên một trận tuyến, cùng chống lại một kẻ thù chung. Và cái đưa đến mối giao
cảm đặc biệt giữa họ ấy, chính là tình đồng chí.
Xuyên suốt bài thơ nổi bật lên giọng thơ mộc mạc nhưng trữ tình, chân chất
mà gợi cảm. Từ mỗi hình ảnh, mỗi câu thơ đều tập trung vào miêu tả tình đồng chí,
tình đồng đội của những người lính. Khổ thơ đầu tiên là những cơ sở hình thành lên
tình đồng chí thiêng liêng cao cả của họ. Hầu hết họ đều là nông dân, dưới ánh mặt
trời rạng soi của cách mạng mới khoác lên mình màu áo quân nhân, mới ra đi tìm lại
độc lập tự do cho dân tộc. Vì nhớ nhà, nhớ quê nên các anh đã kể cho nhau nghe về
nơi chôn rau cắt rốn của mình:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Trong khổ thơ đầu, Chính Hữu đã sử dụng kết cấu sóng đôi “Quê hương
anh-Làng tôi” và cách xưng hô thân mật của những người lính “anh-tôi”. Thủ pháp
đối được sử dụng gợi lên sự tương đồng trong hoàn cảnh của những anh lính. Giọng
điệu thơ tâm tình, thủ thỉ như lời kể chuyện, tâm sự. Họ chính là những người lính
nông dân “Mới hôm qua còn tì tay lên cán cuốc” mà hôm nay đã khoác lên thân sắc
xanh ra đi vì vận mệnh dân tộc. “Anh” đến từ vùng đất phèn nước mặn, “tôi” lại đến
từ nơi có thiên nhiên cằn cỗi. Những người lính họ đều xuất phát điểm từ những
người nông dân nghèo khó, áo nhuộm bùn nâu, tay quen cầm cày, cầm quốc. Thành
ngữ “nước mặn đồng chua” đã gợi ra một vùng đất ven biển đầy nắng gió, đất đai bị
nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong
lần nước. Còn cụm từ “đất cày lên sỏi đá” lại gợi lên một vùng miền núi trung du, đất
đai cằn cỗi sỏi đá, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu từ trong lòng đất. Các
anh tuy khác nhau về địa giới, người miền xuôi kẻ miền ngược từ khắp mọi miền đất
nước tụ họp lại nơi chiến trường, họ bỏ lại chiếc nón lá, đàn trâu, những thứ thân
thương với mình cùng nhau tập trung thành một đội ngũ. Chính điểm chung về cảnh
ngộ ấy đã dẫn đến tình giai cấp giữa nhưng người bộ đội, đồng thời là mảnh đất màu
mỡ cho hạt giống của tình đồng chí nảy nở, phát triển,là sợi chỉ đỏ nối họ lại với
nhau, tạo nên một khối đoàn kết vô hình mà vững chắc. Đó cũng là cơ sở đầu tiên
hình thành lên tình đồng chí, đồng đội bền chặt, keo sơn.
Trong môi trường quân đội, đơn vị, thay cho mái ấm gia đình, những người
đồng đội thay cho người thân, cái nhớ nhà, cái xa xôi của khoảng cách địa lí dường
như được xóa nhòa tất cả để cùng lên đường vì một1 mục đích chung- chung lí tưởng,
nhiệm vụ chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc:
“ Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những con người ở những cùng quê khác nhau ấy tưởng chừng như chẳng bao
giờ gặp nhau , ấy vậy mà khi chiến tranh nổ ra họ lại chẳng hẹn mà quen. Nếu như ở
khai câu thơ đầu, hai từ “anh”- “tôi” được tách ra ở hai câu thơ riêng biệt thì đến đấy
cặp đại từ này lại được tác giả đặt trên cùng một dòng thơ, nối với nhau bởi liên từ
“với”thể hiện sự gắn bó khăng khít. Chính Hữu đã rất khéo léo khi sử dụng từ “đôi” .
Mặc dù “đôi” cũng có nghĩa là “hai” nhưng nó không chỉ hai cá thể hoàn toàn tách
biệt mà lại thể hiện sự gắn bó không thể tách rời. Những người lính vốn từ “đôi”
người xa lạ nay gặp nhau lại trở thành đôi bạn tâm tình, thắm thiết, hiểu bạn như hiểu
mình. Cách dùng từ ngữ giản dị, không hoa mĩ này của tác giả như một lời khẳng
định, khẳng định tình thân, sự gắn bó giữa hai người lính, cái đẹp đẽ của tình người –
tình đồng chí. Chiến tranh vốn đem đến đau thương, mất mát, hi sinh nhưng trong
hoàn cảnh này nó lại là một cuộc hẹn lớn để biến cái lạ thành cái quen, biến những
người ở tận góc bể chân trời thành những người đồng đội. Trong câu thơ, tác giả có
nói các anh lính “chẳng hẹn quen nhau” nhưng thật ra họ đã có sự hẹn trước. Bởi họ
đều mang trong mình lòng yêu nước, ý chí chiến đấu quyết tâm giải phóng đất nước
khỏi ách nô lệ của bọn thực dân Pháp, họ cùng nhau tự nguyện tham gia quân ngũ để
rồi “quen nhau”. Đó chẳng phải là hẹn sao? Một cái hẹn không lời nhưng mang bao
nhiêu ý nghĩa cao cả từ sâu thẳm trong tâm hồn người chiến sĩ. Tưởng chừng xa lạ
nhưng lại rất thân quen: họ đến từ hai miền đất khác nhau nhưng cùng sống trên đất
mẹ Việt Nam, cùng chảy trong người dòng máu Việt Nam, cùng là đồng bào, để rồi
hẹn nhau trở thành những người bạn tốt. Đến với “Nhớ” của Nguyên Hồng ta cũng
chợt bắt gặp điều đó hiện lên với hình ảnh “bọn người tứ xứ” hiền lành, chất phác.
Tình đồng chí, đồng đội càng được vun đắp hơn qua những nhiệm vụ chiến
đấu:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu”
Câu thơ là bức tranh tả thực tư thế sẵn sàng , sát cánh bên nhau của những
anh lính khi thi hành nhiệm vụ. Nếu “Súng bên súng ” là cách nói giàu hình tượng để
biểu tượng cho sự chiến đấu,cho hoàn cảnh, chung trận tuyến với khao khát chiến đấu
giải phóng quê hương cũng như giải phóng cho chính số phận chính bản thân mình
khỏi ngọn khói đau thương của chiến tranh thì “đầu sát bên đầu ” lại là cách nói hoán
dụ biểu tượng cho lí trí , tình cảm,suy nghĩ của các anh lính, sự quyện hòa tâm hồn
của đôi bạn tâm giao. Hình ảnh giàu cảm xúc đó còn cả ngợi sự đoàn kết giữa hai anh
bộ đội cụ Hồ: trong chiến đấu gian khổ vẫn đồng hành,kề vai sát cánh bên nhau, anh
ở sau tôi, tôi ở sau anh, ta cùng chiến đấu để lấy lại màu trời xanh cho dân tộc, để
ngọn cờ đỏ sao vàng Việt Nam chẳng bao giờ lụi tàn.
Ở nơi chiến trường khắc nghiệt với khói bom, thuốc súng tình đồng chí, đồng
đội càng nảy nở bền chặt hơn khi họ cùng nhau chia sẻ mọi khó khăn, thiếu thốn ở
chiến trường:
“ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
“Tri kỉ” là người bạn tốt, người này luôn hiểu thấu tâm sự của người kia. Sự
nghiệp chung của đất nước đã xóa nhòa đi ranh địa lý, khác biệt về văn hóa, đã đưa
hai con người “xa lạ” đến đứng cạnh nhau trên mặt trận, nâng tình đồng cảm giai cấp
giữa họ trở thành tình tri kỉ. Giữa hai người lính đã không còn khoảng cách nữa,
không còn xa lạ nữa, tất cả như hòa làm một, đằng sau những khẩu súng sát cạnh,
những mái đầu tựa vào nhau, và đằng sau những tấm chăn đắp chung. Những năm
kháng chiến ấy thật sự gian khổ, thiếu thốn đủ điều. Những người lính san sẻ cho
nhau từng miếng ăn, nước uống, đắp chung chăn để vượt lên mọi sự khắc nghiệt của
hoàn cảnh. “Đêm rét chung chăn” là một hình ảnh đẹp thể hiện sự gắn bó, sẻ chia, san
sẻ cho nhau hơi ấm chung chăn trong đêm khuya giá rét. Cái chăn đắp chung ấy có lẽ
không chỉ là chiếc chăn bình thường, mà là chiếc chăn của tình đồng đội, chiếc chăn
sưởi ấm tâm hồn người lính trong cái rét buốt da thịt triền miên chốn rừng già Việt
Bắc, cái lạnh lùng vô tình thoát ra từ súng ống đạn bom. Đắp chung chăn, anh và tôi
cùng chia nhau hơi ấm tâm hồn, tiếp thêm cho nhau sức mạnh tinh thần để rồi thêm
nữa sự mạnh mẽ, cứng rắn, vững vàng trên con đường tới độc lập đầy gian nan. Tiếng
gọi quê hương mới thật tha thiết làm sao! Nó đã khiến “đôi người xa lạ” có thể trở
thành “đôi tri kỉ”. Một hình ảnh đối lập đẹp đến nao lòng! Bạn tri kỉ thật sự không dễ
kiếm, có khi cả đời vẫn không tìm được một ai. Vậy mà hai anh lính lại thành tri kỉ
của nhau, gắn bó với nhau nhanh chóng như vậy, bất chấp chiến trường nhiều kẻ
địch, đường rừng lắm chông gai. Phải chăng khi đứng giáp ranh giữa sự sống và cái
chết của chiến tranh, khi quên cả bản thân mình vì lợi ích chung, con người ta mới có
những tình cảm tự nhiên và sâu sắc đến vậy? Phải chăng khi đất nước hoạn nạn, đứng
trước nguy cơ đánh mất độc lập tự do thì tình bạn, tình tri kỉ mới sớm nảy nở nơi hai
con người “xa lạ”? Câu thơ với hình ảnh giản dị mà gợi cảm. Đắp chăn chung, hai
người bộ đội đã như anh em một nhà, chia ngọt sẻ bùi, tình thân thắm thiết đến mức
không bất kỳ lời lẽ hoa mĩ nào trên thế gian này có thể diễn tả được. Cái rét của rừng
già Việt Bắc đã nhiều lần được các thi sĩ đưa vào trong thi phẩm của mình cùng
những người lính cách mạng. Bởi ấy là một thực tại gian lao mà ai cũng phải trải qua
trong những năm thắng chinh chiến. Trong bào thơ “Lên Tây Bắc” nhà thơ Tố Hữu
đã viết:
“Đêm mưa rình giặc tai thao thức
Mùa lại mùa qua rét nhức xương”
Khác với cái rét nhức xương của Tố Hữu. Thơ Chính Hữu cũng xuất hiện cái
rét nhưng lại gợi cho người đọc vẫn cảm nhận được hơi ấm tỏa ra từ ngọn lửa mang
tên “tình đồng đội”. Trong sâu thẳm trái tim, hơi ấm đó khiến cả người lính lẫn người
thưởng thơ đều chẳng thể nào quên được: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Đó
chính là cơ sở vững vàng, là nguồn cội của tình đồng chí.
Và, như một phép màu, sự đồng cảnh, đồng cảm, đồng giai cấp, đồng tâm tư
đã hóa thành tình cảm cao quý thiêng liêng giữa hai anh, họ gọi nhau bằng cái tên
chung:
Đồng chí!
Câu thơ từ bảy, tám từ đột ngột rút lại thành hai tiếng “đồng chí” tha thiết,
dâng trào cảm xúc. Không chỉ đóng vai trò là tiếng gọi quân đội trang nghiêm mà đó
còn là tiếng gọi chân thành từ sâu thẳm con tim người lính chiến, là tiếng gọi reo vui
của hai con người cùng chung chí hướng, cùng chung lý tưởng, mục đích khi đứng
dưới lá cờ Cách mạng; không chỉ là danh từ mà còn là một tính từ bộc lộ tình cảm,
niềm xúc động xen lẫn lòng từ hào. Xúc động trước tình bạn tri giao cao đẹp, không
lợi dụng, tính toán, hai người bạn gắn bó với nhau vô điều kiện, bởi cả hai có rất
nhiều điểm chung: từ xuất thân, cảnh ngộ đến lòng căm giặc đến chung một tình cảm,
một tấm chăn. Tự hào khi tình cảm cao đẹp nay đã được nâng lên thành một thứ
thiêng liêng và quý giá hơn: tình đồng chí-là kết tinh, tinh hoa của mọi thứ: tình
người, cao hơn tình người là tình giai cấp, cao hơn tình giai cấp là tình bạn, tình tri kỉ,
và trên cả tình tri kỉ chính là tình đồng chí. Hai tiếng “đồng chí” mới thiêng liêng làm
sao, mới tha thiết làm sao!Gọi nhau là “đồng chí”, anh với tôi dường như không còn
sự tồn tại của những khác nhau về văn hóa, sự chênh lệch tuổi tác, những e dè của hai
con người đến từ hai phương trời khác biệt. Các cá thể khác nhau như quyện hòa làm
một, trở thành một khối với tình đoàn kết vững chắc. Tuy chỉ có hai tiếng ngắn ngủi
nhưng câu thơ lại đóng vai trò quan trọng trong bố cục toàn bài. Hai tiếng “đồng chí”
được thốt ra như một cao trào của cảm xúc diễn tả niềm tự hào, xúc động còn ngân
nga mãi trong lòng. Đồng thời câu thơ còn đóng vai trò là một bản lề gắn kết, nó khép
lại ý thơ đoạn trước về cơ sở hình thành lên tình đồng chí thiêng liêng, cao cả và mở
ra ý thơ đoạn sau về những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí. Nó đánh dấu cột mốc
mới trong mạch cảm xúc của tác giả, bao hàm nhiều suy nghĩ sâu xa, nhiêu tư tưởng
mang tầm triết lý. Như nét chấm phá tuyệt vời trong bức tranh thủy mặc, như nốt
nhạc nhấn âm trong bản giao hưởng bằng lời thơ, hai tiếng “đồng chí” đã đem lại cho
bài thơ trữ tình người lính một kết cấu mạch lạc chỉ có ở văn thơ chính luận. Tất cả
đã làm cho giọng thơ như xao xuyến hơn, lời thơ như lưu luyến hơn, và bản hòa ca
bất tận của tình người trở nên sâu sắc , lắng đọng hơn.
Khép lại 7 câu thơ đầu về những cơ sở hình thành lên tình đồng chí, đồng
đội thiêng liêng, sang 10 câu thơ tiếp theo Chính Hữu tìm ra những biểu tượng của
tình đồng chí đồng đội thiêng liêng, sâu nặng này. Đồng chí không chỉ đơn thuần là
chung lí tưởng sống, chung chí hướng mà còn là tình cảm gắn bó keo sơn, sự sẻ ngọt
chia bùi giúp họ vượt qua cái khó khăn của chiến trường khắc nghiệt. Đồng chí
không chỉ là chung lí tưởng, mục đích cách mạng mà còn là thấu hiểu những tâm tư
hoàn cảnh, những nỗi lòng xa kín của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Cô đơn giữa núi rừng thăm thẳm, hai anh bộ đội đã tâm sự với nhau về những
ngổn ngang trong tâm tư. Là những người lính dũng cảm kiên cường trong chiến đấu,
bất khuất trước kẻ thù nhưng họ cũng là những con của làng quê mộc mạc, chân chất,
bình dị. Và đã là người con của quê hương, xóm làng thì không ai đi xa mà lại chẳng
nguôi ngoai nhớ về. Người chiến sĩ cũng vậy. Họ đã gác lại cái yên bình ấm êm của
bản thân để ra đi cho niềm vui chung của toàn dân tôc. Nhưng bên trong những người
lính chiến ấy có ngày nào vơi đi nỗi nhớ về vùng đất thân thương? Ở đó có gian nhà,
có mảnh ruộng, khu vườn-những gì quan trọng nhất đối với người nông dân. Nhưng
giờ đây, đối với anh trai làng mặc áo lính, không còn gì quan trọng hơn sinh mệnh
của đất nước, như Bác Hồ đã nói: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, anh đã tạm
quên cái quý giá của cuộc đời mình để ra đi bảo vệ cái quý giá của đất nước giang
sơn. Anh ra đi để lại ruộng nương nhờ bạn thân cày, bỏ lại là mẹ già, vợ trẻ và con
thơ. Tác giả Chính Hữu mới tài tình làm sao khi dùng chữ “không” để miêu tả “gian
nhà không” kết hợp với từ láy tượng hình “lung lay”. Gian nhà không nhiều vật dụng,
đơn sơ vì cái nghèo quay quắt đã bám rễ vào đời sống từng người trong khoảng thời
gian khó khăn ấy của đất nước; nhưng từ không mà nhà thơ sử dụng lại không thảm
thương bi đát như sự thực của nó, cũng không lạc quan hóa quá đáng cái khổ mà vừa
phải, vừa giàu sức gợi hình, vừa mang tính gợi cảm. Ngôi nhà trống không vì đơn sơ,
nay lại càng trống trải vì vắng bóng người trai cần cù tháo vát, vắng bóng trụ cột gia
đình, hay nó cũng trải ra một nỗi trống trải đến xót thương trong lòng người ở lại
nhưng. Anh vẫn “mặc kệ” để lên đường nhập ngũ. Hai chữ “mặc kệ” hay chính là
lòng quyết tâm, thái độ dứt khoát mạnh mẽ của anh lính với lòng yêu nước trào dâng.
Và cũng chính lòng yêu nước đã làm cho hình tượng người lính cao cả như một vị
anh hùng: dốc sức vì nước, không so đo, không ích kỷ chỉ giữ lấy hạnh phúc cho
riêng mình. Một sự hi sinh thầm lặng và vô cùng đáng quý. Thái độ dứt khoát của anh
không bịn rịn như cảm xúc của chàng lính trong thơ Nguyễn Đình Thi:
“Ngươi ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Nhưng cho dù dứt khoát ra đi như vậy, anh lính ấy khi ở trận tuyến vẫn
không thể quên được hình bóng quê nhà thân thương:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Hình ảnh ẩn dụ tượng trưng “Giếng nước gốc đa” vốn là biểu tượng đẹp của
làng quê Việt Nam, nay còn là cội nguồn của nỗi nhớ thương xuất phát từ hai chiều.
“Giếng nước gốc đa” không đơn thuần là cảnh vật quê hương mà còn là người thân,
cha mẹ, anh em, họ hàng, là tất cả những người quan trọng trong cuộc đời người bộ
đội. Dù “người ra đi đầu không ngoảnh lại” mặc cho “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
(Nguyễn Đình Thi) nhưng trong lòng “người ra đi” ấy vẫn đau đáu nhớ về cái “thềm
nắng lá rơi đầy” quen thuộc, cũng như anh chiến sĩ dù “mặc kệ” cả căn nhà, bỏ lại cả
ruộng nương nhưng bên trong anh, ngọn lửa nhớ thương chưa bao giờ bị dập tắt. Đọc
câu thơ ta không khó để nhận ra biện pháp hoán dụ và nhân hóa được thi sĩ vận dụng
một cách khéo léo. Chỉ một chữ “nhớ” thôi đã ngân vang tất cả nỗi nhơ nhung của
con người trong thơi kỳ đất nước loạn lạc. Nhưng đó là nỗi nhớ từ nơi nao, có phải
chăng là “giếng nước gốc đa” nhớ người đi hay chính là nỗi nhớ cồn cào khôn nguôi
của người ra đi với “giếng nước gốc đa”? Người đi lính nhớ về người ở lại, kẻ ở lại
lại nhung nhớ người ra đi; người ra trận luôn hướng tầm mắt về nơi quê nhà, người ở
quê nhà lại luôn dõi theo bước chân người ra trận. Cùng một nỗi nhớ nhưng lại hằn
sâu nơi cả hai miền kí ức. Hậu phương ủng hộ tiền tuyến, luôn hướng về tiền tuyến,
còn tiền tuyến lại như mạnh mẽ hơn trước niềm tin mãnh liệt của hậu phương. Một
hình ảnh chân thực và cảm động. Qua đó, hình tượng người lính hiện lên thật anh
hùng, mạnh mẽ dút khoát trước tiếng gọi của non sông, song vẫn rất giàu tình nghĩa
khi nhớ mãi về quê hương, nhà cửa, về người thân, bạn bè. Có lẽ trong lòng anh
chiến sĩ vẫn còn day dứt hình ảnh mẹ già lúc tiễn con ra trận:
Chiều nay con ra trận
Lòng mẹ thương
Nhưng thôi tình chẳng bận
Đi đi mẹ lắng tin chờ
(Chế Lan Viên)
nên cái hình bóng quê hương mới thật đậm sâu rõ nét như vậy. Chất đầy nỗi nhớ
và niềm tin, hành trang ra trận của người lính như đầy hơn bao giờ hết.
Bên cạnh điểm tựa tình cảm vững vàng mang tên “quê hương” một lòng
sâu sắc, người lính còn có thêm điểm tựa chắc chắn ấy là khi họ cùng nhau vượt qua
những khó khăn đời lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Một bức tranh hiện xúc động hiện lên trước mắt ta, đầy rẫy những gian khổ
chông gai như chính cuộc đời người lính. Câu thơ đang vươn dài bỗng rút ngắn, âm
điệu thơ bỗng trở nên chậm rãi, trầm lắng, như khiến tâm hồn người đọc cũng như
chùng xuống trước bao nhọc nhằn mà người bộ đội phải trải qua. Ra đi từ làng quê
nghèo khổ, các anh lại gặp thêm cái nghèo nàn nơi quân đội bởi chất xúc tác cực độc
mang tên “chiến tranh”. Mấy câu thơ thôi nhưng cũng đã phản ánh được thực trạng,
một thời kì khó khăn của cả nước. Đất nước ta nghèo do bị thực dân bóc lột, và vì đất
nước nghèo nên con người, và đến cả quân đội cũng nghèo theo. Bằng phép liệt kê và
giọng điệu thơ bùi ngùi trầm lặng, Chính Hữu đã kể về những thiếu thốn của quân đội
và của người lính Việt lúc bấy giờ: thiếu lương thực, thuốc men, thiếu cả quân trang,
quân phục. Kể sao cho hết hằng hà sa số những khó khăn kham khổ của các anh
chiến sĩ thuở kháng Pháp? Từ những đợt sốt rét quái ác hành hạ cơ thể con người, dù
mình “ớn lạnh”, “sốt run người” nhưng vầng trán lại “ướt mồ hôi”; đến bộ quần áo
rách tả tơi vì dầm mưa dãi nắng, vì gai cào xước chỉ. Ta bỗng nhớ lại hai câu thơ:
Phi sốt rét bất thành bộ đội
Phi áo vá bất thành bộ đội
mà thấy cay cay làm sao! Trong đời bộ đội có mấy ai là chưa từng nếm qua mùi vì
đắng ngắt của căn bệnh sốt rét đâu, có mấy ai mà quần áo vẫn lành lặn sau bao ngày
xông pha chốn rừng thiêng nước độc?. Nhưng, mới thật kì diệu, người lính oai dũng
vẫn không hề bị quật ngã bởi những cay cực nhọc nhằn. Nguồn cội của sức mạnh kì
diệu đó chính là tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn khăng khít giữa hai “con người
tự phương trời chẳng hẹn”. Cùng nhau trải qua gian lao cay đắng, khó khăn tưởng
như quá lớn trong khi sức mạnh tinh thần của họ lại được nhân lên nhiều lần-sức
mạnh tinh thần nâng lên lại thúc đẩy sức mạnh thể xác đi đến ngưỡng cao hơn. Từ
“biết” mà nhà thơ sử dụng đã nói lên tất cả sự chia chia ngọt sẻ bùi của người lính.
Tôi biết anh khi đang trong “cơn ớn lạnh”, anh biết tôi khi “sốt run người vừng trán
ướt mồ hôi”. Tôi biết anh “áo rách vai”, còn anh lại biết tôi “quần có vài mảnh vá”.
Tôi hiểu cho tâm tình của anh, anh thông cảm cho nỗi lòng của tôi. Và cũng vì không
cô đơn trong khổ cực gian khó, hai người đồng chí mới bật tung được hàng bao cảm
xúc ấm áp, tự nhiên trong hoàn cảnh mìn bom chất đống, súng rơi đạn lạc:
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Người nông dân mặc áo lính bỗng trở nên vĩ đại hơn bao giờ hết. Thiếu thốn
ngay đến cả những phương tiện vật chất tối thiểu như quần áo, giày dép, nhưng người
lính lại rất giàu có về tâm hồn. Trong tình thế ngặt nghoèo nhất, trong cảnh ngộ tăm
tối nhất, thế mà nụ cười vẫn nở trên môi các anh, dù đó là cái “miệng cười buốt giá”.
Đó là cái buốt giá của thời tiết hay cái lạnh lẽo của cuộc sống vốn lắm trêu ngươi,
lắm khó khăn trên mảnh đất chiến trường cằn cỗi? Dù là gì đi nữa thì nó vẫn là nụ
cười đáng quý nhất, vì được thắp lên trong gian nan thử thách, trong tình huống mà
tưởng chừng không thể mỉm cười nổi, tựa như ánh bình minh chiếu sáng cả một vùng
trời đen tối, như đóa hoa bung nở trong khu vườn băng đóng im lìm. Nụ cười ấy thật
đáng yêu, đáng quý và đáng khâm phục. Nụ cười ấy đã nói lên tất cả về người lính:
tinh thần lạc quan, khí phách anh hùng, không đầu hàng số phận. Đâu phải ai cũng có
thể cười lạc quan như các anh trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước,
con người, dân tộc? Cười ấy hoàn toàn không phải là cái cười thản nhiên lạnh lùng,
mà là cười trong buốt giá để vượt qua cái buốt giá, để tâm hồn ấm lên, để lòng thấy tự
tin hơn, vững vàng hơn. Hai người đồng chí đã vượt lên tất cả, từ cái rét tê tái của
thời tiết, cái lạnh run của bệnh sốt rừng, cái thiếu thốn quan áo (áo rách vai, quần vá,
không giày…) để đến được ngưỡng thăng hoa của tình cảm, của tình đồng chí thiêng
liêng, gắn bó: “nắm lấy bàn tay nhau”. Cao hơn hết thảy mọi cử chỉ quan tâm, mọi lời
nói sẻ chia, hai anh lính chiến nắm tay nhau trong cảnh rừng buốt giá ấy lại chính là
biểu tượng đẹp nhất của sự “thương nhau” giữa người với người, của tình đồng chí
mộc mạc và thấm thía. Giá buốt mà không lạnh lẽo, là khi hai người bộ đội nắm chặt
tay nhau, truyền cho nhau hơi ấm tình người, những khao khát vượt lên số phận,
những niềm tin chiến thắng hân hoan. Tác giả khéo léo sử dụng giọng thơ trầm lắng,
cảm động khi nói về hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” để bộc lộ tình đồng chí chân
thành, đậm sâu, hồn hậu như cây lúa củ khoai, như tấm lòng của anh trai làng ra trận.
Bàn tay im lặng như lại nói lên được tình cảm thiêng liêng-tình đồng chí, tình người,
tình anh em, Bàn tay thắt chặt tình thân, đốt cháy lên ngọn lửa đoàn kết, tinh thần diệt
giặc lập công nơi người lính. Bàn tay ấy nắm lấy nhau, nói với nhau lời hauws lập
công… Một cách biểu lộ tình cảm tự nhiên, xúc động, nó như làm ta nhớ lại câu thơ:
Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay ta đã nói
Xuyên suốt bài thơ “Đồng chí’ là cảm hứng hiện thực, nhưng đến với khổ
thơ cuối cùng, dường như Chính Hữu đã tô điểm, chấm phá vào nét lãng mạn để vẽ
nên bức tranh đẹp mang ý nghĩa biểu tượng về tình đồng chí:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Với nghệ thuật tả thực sống động, hai câu trên như một lời tự sự nhưng lại
mang màu sắc trữ tình và có giá trị miêu tả rất lớn. “Đêm nay rừng hoang sương
muối”_ xót xa thay cho cuộc đời người chiến sĩ! Đã trải qua bao nhiêu vất vả giờ lại
bị thiên nhiên hoành hành bằng những đợt rét đậm rét hại cắt da cắt thịt; bằng những
màn sương muối phủ kín cả một cánh rừng hoang. Tuy trong thời tiết như thế, các
anh vẫn “đứng cạnh bên nhau “ để “chờ giặc tới”. Thật vậy! Tình đồng chí giữa họ
cao cả như thế đấy, không chỉ chia sẻ cùng nhau tâm tư nỗi nhớ, cùng nhau trải qua
gian nan khổ cực của cuộc chiến, mà giờ đây còn kề vai sát cánh bên nhau trên cái
nền lạnh giá của “rừng hoang sương muối”, cùng “chờ giặc tới” với tư thế hiên
ngang, chủ động, anh hùng và tinh thần lạc quan, đỏ rực lửa tình đồng đội. Bức tranh
chiến đấu ấy của người lính vừa mang hơi thở hiện thực và thời đại, vừa thấm đẫm
cái trữ tình bay bổng. Con đường kháng chiến của dân tộc hãy còn dài, khi mà mỗi
bước tiến trên con đường lại được đánh đổi bằng xương máu, bằng mạng sống bao
con người ngã xuống, thì sự lạc quan cùng bao tình cảm ấm nồng đã tiếp thêm sức
mạnh cho các anh đi đánh giặc, bên cạnh lòng yêu nước tràn đầy và ý chí chiến đầu
bền bỉ. Tư thế ung dung cùng tình đồng chí bền vững của hai người lính khi cùng sát
cánh bên nhau chờ để đối diện với giặc, để đánh tan chúng giành lại non sông đất
nước đã tạo cho ta một niềm cảm phục sâu sắc. Giặc mà tới, quân ta cũng phải có
người hi sinh. Nhưng các anh đã lại “mặc kệ” chúng, “mặc kệ” cái chết có thể đến bất
kì lúc nào với bất kì ai, để cùng vui chung niềm vui người lính: tận hưởng không khí
rừng đêm, tận hưởng khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời mà ngay cả họ cũng là một
phần của nó:
“Đầu súng trăng treo”
Đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính. Trên cái
nền xám lạnh của cánh rừng hoang tĩnh mịch đêm khuya rực lên hình ảnh tuyệt đẹp:
vầng trăng tròn treo lủng lẳng trên đầu súng. Là người trực tiếp cầm súng tham gia
cuộc chiến nên tác giả Chính Hữu mới có được cái nhìn tinh tế như vậy, mới có
những liên tưởng phong phú và giàu chất bay bổng như vậy. Trời về khuya gần sáng,
trăng xuống thấp dần, thấp dần đến khi trăng chạm vào đầu súng, tạo nên bức tranh
thiên nhiên tuyệt diệu “đầu súng trăng treo” ắp đầy ý nghĩa biểu tượng: súng tượng
trưng cho người lính, cho tinh thần quyết chiến quyết thắng, cho sự chiến đấu hết
mình không quản ngại hiểm nguy; còn trăng là sự vật xuất hiện nhiều trong thơ, là
biểu tượng của người thi sĩ, của làng quê hiền hòa, của cái đẹp thanh bình, dịu dàng.
Tính hiện thực đến từ cách quan sát, nhìn nhận của tác giả và chất trữ tình từ một tâm
hồn thăng hoa càng làm cho hình ảnh thêm ý nghĩa, sống động: súng và trăng, là gần
và xa, là cứng rắn và mượt mà, thực tại và mộng mơ, oai dũng và hiền hòa, là thi
nhân và chiến sĩ. Súng và trăng còn là một cặp đồng chí: người lính cầm súng chiến
đầu cho hòa bình, cho vầng trăng tri kỉ mãi tỏa ánh trăng trong trên nền quê hương.
Hai hình ảnh đối lập tương phản này lại được nhà thơ đặt cạnh nhau, sóng đôi cùng
nhau, và cũng lại cùng nhau tạo nên một biểu tượng đẹp trong thơ văn kháng chiến,
thể hiện rõ bao phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: cứng cỏi trong chiến đấu
nhưng lại hiền hòa trong đời thường, ý chí sắt đá kiên cường nhưng tâm hồn cũng rất
thơ mộng, bay bổng. Hình ảnh trăng lơ lửng treo đầu súng cũng là lời kết của toàn bài
thơ, và lời kết này có giá trị rất lớn: khẳng định vẻ đẹp chân thực của cuộc chiến vệ
quốc, vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ Cách mạng, đồng thời làm giảm bớt đi cái ác
liệt thảm khốc của chiến tranh, trở thành tiêu biểu của tình đồng chí cao đẹp, thiêng
liêng.
Xuân Diệu từng quan niệm: “Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài” Với
giọng điệu thơ trữ tình, giàu cảm xúc, ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn rất cô đọng,
chứng tỏ sự gọt giũa cẩn thận của tác giả kết hợp với những hình ảnh liên tưởng lãng
mãn sâu sắc, bài thơ đã thể hiện một cách chân thực, cảm động tình đồng chí vững
vàng của các anh lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dẫu
còn gặp nhiều khó khăn trắc trở, nhưng tình đồng chí của họ vẫn vượt lên hết thảy và
trở thành tình cảm đẹp đẽ nhất, đáng trân trọng nhất giữa những người bộ đội. Tác giả
Chính Hữu đã thể hiện chân thực hình tượng người người lính cách mạng và sự gắn
bó keo sơn của họ qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng,
giàu sức biểu cảm.
Bài thơ khép lại nhưng ấn tượng trong lòng thì mãi không bao giờ phai.
Trước mắt ta như vẫn hiện lên hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên dưới là
bóng hai người chiến sĩ đứng cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã
được lập lại nhưng những năm tháng gian khổ thì mãi không bao giờ phai. Trước mắt
ta như vẫn hiện lên hình ảnh trăng lơ lửng trên đầu ngọn súng, bên dưới là bóng hai
người chiến sĩ đứng cạnh bên nhau… Chiến tranh trôi qua, hòa bình này đã được lập
lại nhưng những năm tháng gian khổ mà hào hùng đó vẫn mãi là một chương quan
trọng trong cuốn sách với những trang sử vàng vẻ vang của dân tộc. Ta lại càng ý
thức hơn nữa lòng biết ơn dành cho các anh bộ đội cụ Hồ đã đổ bao xương máu để
đất nước giang sơn được như ngày hôm nay. Cùng chung lý tưởng, ý chí, cảnh ngộ
xuất thân, chung nhau trải qua gian nan ngặt nghèo, những người lính ấy đã sống,
chiến đấu, và nếu có hi sinh, đều như một người anh hùng.
Tuốt gươm không chịu sống quỳ
Tuổi xanh chẳng tiếc sá chi bạc đầu.

You might also like