You are on page 1of 61

TÀI LIỆU ÔN TẬP HỌC KÌ I

NGỮ VĂN 12
(Tài liệu nội bộ lớp Live Toàn Diện)

PHẦN I. Mở bài, kết bài tham khảo của tất cả các tác phẩm

1. Tuyên ngôn độc lập


Mở bài:
“Những ai muốn biết thế nào là một con người thực sự, vẻ đẹp của thế giới ở đâu, sự
chiến thắng của chân lý trên trái đất ở nơi nào, mùa xuân ở đâu, xin mời đến thăm cuộc đời
của chủ tịch Hồ Chí Minh, sự hiện diện mẫu mực của một con người anh hùng của thời
đại…”. Đó là nhận xét rất xác đáng của tác giả Rơ-nê Đê Pê Tre người Cu-ba về chủ tịch Hồ
Chí Minh. Người không chỉ là một lãnh tụ tài ba, người anh hùng đã giải phóng dân tộc, đất
nước Việt Nam thoát khỏi xiềng xích của nô lệ mà Người còn là một nhà thơ, nhà văn lớn của
dân tộc với nhiều tác phẩm đặc sắc trên nhiều thế loại khác nhau. Đặc biệt, bản “Tuyên ngôn
độc lập” ra đời vào năm 1945 là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất, tiêu biểu cho
phong cách văn chính luận của Người. Tác phẩm có giọng văn hùng hồn thống thiết, có lập
luận chặt chẽ sắc bén, có sức thuyết phục cao đối với người đọc và người nghe. Bản “Tuyên
ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, “là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng
sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam” (Trần Dân Tiên).

Kết bài:
“Tuyên ngôn Độc lập” của Hồ Chí Minh đã đánh dấu mốc son trong lịch sử dân tộc,
mãi mãi là áng thiên cổ hùng văn ngang tầm với “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, là
niềm tự hào của những người Việt Nam yêu nước. Với phong cách nghệ thuật độc đáo và
riêng biệt, Hồ Chí Minh đã để lại tên tuổi của mình và làm rạng rỡ nền văn học Việt Nam.
Tấm lòng yêu nước, thương dân, tâm huyết và khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí Minh về độc
lập tự do của dân tộc thực sự đã trở thành một ngọn lửa thần tạo nên tài năng văn chương của
Người, đúng như nhận định của Raxun Gamzatốp: “Giống như ngọn lửa thần bốc lên từ
trong cành khô, tài năng bắt nguồn từ những tình cảm mạnh mẽ nhất của con người.”

2. Tây Tiến
Mở bài:

“Thảo nguyên Châu Mộc nhớ không?

Một thời lính trẻ tang bồng chưa xa.

Mỏ Mù, Tây Bắc, lau già…

Kỷ niệm xưa bỗng trắng nhoà sắc ban.”

(Nhớ Tây Bắc – Phạm Ngọc San)

Đã từ lâu, Tây Bắc trở thành miền thương nhớ trong trái tim biết bao người, đặc biệt là
với những người lính đã từng vào sinh ra tử cùng xứ hoa ban. Tây Bắc đã trở thành “nàng
thơ” của biết bao thi sĩ, và tất yếu, không thể không nhắc đến thi phẩm “Tây Tiến” của nhà
Trang 1
thơ Quang Dũng. Giữa cái bộn bề của cuộc sống hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của
Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc, hào hoa. Cả bài
thơ là một nỗi nhớ dài, nhớ những miền đất mà tác giả đã từng qua, nhớ những đồng đội thân
yêu, nhớ những kỷ niệm ấm áp tình quân dân kháng chiến. Tất cả những những điều ấy được
thể hiện bằng cái nhìn đầy lãng mạn của người lính.

Kết bài:
“Thơ là đi từ chân trời của một người đến chân trời của nhiều người”, những gì xuất
phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim. Có lẽ vì thế mà đã hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao thăng
trầm lịch sử, con người thực dụng hơn và thờ ơ hơn với văn chương nhưng “ Tây Tiến” vẫn
sẽ được đón nhận, được đọc nhiều, thuộc nhiều, yêu nhiều và sống mãi cùng thời gian. Đó là
thành công của một nhà thơ khi thi phẩm của mình thực sự sống trong lòng bạn đọc. Những
tình cảm, nỗi nhớ trong “Tây Tiến” mang sức rung cảm chân thật đến run rẩy từng làn da, thớ
thịt. Quả thật “Thơ hay luôn có sức rung động mãnh liệt” quả không sai!

3. Việt Bắc
Mở bài:
Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng cho rằng: “Khi ta ở, đất chỉ là nơi ở .. Khi ta đi đất bỗng
hóa tâm hồn”. Và cũng từ đó bỗng có một mảnh đất tình người đã hóa thân thành hồn, thành
nỗi nhớ trong lòng người cán bộ về xuôi. Đó là mảnh đất Việt Bắc chan chứa ân tình – quê
hương của kháng chiến, quê hương của những con người khoác áo chàm nghèo khó mà
“đậm đà lòng son” khiến những ai đã từng đặt chân đến nơi đây cũng phải bồi hồi và xao
xuyến. Mảnh đất Việt Bắc đi vào thi ca và thành cảm hứng bùng cháy nhất . Đặc biệt không
thể không nhắc bài thơ Việt Bắc của nhà thơ cách mạng Tố Hữu.

Kết bài:

Bằng việc sử dụng kết cấu đối đáp trong ca dao những hình tượng hóa nhân vật giữa
người dân Việt Bắc - “kẻ ở” và người chiến sĩ cách mạng - “người đi”, tác giả Tố Hữu đã tái
hiện thành công cuộc chia tay lịch sử mang ý nghĩa cầu nối gắn liền với chiến thắng Điện
Biên Phủ. Dù là người đi hay kẻ ở lại, tất cả đều trân trọng những kỷ niệm cách mạng trong
những ngày tháng kháng chiến ấm áp, sâu nặng bất chấp mọi đắng cay, “lửa đạn bom rơi”
khốc liệt để cùng tin tưởng vào một tương lai tươi sáng của dân tộc. Nghĩa tình nhân dân
khăng khít trong kháng chiến chính là sự tiếp nối mạch nguồn yêu nước xuyên suốt những
trang lịch sử hào hùng của dân tộc, góp phần làm nổi bật chiều sâu tư tưởng của tác phẩm
“Việt Bắc”.

4. Đất nước
Mở bài:
“Có mối tình nào hơn Tổ quốc?”

Mỗi thi phẩm tuyệt đẹp bằng tình cảm yêu thương, sâu nặng và cảm hứng nồng nàn về Tổ
Quốc – các nhà thơ – chiến sĩ đã để lại cho núi sông này biết ấn tượng sâu sắc về con người,
đất nước Việt Nam. Nếu các nhà thơ khác cùng thời thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mỹ lệ
mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm nhận, chiêm ngưỡng về đất nước thì
Trang 2
với Nguyễn Khoa Điềm lại cảm nhận qua những gì hết sức gần gũi, đơn sơ, bình dị, mộc mạc
gắn liền với dân tộc, như máu thịt, như hơi thở. Đoạn trích “Đất nước” được trích từ phần đầu
của chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” là tác phẩm tiêu biểu trong cuộc đời sáng
tác của ông. Đất nước ấy tắm đẫm trong hương liệu văn hóa dân gian, trong tư tưởng lớn của
thời đại – tư tưởng “Đất nước của nhân dân” - một tư tưởng có tính chính luận xuyên suốt
chương thơ.

Kết bài:
Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ những điều giản dị. Có một hình ảnh
đất nước được lí giải với những câu truyện cổ tích, truyền thuyết ngày xửa ngày xưa. Có
những giá trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một không gian tình tứ như chuyện tình của
đôi lứa, uyên ương. Tất cả những điều này, được Nguyễn Khoa Điềm truyền tải trọn vẹn
trong trích đoạn “Đất Nước" của ông. Cuộc chiến tranh chống Mĩ gian khổ khiến con người
xích lại gần nhau, tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ Quốc. Tư tưởng
về nhân dân được tác giả nhấn mạnh sâu sắc, mãnh liệt. Xin mượn những lời thơ của Thanh
Thảo thay cho lời kết:
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói

Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi

Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”

( Những người đi tới biển, Thanh Thảo)

5. Sóng
Mở bài:
Trong "Bài thơ tuổi nhỏ" Xuân Diệu có viết:

“Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào.”

Đi suốt nền thi ca Việt Nam có lẽ tình yêu là chủ đề, nguồn cảm hứng bất tận với nhiều
thi nhân từ trước đến nay. Trong số nhiều nhà thơ từng viết về tình yêu thì Xuân Diệu và
Xuân Quỳnh là hai cái tên nổi bật nhất. Nếu như Xuân Diệu từng làm mưa làm gió với tình
yêu mãnh liệt với "Biển" thì Xuân Quỳnh lại chọn cách thể hiện tình cảm của người con gái
qua "Sóng". "Sóng" là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, bài
thơ nằm trong tập "Hoa dọc chiến hào" và được viết nhân một chuyến đi thực tế ở biển Diêm
Điền năm 1967, nữ sĩ đã mượn hình tượng sóng để diễn tả cảm xúc vừa phong phú, phức tạp,
vừa thiết tha sôi nổi của trái tim người phụ nữ đang rạo rực khát khao yêu thương.

Kết bài:
Phải có một tình yêu nồng nàn và thủy chung thì mới có những vần thơ đẹp lung linh đến
như vậy. Xuân Quỳnh đã góp một hơi thở đắm say, nồng nàn, đã làm tươi tắn thêm cho thi
đàn hiện đại Việt Nam. Thông qua việc sử dụng thể thơ năm chữ cùng cách ngắt nhịp linh

Trang 3
hoạt tạo nên nhịp điệu độc đáo, cùng việc sử dụng hình tượng “sóng”, nhà thơ đã bộc lộ chân
thành khát vọng tình yêu mãnh liệt, sôi nổi của trái tim người phụ nữ. Qua đó, chúng ta có thể
khẳng định “Xuân Quỳnh là nhà thơ của khát vọng hạnh phúc đời thường” với một tình yêu
nồng nhiệt, vừa táo bạo say đắm vừa thiết tha dịu dàng, đồng thời thấy được khát vọng vươn
tới một tình yêu đích thực và vượt qua mọi sự hữu hạn của kiếp người luôn thường trực trong
trái tim người phụ nữ trong tình yêu:

“Khi ta còn trẻ, thơ là người mẹ

Ta lớn lên rồi thơ là người yêu

Chăm sóc tuổi già, thơ là con gái

Lúc chết đi rồi, kỉ niệm hóa lưu thơ”.

6. Người lái đò sông Đà


Mở bài:

Pautopxki từng nói “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường
đến xứ sở cái đẹp”. Hơn ai hết, Nguyễn Tuân chính là nhà văn như thế. Ông là người theo
chủ nghĩa duy mĩ với quan niệm cuộc đời là một cuộc hành trình đi tìm cái đẹp và “Suốt đời
tôn thờ và phụng sự cái đẹp”. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người,
của cuộc sống với tình cảm, sự gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước. Nguyễn Tuân được
người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo mà phong cách ấy
được gắn với chữ “ngông” và sự tài hoa, uyên bác. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu
biểu cho sáng tác của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Với tùy bút này,
Nguyễn Tuân đã miêu tả vẻ đẹp đa dạng, vừa hung bạo, vừa trữ tình của sông Đà cùng với
hình ảnh kĩ vĩ về người lái đò trên dòng sông ấy.

Kết bài:

Nhà phê bình người Nga Bêlinxki viết: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả
cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan,
nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Và quả thực tùy bút
“Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm như thế! Trong suốt quá trình dài
của thời gian, “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân vẫn luôn vẹn nguyên và sống mãi
trong lòng người đọc về một tác phẩm cũng như một nhà văn đa tài. Qua cách tiếp cận và
khám phá độc đạo của nhà văn biết bao vẻ đẹp ấn tượng hiện lên, bày tỏ tình cảm yêu mến, tự
hào và cảm phục trước những con người lao động bình dị của vùng Tây Bắc. Nguyễn Tuân là
nhà văn có một cuộc đời lao động nghệ thuật khổ hạnh, một trí thức tâm huyết với nghề.
Người đọc yêu hơn, trân trọng hơn phẩm chất, cốt cách của con người đáng quý này.

Trang 4
7. Ai đã đặt tên cho dòng sông
Mở bài:
R. Gamzatop đã từng nói rằng: “Nếu như người nghệ sĩ không tham gia vào việc hình
thành thế giới này thì thế giới không trở nên tươi đẹp như thế này.” Quả thực, dưới ngòi bút
tài hoa của người nghệ sĩ, vạn vật và cuộc đời trở nên tươi đẹp hơn biết bao.Hoàng Phủ Ngọc
Tường là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có sở trường đặc biệt về
thể bút kí, tùy bút. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ
và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với những suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến
thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí… Đến với những trang văn đậm chất trữ
tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, là tác phẩm tiêu biểu
cho phong cách kí của ông. Tác phẩm đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, thiên nhiên và con
người xứ Huế mộng mơ.
Kết bài:

Nguyễn Tuân, một nhà văn cũng chuyên viết kí nhận xét “Kí của Hoàng Phủ Ngọc
Tường có rất nhiều ánh lửa”. Phải chăng ánh lửa trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là
vẻ đẹp của văn chương được thắp lên từ những con chữ biến hóa như phép màu. Bài ký đã
góp phần bồi đắp tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với non sông, gấm vóc.
Dòng sông Hương trong văn của nhà thơ khiến cho ai đã từng đọc qua đều mong muốn được
một lần đặt chân đến nơi đây, để được đắm mình trong những gì nên thơ nhất của xứ Huế.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” xứng đáng là một áng văn hay, đặc sắc về xứ sở, về tình yêu
quê hương, đất nước và cũng rất tiêu biểu cho phong cách bút ký của Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Đúng như Maiacốpxki nhận xét về quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ:

“Phải đổi lấy hàng ngàn cân quặng chữ

Để thu về một chữ mà thôi

Nhưng chữ ấy làm cho rung động

Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.”

PHẦN II. Một số nội dung về tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” - Hồ Chí
Minh

1. Nội dung chính “Tuyên ngôn độc lập”


● Tiểu sử tác giả Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh (19/05/1889 – 02/09/1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung.
- Quê quán: Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An.
- Sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, yêu nước. Cha là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
và mẹ là Hoàng Thị Loan.
- Thời thanh thiếu niên tên là Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Tất Thành; thời gian hoạt động
cách mạng, Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều tên khác.

Trang 5
● Quan điểm sáng tác văn học nghệ thuật của Hồ Chí Minh
- Coi văn học là một vũ khí chiến đấu phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
- Luôn chú trọng tính chân thực và tính dân tộc.
- Luôn chú ý đến mục đích và đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của
tác phẩm (Viết cho ai? Viết làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?).
- Trong bài “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi” Bác đã viết:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
- Hay trong “Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951”, Người lại khẳng định:
“Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
=> Thơ văn Hồ Chí Minh là một di sản tinh thần văn hóa, là một bộ phận gắn bó với sự
nghiệp cách mạng của Bác, có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học và đời sống dân tộc

● Hoàn cảnh sáng tác


- Cách mạng tháng 8 thành công, Bác từ chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội.
- Tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Bác đã soạn thảo Tuyên ngôn độc lập.
- 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, Bác đã thay mặt chính phủ lâm thời khai sinh
ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Bác đọc Tuyên ngôn trong hoàn cảnh giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và đặc biệt là thực
dân Pháp đang tung ra những luận điệu xảo trá: “Đông Dương là nơi Pháp đã khai phá và
bảo hộ bị Nhật cướp, nay Nhật đầu hàng Đồng Minh, Đông Dương phải trả lại cho Pháp”.

● Mục đích sáng tác


- Văn kiện “Tuyên ngôn độc lập” ra đời với hai mục đích chính:
+ Tuyên bố nền độc lập toàn vẹn lãnh thổ với toàn dân, cơ quan ngôn luận quốc tế cũng như
các nước Đế Quốc Thực dân có âm mưu xâm chiếm Việt Nam.
+ Khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa

● Trình tự lập luận


- “Tuyên ngôn độc lập” tuân theo đúng bố cục của một văn kiện nghị luận với trình tự: cơ sở
pháp lý, ứng chiếu thực tiễn và tuyên bố độc lập.
- Ở cơ sở pháp lý, đây được xem là tiền đề của một văn bản nghị luận. Cơ sở pháp lý được
chủ tịch Hồ Chí Minh soi chiếu từ những chân lý đúng đắn được cả thế giới quy ước, công
nhận. Cơ sở pháp lý đóng vai trò là một chuẩn mực của hệ thống lập luận, mọi đúng sai,
thuyết phục hay chưa thuyết phục đều sẽ căn cứ vào thước đo ấy.
- Sau khi nêu cơ sở pháp lý, tác giả tiến hành soi chiếu chân lý buộc thừa nhận ấy vào thực tế
để chỉ ra phản diện và chính nghĩa. Ở đây tác giả dùng một dung lượng lớn để tiến hành lập
luận cơ sở thực tiễn, chủ yếu là dùng dẫn chứng, góp phần tăng tính xác đáng và thuyết
phục cho văn bản.

Trang 6
- Phần cuối của bản tuyên ngôn chính là lời tuyên ngôn. Đây là mục đích chính của văn kiện
nhưng dung lượng lại không nhiều, chủ yếu được diễn đạt gãy gọn, súc tích.
→ Đánh giá trình tự lập luận: Đây là một trình tự phổ biến từng được sử dụng trong
“Bình ngô đại cáo” của nhà thơ Nguyễn Trãi và mang lại hiệu quả rõ rệt về mặt lập luận.
Giúp cho bản tuyên ngôn trở nên dễ hiểu với người nghe, người đọc; cũng qua đó mà tiến
hành sáng tạo những lý lẽ mới mẻ, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh văn hóa, lịch sử.

● Đoạn mở đầu
- Bác trích dẫn bản tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776, tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân
quyền của Pháp năm 1791.
- Từ đó khẳng định quyền bình đẳng, quyền sống quyền sung sướng của dân tộc ta cũng như
các dân tộc khác trên thế giới.
→ Tạo cơ sở pháp lý chính nghĩa cho bản Tuyên ngôn và chuẩn bị phê phán tội ác thực dân.

● Cơ sở thực tế của bản Tuyên ngôn:


Tội ác chính trị
- Chúng tuyệt đối không cho dân ta một chút tự do dân chủ nào.
- Chúng thi hành luật pháp dã man.
- Chia nước ta thành ba miền để ngăn cản nhân dân ta đoàn kết.
- Thi hành chính sách ngu dân:
+ Xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học
+ Đầu độc dân ta bằng rượu cồn thuốc phiện
- Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu, giết những người yêu nước thương nòi
của ta.
Tội ác kinh tế:
- Bóc lột dân ta tận xương tủy khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu
điều.
- Chúng cướp không ruộng đất, đồn điền, hầm mỏ
- Chúng độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
- Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế
- Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên
→ Kết quả: Từ Quảng Trị đến Bắc kỳ hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói.
Tội ác quân sự:
- Trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
+ Mùa thu 1940 khi Nhật vào xâm lược nước ta, Pháp đã mở cửa nước ta để đón Nhật.
+ Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Pháp đã quỳ gối đầu hàng và dâng nước ta cho Nhật.

● Quá trình đấu tranh của dân tộc ta


- Thứ nhất chúng ta có 80 năm chống Pháp 5 năm chống phát xít.
- Tiếp theo ta đã giúp nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật, bảo vệ tính mạng và tài
sản của họ.

Trang 7
● Phần tuyên ngôn của bản Tuyên ngôn độc lập
- Tuyên ngôn độc lập chỉ ra một cục diện chính trị mới đó là đánh đổ phong kiến, thực dân,
phát xít lập nên chế độ Cộng hòa.
- Cùng một lúc, cách mạng Tháng Tám 1945 đã giải quyết được hai vấn đề: độc lập cho dân
tộc và dân chủ cho nhân dân.

● Nghệ thuật lập luận


- Thủ pháp gậy ông đập lưng ông: Ở cơ sở pháp lý, tác giả đã trích chính xác bản tuyên ngôn
của hai cường quốc Pháp và Mỹ. Cả hai bản tuyên ngôn độc lập và bản tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền đều được tác giả nhấn mạnh vào các cụm từ “tự do”, “bình đẳng”.
Không chỉ có vậy mà tác giả còn tiến hành suy rộng ra thành những chân lý cho toàn nhân
loại: Con người sinh ra phải được tự do và bình đẳng. Cách trích dẫn ấy đã tinh tế chỉ ra
rằng hành động xâm lược của cả Mỹ và Pháp lên lãnh thổ Việt Nam đang mâu thuẫn với
chính nguyên tắc của ông cha họ, vi phạm chân lý của loài người.
- Tinh tế trong cách trình bày dẫn chứng: Khi soi chiếu vào cơ sở thực tiễn, tác giả tiến hành
luận tội trạng của thực dân Pháp, lột trần bộ mặt xảo trá, mưu mô dưới lớp vỏ khai hóa, bảo
hộ và đồng minh. Tội ác của chúng được Bác liệt kê liên tiếp theo trình tự rõ ràng thuộc
nhiều lĩnh vực, khía cạnh đời sống. Bác luôn nhấn mạnh vào các động từ mạnh “cướp”,
“bóc lột”, “không cho”, “thi hành”... nhằm tăng thêm mức độ nghiêm trọng của tội ác thực
dân Pháp. Ngoài ra khi nhắc đến sự kiện thực dân Nhật xâm chiếm Đông Dương, tác giả đã
liệt kê chính xác từng số liệu từ ngày tháng năm nhằm tăng thêm tính thuyết phục, củng cố
cho quan điểm chúng đã thoái thác trách nhiệm bảo hộ để mở cửa cho Nhật vào Việt Nam.
- Kiên định trong cách tuyên bố nền độc lập: Về phía Việt Nam và quân đội Việt Minh, tác
giả đã liệt kê hàng loạt các lý lẽ và dẫn chứng để cho thấy Việt Nam luôn đứng về phe đồng
minh để chống phát xít và luôn tự lực để giành lấy nền độc lập dân tộc. Tác giả căn cứ vào
những quy ước tại hội nghị Tê hê răng và Cựu Kim Sơn để khẳng định Việt Nam hoàn toàn
có đủ cơ sở để tuyên bố độc lập. Nếu như các nước trên thế giới đều đã công nhận nền độc
lập của họ thì không thể không công nhận nền độc lập của Việt Nam. Nền độc lập của dân
tộc được chứng minh thông qua những năm tháng đấu tranh kiên cường để chống lại quân
xâm lược. Vì thế bản tuyên ngôn càng trở nên xác đáng, đầy đủ căn cứ về mặt lý lẽ và dẫn
chứng.

● Giọng điệu lập luận


- “Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện nghị luận không chỉ đảm bảo về mặt hệ thống tư duy
lập luận mà còn gây ấn tượng về mặt cảm xúc bởi sự đa dạng trong phong cách và giọng
điệu lập luận. Trong văn bản, giọng điệu của tác giả thay đổi theo trình tự lập luận, đối
tượng nhắc đến và các nguyên tắc hài thanh của tiếng việt.
- Ở cơ sở pháp lý, giọng điệu lập luận mang đầy trang trọng, nghiêm nghị khi nhắc đến hai
văn kiện quan trọng của các cường quốc.

Trang 8
- Khi tác giả soi chiếu vào thực tiễn, chúng ta dễ dàng nhận ra sự thay đổi rõ rệt trong giọng
điệu khi đề cập đến các đối tượng cụ thể:
- Khi kể tội thực dân Pháp: bộc lộ rõ nét sự phẫn nộ, bất bình thông qua các phép liệt kê hàng
loạt và động từ mạnh, câu văn hàm súc và cách ngắt nghỉ dứt khoát.
- Khi nói đến nỗi đau của dân tộc: Câu văn trầm, chậm rãi như những nốt nhạc buồn tiếc
thương cho số phận nô lệ của dân tộc
- Khi tuyên bố độc lập: Giọng văn hào sảng, phấn khởi, tràn đầy hy vọng vào tương lai.
- “Tuyên ngôn độc lập” vừa là một văn kiện đảm bảo tính trang trọng về mặt lịch sử lẫn sự
giản dị, chân thành, phù hợp với tầm đón nhận của mọi đồng bào trên cả nước. Đó là nhờ
cách sử dụng từ ngữ linh hoạt, đan xen giữa từ toàn dân lẫn từ Hán Việt, đa dạng đại từ, lối
xưng hô…Từ đó mà “Tuyên ngôn độc lập” trở thành một văn kiện mang ý nghĩa to lớn đối
với mỗi con người Việt Nam.

2. Một số nhận định hay về “Tuyên ngôn độc lập” và văn phong của Bác

Nhận định hay về Tuyên ngôn độc lập

+ Trần Dân Tiên khẳng định: “Bản “Tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu hy
vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”
+ GS Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét “Tuyên ngôn độc lập”: “Tài nghệ ở đây là dàn dựng
một hệ thống lập luận chặt chẽ, đưa ra những luận điểm, những bằng chứng không ai
chối cãi được. Và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, văn hoá lớn, đã tổng
kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết, kinh nghiệm của nhiều
thế kỉ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc và nhân loại.”
+ “Rõ ràng, nhận thức của Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của các dân tộc được đúc
kết từ tấm lòng thiết tha với vận mệnh dân tộc Việt Nam đã từng rên xiết dưới ách
thực dân, và từ sự thể nghiệm qua cuộc hành trình thế giới trước tình cảnh nhiều dân
tộc Á, Phi, Mĩ Latinh vẫn đang bị nô dịch. Trong mỗi dân tộc có nhiều cá nhân song
quyền của mỗi cá nhân lại không bao hàm đầy đủ quyền của dân tộc. Cho nên, sự
“suy rộng ra…” của Người thật là chí lí, mở rộng khái niệm và nâng cao tầm nhìn về
quyền tự nhiên cùng đối tượng được hưởng quyền tự nhiên ấy.” (GS.NGND Vũ
Dương Ninh).
+ "Tuyên ngôn độc lập một văn kiện có trị lịch sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn
gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết phục”.

Nhận định hay về văn phong chủ tịch Hồ Chí Minh

+ Bàn luận về chủ nghĩa nhân văn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, trong bài viết
Đường kách mệnh - ánh sáng thời đại, Nguyễn Thanh Tú nhấn mạnh: “Hạt nhân của
chủ nghĩa nhân văn là yêu thương con người - đã có trong Đường kách mệnh; là quý
trọng, nâng đỡ con người - đã có trong Đường kách mệnh.”

Trang 9
+ Trong một bài viết bàn về Giá trị hạnh phúc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nguyễn
Thanh Tú chỉ rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi cùng nhân loại vì mang giá trị
nhân loại phổ quát, gắn liền với nhân loại, mong muốn đưa nhân loại đến cõi hạnh
phúc.”
+ Nguyễn Thanh Tú viết: “Hồ Chí Minh đã tạo cho riêng mình một chủ nghĩa nhân văn
vừa phương Đông lại rất phương Tây; cổ điển, truyền thống mà mới mẻ, hiện đại;
bình dân giản dị mà bác học trí thức; trong sáng hồn nhiên mà sang trọng vương giả.”
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tôi tuy viết nhiều nhưng chưa lần nào tạo được bài
viết hữu ích như lần này”.
+ Chế Lan Viên nhận định: “Cách lập luận của Hồ Chí Minh về phía ta như một trái táo
còn về phía kẻ thù nó giống như một trái lựu đạn nhét vào cổ họng chúng. Nuốt không
vô mà khạc cũng không ra”.
+ Rơ - nê Đê Pê - stre - Cu BaBa nhận định: “Những ai muốn biết thế nào là một con
người thực sự, vẻ đẹp của thế giới ở đâu, sự chiến thắng của chân lý trên trái đất ở nơi
nào, mùa xuân ở đâu, xin mời đến thăm cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh, sự hiện
diện mẫu mực của một con người anh hùng của thời đại…”
+ Nhận xét của Tổng bí thư Trường Chinh: “Về văn phong cách nói và cách viết của
chủ tịch Hồ Chí Minh rất độc đáo: Nội dung khảng khái, thấm thía và đi sâu vào tình
cảm con người, chinh phục cả trái tim và khối óc con người ta. Hình thức sinh động,
giản dị, giàu tính dân tộc và tính nhân dân.”
+ "Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ
là một nền văn hóa của tương lai. Từ trong giọng nói đầm ấm, thanh cao của Người,
chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy viễn cảnh trời yên biển lặng của tình hữu
ái bao la toàn thế giới mênh mang như nước đại dương”. (O.Mandenxtam - nhà báo
Xô Viết)
+ “Hồ Chủ tịch - Hồ Chí Minh là hiện thân của dân tộc Việt Nam, người Việt Nam ở
mọi lứa tuổi, không phân biệt tuổi tác đều gọi Người là Bác Hồ”. (A.Vladimirovna -
Đại học quốc gia Viễn Đông của Nga)
+ "Người là hiện thân của những phẩm chất tốt đẹp của một nhà cách mạng, một người
nhìn xa trông rộng và một nhà nhân văn vĩ đại”. (K.C Tiagi, Tổng bí thư Đảng Janata
dal, Ấn Độ)
+ “Tang này cũng là tang của chúng tôi, đồng thời cũng là tang của tất cả các nước và
tất cả các dân tộc yêu chuộng độc lập, công lý và nhân phẩm. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã và sẽ là tượng trưng trong sáng của chủ nghĩa yêu nước trong thời đại hiện nay”.
(Quốc trưởng Campuchia)
+ "Ông đã bộc lộ các phẩm chất, tài năng của mình và được nhiều người khác công
nhận. Ông không phải là người giáo điều. Sự hài hước và tính nhạy cảm của ông tạo
ấn tượng sâu sắc trong ký ức những người biết về ông trong những năm 1920. Điều đó
cũng thu hút những người gần gũi hay gặp ông trong cuộc sống hàng ngày". (Nhà sử
học người Pháp gốc Việt Pierre Brocheux)

Trang 10
+ GS Phong Lê nghiên cứu về thơ văn Bác: “Có một sự nghiệp văn thơ và phẩm chất
nghệ sĩ ở Bác Hồ”
+
3. Hai đề luyện “Tuyên ngôn độc lập” - Hồ Chí Minh

Đề 1: Từ hiểu biết về “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh/ chị hãy chỉ
ra cơ sở để tác giả kết luận: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật
đã thành một nước tự do và độc lập”.

● Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh, tác phẩm Tuyên ngôn độc lập
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Chỉ ra cơ sở để tác giả kết luận: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập”
● Thân bài:
- Khái quát chung về tác phẩm, tác giả
- Chứng minh nhận định:
- Nêu nguyên lý chung về quyền bình đẳng tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người
và các dân tộc
- Việc trích dẫn 2 bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ nhằm đề cao tư tưởng nhân đạo văn minh
của nhân loại tạo tiền đề cho những luận điểm tiếp theo.
- Cách suy rộng ra là một đóng góp riêng của Hồ Chí Minh vào lịch sử, tư tưởng của nhân
loại

→ Khẳng định Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập.

- Bản tuyên ngôn đã chỉ rõ sự thật là chúng ta đã trở thành nước tự do và độc lập
- Tuyên ngôn đã vạch trần bản chất của thực dân Pháp đã phản bội và chà đạp lên nguyên lý
“tự do - bình đẳng - bác ái”.
- Bằng những chứng cứ đanh thép từ sự thật lịch sử, lập luận chặt chẽ, thuyết phục, Hồ Chí
Minh đã tố cáo những tội ác man rợ của thực dân Pháp. Bác đã đập tan những luận điểm
xảo trá của chúng về công khai hóa, về quyền bảo hộ, nhân danh Đồng minh chống phát xít.
Từ đó, tuyên ngôn khẳng định Pháp không có quyền quay lại Việt Nam.
- Bản tuyên ngôn khẳng định một sự thật lịch sử: Nhân dân ta có lòng nhân đạo, chính Nghĩa,
đã kiên cường chống thực dân phát xít và lập nên nền độc lập Cộng Hòa.
- Tuyên ngôn độc lập tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi toàn dân đoàn kết, kêu
gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập tự do của dân tộc và khẳng định quyết tâm
bảo vệ nền độc lập ấy.

→ Từ những lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ gợi cảm, hùng
hồn, bản “Tuyên ngôn độc lập” đi đến kết luận thuyết phục: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.”

- Đánh giá giá trị tác phẩm và phong cách nghệ thuật của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trang 11
● Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề nghị luận
- Liên hệ trách nhiệm cá nhân

Đề 2: Phân tích cơ sở thực tiễn trong văn bản “Tuyên ngôn độc lập” của chủ tịch Hồ Chí
Minh

● Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh, tác phẩm Tuyên ngôn độc lập
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Cơ sở thực tiễn trong văn bản Tuyên ngôn độc lập.
● Thân bài
- Khái quát chung về tác phẩm, tác giả:
+ Vị lãnh tụ vĩ đại của nước Việt Nam ta không ai khác ngoài Bác Hồ. Người là danh
nhân văn hóa thế giới khiến ai ai cũng phải nghiêng mình. Người đã để lại cho nền
văn học nước nhà một kho tàng tác phẩm giá trị. Và bản tuyên ngôn độc lập là một
trong số đó.
+ “Tuyên ngôn độc lập” được soạn thảo vào ngày 26 tháng 8 năm 1945 tại số nhà 48
Hàng Ngang. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, bác đọc tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn mang
nhiều giá trị về nghệ thuật lẫn lịch sử, là cột mốc quan trọng khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ Cộng Hòa.
- Chứng minh nhận định:
● Lẽ phải bị thực dân Pháp chà đáp (tố cáo tội ác của TD Pháp)
+ “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái,
đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo
và chính nghĩa.” → Vạch trần bộ mặt xảo trá của thực dân Pháp suốt 80 năm nay.
Chúng đã lợi dụng lá cờ “tự do”, “bình đẳng” và “bác ái” để thực hiện âm mưu thôn
tính đất nước và dân tộc ta. Tất cả luận điệu chúng đề ra chỉ là những ngôn từ hoa mỹ,
sự thật những điều chúng gây ra hoàn toàn “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”.
+ Hồ Chí Minh đã bác bỏ hoàn toàn luận điệu “bảo hộ” của Pháp và liệt kê tội ác của
chúng dựa trên hai phương diện chính trị và kinh tế:

Về chính trị:

+ “Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”
+ “Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung,
Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn
kết.”
+ “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người
yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu.”
+ “Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.”

Trang 12
+ “Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.”

Nghệ thuật

+ Phép điệp cấu trúc nhấn mạnh tội ác thực dân Pháp: “Chúng”
+ Động từ: lập, thi hành, ngăn cản…”.
+ Điệp từ “chúng” xuất hiện liên tiếp với các câu song hành nhau → Đập thẳng vào
luận điệu của kẻ thù.
+ Sử dụng các từ ngữ chỉ mức độ: “tuyệt đối” , “một chút”. Sử dụng hàng loạt các động
từ kết hợp hình ảnh “ thi hành”, “lập ra”, “thẳng tay”, “tắm các cuộc khởi nghĩa trong
bể máu”.

Về kinh tế:

+ …chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta
xơ xác, tiêu điều.
+ Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
+ Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
+ Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn
trở nên bần cùng.
+ Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một
cách vô cùng tàn nhẫn.

Nghệ thuật

+ Nhấn mạnh vào các từ ngữ như “dân ta” , “nước ta” bằng giọng điệu xót xa, thương
tiếc.
+ Ngôn ngữ lập luận chính xác tuyệt đối, tạo giọng điệu cao trào cho bản tuyên ngôn. →
Các thành phần kinh tế đều khốn đốn vì thực dân Pháp. Sự đè nén, bóc lột diễn ra một
cách tàn bạo. Như vậy, đâu là tự do - bác ái - công bằng?
● Thực tế đấu tranh của dân tộc
+ Hồ Chí Minh đã bác bỏ hoàn toàn luận điệu “bảo hộ” của thực dân Pháp bằng các dẫn
chứng cụ thể.
+ “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ
đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước
Nhật.”
+ Thực dân Pháp không những không bảo hộ mà còn mở cửa cho Nhật vào nước ta,
làm cho đồng bào phải chịu hai luồng xiềng xích bóc lột.
+ “Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp
hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. ”
+ Đập thẳng vào luận điệu hoa mỹ, gian dối của Pháp. Như vậy đâu là “bảo hộ”? Đâu là
“đồng minh”? Hay trái lại “trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.”
→Hậu quả: “Hơn hai triệu đồng bào ta chết đói…”
Trang 13
Nghệ thuật

+ Liệt kê ngắn gọn và đầy đủ trong 21 đoạn văn: Tác giả đã cho thấy chiêu bài “khai
hóa” và bảo hộ” chỉ là hữu danh vô thực mà chúng dùng để che đậy tội ác của mình.
+ Các từ ngữ chỉ sắc thái cao độ: “tuyệt đối không cho”, “dã man”, “thẳng tay chém
giết”, “tắm…trong những bể máu”, “bóc lột đến tận xương tủy”. → Ngôn ngữ linh
hoạt, sắc bén, hình ảnh cụ thể, giàu gợi tả. Tác giả đã thể hiện niềm căm phẫn sâu sắc
trước tội ác của TD Pháp cũng như niềm xót xa vô hạn với nỗi khổ của dân tộc, tổ
quốc.
● Hồ Chí Minh đã bác bỏ hoàn toàn luận điệu “đồng minh” của thực dân Pháp:
Bác đã vạch ra sự tương phản sâu sắc giữa Việt Minh, đồng bào ta và thực dân
Pháp:
+ Việt Minh và đồng bào ta luôn giữ thái độ khoan hồng với Pháp, giúp Pháp chạy qua
biên thùy, cứu Pháp ra khỏi nhà giam Nhật.
+ Thực dân Pháp lại thẳng tay khủng bố Việt Minh. Thậm chí khi chạy vẫn thẳng tay
giết nốt những tên tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng. → Đó là một loạt những hành
động bất nhân, bất nghĩa
● Nhân dân ta đứng lên giành độc lập
+ Bằng những lập luận sắc bén, Hồ Chí Minh đã nêu ra những dẫn chứng hào hùng về
trận chiến giành lại độc lập của dân tộc Việt Nam.
+ Từ ngữ “sự thật là” được điệp lại hai lần => Nhấn mạnh vào những chứng cứ lịch sử
xác đáng. Đồng bào ta đã anh dũng đòi lại nền độc lập từ tay Nhật, cho nên Pháp
không thể dùng lý lẽ quay trở lại Việt Nam vì cơ bản chúng đã bỏ chạy. → Câu văn ẩn
chứa nhiều thành tích trang trọng, ngắn gọn, súc tích và đầy uy lực: “Pháp chạy, Nhật
hàng, Vua Bảo Đại thoái vị”. => Ngôn ngữ sử dụng chính xác tuyệt đối. Câu văn diễn
tả đầy hào khí về một giai đoạn lịch sử biến động và oanh liệt của đất nước ta. Đó
cũng là câu văn biểu dương truyền thống bất khuất của dân tộc ta, khích lệ tinh thần tự
hào dân tộc, ý chí chiến đấu của nhân dân thêm quyết tâm chống lại âm mưu của
Pháp.
- Câu văn ấy còn đồng nghĩa với ba sự thật:
+ Phá xiềng xích của thực dân Pháp hơn 80 năm.
+ Giành lại nước từ tay Nhật, chứ không phải tay Pháp
+ Chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến suốt mấy mươi thế kỷ.
- Vì lẽ như thế cho nên Hồ Chủ Tịch đã tuyên bố: “ tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với
Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi
đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.”
+ Các cụm từ: “thoát li”, “xóa bỏ hết”, “xóa bỏ tất cả” => Nhấn mạnh việc chấm dứt
mọi mối quan hệ với thực dân Pháp. Tuyên bố thoát ly khỏi thực dân Pháp và phủ
nhận hoàn toàn mọi văn bản mà Pháp đã ký với Việt Nam. →Đó là tầm tư tưởng lớn
lao của Hồ Chủ Tịch. Người đã chặt đứt hoàn toàn mắt xích ràng buộc nền tự do và

Trang 14
độc lập của nước Việt Nam, để đất nước có thể tự do hoàn toàn, tự do xây dựng chế
độ hòa bình trong xã hội mới, chế độ mới.
+ Tiếp theo đó, Người đã nhấn mạnh vào sự đoàn kết, đồng lòng của dân tộc Việt Nam.
Các điệp ngữ lặp lại liên tục: “một dân tộc”, “dân tộc đó” => Thể hiện sự đồng tâm,
nhất trí chống lại những thể lực ngoại xâm. Đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết.
- Hồ Chủ Tịch đã khẳng định tư thế chính nghĩa của Việt Nam
+ Nhân dân Việt Nam đã đứng về phe đồng minh chống Phát- xít Nhật.
+ Người dân Việt Nam đã cướp chính quyền từ tay Nhật.
+ Người dân Việt Nam đã có một chính phủ lâm thời.
- Hồ Chí Minh đã nêu lên các cơ sở để nền độc lập dân tộc được công nhận.
- Việt Minh là tổ chức cách mạng của Việt Nam, đã đứng về phe đồng minh chống phát
xít Nhật.
- Hồ chủ tịch đã dựa vào các điều khoản về dân tộc bình đẳng ở hội nghị Tê- hê- răng
và Cựu Kim Sơn kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận nền độc lập của dân tộc Việt
Nam.

3. Kết bài

Tuyên ngôn Độc lập một lần nữa khẳng định chắc nịch về truyền thống yêu nước và lòng
căm thù giặc sâu sắc của cả dân tộc. Đó là sự nối tiếp truyền lại và tiếp nhận những tinh hoa
từ những thế hệ cha anh. Để cuối cùng đã khai sinh ra đất nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa
– đất nước được xây dựng từ biết bao xương máu của những thế hệ đi trước và từ cả từ tinh
thần của dân tộc.

PHẦN III. Phân tích Tây Tiến, Việt Bắc, Đất Nước, Sóng

TÂY TIẾN
I. Tiểu dẫn.
1. Tác giả Quang Dũng (1921-1988)
- Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng
(nay là Hà Nội).
- Quang Dũng thuộc lớp thanh niên tri thức trẻ xung phong đi bộ đội từ sớm. Ông là một
người lính đa tài, biết vẽ tranh, soạn nhạc và làm thơ. Về tài năng làm thơ của Quang Dũng,
nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên chia sẻ: “Quang Dũng là một nhà thơ của Hà Nội, một nhà
thơ của Việt Nam, một nhà thơ của thời đại”.
- Quang Dũng có một hồn thơ giàu cảm xúc; đường nét và âm hưởng bài thơ có sự kết hợp
hài hòa giữa chất họa và chất nhạc. Thơ Quang Dũng vì thế vô cùng hồn nhiên, tinh tế, mang
vẻ đẹp phóng khoáng, đậm chất trữ tình của tri thức Hà Nội.
2. Bài thơ “Tây Tiến”.
- Xuất xứ: Trích trong tập “Mây đầu ô”
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang công tác tại Phù Lưu Chanh.
Lúc đầu bài thơ có tên là “Nhớ Tây Tiến”, nhưng sau đó đã đổi thành “Tây Tiến”.
Trang 15
- Về đoàn binh Tây Tiến:
+ Tây Tiến là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, nhận nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào. Địa bàn hoạt động của Tây Tiến vô cùng rộng
lớn (Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nưa (Lào)).
+ Lực lượng đoàn quân Tây Tiến chủ yếu là thanh niên trẻ thành thị còn cắp sách đến trường
đã cất vào ba lô những ước mơ hiền dịu nhất để cầm súng, chiến đấu vì lý tưởng và độc lập
của tổ quốc.
+ Điều kiện chiến đấu của binh đoàn vô cùng khó khăn: Địa hình hiểm trở, sốt rét rừng,
sương mù dày đặc, sự uy hiếp của thú dữ…Không ít người đã “gục lên súng mũ bỏ quên đời”
trong quá trình chinh chiến. Tuy nhiên, họ vẫn luôn quyết tâm, lạc quan để tiến lên phía
trước, nguyện hi sinh cho hòa bình của dân tộc.
+ Quang Dũng từng là đại đội trưởng của đoàn binh Tây Tiến trong hai năm. Sau khi chuyển
công tác, vì nhớ Tây Tiến nên ông đã viết nên bài thơ “Tây Tiến”.
+ Đại ý bài thơ: Bài thơ thể hiện nỗi nhớ da diết của tác giả về chiến trường miền Tây, về
những người lính Tây Tiến hào hùng nhưng cũng rất đỗi hào hoa.
II. Đọc hiểu bài thơ.
A. 14 câu thơ đầu: Nỗi nhớ về một Tây Tiến hào hùng, dữ dội trong ký ức nhà thơ
Quang Dũng.
1. Hai câu thơ đầu: Lời gợi dẫn về nỗi nhớ
“ Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

- Nhà thơ bắt đầu bài thơ bằng một hình ảnh, địa danh cụ thể “Sông Mã”. Sông Mã vừa là
một địa danh cụ thể trên bản đồ địa lý, vừa là một người bạn đồng hành, gắn bó với những
người lính Tây Tiến trong suốt chặng đường hành quân gian nan. Cho đến khi những người
lính ấy không còn bước tiếp nữa, dòng sông đã gầm lên “khúc độc hành” để tiễn đưa các anh
về cõi vĩnh hằng. Có lẽ vì thế mà nhắc đến những tháng năm dữ dội một thời Tây Tiến, ông
lại nghĩ về sông Mã đầu tiên. Từ đó con sông dường như không còn vô tri, vô giác mà đã hòa
chung vào từng câu hát hành quân của người lính, cất lên những tiếng kêu xót xa, đau đớn
trước sự mất mát của họ; trở thành một lực lượng đáng kể hỗ trợ tinh thần và ý chí cho những
người lính Tây Tiến.

- Tiết tấu câu thơ trở nên da diết, kéo dài với những cụm từ “xa rồi”, “Tây Tiến ơi!”. Tất cả
như dội lại một nỗi nhớ không đơn thuần mà vô cùng khắc khoải, sâu lắng, chan chứa tình
yêu. Cũng chẳng phải Tây Tiến là một đoàn binh trên danh nghĩa nữa mà như là một người
thân yêu, ruột thịt với nhà thơ Quang Dũng mới có thể cất lên những nỗi nhớ từ sâu trong tận
đáy lòng như thế.

- Đối tượng thứ ba của nỗi nhớ có phần rộng hơn, bao quát hơn nhưng cũng cực kỳ đặc biệt
“rừng núi”. Rừng núi không có ở nơi những người lính Tây Tiến từng sinh sống, rừng núi tạo
ra sự khó khăn cho họ nhưng cũng chở che cho họ quân thù. Núi rừng từ xa lạ trở nên ấn
tượng, thân thuộc trong đời sống chinh chiến của họ. Vì thế mà “rừng núi” chính là ấn tượng

Trang 16
đầu tiên, cũng là ấn tượng mạnh mẽ, da diết nhất của nhà thơ khi hoài niệm về hồi ức tươi
đẹp của Tây Tiến.

- Từ “Nhớ” được điệp lại hai lần nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ đã chạm đến tâm khảm, không thể
nào quên được của nhà thơ về binh đoàn Tây Tiến. Tất cả mọi thứ đều đã “xa rồi” nhưng nhà
thơ vẫn nhớ, thậm chí nhớ rất da diết. Nhưng cũng bởi vì đã “xa rồi” ấy đã tạo thêm sắc thái
cho nỗi nhớ trở nên “chơi vơi”. Dường như có cái gì đó chông chênh, bất định, vừa thực vừa
ảo, vừa ngay trước mắt mà lại vừa lùi về xa. Nỗi nhớ không phải là đề tài quá xa lạ trong
nguồn cảm hứng của các nhà thơ, nhưng cái “chơi vơi” ấy thật sự rất mới, rất độc đáo.

- Nghệ thuật bắt vần “ơi” ở cuối câu như một cách để nhà thơ kéo dài nỗi nhớ miên man.
Không chỉ có ở sông Mã, Tây Tiến mà lan rộng cả núi cao, đất dày.

=> Hai câu thơ đầu tiên với nhịp điệu khắc khoải, da diết đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ của
tác giả với Tây Tiến. Đồng thời cũng mở ra cảm hứng chủ đạo cho toàn bài thơ, đó là Nỗi
nhớ.

2. Hình ảnh chiến trường miền Tây hiện lên ở những câu thơ sau vừa hùng vỹ, vừa
thơ mộng.

2.1, Thiên nhiên dữ dội, hùng vĩ được mở ra ở chiều rộng không gian

Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi”.

- Ở những câu thơ tiếp theo, nhà thơ Quang Dũng liệt kê hàng loạt các địa danh cụ thể:
“Mường Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, “Mai Châu”. Cách liệt kê ấy đã khiến cho bối
cảnh câu thơ trở nên huyền bí, gợi cảm giác về một mảnh đất xa xôi, hẻo lánh, tiềm ẩn nhiều
nguy hiểm, rủi ro.

- Chiến trường miền tây hiện lên với những khó khăn, thử thách vô cùng cam go, nguy hiểm,
trong đó tác giả đặc biệt miêu tả sức mạnh của “sương lấp”. Động từ “lấp” thể hiện sự che
phủ tuyệt đối, tạo cảm giác mờ ảo, nghẹt thở, lo sợ khi phải đi trong màn sương vô cùng dày
đặc. Điều đó đã khiến cho “đoàn quân mỏi”, gặp rất nhiều khó khăn. Tuy vậy trong góc nhìn
của những người lính Tây Tiến, họ luôn tìm kiếm trong hiểm nguy, bất trắc sự lạc quan, yêu
đời. Đó chính là hình ảnh “hoa về”, gợi tả về những màn sương kết thành hình hoa vô cùng
đẹp đẽ, huyền ảo. Hình ảnh ấy cũng từng được vận dụng trong bài thơ “Hoàng Hạc Lâu tống
Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” của thi tiên Lý Bạch:

Trang 17
“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.”

Thiên nhiên lạnh giá, chết chóc bỗng trở thành một thức ăn tinh thần cho những người lính
Tây Tiến. “Đêm hơi” vừa gợi lên cái lạnh thấu xương của đêm rừng, chất chứa nỗi sợ về
những trận sốt rét; vừa thể hiện những góc nhìn lãng mạn của người lính Tây Tiến về hiện
thực. Đối với họ, thiên nhiên vừa là kẻ thù, vừa là đồng minh; màn sương vừa là thần chết,
vừa là món quà tuyệt đẹp của tạo hóa ban cho họ, giúp họ xua đi sự cô đơn, mệt mỏi. Từ đó
ta thấy được vẻ đẹp thiên nhiên hiện lên qua cách nhìn đậm chất trữ tình của những người
lính Tây Tiến.

- Dốc núi được Quang Dũng miêu tả bằng những câu thơ được cho là tuyệt bút, với
cách sử dụng nghệ thuật đặc sắc, độc đáo. Nhà thơ đã sử dụng hàng loạt các thanh trắc, tạo
âm hưởng dữ dội, tiếp thêm cảm nhận về địa hình vô cùng gian truân, gập ghềnh, neo đứng.
Nhịp thơ 4/3 như chẻ đôi câu thơ giúp hình dung nên hai triền dốc núi riêng biệt, đột ngột lên
rồi lại xuống. Tiểu đối ngay trong câu thơ “Dốc lên ><Dốc thăm thẳm”, “Ngàn thước lên
cao><ngàn thước xuống” tạo ấn tượng về địa thế cheo leo, lúc lên cao, lúc thì lại “thăm
thẳm”, gây rất nhiều khó khăn, trở ngại cho cuộc hành quân của đoàn quân Tây Tiến. Điệp từ
“dốc” và lượng từ ước lệ “ngàn thước” lặp lại hai lần gợi cảm nhận về những con dốc điệp
điệp, trùng trùng nối tiếp nhau, kéo theo biết bao nguy hiểm. Những từ láy “khúc khuỷu”,
“thăm thẳm”, “heo hút” góp phần tạo nên sự sống động trong cách cảm nhận của độc giả về
địa thế của những con dốc hình nan quạt gập ghềnh, thăm thẳm, cheo leo, trơ trọi . Nhưng
khi những người lính Tây Tiến chinh phục được đỉnh núi “heo hút”, một khung cảnh vô cùng
thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc hiện ra “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Những mái nhà
phập phồng trong cơn mưa vô cùng lãng mạn, thi vị mà chỉ khi đứng ở trên đỉnh núi cao chọc
trời mới có thể cảm nhận được. Trải nghiệm ấy cũng góp một phần vào việc hằng sâu ký ức
về mảnh đất Tây Bắc trong tâm khảm những người lính Tây Tiến.

=> Khắc nghiệt của thiên nhiên, truân nan của địa thế đã trở thành một phần khó khăn,
trắc trở trên cung đường hành quân của người lính Tây Tiến. Thiên nhiên trong mắt các
anh vừa hào hùng, vừa thơ mộng.

2.2, Hình ảnh thiên nhiên còn được mở ra theo chiều thời gian:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi”

- Các từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” mang miêu tả thời gian mang tính ước lệ. Trong thơ
xưa, buổi chiều và đêm thường mang đến cảm giác cô đơn, buồn tủi. Nhưng trong thơ Quang
Dũng, cụ thể hơn trong hoàn cảnh chinh chiến ở mảnh đất rừng thiêng, nước độc; thiên nhiên
về chiều tối còn khơi gợi cảm giác sợ hãi, rợn tóc gáy về những hiểm nguy sẵn sàng rình rập
mọi lúc mọi nơi.

Trang 18
- Động từ “gầm thét” thể hiện sức mạnh uy lực, dữ dội của nước thác. Cụm từ ấy cũng đã
từng được sử dụng trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng
rống của nước thác như tiếng “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre
nứa nổ lửa đang phá tuôn rừng lửa”. Tiếng gầm thét của thác nước đánh một đòn tâm lý nặng
nề vào những người lính Tây Tiến.

- Không chỉ vậy mà họ còn phải đối diện với “cọp trêu ngươi” vô cùng đáng sợ. Chốn rừng
núi tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất trắc, trong đó có nỗi sợ bị tấn công bởi các loài thú dữ trong
rừng.

=> Thiên nhiên miền Tây dữ dội, hùng vĩ, đầy nguy hiểm lại trở thành một bệ đỡ vững
chắc nhằm tôn lên vẻ đẹp hào hùng, hào hoa của những người lính Tây Tiến.

3. Hình ảnh đoàn binh Tây Tiến.

Hình tượng được khắc họa chủ yếu bằng bút pháp họa mây - nẩy trăng khi thấp thoáng trong
từng địa danh, từng không gian, thời gian đều xuất hiện bóng dáng của đoàn quân Tây Tiến.
Từ phông nền dữ dội của thiên nhiên để làm nổi bật lên vẻ đẹp của những người lính Tây
Tiến.

3.1, Binh đoàn Tây Tiến hiện lên qua sự hi sinh

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”

- Từ ngữ “dãi dầu” mang ý nghĩa hàm súc, bộc lộ rõ nét những khó khăn, gian khổ mà
người lính Tây Tiến phải đối mặt trên chặng đường hành quân. Họ cũng không tránh khỏi
những giây phút hi sinh, mất mát đau thương, “gục” ngã trên con đường giải phóng dân tộc
còn đang dang dở.
- Cụm từ “không bước nữa”, “bỏ quên đời” là một cách nói giảm nói tránh về sự hi sinh
của những người lính Tây Tiến. Họ nằm lại trên chiến trường nhưng với tâm thế của những vị
anh hùng quả cảm. Họ hi sinh trong tư thế sẵn sàng chiến đấu “gục lên súng mũ” vô cùng
hiên ngang. Họ mang theo hoài bãi, ước mơ và khát vọng độc lập về với lòng đất mẹ, hòa
máu xương vào dòng chảy của lịch sử, vào non sông đất nước. Sự ra đi của họ mang lại đau
thương, nhưng không hề bi lụy mà còn mang vẻ đẹp bi tráng trong tâm hồn những người lính
Tây Tiến. Đó là khí phách, là phẩm chất của những vị anh hùng không cần thời thế, như trong
bài thơ “Cảm Hoài”, lãnh tướng Đặng Dung viết:

“ Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma”

3.2, Những người lính Tây Tiến còn hiện lên với vẻ đẹp khỏe khoắn, tràn đầy sức sống:

“ Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Trang 19
- Nhịp thơ 4/3 chia câu thơ ra thành hai vế, một bên là đỉnh núi cao trọc chạm đến trời,
một bên là hình ảnh người lính với hành động giương mũi súng vô cùng hiên ngang, khỏe
khoắn. Động từ “ngửi” được nhân hóa bộc lộ rõ nét sự hóm hỉnh, tinh nghịch của những
người lính Tây Tiến khi chinh phục được đỉnh cao. Đó là hình ảnh vô cùng hào hùng, độc đáo
của những con người làm chủ thiên nhiên. Vượt lên trên mọi thử thách, khó khăn, họ vẫn
hướng lên mục tiêu phía trước, hướng về sự thành công của cách mạng. Đó cũng là cảm hứng
phổ biến trong các bài thơ cùng thời, đặc biệt hơn là ở thơ của vị lãnh tụ Hồ Chí Minh khi
Bác từ nhà lao trở về nước, băng qua những ngọn núi cao chập chùng nhưng với tâm thế ung
dung, nhàn nhã của một vận động viên leo núi:

“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,

Lòng sông gương sáng, bụi không mờ.

Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh,

Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.”

(Mới ra tù tập leo núi - Hồ Chí Minh)

3.3, Những người lính Tây Tiến không chỉ mạnh mẽ, hào hùng mà còn rất đỗi lãng mạn,
hào hoa qua hai câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” và “Nhà ai Pha Luông mưa
xa khơi”.

- Cả hai câu thơ đều được cấu tạo toàn thanh bằng, thể hiện sự lãng mạn, ung dung, nhẹ
nhàng trong tâm hồn những người lính Tây Tiến. Họ là những học sinh vừa mới rời khỏi ghế
nhà trường đã quyết tâm cầm súng chiến đấu vì tổ quốc, nên họ vẫn còn sự trong sáng, thơ
ngây, bay bổng của những chàng thanh niên trẻ.
- Trong nỗi sợ chập chùng của những màn sương buốt giá vào đêm rừng, những người
lính Tây Tiến vẫn cảm nhận, hình dung những màn sương ấy đang kết thành hình hoa, đang
vẽ ra trước mắt họ một kiệt tác tuyệt diệu, tuyệt mĩ của tạo hóa. Đó là góc nhìn lạc quan trong
khó khăn, khi họ biến chính những trở ngại của mình thành thức ăn tinh thần để xua tan đi
lạnh lẽo, cô đơn nơi chiến trường.
- Những người lính can trường còn có những cảm nhận vô cùng tinh tế sau khi chinh
phục đỉnh cao, họ hướng tầm mắt của mình về phía những ngôi nhà đang phập phồng trong
làn mưa. Từ “Nhà ai” gợi sắc thái ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thơ mộng, huyền ảo của thiên
nhiên. Những ngôi nhà khơi gợi ở họ sự an tâm về cuộc sống của nhân dân, nỗi nhớ nhà, nhớ
quê hương. Họ hướng về những ngôi nhà cũng chính là hướng về cuộc sống ấm no, hạnh
phúc của nhân dân, từ đó tiếp thêm động lực giúp họ chiến đấu hết mình.

3.4, Ngoài ra, người lính Tây Tiến còn hiện lên với vẻ đẹp của tình cảm thủy chung, chân
thành.

“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Trang 20
- Đọng lại trong ký ức những người lính Tây Tiến là chặng đường hành quân gian nan,
vất vả. Nhưng đó không phải là ấn tượng cuối cùng. Điều làm nên nỗi nhớ da diết của nhà
thơ Quang Dũng chính là những bữa cơm sum họp thấm đẫm tình quân dân.
- Câu thơ cuối cùng toàn thanh bằng gợi âm điệu nhẹ nhàng, êm ái sau một chặng
đường dài hành quân mệt mỏi. Những người lính được thưởng thức những cơm gạo nếp đầu
mùa của những cô gái Mai Châu. Cụm từ “mùa em” thể hiện quãng thời gian tâm lý. Chính
những hương vị ngon của lúa nếp, của tình người đã khắc ghi sâu vào trong nỗi nhớ những
người lính Tây Tiến, trở thành một cuốn lịch vô hình mà đến mãi về sau vẫn còn bồi hồi, thổn
thức nghĩ đến.

=> Đó là vẻ đẹp của những người lính can trường, bất khuất nhưng vẫn rất đỗi lãng mạn,
hào hoa. Điều ấy đã được thể hiện qua bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn mà nhà
thơ Quang Dũng đã vận dụng vào mười bốn câu thơ được xem là tuyệt bút.

B. 8 CÂU THƠ TIẾP THEO: NỖI NHỚ VỀ MỘT TÂY TIẾN THƠ MỘNG, TRỮ
TÌNH

Bút pháp lãng mạn của nhà thơ đã thổi bay đi những khó khăn, gian khổ của chiến trường
miền Tây, mở ra một thế giới mới của thiên nhiên Tây Bắc. Đó là cảnh liên hoan văn nghệ
đầy tình nghĩa và cảnh sông nước thơ mộng, mênh mang trong buổi chiều sương.

* 4 câu thơ đầu: Đêm liên quan văn nghệ của những người lính Tây Tiến được khắc họa
bằng nhiều ấn tượng sâu sắc:

“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”

- Nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa ấn tượng đầu tiên về ánh sáng. Đó là ánh sáng của
ngọn “đuốc hoa” đang cháy rực rỡ trong màn đêm tăm tối của núi rừng. Động từ mạnh “bừng
lên” diễn tả không khí sôi nổi, hân hoan của đêm văn nghệ, xua tan đi mọi ưu phiền, u tịch
của màn đêm. “Đuốc hoa” là hình ảnh tuyệt đẹp, được lấy cảm hứng từ nghi thức hôn lễ trong
các câu thơ xưa: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa” (Truyện Kiều). Không chỉ có
“đuốc hoa” mà ánh sáng còn được phát ra từ các “xiêm áo” của những cô gái miền sơn cước
đầy quyến rũ. Và phải chăng ánh mắt mê say của những chàng lính Tây Tiến cũng là một
trong những nguồn sáng nổi bất góp phần cho không khí sôi nổi trong đêm liên hoan ấy.
- Không chỉ có vậy người đọc còn cảm nhận được âm thanh rộn rã, hân hoan của tiếng
“Khèn”. Đó là loại nhạc cụ đặc trưng của người dân tộc miền Tây Bắc, tạo nên ấn tượng sâu
sắc trong nỗi nhớ của những người lính Tây Tiến.
- Từ phông nền là âm thanh, Quang Dũng đã khắc họa nên ấn tượng về con người.
Nhân vật “em” được đánh giá là chủ thể của đoạn thơ, là hình tượng được tập trung khắc họa

Trang 21
nhiều nhất, lộng lẫy nhất, say mê nhất. Đó là những cô gái hòa vào tiếng nhạc cùng điệu múa
lâm-bông của miền sơn cước, mang vẻ đẹp “e ấp”, dịu dàng, mê đắm lòng người
- Chính vì vẻ đẹp ấy đã tạo nên ấn tượng trong ánh nhìn và cảm nhận của những người
lính Tây Tiến về chặng đường chinh chiến gian nan. Những cô gái miền sơn cước đã khơi
dậy trong các anh tâm hồn nghệ sĩ, hào hoa của những học sinh vừa rời khỏi ghế nhà trường,
xây đắp “hồn thơ” cho tâm hồn thêm bay bổng, lãng mạn. Người đọc có thể nhận ra Quang
Dũng đã thổi bay đi không khí nặng nhọc, lo âu, vất vả sau những giờ phút hành quân thay
vào đó là sự đắm mình vào tiếng nhạc, vào ánh sáng, vào vẻ đẹp của các cô gái dân tộc, tạo
nên sắc thái trữ tình, cảm hứng lãng mạn.

=> Không khí tưng bừng, nhộn nhịp của đêm liên hoan là cơ hội để cho người lính có thể
bộc lộ bản chất nghệ sĩ, hào hoa của mình. Từ đó người đọc nhận ra họ không chỉ là
những con người có khí chất hào hùng, dũng cảm mà còn mang những vẻ đẹp vô cùng
lãng mạn, tình tứ.

* 4 câu thơ tiếp: Cảnh sông nước mênh mang trong chiều sương được khắc họa bằng bút
pháp gợi tả.

- Hình ảnh thiên nhiên: Được gợi tả bằng hai hình ảnh “sương” và “lau”

“Ai đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

+ Hình ảnh “sương” được gợi nhắc một lần nữa. Nhưng khác với đoạn thơ trước là màn
sương đêm lạnh giá, khuất lấp thì ở đây lại là sương chiều, màn sương không che kín rừng,
cũng không lạnh lẽo. Đó là màn sương lững lờ trôi như một bức voan huyền ảo vô cùng đẹp
và thơ mộng. Không chỉ riêng nhà thơ Quang Dũng cảm nhận điều ấy mà trong “Tiếng Hát
con Tàu” của Chế Lan Viên, những màn sương cũng gợi lại biết bao nhiêu nỗi nhớ:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

+ Hình ảnh cây lau xuất hiện đã mang đến cho câu thơ thêm màu sắc và đường nét. Cây
lau là loại cây có màu trắng xóa mọc dại ở bên bờ hồ, là màu sắc gợi buồn. Dường như khi
bắt gặp những cây lau ấy người lính lại bâng khuâng, bồi hồi nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ nhà
da diết. Cách nói “hồn lau” như thổi vào tạo vật sự sống, thiên nhiên không còn vô tri mà
mang linh hồn đồng cảm, đồng điệu để sẻ chia khó khăn, tâm sự với những người lính Tây
Tiến. Ngoài ra “hồn lau” còn được hiểu là vẻ đẹp của những người lao động miền sơn cước,
âm thầm, đông đảo mà lớn lao.

Trang 22
=> Bút pháp gợi nhiều hơn tả, tiết tấu thơ êm dịu, du dương như đưa người đọc về với một
chốn sông nước thanh bình, yên ắng. Vẻ đẹp thiên nhiên hiện lên trong nỗi nhớ người
lính thật lãng mạn, sâu lắng với những xúc cảm vô cùng tinh tế.

- Hình ảnh con người được xuất hiện:

“Có nhớ dáng người trên độc độc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

- Ánh nhìn của những người lính bị thu hút bởi “dáng người” uyển chuyển, mềm dẻo
của những cô gái trên con thuyền độc mộc . Dường như sự dữ dội của “nước lũ” đã bị phân
tán bởi vẻ đẹp uốn mềm của con người. Hình ảnh “hoa đong đưa” kết hợp với “dáng người”
một cách hài hòa, tạo nên vẻ đẹp thi vị, tình tứ. Điều đó đã tạo ấn tượng cho những người
lính Tây Tiến khiến họ không tài nào quên được cái khoảnh khắc thoáng chốc nhưng vô tận
ấy
- Đứng trước những vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người, Quang Dũng đã rất băn
khoăn, trăn trở, đặt ra những câu hỏi: “Có thấy…”, “Có nhớ…” để hỏi những người bạn, hay
là lời gợi nhắc chính bản thân không được phép quên những giờ phút, những kỉ niệm tươi đẹp
với thiên nhiên, với con người Tây Bắc.

=> Đoạn thơ được vận dụng chủ yếu bằng thủ pháp trữ tình, cảm hứng lãng mạn, gợi ra
được cái hồn, vẻ đẹp tự trong sâu thẳm của thiên nhiên Tây Bắc vô cùng tình tứ, duyên
dáng và mỹ lệ. Từ đó bộc lộ phẩm chất nghệ sĩ, hào hoa, thơ mộng của những người lính
Tây Tiến. Nếu như đoạn thơ trước thiên về tả thực, thì ở đây lại mang sắc thái gợi nhiều
hơn, nhằm khơi được linh hồn, thần thái của tạo vật.

C, 8 câu thơ tiếp theo: BỨC TƯỢNG ĐÀI NGƯỜI LÍNH TÂY TIẾN BI TRÁNG, BẤT
TỬ

1, Ngoại hình những người lính Tây Tiến:

“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.

- 2 câu thơ vận dụng sâu sắc cả hai bút pháp tả thực và lãng mạn

+ Bút pháp tả thực: Đó là hình ảnh “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, là di chứng
của căn bệnh sốt rét rừng quái đản, nguy hiểm. Trong quá trình chinh chiến, ngoài việc phải
chống lại kẻ thù, các anh còn phải đối chọi với những gian nan của điều kiện sống, của sự hạn
hẹp về mặt vật chất. Biết bao con người đã phải ngã xuống bởi vì căn bệnh ấy, và những
người sống sót vẫn mang trong mình những di chứng vô cùng tàn khốc.
+ Bút pháp lãng mạn: Tuy nhiên hiện thực bi thương ấy khi khúc xạ vào góc nhìn của
nhà thơ Quang Dũng lại mang vẻ đẹp vô cùng hào hùng. Bằng việc chuyển cụm từ “tóc
không mọc” thành “không mọc tóc” như trang bị cho mình ngoại hình những người lính một

Trang 23
sức mạnh vô cùng dữ tợn, có thể uy hiếp kẻ thù. “Quân xanh màu lá” lại “dữ oai hùm”, mang
dáng vẻ của chúa sơn lâm, to lớn, hiên ngang.

=> Hiện thực vẫn không bị nhà thơ né tránh, nhưng nó khúc xạ qua cảm nhận vô cùng
tinh tế bằng bút pháp lãng mạn, bộc lộ sâu sắc dáng vẻ uy hùng, mang hào khí của những
người lính Tây Tiến.

- Sức mạnh trong tâm hồn của những người lính Tây Tiến ẩn chứa đằng sau ngoại hình
và hiện thực bi thảm.
+ Hai chữ “đoàn binh” gợi nên sự đông đảo, quyết tâm, mạnh mẽ và dứt khoát.
+ Cụm từ “dữ oai hùm” thể hiện rõ nét ý chí, tinh thần vượt lên trên gian nan để tiếp tục
cầm súng, là một trong những yếu tố làm nên chiến thắng của dân ta suốt 9 năm liền gian nan
chống Pháp

=> Nhịp điệu hùng hồn, khẩu khí dứt khoát.

2, Tâm hồn mộng mơ

“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

- Hình ảnh “mắt trừng” được miêu tả một cách dữ dội. Đó là những đêm canh gác
không ngủ, những người lính luôn phải dõi theo những dấu hiệu của quân thù, những nguy
nan của núi rừng hiểm trở. Đồng thời đó cũng là ánh nhìn hướng về tương lai, hướng về một
ngày mai tươi sáng, hướng về “biên giới”, về tổ quốc thân thương bằng những niềm yêu chân
thành nhất,.
- Hai chữ “gửi mộng” đối lập với sự dữ dội của “mắt trừng”, thủ pháp lãng mạn chen
vào giữa hiện thực chiến tranh. Các anh vẫn luôn ngóng đợi về biên giới, về Hà Nội, về tổ
quốc thân yêu. Những cô gái Hà Thành đi vào trong những giấc mơ, những hoài bão, những
mối tình chưa cất lên thành lời thành tiếng bỗng được ùa về như một động lực để những
người lính tiếp tục bước đi, tiếp tục chiến đấu:

“Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)

=> Hai câu thơ được xem là nét vẽ đẹp nhất về người lính Tây Tiến đã cho người đọc một
cái nhìn khác về hình ảnh con người trong chiến tranh. Họ không chỉ mang khí chất hào
hùng, anh dũng mà còn là một người nghệ sĩ với tâm hồn lãng mạn, bay bổng, cao đẹp.
Họ vẫn chiến đấu vì lý tưởng của Hồ Chủ Tịch, vì đời sống ấm no của nhân dân,ì đất
nước, vì Hà Nội và vì người họ yêu.

3, Lí tưởng và khát vọng của người lính Tây Tiến

Trang 24
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

- Hình ảnh thơ hiện lên với những nét vẽ xơ xác, tiêu điều của những nấm mồ hoang.
Đó là nơi mà các chiến sĩ Tây Tiến anh dũng nằm xuống, để lại sau lưng bao hoài bão, ước
mơ còn chưa hoàn thành. Tính từ “Rải rác” càng đậm tô thêm màu sắc thê lương, ảm đạm, cô
tịch, chỉ những nấm mồ xa quê không ai hương khói. Tuy nhiên nhờ việc sử dụng hai từ Hán
Việt trong một câu, “biên cương”, “Viễn xứ” đã bao bọc lấy những nấm mồ ấy sắc thái trang
trọng, thành kính, phần nào xoa dịu đi sự cô đơn, cô quạnh.
- Câu thơ đầu tiên mang ý nghĩa tiền đề để làm nổi bật lên được tư tưởng cao đẹp ở câu
thơ tiếp theo “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là tuổi trẻ, là ước mơ, là mối
tình dang dở mà họ đã tạm gác lại để cầm súng. Họ vẫn trân quý cái đời xanh ấy, vẫn giữ gìn,
nhung nhớ nó, nhưng có một thứ sinh mạng còn quý giá hơn, đó là sinh mạng của tổ quốc.
Những người đồng đội ngã xuống không làm cho ý chí của những người lính Tây Tiến lung
lay, trái lại còn làm tăng thêm quyết tâm, tăng thêm ý chí để cất lên khẩu khí vô cùng hào
hùng. “Chiến trường đi” không biết đến bao giờ, nhưng họ vẫn đi. Bởi vì các anh ý thức rất
rõ trách nhiệm của bản thân đối với sinh mệnh của đất nước, của nhân dân. Những người lính
Tây Tiến đã gạc qua cuộc sống cá nhân hẹp hòi để đến với nhịp đập hòa bình, tự do của quê
hương đất nước. Một lý tưởng rất đẹp, rất đáng trân trọng

4, Sự hi sinh bi tráng của những người lính Tây Tiến

“ Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

- Thực tế mất mát, đau thương của chiến tranh được hiện lên rất rõ qua chi tiết “Áo bào
thay chiếu”. Những buổi đầu kháng chiến, đoàn quân Tây Tiến gặp rất nhiều khó khăn về vật
chất, đến cả khi hi sinh, về với lòng đất mẹ, những người lính ấy vẫn không có một tấm chiếu
để quấn thân, phải dùng chính chiếc áo rách vá thường hay mặc để thay thế. Những nét vẽ vô
cùng tội nghiệp, đáng thương. Nhưng nhà thơ Quang Dũng lại gọi chiếc áo rách vá ấy là “áo
bào”- áo của kiện tướng, cùng với cách nói giảm nói tránh “về đất” đã làm dịu nhẹ đi không
khí đau thương, mất mát. Những người lính nằm xuống mang hào khí của những vị tướng sĩ
tài ba, ra đi trong thanh thản, êm đềm.
- Đứng trước sự mất mát, hy sinh, con người có thể kìm nén nhưng thiên nhiên thì
không. Con “Sông Mã” đầu tác phẩm tiếp tục được gợi lại ở gần cuối bài thơ như đang chảy
dọc xuyên suốt hành trình chiến đấu gian nan của những người lính. Con sông ấy như một
người chứng kiến, như một người bạn đồng hành, và khi đưa các anh về với đất mẹ, nó “gầm
lên khúc độc hành” vô cùng bi tráng, hào hùng. Một khúc nhạc được hòa tấu bởi nỗi đau, bởi
tình thương và bởi khí thế vang dội, tạo nên cho hình tượng các người lính vẻ đẹp bất tử,
vững chãi và lớn lao.

=> Bút pháp lãng mạn và cảm hứng bi trang được sử dụng đan xen vào nhau qua các chi
tiết đối lập. Cái “bi” ở đây chính là hi chứng lên ngoại hình, là sự mất mát, hy sinh. Cái
Trang 25
“tráng” lại nằm ở tâm hồn, khí thế, ở lời tuyên bố “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”,
ở trong “áo bào” và có cả trong “khúc độc hành”. Tiết tấu câu thơ gắt, khẩu khí sục sôi
tạo cảm nhận về một đoàn binh bất khuất, hào hùng và bất diệt.

D, 4 CÂU THƠ CUỐI: LỜI THỀ, ƯỚC HẸN SON SẮT

1. Tâm thế khi lên đường của những người lính

“Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

- Ai chẳng biết ra đi thì khó lòng quay trở lại. Nhưng họ vẫn chấp nhận hi sinh đời xanh
của mình để đổi lấy hòa bình cho dân tộc. Các anh đi với quyết tâm to lớn “người đi không
hẹn ước”, khí thế “nhất khứ bất phục phản” mặc cho “đường lên thăm thẳm một chia phôi”.
Đó là chí khí đẹp, là lý tưởng cao đẹp của thế hệ thanh niên chống Pháp ngày trước và được
truyền lại cho đến tận bây giờ

2. Ký ức về một thời Tây Tiến vẫn còn đọng lại trong tâm hồn Quang Dũng, dù có xa Tây
Tiến, nhưng nhà thơ vẫn không quên vun đắp cho những kỷ niệm đẹp đẽ thêm phần lớn
lao:

“ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

- Nhịp thơ chậm rãi, âm điệu nhẹ nhàng, da diết, buồn nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp hào
hùng, bất khuất. Khi nhắc về một thời Tây Tiến, ta không thấy đau thương, không thấy khổ
nhọc, chỉ thấy tự hào.
- Những kỉ niệm về một thời Tây Tiến sẽ không bao giờ phai nhòa trong kí ức nhà thơ
Quang Dũng. Dù có về xuôi, dù có chuyển công tác ở trung đoàn khác, tâm hồn ông vẫn luôn
nằm ở Sầm Nứa, nằm ở Tây Tiến, có lẽ vì: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi đất đã hóa
tâm hồn” (Chế Lan Viên)

=> Dù sống hay chết, dù về ngược hay về xuôi, hình ảnh người lính Tây Tiến vẫn sẽ là
mãi mãi, là niềm tự hào của tuổi trẻ không bao giờ quên

IV. TỔNG KẾT

1. Giá trị nội dung

- Bài thơ đã tái hiện được vẻ hùng vĩ, hoang dại, nguyên sơ nhưng cũng không kém phần thơ
mộng của núi rừng Tây Bắc. Qua đó thể hiện nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây
Tiến: Nhớ những chặng đường hành quân với bao gian khổ , thiếu thốn, hi sinh mất mát mà
vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng…

- Khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa

Trang 26
=> Từ đó ta thấy tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó máu thịt với đoàn binh Tây Tiến của tác giả
Quang Dũng

2. Giá trị nghệ thuật

- Giọng thơ lúc sâu lắng, lúc hào hùng, bi tráng

- Những từ cổ gợi âm điệu trầm hùng, ngôn ngữ giàu hình ảnh

- Sử dụng đa dạng các biện pháp tu từ, đặc biệt là thủ pháp đối lập

_HẾT_

VIỆT BẮC

I. TIỂU DẪN
1. Tác giả Tố Hữu (1920-2002)

- Vị trí: Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Chặng đường thơ của Tố Hữu
gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh của cuộc cách mạng và kháng chiến dân tộc.

- Phong cách: Thơ Tố Hữu không chỉ phản ánh sâu sắc đời sống tâm hồn Việt Nam, tinh thần
thời đại mà còn biểu hiện những bước phát triển mới của thơ ca dân tộc, đưa thơ trữ tình
chính trị lên đỉnh cao. Tác phẩm của ông mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn. Tất cả được truyền tải bằng giọng thơ tâm tình ngọt ngào. Thơ Tố Hữu đa phần phản
ánh cái “ta” chung, không chỉ là tiếng nói cá nhân mà còn đại diện cho tiếng nói của cộng
đồng, của toàn thể dân tộc.

- “Nếu lấy mức độ phổ cập, sức mạnh chinh phục trái tim quần chúng nhân dân làm thước
đo tầm vóc tiếng thơ thì thơ Tố Hữu có thể sánh với bất kì nhà thơ lớn nào có trong lịch sử
dân tộc và nhân loại” (Trần Đình Sử)

2. Tác phẩm “Việt Bắc”

- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Trích trong tập thơ cùng tên. Bài thơ được lấy cảm hứng từ
quá trình Tố Hữu hoạt động cách mạng ở chiến khu Việt Bắc cho đến khi đất nước giải
phóng, các cán bộ cách mạng từ miền ngược trở về miền xuôi. Nhân sự kiện trọng đại ấy của
dân tộc, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.

- Giá trị của Việt Bắc: Bài thơ không chỉ khắc họa thành công mười lăm năm kháng chiến
đầy khó khăn, thử thách của dân tộc mà còn thể hiện những tâm tư, tình cảm của cán bộ cách
mạng dành cho đồng bào Việt Bắc. Dù họ trở về thủ đô, trở về miền xuôi, ký ức về một Việt
Bắc dữ dội luôn sẽ hằn sâu trong trái tim họ. Đất Nước sẽ mãi mãi ghi công Việt Bắc - cái nôi
của cuộc cách mạng và kháng chiến Việt Nam.

=> “Việt Bắc” được đánh giá là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, vừa là bản hùng ca về cách
mạng, vừa là bản tình ca về tình nghĩa con người.

II. PHÂN TÍCH BÀI THƠ

Trang 27
A. “VIỆT BẮC” - BẢN TÌNH CA

A.1,8 câu đầu tiên: Nỗi niềm người đi, kẻ ở trong cuộc chia tay lưu luyến nhớ thương

1. Hình thức thể hiện bài thơ

- Tác giả sử dụng thể thơ lục bát nhằm tạo những ấn tượng gần gũi, mang đậm bản sắc dân
tộc. Thể thơ lục bát giúp cho bài thơ trở nên dễ thuộc, dễ nhớ, dễ khơi gợi cảm xúc nơi người
đọc. Về cấu trúc thể thơ, thơ lục bát đòi hỏi không quá nhiều các nguyên tắc về thanh vần,
ngắt nhịp như thơ Đường, tạo cơ hội cho thi nhân bộc lộ sự sáng tạo trong hình thức và sự
sâu lắng, trữ tình trong nội dung bài thơ.

- Tố Hữu sử dụng cách đối đáp nam-nữ ân tình trong ca dao để chỉ mối quan hệ cách mạng:
“mình -ta”. Từ đó tăng tính cường điệu, xúc cảm, dễ dàng chạm đến trái tim của người đọc,
có sức hút, men say thấm sâu vào lòng người.

- Chất liệu xây dựng hình ảnh, ngôn từ bài thơ đa phần được vay mượn từ ca dao hoặc cuộc
sống kháng chiến thực tiễn, nhằm tăng tính chân thực, truyền đạt tư tưởng chính luận một
cách giản dị nhưng chân thành nhất.

2. Lời của người ở lại (Việt Bắc):

“- Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

- Câu hỏi tu từ đồng cấu trúc được lặp lại hai lần: “Mình về mình có nhớ ta?”, “Mình
về mình có nhớ không?”

+ Dấu hiệu nghệ thuật quen thuộc được sử dụng trong ca dao dân gian, cách xưng hô bình dị,
thấm đẫm nghĩa tình, vượt xa thứ tình cảm tầm thường, giản đơn. Hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ
tình cảm. Vượt lên trên cả phạm vi nam-nữ, tác giả muốn vương đến tình cảm giữa cán bộ và
đồng bào Việt Bắc; giữa con người yêu nước với tổ quốc, nhân dân.

+ Hai câu hỏi thể hiện sâu sắc khung cảnh chia tay bịn rịn, nhớ nhung của lứa đôi, chất liệu
dân gian được vận dụng tinh tế vào các dòng thơ hiện đại

+ Sở dĩ người ở lại cất lời trước bởi lẽ trong phần lớn các cuộc chia ly, người ở lại luôn sẽ là
người khắc khoải nhất, trông ngóng nhất. Tình cảm của người ở lại vì thế mà có phần sâu
nặng hơn, tha thiết hơn.

=> Hai câu hỏi đã khái quát tình cảm gắn bó ruột thịt, da diết nghĩa tình cách mạng, thể
hiện sâu sắc nỗi nhớ của người ở lại với người về xuôi.

- Lối xưng hô “mình - ta” mang âm hưởng của tình yêu lứa đôi:

Trang 28
+ Cụm từ được lặp xuyên suốt bài thơ, được xây dựng dựa trên tiết tấu biến hóa: mình về -
mình đi- mình về. Tác giả đã thành công tạo ra sự thống nhất về mặt cảm hứng và tư tưởng
tình cảm cho toàn bộ bài thơ. Đó là sự kết tinh sâu lắng của yếu tố trữ tình trong phong cách
thơ Tố Hữu.

+ Khoảng cách “mình” - “ta” nằm cân xứng ở đầu và cuối, nhưng Tố Hữu đã dùng tính từ
“nhớ” đặt giữa hai đại từ ấy để làm nhân lên sự khắc khoải, bịn rịn, nhưng đồng thời cũng
khiến hai chủ thể “mình” - “ta” xích lại gần nhau hơn. Hỏi là để bộc lộ tình cảm, nhưng đồng
thời cũng mong muốn đối phương thể hiện tình cảm của mình.

=> Từ sự kết hợp sâu sắc của hai chủ thể “mình” - “ta”, người đọc càng có cơ sở để cảm
nhận rõ nét hơn về sự hài hòa của các yếu tố nghệ thuật tác động xung quanh, nhìn nhận
toàn diện và sâu sắc tình cảm của người ra đi với người ở lại.

- Trước dấu mốc lịch sử trọng đại của dân tộc, trước thời khắc chia tay đầy ngậm ngùi,
người ở lại đã cất tiếng trước, bày tỏ những trăn trở, những bâng khuâng liệu người ra
đi có còn nhớ về mình, nhớ về Việt Bắc hay không?

- Cụm từ “mười lăm năm ấy” gợi nhắc đến khoảng thời gian khi “Kháng nhật Thuở còn Việt
Minh” và sau đó là cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt của dân tộc. Xuyên suốt một
khoảng thời gian lịch sử nổ lửa và đau thương, nhưng những thứ quý giá đọng lại vẫn là
những tình cảm “thiết tha mặn nồng”. “Mười lăm năm” còn khẳng định sâu sắc khoảng thời
gian gắn bó, mặn nồng giữa cán bộ và đồng bào Tây Bắc. Mười lăm năm ấy không dài,
nhưng nó đủ để tình cảm quân dân trở nên da diết, sâu nặng.

- Điệp cấu trúc câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ” biểu hiện tâm trạng bồn chồn, khắc
khoải. Khi ý thơ ấy đi với những vế câu “có nhớ ta”, “có nhớ không” đã khơi dậy bao nhiêu
kỉ niệm chảy trôi trong quá trình chinh chiến, đồng cam cộng khổ cùng nhau.

- Không chỉ hướng về thời gian mà nỗi nhớ còn bao trùm cả không gian. Hoàn cảnh chia tay
được khắc họa rõ nét qua các từ ngữ được chia tách, đan xen vào nhau: “Nhìn cây nhớ núi,
nhìn sông nhớ nguồn”, đó là những sự vật có mối quan hệ khăng khít, gắn bó chặt chẽ với
nhau. Điều đó càng tạo ấn tượng sâu sắc để gợi đến tình cảm son sắt giữa cán bộ miền xuôi
và đồng bào miền ngược .Ý thơ vừa có yếu tố tả thực, vừa có yếu tố trữ tình, đem đến nhiều
suy ngẫm về tình nghĩa, đạo lý, nét đẹp trong đời sống dân tộc: uống nước nhớ nguồn. Đây
cũng là lẽ sống cao cả, một tình cảm đã nhiều lần xuất hiện trong thơ của Tố Hữu:

“ Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay

Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm”.

- Trong đoạn thơ có sử dụng nhiều từ “có thấy” , “có nhớ”: Một hành động tác động vào thị
giác, một hành động tác động vào tâm tưởng. Một hành động hướng về hiện tại, một hành
động chiêm nghiệm đến quá khứ . Từ đó tác giả thể hiện sâu sắc lời nhắn nhủ chân thành,
khuyên nhủ người ra đi đừng quên nhìn lại những kỉ niệm đẹp đẽ.

3, Lời người ra đi (Cán bộ):

Trang 29
“ Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

- Nỗi nhớ của những người ở lại đã được người ra đi thấu hiểu, đồng cảm. Đại từ “ai” chính
là người ở lại, nhưng sắc thái phiếm chỉ đã khiến cho mạch cảm xúc trở nên hư ảo, vọng lên
từ sâu thẳm bên trong núi rừng đại ngàn. Nhưng bằng tình cảm da diết, cả hai đã kết nối và
cảm thấu được với nhau. Người ở lại thì “thiết tha”, người ra đi thì “tha thiết”.

- Những âm thanh ấy cứ quấn quít, vương vấn theo từng bước chân người ra đi. Các cặp từ
láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” được vận dụng một cách khéo léo, giàu giá trị biểu cảm gợi tả
sự vương vấn, lưu luyến trong buổi chia tay. Nhịp thơ 4/3 chia cách câu thơ thành hai vế đăng
đối lẫn nhau cũng như thể hiện được sự đăng đối trong cảm xúc. Từ láy “bồn chồn” không
đơn thuần diễn tả thái độ bên trong mà còn bộc lộ ra bên ngoài ở hành động, bước chân, ánh
mắt, khiến buổi chia tay càng trở nên da diết, khắc khoải.

- Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” được khắc họa cụ thể, đong đầy cảm xúc. Đó là hình ảnh
những người lao động bình dị, chất phát, khốn khó nhưng giàu nghĩa tình, thấp bé, đông đảo
nhưng ý chí lớn lao. Chính chiếc “áo chàm” ấy đã góp một phần rất lớn vào sự thành công
của cuộc kháng chiến dân tộc. Chiếc áo ấy khi xuất hiện trong “buổi phân li” càng khiến cho
không khí trở nên nao lòng, cho người ra đi phải xao xuyến, khắc khoải.

- Họ “cầm tay nhau”, họ kết nối cùng nhau, họ hòa điệu hai tâm hồn với nhau, nhưng lại
“không nói gì”. Cái hay của Tố Hữu được thể hiện ở cái sự tĩnh lặng ở bên ngoài nhưng lại
vang dội ở bên trong ấy. Thực chất “biết nói gì” ấy chính là quá nhiều điều để nói, chỉ là
chẳng ai biết phải bày tỏ điều gì trước. Như một nhà hiền triết từng nói: “Đôi khi không nói
gì cũng đồng nghĩa với việc có rất nhiều điều để nói” .Dấu ba chấm ở cuối dòng thơ lại trở
thành khoảng lặng giá trị nhất, thay thế cho toàn bộ những lời hay ý đẹp, thể hiện rõ nét cảm
xúc nhớ nhung vừa khó nói nhưng lại dễ hình dung .

- Nhịp thơ 3/3/4 thể hiện cảm giác chập chững, bồn chồn, thay thế cho nhịp chẵn thông
thường. Từ đó đã biểu thị cho xúc cảm ứa trào, ngập ngừng của giọng điệu thơ cũng chính là
ngập ngừng của tình cảm.

=> Bốn câu thơ vừa là sự đồng lòng, vừa là nỗi nhớ nhung của người ra đi với người ở
lại, vừa tái hiện khung cảnh chia ly bịn rịn, da diết trong ngày chiến thắng. Đó là thứ tình
cảm đẹp, quý giá trong tình yêu con người với quê hương, đất nước dù đó chỉ là mảnh đất
xa lạ:

“ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên).

Trang 30
A.2, Lời gợi nhắc của người ở lại. (câu 9-20)

1. Người ở lại nhắc người ra đi hãy nhớ cuộc sống ở chiến khu đầy gian khổ

- Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

- Tác giả sử dụng dấu gạch đầu dòng ở đầu đoạn thơ, cùng với việc viết in nghiêng các câu
thoại của người ở lại. Dù là một cuộc đối thoại giả tưởng, nhưng hình thức trình bày đoạn thơ
của tác giả vẫn khiến cho người đọc có cảm giác như đang được lắng nghe, đồng điệu với
những lời nói thủ thỉ, tâm tình của người ở lại.

- Trong hồi ức của người ở lại, Việt Bắc và cán bộ cách mạng đã gắn bó với nhau như hình
với bóng. Tình cảm của cán bộ và đồng bào không phải là tình cảm đơn thuần, mà trải qua
biết bao khó khăn, thử thách nó đã khắc sâu thành xương máu, thành tình dân quân thắm
thiết, nghĩa tình.

- Câu thơ “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” đã khắc họa sự khắc nghiệt của thời tiết,
của thiên nhiên miền sơn cước. Những cơn mưa nguồn từ lâu đã trở thành những trở ngại vô
cùng lớn không chỉ đối với địch mà còn với những người cán bộ miền xuôi. Ngoài ra còn có
những lúc lũ quét, mây giăng kín làm cản trở tầm nhìn. Những con người Việt Bắc lam lũ đã
sống với những điều kiện khắc nghiệt như thế, để từ đó ta càng trân trọng những con người
chịu thương, chịu khó ấy.

- Cuộc sống chinh chiến của họ gặp rất nhiều thiếu thốn được khắc họa qua hình ảnh: “Miếng
cơm chấm muối”. Thứ thức ăn đạm bạc ấy lại trở thành một minh chứng cụ thể, xác đáng cho
sự khắc khổ, gian nan của bộ đội và nhân dân ta trong thời kì đấu tranh giành độc lập. Tuy
vậy theo sau đó lại là một hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác vô cùng độc đáo “mối thù
nặng vai”. Dường như sự căm giận, phẫn nộ về tội ác của giặc luôn âm ỉ bên trong họ, cho
đến khi nó đủ lớn, đủ mạnh mẽ đến mức có thể cảm thấy nó đè nặng trên vai mình. Đó là
cách nói độc đáo, thể hiện sâu sắc sự tự thức về trách nhiệm, về quyết tâm chiến đấu để bảo
vệ tổ quốc. Khó khăn thật, thiếu thốn thật, nhưng cán bộ và đồng bào vẫn vượt lên trên cả
những gian nan ấy để tiếp tục đấu tranh vì lý tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh.

2, Người ở lại nhắc người ra đi hãy nhớ về tình cảm của người dân Việt Bắc:

“Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Trang 31
- Tác giả sử dụng cách diễn đạt đầy mới mẻ: “rừng núi nhớ ai”. Dường như nỗi nhớ đã lan
rộng không chỉ ở con người mà còn ở thiên nhiên, ở đất trời, ở từng nắm đất in hằn dấu chân
của những người cán bộ cách mạng.

- Tác giả sử dụng nghệ thuật đăng đối ngay trong câu thơ: “Trám bùi để rụng, măng mai để
già”. “Trám bùi” và “măng mai” đều là những hình ảnh quen thuộc xuất hiện trong sinh hoạt
của người dân Việt Bắc, đó là lương thực, là thứ cứu đói cho người dân và cán bộ. Nhưng bây
giờ khi cán bộ đã về xuôi, Việt Bắc dường như càng trở nên trống vắng, hẩm hiu, khiến cho
tâm trạng con người bồi hồi, không còn muốn thu hoạch những thứ quà ấy nữa. Có thể thấy
tình cảm giữa họ và quân nhân vô cùng thắm thiết, sâu đậm.

- Tác giả tiếp tục sử dụng thủ pháp đối lập giữa hình ảnh “hắt hiu lau xám” và “đậm đà lòng
son”. Từ láy “hắt hiu” thể hiện sự hoang vu của núi rừng, biểu trưng cho cuộc sống đói
nghèo, thiếu thốn trăm bề của người dân Việt Bắc. Nhưng tình cảm của họ dành cho cán bộ
Việt Bắc lại vô cùng lớn lao, sâu nặng, được thể hiện qua thành ngữ “đậm đà lòng son”. Sự
đối lập giữa hai từ láy “hắt hiu” và “đậm đà” đã thể hiện tinh tế sự vươn lên nghịch cảnh để
tình cảm được bộc lộ một cách chân thành, trọn vẹn nhất.

3. Người ở lại nhắc người ra đi hãy nhớ về Việt Bắc như nhớ về cội nguồn cách mạng.

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

- Xuyên suốt toàn bộ đoạn thơ, tác giả điệp lại nhiều lần từ “mình đi”, “mình về”, tạo ra sự
khắc khoải, lo sợ về một cuộc chia ly. Nỗi nhớ của người ra đi được ký gửi vào các hình ảnh
được thể hiện đằng sau cụm từ “còn nhớ” như: những ngày, chiến khu, những nhà, núi non và
đặc biệt nhất là câu thơ “Mình đi, mình lại nhớ mình”. Từ “mình” là một đại từ đa nghĩa vô
cùng độc đáo, vừa chỉ đối phương, vừa chỉ bản thân người nói. Như vậy người ở lại dường
như muốn người ra đi không được quên họ, không được quên Việt Bắc, càng không thể quên
bản thân của mình đã từng là gắn bó sâu nặng với mảnh đất Việt Bắc nghĩa tình.

- Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là nơi chịu nhiều tổn thương nhất trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Nhưng khi nhắc lại về Việt Bắc, người ở lại luôn nhắc về những điều
đẹp đẽ nhất, tự hào nhất: kháng Nhật, thuở còn Việt Minh. Hay Việt Bắc còn gắn liền với
những địa danh nổi tiếng, đánh dấu cho những chiến công vang dội của nhân dân ta: “Tân
Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”. Tác giả liệt kê nhiều địa danh nhưng không hề gợi cảm
giác xa lạ, mà ngược lại càng làm thơ ngữ cảnh câu thơ trở nên gần gũi, thân thuộc với bạn
đọc.

- Điệp từ “nhớ” ngập tràn trong từng câu lục bát, thể hiện nỗi nhớ da diết, đậm sâu. Kỉ niệm
được liệt kê chồng chất, trùng điệp, chứng tỏ ân tình sâu sắc giữa kẻ ở, người đi.

=> Qua đó ta thấy được tình cảm chân thành, son sắt, sâu nặng mà người ở lại dành cho
người ra đi; kèm theo đó là mong muốn người ra đi không bao giờ quên đồng bào Việt

Trang 32
Bắc, cũng như những kỉ niệm mười lăm năm mặn nồng mà họ và nhân dân đã chinh
chiến cùng nhau.

A.3, Lời khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt của người ra đi (Câu 21-42)

1. Đáp lại lời của người ở lại, người ra đi khẳng định tấm lòng thủy chung, son sắt
của mình:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”

- Trong đoạn thơ, tác giả đã tận dụng triệt để hiệu quả hô hứng giữa hai chủ thể mình và ta.
Câu thơ đầu tiên “Ta với mình, mình với ta” thể hiện sự gắn kết, đồng điệu, cộng hưởng trong
tình cảm giữa cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Như trong ca dao có câu: “Ta với
mình tuy hai mà một/ Ta với mình tuy một mà hai”.

- Đáp lại với tình cảm của người ở lại, người ra đi đã một mực khẳng định: “Lòng ta sau
trước mặn mà đinh ninh”. Hai từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” mang sắc thái chắc chắn, nhấn
mạnh vào tình cảm bền chặt, sâu nặng mà người đi dành cho kẻ ở. Dù cho có cách biệt về
không gian và thời gian, nhưng những kí ức đẹp đẽ nhất về Việt Bắc sẽ còn mãi trong trái tim
người ra đi.

- Phép so sánh “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” càng khẳng định cho tình cảm
son sắt của người ra đi. Nghĩa tình được sánh ngang với nước trong nguồn, mà đó là một thứ
tuần hoàn, vô tận. Dường như tình cảm của người đi dành cho kẻ ở cũng sâu nặng như thế,
mềm mại nhưng cũng dịu êm như thế.

- Câu thơ “Mình đi, mình lại nhớ mình” có ba chữ “mình” trong một câu thơ, tương tự như
lời của người ra đi: “Mình đi mình có nhớ mình”. Đó là sự khẳng định rằng người ra đi sẽ
không quên người ở lại, không quên Việt Bắc và cả chính hồi ức của họ khi chiến đấu tại
mảnh đất nghĩa tình ấy.

2. Nỗi nhớ của người ra đi về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
- Nhớ cảnh Việt Bắc thanh bình:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Trang 33
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

- Nỗi nhớ Việt Bắc được cụ thể hóa, so sánh như “nhớ người yêu”. Cách nói ấy đã tăng thêm
chất trữ tình cho một bài thơ chính luận, biến một tình cảm rộng lớn như cán bộ - đồng bào
trở nên thật gần gũi, lãng mạn, mãnh liệt và ngọt ngào. Nỗi nhớ là một cảm xúc cần có trong
tình yêu, cũng vì yêu sâu đậm, yêu da diết nên nỗi nhớ ấy càng trở nên khắc khoải, như nỗi
nhớ trong thơ của Xuân Quỳnh: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”.

- Tiếp sau đó tác giả đã liệt kê ra những đối tượng cụ thể gắn liền với nỗi nhớ Việt Bắc:

+ Hình ảnh “trăng” và “nắng” đều là những thứ quen thuộc, thường gặp trong đời sống sinh
hoạt của những người dân Việt Bắc. Dần dần nó cũng thấm sâu vào ấn tượng của những cán
bộ miền xuôi. Câu thơ cất lên sao mà thanh bình quá, yên tĩnh quá, dường như trông phút
chốc ta như quên đi những tổn thương, mất mát mà Việt Bắc phải gánh chịu. Việt Bắc ấy dẫu
cho trong mưa bom, bão đạn vẫn thật tình tứ, lãng mạn biết bao.

+ Tác giả nhớ “bản khói cùng sương”. Khu vực miền núi thường xuất hiện những màn sương
pha cùng với khói chiều tạo ra một khung cảnh huyền ảo, thơ mộng, khắc sâu vào nỗi nhớ
của người ra đi. Dẫu cho đó là hình ảnh giản dị, nhưng cũng đủ để người ta phải bồi hồi, thổn
thức khi nhớ về.

+ Con người hiện lên qua hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. Đó là quá trình
con người cùng chung tay lao động, giữa lấy ngọn lửa của gian bếp, của tình làng nghĩa xóm,
cũng như là ngọn lửa của tinh thần cách mạng. Căn bếp nuôi quân ấy đã gắn liền với “người
thương”, những người thật đặc biệt vẫn còn hằn in trong nỗi nhớ của người ra đi. Hình như
“người thương” ấy còn quý hơn cả “người yêu”, bởi khi ta thương một ai đó, ta không chỉ
yêu, mà còn có cả sự bao dung, chấp nhận. Cách nói “người thương” đã cho thấy một vị trí
thật đặc biệt, thật nồng nàn mà người đi dành cho kẻ ở.

+ Rồi nỗi nhớ tiếp tục gắn liền với từng sự vật, từng địa danh cụ thể: rừng nứa, bờ tre, Ngòi
Thia, Sông Đáy, suối Lê. Từ những điều nhỏ nhất cho đến những ao, hồ, sông, suối; tất cả
đều nằm trọn vẹn trong những ấn tượng của người ra đi. Đặc biệt hình ảnh “rừng nứa”, “bờ
tre” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng, đại diện cho hình ảnh người dân
Việt Bắc cần cù, gan góc, chịu thương, chịu khó. Các địa danh được liệt kê hàng loạt như mô
phỏng lại bản đồ của Việt Bắc, cũng như là một sự gợi nhắc về các chiến công hào hùng của
nhân dân ta.

- Nhớ những thời khắc gian khổ gắn bó cùng nhau:

“Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”

Trang 34
- Điệp từ “Ta” trong câu “ta đi, ta nhớ” thể hiện nỗi nhớ sâu nặng của người ra đi. Tác giả
không chỉ nhớ đến những điều đẹp đẽ, những chiến công của Việt Bắc, mà ngay cả những
thời điểm khó khăn nhất, tác giả cũng vô cùng trân trọng.

- Cụm từ “Mình đây ta đó” thể hiện sự quấn quít, đồng điệu giữa hai chủ thể “mình” và “ta”.
Cùng với đó là sắc thái thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” thể hiện sự đa dạng trong cung bậc
cảm xúc. Gắn bó cùng nhau, trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của cuộc kháng chiến; người
ra đi và người ở lại đã có biết bao kỉ niệm, biết bao cảm xúc, từ đó tạo nền tảng cho một mối
quan hệ vững bền,

- Ta với mình cùng đồng cam cộng khổ, trải qua biết bao khó khăn, thử thách của cuộc kháng
chiến. Từ đó mà người ra đi càng trân trọng tình cảm giữa họ và người ở lại. Cụm từ “chia củ
sắn lùi” thể hiện sự đồng lòng, sẻ chia ngay trong cả những khó khăn, thiếu thốn. Có vui cùng
hưởng, có họa cùng chia. Ngay cả trong những phút giây vào sinh ra tử, họ vẫn không bỏ mặc
nhau mà quyết tâm đồng lòng cho đến cùng. Tình cảm ấy sâu nặng đến mức trở thành có thể
lấn át cả đau thương, mất mát, để rồi đọng lại bây giờ chỉ còn là những phút giây ngọt ngào
thấm đậm tình quân dân.

- Câu thơ “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” càng khẳng định cho sự đồng lòng, đồng
điệu giữa cán bộ và đồng bào Việt Bắc. Họ sinh hoạt cùng nhau, chiến đầu cùng nhau ở trong
những điều kiện dù khó khăn nhất, nhưng họ vẫn luôn nghĩ cho nhau, vẫn san sẻ tình cảm và
vật chất cho nhau. Bát cơm là miếng ăn, chăn sui là hơi ấm; tất cả dù thiếu thốn biết mấy
nhưng cũng đã làm nên một tình cảm vĩ đại, mãi mãi hằn sâu trong trái tim người ra đi.

=> Chỉ khi trải qua cùng nhau những năm tháng khó khăn, tình cảm mới trở nên bền
chặt, chân thành và da diết nhất. Từ đó mà trong nỗi nhớ của người ra đi, Việt Bắc hiện
lên chan chứa nghĩa tình.

- Nhớ người mẹ Việt Bắc.

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”

- Hình ảnh lao động “nắng cháy lưng” gợi ra sự khắc nghiệt của thời tiết, của hoàn cảnh sống.
Chân dung người mẹ Việt Bắc cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó bẻ từng bắp ngô để
trang trải cho cuộc sống và góp phần nuôi bộ đội đã đi vào nỗi nhớ của người ra đi. Hình ảnh
người mẹ còn tượng trưng cho đồng bào Việt Bắc lam lũ, cần cù, bao dung và chan chứa ân
tình .Tiếng “mẹ” cất lên sao mà thân thương, sao mà tình cảm biết mấy. Họ không phải là
máu mủ, nhưng trải qua biết bao nhiêu tháng năm chinh chiến, dưới sự chăm lo của nhân dân,
họ đã nhận nhau là gia đình, như trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”, Chế Lan Viên viết:

“ Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc

Năm con đau mế thức một mùa dài

Con với mế không phải hòn máu cắt

Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.”

Trang 35
- Nhớ cảnh sinh hoạt Việt Bắc:

“Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”

- Việt Bắc hiện lên với những công việc sinh hoạt vô cùng giản dị của người dân. Đó là
những lớp học bình dân học vụ do cán bộ mở để dạy chữ cho đồng bào Việt Bắc. Đó là
những lúc làm việc cần cù, chăm chỉ, “đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”. Họ cần
mẫn, chăm chỉ học tập, hăng say lao động.

- Nỗi nhớ của người ra đi còn gắn liền với những “ngày tháng cơ quan”, dẫu vất vả, gian nan
nhưng với tinh thần, ý chí lạc quan, họ vẫn “ca vang núi đèo”. Đó là ý chí bền bỉ, không ngại
khó, ngại khổ để tiếp tục chiến đấu, hi vọng về một thành quả cách mạng ngay trước mắt.
Không chỉ tham gia vào công cuộc đấu tranh, mà họ còn tích cực lao động nhằm phát triển
kinh tế khu vực.

- Việt Bắc còn hiện lên với những âm thanh bình dị, thân thuộc “tiếng mõ rừng chiều”, “chày
đêm nện cối”. Hai âm thanh ấy đã thành công khắc họa nên bức tranh sinh hoạt miền núi xế
chiều. Đó là âm thanh của tiếng mõ, âm thanh của lao động hăng say, miệt mài dù trời đã sập
tối. Người đó có thể liên tưởng đến hình ảnh con người lao động khỏe khoắn trong bài thơ
“Chiều tối” của Hồ Chí Minh: “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc/ Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”.
Âm thanh đặc trưng của Việt Bắc ấy đã đi vào trong tiềm thức của người ra đi, tạo nên một
nỗi nhớ thật đẹp, thật da diết về Việt Bắc.

=> Trong nỗi nhớ của người ra đi, thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên với những
nét đẹp giản dị, thanh bình, dù cho thiếu thốn, khó khăn nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp của sự
lãng mạn, của tình yêu thủy chung, da diết.

A.4, Bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Trang 36
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

- Câu thơ “Ta về ta nhớ những hoa cùng người” gợi mở nỗi nhớ về thiên nhiên và con người
Việt Bắc. Hai đối tượng ấy càng sống động hơn khi ứng chiếu vào bức tranh bốn mùa vô
cùng tinh tế, rực rỡ.

- Mùa đông: Thiên nhiên trở nên rực rỡ, ấm áp với “hoa chuối đỏ tươi”. Hình ảnh con người
hiện lên với bút pháp điện ảnh, tô đậm vẻ đẹp chinh phục đỉnh cao qua cụm từ “dao gài thắt
lưng”.

- Mùa xuân: Rực rỡ với màu trắng tinh khôi của hoa mở. Động từ “nở trắng rừng” thể hiện sự
bao phủ khắp cả khu rừng, tạo nên một sắc trắng huyền ảo, mộng mơ như chốn địa đàng.
Trên phông nền ấy con người hiện lên với vẻ đẹp cần cù, chăm chỉ, tỉ mỉ “đa nón chuốt từng
sợi giang”.

- Mùa hạ: Lộng lẫy với tiếng ve kêu “rừng phách đổ vàng”. Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
đã khắc họa sự chuyển mình mạnh mẽ của thiên nhiên, từ trắng sang vàng. Hình ảnh con
người hiện lên đơn lẻ nhưng không cô đơn mà vô cùng khỏe khoắn, năng nỗ lao động.

- Mùa thu: Thiên nhiên tĩnh lặng, yên ả với “trăng rọi hòa bình”, hòa lẫn với “tiếng hát ân cần
thủy chung” của con người.

=> Bức tranh tứ bình hiện lên vô cùng chan hòa, đẹp đẽ. Qua đó hình ảnh con người hiện
lên với những nét đẹp cụ thể, sinh động.

B. VIỆT BẮC - KHÚC HÙNG CA KHÁNG CHIẾN.

B.1, Quá trình phòng thủ khi quân giặc đến.

1. Nhớ và tự hào về thiên nhiên, con người Việt Bắc.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.

Núi giăng thành luỹ sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Trang 37
- Thiên nhiên Việt Bắc là một lực lượng cách mạng đáng kể của dân tộc. Trong những năm
tháng đầu của cuộc kháng chiến, bộ đội phải dựa vào dân, dựa vào thiên nhiên Việt Bắc để cố
thủ và chờ đợi thời cơ. Lúc ấy Việt Bắc đã phát huy sức mạnh của mình: “Núi giăng thành
lũy sắt dày/ Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”. Cụm từ “Rừng cây núi đá ta cùng đánh
Tây” thể hiện sự đồng sức, đồng lòng, sự dung hòa của các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân
hòa.

- Bốn câu thơ nhưng “rừng” và “núi” được điệp đến năm lần, như được rải kín khắp
mảnh đất Tây Bắc. Núi rừng vừa là khó khăn của ta, nhưng đồng thời cũng là khó khăn của
địch. Rừng bủa vây, tấn công, giam chân địch cho quân ta tấn công hoặc rút lui.
- Hình ảnh “Bốn mặt sương mù” đối lập với câu thơ “Đất trời ta cả chiến khu một
lòng”. Dường như cả thiên nhiên, con người đều đang chung tay hợp sức để cùng nhau chiến
đấu, đánh tan quân thù.

-> Hình ảnh được chọn lọc cụ thể, thủ pháp tương phản, giọng thơ gắt, dồn dập đầy niềm
tự hào, phấn khích khi thiên nhiên và quân ta đều đang đồng lòng cùng nhìn về một
hướng để tạo thành một khối đại đoàn kết trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

2. Việt Bắc gắn liền với những chiến công đầu tiên của quân dân ta

Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà…

- Câu hỏi tu từ thể hiện niềm tự hào, vui sướng trước những chiến thắng vẻ vang của
dân tộc.
- Tác giả liệt kê hàng loạt các địa danh cụ thể, quan trọng, gắn liền với những chiến
công đầu tiên của quân dân ta. Cùng với điệp từ “nhớ” là những trận đánh, những chiến công
oanh tạc. Bản đồ giải phóng dường như đang dần được mở rộng ra, lợi thế dần nằm ở trong
tay phe của ta.

-> Nhịp thơ khỏe khoắn, nhanh hơn thể hiện niềm tự hào, niềm vui mãnh liệt của tác giả,
của nhân dân.

B.2, Việt Bắc phản công và giành thắng lợi.

- Nhớ cảnh tượng hào hùng, sôi động, đầy khí thế trên những con đường ra trận.

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.

Trang 38
+ Cụm từ “Những đường Việt Bắc của ta” thể hiện sự tự hào, dõng dạc ý thức tự chủ. Để có
được điều đó đã phải đánh đổi biết bao nhiêu công sức, tính mạng của nhân dân ta, nên tác
giả vô cùng trân trọng và biết ơn những sự hi sinh đó.

+ Phép so sánh “rầm rập như là đất rung” thể hiện sức mạnh ý chí, quyết tâm chiến đấu cho
quân dân ta. Dẫu cho đã về đêm nhưng ai nấy đều rất hăng hái, rất mạnh mẽ để bước lên phía
trước, trên những cung đường hành quân giải phóng dân tộc.

+ Từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” khắc họa sự lớn mạnh, dữ dội trong từng bước đi của
quân dân ta. Đất trời như rung chuyển theo bước chân, theo lòng người.

+ Hình ảnh lãng mạn “ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan” thể hiện vẻ đẹp của những người
chiến sĩ đầy lý tưởng, luôn hướng về hòa bình, độc lập; như hình ảnh “Đầu súng trăng treo”
trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.

- Nhớ sức mạnh của quân dân bền bỉ, kiên cường

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

+ “Dân công đỏ đuốc từng đoàn” thể hiện sự đông đảo, nồng nhiệt của những người tham gia
kháng chiến. Không chỉ có bộ đội mà toàn thể đồng bào Việt Bắc cùng đồng lòng, đồng sức
tham gia, tạo nên một sức mạnh dữ dội, đủ sức làm “nát đá muôn tàn lửa bay”. Đó không hẳn
là một cách nói quá, mà đang nhấn mạnh vào ý chí quyết tâm tuyệt đối của toàn dân ta cho
cuộc kháng chiến.

+ Những đoàn xe hiện lên trong màn đêm với sức mạnh dai dẳng, táo bạo, “đèn pha bật sáng
như ngày mai lên”. Quân ta càng đánh càng mạnh, càng chiến càng hăng hái, giòn giã. Sự đối
lập giữa “nghìn đêm thăm thẳm” và “như ngày mai lên” thể hiện sự đẩy lùi dứt khoát những
điều tăm tối, lạnh lẽo, nhường chỗ cho sự quyết liệt, táo bạo của con người. Không chỉ có
vậy, “ngày mai lên” còn biểu trưng cho sự lạc quan, niềm tin tưởng vào một tương lai thắng
lợi của cuộc kháng chiến.

-> Sức mạnh của khối đại đoàn kết đã nhanh chóng lấn át quân thù, đánh tan âm mưu xâm
lược của chúng để đi đến độc lập dân tộc.

- Nhớ những niềm vui chiến thắng trên khắp mọi miền đất nước.

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Trang 39
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

- Tác giả liệt kê hàng loạt các địa danh trải dài khắp bản đồ Việt Nam nhằm thể hiện niềm tự
hào sâu sắc về chiến công của quân dân ta trên mọi mặt trận.

- Điệp từ “Vui” thể hiện cảm xúc hân hoan, nồng nhiệt của tác giả trước những thắng lợi liên
tiếp của dân ta.

- Nhịp thơ chắc khỏe, rộn rã, tươi vui.

=> Từ đó ta thấy được sự đồng lòng, đồng sức không chỉ của thiên thời, địa lợi mà còn là
nhân hòa để dẫn đến sự thành công vang dội của cuộc chiến. Việt Bắc không chỉ đọng lại
trong nỗi nhớ của người ra đi những tình cảm nghĩa tình, son sắt mà còn là niềm vui,
niềm tự hào về những chiến công vang dội. Từ đó ta càng tin tưởng vào chân lý: “Việt
Bắc’ chính là đỉnh cao của thơ ca cách mạng, đỉnh cao trong phong cách thơ của Tố Hữu.

IV. TỔNG KẾT.

1. Giá trị nội dung.

- Thể hiện nỗi nhớ, tình cảm giữa cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Đó là thứ tình
cảm được hình thành trong gian khổ, với mười lăm năm thiết tha mặn nồng.

- Khắc họa bức tranh thiên nhiên, con người Việt Bắc với những nét đẹp đặc trưng, giản dị,
thanh bình.

- Thể hiện niềm tự hào về cuộc kháng chiến chống Pháp gian nan của dân tộc. Trân trọng sự
đồng lòng, hợp sức của toàn thể đồng bào Việt Bắc.

2. Giá trị nghệ thuật.

- Vận dụng thể thơ lục bát, sử dụng nhiều chất liệu văn học dân gian.

- Cặp đại từ “mình” - “ta” đan xen, cộng hưởng, tăng thêm cảm xúc

- Nhịp điệu thơ linh hoạt: Khi thì sâu lắng, khi thì dữ dội, hùng hồn.

- Từ ngữ diễn đạt phong phú, hình ảnh giàu sức gợi, vận dụng nhiều biện pháp tu từ sinh
động, ấn tượng.

_ HẾT_

ĐẤT NƯỚC
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm

Trang 40
- Trang thơ của ông luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, đất nước bởi chính nhà thơ đã
trưởng thành từ ghế nhà trường xã hội chủ nghĩa
- Trong nghệ thuật, Nguyễn Khoa Điềm nổi tiếng là người lao động nghệ thuật vô cùng
hăng say, nghiêm túc, khắt khe với những sáng tác của chính mình.
- Thơ của Nguyễn Khoa Điềm lấy chất liệu từ văn học Việt Nam và cảm hứng từ quê
hương, con người, từ tình thần chiến đấu của người chiến sĩ Việt Nam yêu nước...

2. Tác phẩm ‘’ĐẤT NƯỚC’’:


- Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị -
Thiên, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam về non sông.
- “Đất Nước’’ được xem là đoạn trích thành công nhất của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm,
nằm ở phần đầu chương V của bản trường ca.

II. Phân Tích Thi Phẩm:


1. 9 Câu Đầu: Nguồn gốc của đất nước
- Nguyễn Khoa Điềm lại bắt đầu hành trình tìm về cội nguồn của Đất Nước bằng cách
soi chiếu vào chính bản thân mỗi cá thể bé nhỏ.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
+ Thi nhân đã đi trả lời cho câu hỏi ‘’đất nước có tự bao giờ’’ một cách thật gần gũi và
thân thương đến lạ thường – không một dấu mốc lịch sử hay một điểm thời gian cụ
thể
+ Khao khát về một cuộc sống công bằng, tử tế đã được nhân dân đưa vào trong những
câu chuyện truyền miệng – và ta cũng thấm nhuần những triết lý bình dị ấy từ khi còn
bé thơ.
- Trong trang thơ của Nguyễn Khoa Điềm, lòng yêu nước bắt nguồn từ những điều gì
thân thuộc, bình dị nhất:
"Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
+ Hình ảnh “miếng trầu": biểu tượng của hạnh phúc vẹn tròn, miếng trầu giúp dẫn mối
tìm nhau, để cho con người phải lứa nên duyên, là nhân tố tạo nên bao đôi uyên ương
chắp cánh chung cành.
+ Cụm từ "biết trồng tre mà đánh giặc" gợi nhớ truyền thuyết về người anh hùng Thánh
Gióng – vươn vai trở thành tráng sĩ, mặc lên mình bộ giáp sắt đánh đuổi giặc Ân,
mang lại khoảng trời bình yên cho đất nước.
- Để rồi sau đó, lời thơ quay trở về với những điều giản dị trong cuộc sống thường nhật:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên

Trang 41
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
+ "Tóc mẹ bới sau đầu": đó là phong tục lâu đời của người Việt, người phụ nữ để tóc
dài và bới lên để thuận tiện trong sinh hoạt hàng ngày.
+ “Cha mẹ thương nhau....”: Tình yêu được sinh ra và nuôi dưỡng từ trong khó nghèo,
từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân trọng, đáng quý.
+ "Cái kèo, cái cột” là những vật quen thuộc trong đời sống hằng ngày của người Việt
Nam nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình,
làng xóm, quê hương, đất nước.
+ Cách sử dụng từ ngữ “một nắng hai sương” và phép liệt kê với nhịp ngắn các động tác
liên tiếp “xay, giã, giần, sàng” hình ảnh Đất Nước hiện dần nhờ bàn tay lao động cần
cù, sáng tạo của con người.
+ Dấu “...” như mở ra một cuộc hành trình mênh mông về Đất Nước, nhưng đồng thời
cũng thật gần gũi và thiêng liêng biết bao trong trái tim của mỗi con người.
→ Khám phá Đất Nước ở phương diện văn hóa sinh hoạt, Nguyễn Khoa
Điềm đã phát biểu nhận thức của mình như lối định nghĩa độc đáo.
→ Qua 9 câu thơ mở đầu tác giả đã làm sống lại chất riêng của dân tộc
trong cảnh vật, phong tục, con người.

2. 16 câu tiếp: Định nghĩa về Đất Nước


a. Cảm nhận về không gian địa lý
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm”
- Tác giả tách riêng hai thành tố ‘’ đất’’ và ‘’nước’’ để có cách giải thích rất đỗi chân
thực và gần gũi; sử dụng lối tư duy chiết tự vừa triết lý lại vô cùng giàu xúc cảm.
+ “Đất’’: là thứ gắn liền với những kỉ niệm thời thơ ấu của anh, gắn liền với con đường
hàng ngày đến trường với bao trò chơi, bao lần đùa nghịch cùng bạn bè.
+ “Nước là nơi em tắm": nước là một thứ thiết yếu không thể thiếu trong cuộc sống mỗi
ngày - nó cũng gắn với kỉ niệm tuổi thơ em, là dòng sông đỏ nặng phù sa nuôi lớn
những mầm non, cây lúa cho bác nông dân.
- Từ 2 ý thơ riêng biệt 2 cá thể, đến câu thơ sau, nhà thơ đã “tác hợp” anh và em một
cách thật tự nhiên mà rất đỗi ngọt ngào:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
+ “Nơi ta hò hẹn”: ở hai câu thơ này “đất’’ và ‘’nước’’ đã hòa nhập vào một, trở thành
không gian hẹn hò, nâng bước và minh chứng cho tình yêu của em và anh, tình yêu
lứa đôi lắm đỗi ngọt ngào, say đắm.
→ Có thể nói rằng khi tách ra thì Đất Nước gắn với kỷ niệm riêng tư của mỗi
người nhưng khi gộp lại - Đất Nước lại sống trong cái ta chung, của toàn con
người Việt ta qua bao đời .

Trang 42
b. Đất nước còn là nơi trở về của những tâm hồn nặng lòng với quê hương:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
+ Lời thơ lấy ý từ hình ảnh trong ca dao miền Trung, càng trở nên tha thiết, đắm say
nhường nào.
+ Câu thơ bộc lộ rõ tình yêu quê hương, đất nước của tác giả. Không những thế, qua ý
thơ ấy, thi nhân còn ngợi ca sự trù phú mà thiên nhiên đã ban tặng cho dải đất hình
chữ S với rừng vàng , biển bạc bao la
+ Đất nước là một sinh thể thống nhất bao gồm nào là núi, là sông, là rừng, là bể không
thể thiếu hay mất đi dù là một tấc, một li.

c. Đất nước trường tồn trong không gian, thời gian


“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông”
- Với việc sử dụng các từ láy “đằng đẵng’’ và ‘’mênh mông’’ : tác giả đã mở ra không
gian đa chiều của ba miền Bắc – Trung – Nam mênh mông rộng lớn với dãy Trường
Sơn hùng vĩ, với hai hòn đảo ngoài khơi xa,...
- Đất nước tồn tại và hình thành trong một chặng đường thời gian dài đằng đẵng từ xa
xưa, từ lúc mà mỗi con người Việt đầu tiên khai hoang và lập quốc.

d. Đất nước theo chiều dài lịch sử:


● Đất nước hiện lên trong quá khứ hào hùng, lừng lẫy
“Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
+ Nguyễn Khoa Điềm gợi lại về dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân Lạc Việt bằng
một niềm tự hào.
+ “Sự tích trăm trứng” qua lời kể của ông cha đã ra đời từ lâu nhằm lý giải nguồn gốc
của người Việt Nam ta.
- Cũng vì thế, mà ta thêm thấm thía đất nước luôn tiềm tàng mối quan hệ giữa các thế
hệ quá khứ, hiện tại và tương lai:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ”.
+ “Những ai đã khuất’’ là những người trong quá khứ, những con người đã có công
dựng nước từ những buổi đầu thuở sơ khai, phát triển đất nước phồn hoa, giàu mạnh
và bảo vệ đất nước sự lăm le xâm chiếm của kẻ thù.
+ Phép điệp ngữ “Những ai...Những ai...” như tạo nên một sợi dây kết nối vô hình giữa
những ngày đã qua và những tháng ngày của hiện tại

Trang 43
- Đó cũng là lý do mà từ tình yêu đôi lứa riêng tư, ta sẽ mở rộng thành tình yêu cộng
đồng; từ hiện tại của ba và mẹ - ta sẽ tạo nên những thế hệ tương lai viết tiếp những
giấc mơ dang dở:
“Yêu nhau và sinh con đẻ cái”
+ Là con dân đất Việt, là thế hệ sau, ta phải nối tiếp bước đi của cha ông ta ngày trước;
không ngừng phát triển đất nước phồn hoa, vững mạnh và đề cao tinh thần chống nội
trong giặc ngoài, không lơ là, thiếu cảnh giác.
- Không những vậy, Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc nhở những ai là con dân nước Viêt
đều phải ý thức về nguồn cội của chính mình và nguồn gốc tổ tiên, không bao giờ
được quên cội nguồn dân tộc:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
+ Động tác “cúi đầu” cũng thể hiện niềm biết ơn , sự thành kính thiêng liêng mà rất đỗi
tự hào về nguồn gốc cha ông trong tâm tưởng mỗi con người Việt dù cho họ có đi
khắp năm châu bốn bể.
⇒ Nhà thơ vận dụng rộng rãi các chất liêu văn hóa dân gian, từ truyền thuyết lịch
sử, phong tục, tập quán đến sinh hoạt, lao động của dân tộc ta.
- Từ đó, nhà thơ mở ra một cách hiểu sâu xa hơn nữa về Đất Nước, khi Đất Nước
không chỉ còn là những cái ngoài ta, mà còn ở nơi những điều giản bị bên trong chính
mỗi người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
+ Với hai câu thơ trên, thi nhân Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định rằng đất nước đã
hóa thân vào mỗi con người, bới chúng ta đều là con rồng cháu tiên, đều sinh ra và
lớn lên trên dải đất hình chữ S này.
+ Nhà thơ nhấn mạnh hai chữ “hôm nay” – như để lan tỏa lời nhắn gửi ra xa mãi... vượt
qua cả những khoảng cách lớn lao về thời gian, chạm tới trái tim bạn đọc dù ở bất cứ
thời điểm nào.
● Đất nước kết tinh và hóa thân trong mỗi người – nhưng Đất Nước chỉ thực sự
hình thành khi mỗi người biết kết nối, biết cầm tay nhau:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
+ Hành động bình dị “cầm tay’’’ là sự biểu trưng cho tinh thần đoàn kết, đồng sức đồng
lòng của toàn con dân nước Việt.
+ Với việc sử dụng các từ ‘’hài hòa nồng thắm’’,’’ ven tròn, to lớn” đi liền nhau, tác giả
đã nhấn mạnh sức mạnh của hiện tại được xây dựng bới chính tình yêu nước của mỗi
người.
+ Nhà thơ như muốn gửi đến người đọc thông điệp: Đất nước là sự thống nhất, hài hòa
giữa tình yêu lứa đôi và tình yêu tổ quốc, giữa cá nhân và cộng đồng.

Trang 44
- Từ sức mạnh của hiện tại, nhà thơ bộc lộ niềm tin mạnh mẽ vào tương lai tươi sáng:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
+ Nhà thơ đã thể hiện niềm tin mãnh liệt vào những mầm non tương lai hay nói cách
khác là thế hệ sau của đất nước.
+ Niềm tin ấy tác giả đặt vào “con ta’’: chỉ thế hệ sau, những đứa con được sinh ra từ
tình yêu thủy chung ngọt ngào của tình cảm đôi lứa, bởi tinh thần đoàn kết, đồng sức,
đồng lòng của con người Việt.
- Từ đó, nhà thơ cất lên một tiếng gọi thiết tha, như gợi nhắc về trách nhiệm của mỗi cá
nhân với Tổ quốc:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
+ Đoạn thơ mở đầu với tiếng gọi thân tình mà tha thiết: “Em ơi em...” – như lời thủ thỉ
dặn dò của người yêu dành cho người yêu, của một anh trai dành cho em gái, tâm tình
về giá trị của Đất Nước trong mỗi trái tim.
+ Từ “là” ấy bình thản mà mạnh mẽ quá, nó như khẳng định chắc nịnh về giá trị của Tổ
quốc trong mỗi con người.
+ Tác giả viết nên những vần thơ ấy bằng tất cả sự trải nghiệm, thấu hiểu của một người
con đã từng trải qua và chiến đấu bảo vệ khi tổ quốc lâm nguy

e. Tư Tưởng Đất nước của nhân dân:


- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục nối dài hành trình định nghĩa về Đất Nước trong
trái tim của mỗi người bằng cách khẳng định quan điểm Đất Nước của nhân dân:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
+ Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay,
ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc.
+ Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá
của người phụ nữ.
+ Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy.
+ Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân
tộc ta.

Trang 45
+ Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi
chín mươi chín con.
→ Tất cả những câu chuyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi
thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta.
+ Đất nước Việt Nam còn là đất nước của những con người hiếu học.
+ Đất nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé: những quả núi hình con
cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới.
- Với lối hành văn quy nạp, từ tất cả những câu chuyện đầy sống động ấy, tác giả đã
khái quát lên thành một chân lý, một tư tưởng:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
+ Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình
lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này.
- Một lần nữa, lời gọi dịu dàng mà da diết lại vang lên:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”
+ Tác giả đã nhìn về bốn nghìn năm lịch sử đằng đẵng đáng tự hào của dân tộc, tập
trung nói đến những con người vô danh, bình dị, hay nói cách khác là ngợi ca tất cả
nhân dân:
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
+ Với giọng điệu tha thiết, ngọt ngào Nguyễn Khoa Điềm hướng người đọc nhìn về
chiều sâu quá khứ bốn ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước của nhân dân.
- Khi đất nước có chiến tranh, họ sẵn sàng xả thân, bất luận con trai hay con gái, già
hay trẻ, mạnh hay yếu, không kể tôn giáo hay dân tộc nào
“Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Trang 46
+ Lời thơ như thủ thỉ tâm tình, như kể lại một câu chuyện cổ tích về bốn ngàn lớp người
đã sống và chết một cách bình thản, đã hy sinh cho đất nước như thể họ được sinh ra
để làm điều đó...
⇒ Khi viết về những con người bình dị ấy, dường như cảm xúc của tác giả thể hiện
niềm tự hào ngưỡng mộ về trách nhiệm của họ với núi sông.

f. Nhân dân làm nên văn hóa


“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
+ Những động từ “giữ’’, “chuyền’’ và ‘’ truyền’’ cho thấy nhân lưu giữ và lan tỏa những
giá trị văn hóa , tinh thần tốt đẹp của dân tộc Việt từ đời này sang đời khác, từ thế hệ
trước sang thế hệ sau.
+ Không những lao động, bảo vệ và xây dựng đất nước, nhân dân còn có trách nhiệm
truyền lại cho con cháu mai sau những giá trị văn hoá, tinh thần, vật chất của đất nước
+ Với các động từ ‘’chống’’, ‘’vùng lên đánh’’ tác giả đã nhấn mạnh và khẳng định tinh
thần kiên cường, bất khuất , sẵn sàng dẹp giặc để giữ yên non sông, gấm vóc.
- Từ đó, nhà thơ đưa ta đến tư tưởng ngọn nguồn của vẻ đẹp văn hóa dân gian:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của ca dao, thần thoại”.
+ Đất nước do nhân dân khai hoang, phát triển để phồn hoa và nhân dân cũng là người
đứng lên cầm vũ khí để bảo vệ từng tấc đất, con sông.
+ Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa
nhấn mạnh về sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước.
+ Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, Nhân dân lại
là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại.
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
+ Tác giả ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình yêu, những mối tình từ thuở ấu
thơ cho đến lúc trưởng thành.
+ Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà...
Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất.
+ Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân
trong biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại.

Trang 47
- Để rồi, tình cảm thiết tha trìu mến dành cho nhân dân, cho đất nước lại càng trào dâng
nơi đầu ngọn bút:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
+ Bốn câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết
đến từ bến bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò.
+ Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông
Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền
Trung.
+ Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc nhà thơ luôn viết hoa hai
từ “Đất Nước” tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc
Việt.
_HẾT_

SÓNG
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả: Xuân Quỳnh
- Xuân Quỳnh là một trong những số nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ
thời kì chống Mỹ cứu nước.
- Thơ của người thi sĩ ấy là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn
nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc
đời thường.
- Chủ đề chính trong những bài thơ của Xuân Quỳnh thường hướng nhiều về thế giới
nội tâm như: Kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu đôi lứa, hạnh phúc gia đình,...

2. Tác phẩm ‘’Sóng’’:


- Sóng là kết quả của chuyến đi thực tế năm 1967 của Xuân Quỳnh tại bờ biển Diêm
Điền ,Thái Bình; được in trong tập thơ ''Hoa dọc chiến hào''.
- Bài thơ có nhan đề là Sóng , suốt dọc bài thơ cũng là hình tượng sóng; vì vậy có thể
nói Sóng là hình tượng trung tâm bao trùm của bài thơ – song hành là hình tượng
“em”.
- Bài thơ là một hành trình lớn bao trùm lấy ba hành trình nhỏ:
+ Hành trình con ‘’sóng’’ tìm về biển lớn.
+ Hành trình ‘’em’’ đi kiếm tìm tình yêu đích thực của cuộc đời
mình.
+ Hành trình ‘’tôi’’ đi tìm ‘’tôi’’.
+

Trang 48
II. Phân tích tác phẩm
1. Hai khổ thơ đầu:
- Khổ thơ đầu đưa ta đến với cuộc hành trình của sóng – cuộc hành trình tìm về với
biển lớn – đồng thời là chuyến đi khám phá cái tôi đích thực của chính mình:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
+ Những từ đối lập được nối với nhau bởi từ ‘’và’’; cho thấy rằng đó là hai vẻ
đẹp đối lập những lại hòa quyện của con sóng biển khơi.
+ Với 2 câu thơ sau của khổ 1; tác giả đã sử dụng thủ pháp nhân hóa để nhân
cách hóa con sóng vốn vô tri, vô giác, chẳng biết yêu, chẳng biết hờn và mở ra
hình ảnh đối lập của “sông’’ và “bể”
+ Đặc biệt; với động từ ‘’tìm ra”, tác giả đã khẳng định con sóng kia không chịu
những ràng buộc, giới hạn nhỏ bé nên nó chủ động tìm về nơi thuộc về đó là
biển lớn.
- Khổ thơ thứ hai, lúc này nhà thơ đặt cả lòng mình nương nhờ con sóng để nói lên giá
trị vĩnh hằng của tình yêu- một thứ mật ngọt làm lòng người đắm say của nhân thế:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”.
+ Thán từ “ôi” ở ngay câu đầu của đoạn thơ đủ cho ta thấy được xúc cảm dâng trào
trong lòng nhà thơ như đang dần bùng cháy đến đỉnh điểm.
+ Cặp từ “ngày xưa” – “ngày sau” tiếp tục đưa lối người đọc khám phá những trạng thái
đối lập để khẳng định thời gian muôn đời của con sóng từ quá khứ đến tương lai.
+ Từ láy ‘’bồi hồi’’ như vẽ ra những xúc cảm dạt dào cho câu thơ.
+ “ngực trẻ’’: có thể hiểu là tuổi trẻ, tuổi xuân của con người. Từ ngữ ấy còn có thể hiểu
sâu hơn là biểu trưng cho những trái tim giàu sức xuân xanh.
→ Qua khổ thơ thứ hai, thi nhân như muốn khẳng định rằng những cung bậc hỗn
độn của trái tim phụ nữ khi yêu và tình yêu rạo rực trong tâm hồn tuổi trẻ là thứ
tồn tại và song hành mãi với thời gian.

2. Khổ 3 và khổ 4: Cội nguồn của tình yêu?


- Đứng trước biển khơi bao la rộng lớn, Xuân Quỳnh đặt ra một câu hỏi lớn về cội
nguồn của tình yêu, về gốc rễ của những rung động đang khắc khoải trong trái tim
người thiếu nữ:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Trang 49
+ ‘’Muôn trùng”: là từ ngữ ý chỉ số nhiều Từ đó gợi mở không gian rộng lớn, bao la.
Có lẽ biển vốn đã mênh mông nhưng giờ lại càng rộng lớn hơn gấp bội trong cách kết
hợp “muôn trùng sóng bể”.
+ Nếu như ở hai khổ thơ đầu, sự xuất hiện của nhân vật trữ tình “em” chỉ là sự xuất hiện
gián tiếp, thì đến câu thơ này, nhân vật trữ tình đã trực tiếp xuất hiện để bộc bạch nỗi
lòng thầm kín của mình:
“Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn”
+ Với thủ pháp điệp cấu trúc “em nghĩ về...”, thi nhân đất La Khê càng nhấn mạnh nỗi
niềm của nhân vật trữ tình - nỗi niềm ấy là thứ xúc cảm của riêng trái tim “em”, là
những trăn trở về tình yêu, về biển cả.
+ Dường như em và sóng đã hòa vào làm một; dường như “em” đã mượn “sóng” để nói
lên những nỗi lòng mình vẫn luôn ấp ủ…
+ Tuy tác giả không diễn tả cụ thể nhưng dường như ta vẫn cảm nhận được điều mà
nhân vật “em” đang nghĩ lúc này sẽ xoay quanh chuyện tình yêu của anh và em.
+ Khép lại chuyện của em và anh, như một bước sóng đột ngột, tác giả quay về chuyện
của sóng nước bao la:
“Từ nơi nào sóng lên”
Bởi lẽ, đi tìm quy luật của sóng biển cũng chính là tìm kiếm quy luật của tình yêu. Bởi
lẽ, hành trình tìm về cội nguồn của đoạn tình này còn dài lâu và khắc khoải hơn nữa,
chẳng bao giờ khép lại...
- Để rồi tiếp sau đó, nhân vật trữ tình nỗ lực tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi cứ
ấp ủ mãi trong trái tim...
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

+ Câu hỏi tu từ “Từ nơi nào sóng lên” đã được diễn giải thật thuyết phục bằng kiến thức
tự nhiên, địa lý. Câu hỏi như muốn đi sâu hơn vào cái gốc rễ cội nguồn của sóng hay
của chính tình yêu mà lòng em đang thổn thức.
+ Nhưng dường như cuộc hành trình tìm về tận cùng gốc rễ lại là một cuộc hành trình
bỏ ngỏ lời đáp… Để rồi câu trả lời cuối cùng ta nhận được, chỉ là một cái lắc đầu
duyên dáng, thẹn thùng:
“Em cũng không biết nữa”
+ Đây là một cái lắc đầu đầy đằm thắm của trái tim em. Đó không chỉ là cái lắc đầu
không biết gió xuất phát từ đâu mà còn là cái lắc đầu vì một câu hỏi sẽ chẳng bao giờ
ta có thể giải đáp:
“Khi nào ta yêu nhau”

Trang 50
Đó cũng là câu hỏi muôn thuở trong tình yêu. Tình yêu là gì? Vì sao anh yêu em? Khi
nào thì ta yêu nhau? ... Những câu hỏi này nếu để trả lời một cách lý trí thì thật khó để
tìm ra đáp án.
→ Chỉ với hai khổ thơ ngắn gọn, cô đọng nhưng ta vẫn cảm nhận được nỗi niềm dạt dào
của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là một tình yêu đằm thắm thiết tha nhưng không
kém phần nồng hậu da diết.

3. Nỗi nhớ da diết trong tình yêu (Khổ thơ thứ 5)


“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
+ Đây là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ bởi nó kéo dài thêm hai dòng thơ – như
đỉnh của một bước sóng, mãnh liệt và dạt dào.
+ Với thủ pháp điệp ngữ, con sóng được điệp lại ba lần trong bốn dòng thơ giống nhau
như những đợt sóng gối lên nhau, hối hả vươn tới bờ
+ Với việc sử dụng nghệ thuật đối, thi nhân đã đặt sóng vào những không gian, thời
gian khác nhau.
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
+ Và có lẽ với Xuân Quỳnh; mượn sóng để diễn tả nỗi nhớ sâu sắc và mãnh liệt chưa
đủ, nên tác giả đã để cho nhân vật trữ tình trực tiếp đứng ra bộc bạch nỗi lòng mình.
Nỗi niềm ấy thật tinh tế và tự nhiên biết bao...

4. Sự thủy chung son sắt, một lòng một dạ trong tình yêu (KHỔ 6):
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
- Nếu như thông thường ta hay nói ‘’ngược bắc ‘’, ‘’xuôi nam’’ thì ở đây nhà thơ đã nói
ngược lại lối nói bình thường ấy kết hợp với cặp từ đối lập ‘’xuôi’’, ‘’ngược’’ như
khẳng định và nhấn mạnh sự cách trở.
- Không những thế tác giả còn đặt ‘’phương anh’’ bên cạnh ‘’phương bắc’’, ‘’phương
nam’’ như một phép so sánh hai chiều kích của không gian và của tình yêu.
- Hai chữ “một phương” đã khẳng định sự duy nhất và bản chất chân chính của tình
yêu. tình yêu.

5. Niềm tin mãnh liệt trong tình yêu (KHỔ 7)


“Ở ngoài kia đại dương

Trang 51
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
- Khổ thơ này đã gợi ra suy tư về không gian hay nói cách khác là những khó khăn, thử
thách trong tình yêu: rộng đến bao nhiêu, cách trở đến thế nào, nhưng khi đã tìm đến
nhau thì nhất định sẽ gặp nhau.
- Xuân Quỳnh nhìn những con sóng ngoài đại dương và thấy được hàng trăm, hàng
ngàn, hàng triệu con sóng biển. Và những con sóng đó đang hướng vào bờ dù gặp bao
nhiêu khó khăn trắc trở.

6. Những trăn trở, lo âu về tình yêu – về sự hữu hạn của cuộc đời (Khổ 8)
Khổ thơ đã mở ra nhận thức về sự hữu hạn của tình yêu trong cuộc đời, như Xuân
Diệu đã từng nhận ra tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, để rồi vội vã giục giã sống trọn vẹn với
từng phút giây:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
- Nếu như những khổ thơ trước nhà thơ nói về niềm vui sướng dào dạt, những nhung
nhớ giận hờn thì đoạn thơ này nhà thơ lại thể hiện những băn khoăn, lo lắng. Đó cũng
là trực cảm của người con gái trong tình yêu.
- Tác giả sử dụng phép so sánh: lấy cái không gian để nói cái thời gian để phần nào cho
người đọc nhận thức rõ về những dự cảm và nỗi băn khoăn của nữ thi sĩ.
- Những từ “tuy dài thế - vẫn đi qua - dẫu rộng” như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi
âu lo và những ngậm ngùi.
- Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành
có thể giúp mình vượt qua tất cả. Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình, trìu mến và thấm đẫm
xúc cảm đã cho ta cảm nhận được niềm tin ấy.
→ Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo
nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu.

7. Khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu (Khổ thơ cuối)
Từ khao khát chiến thắng cái hữu hạn, Xuân Quỳnh bày tỏ khao khát vĩnh cửu hóa
tình yêu:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”.
- Có lẽ Xuân Quỳnh đã nhận ra một chân lý bất biến: Sóng chỉ thực sự là sóng khi nó
hòa chung vào muôn điệu của đại dương bao la.

Trang 52
- Nhà thơ sử dụng từ “Làm sao” + “được” – bộc lộ rõ sự tha thiết, chân thành của một
người sẵn sàng dâng hiến
- “Sóng nhỏ” – “bể lớn”: cặp từ đối nghịch: thể hiện sự bé nhỏ của một cá nhân giữa
tình yêu muôn trùng.
- “Trăm”: số từ gợi tả trùng trùng con sóng đang hòa vào với biển, như vô số con người
đang tìm kiếm tình yêu trong một hành trình sôi động và vội vã.
- . Nhà thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình
vào đại dương bao la, hòa mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu
thương “Để ngàn năm còn vỗ”.
_HẾT_
PHẦN IV. Văn mẫu 9+ bài Người lái đò sông Đà, Ai đã đặt tên cho dòng
sông
Đề 1: Cho đoạn trích
“Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy lúc chỉ đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành
chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò
qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ
mà ngóng vọng lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ suýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái
thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những
cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít
đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men
gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô tô
sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo
nhanh và tay lái cho vững mà phòng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên
như rót dầu sôi vào. Những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi
tụt xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược
rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở
khuỷnh sông dưới.”
(Trích “Người lái đò Sông Đà, Ngữ 12)
Phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn văn trên. Từ đó, nhận xét về sự tài hoa trong
cách sử dụng ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Tuân.

BÀI LÀM
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu

Trang 53
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng gọi
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
Đó là những lời thơ tha thiết của thi sĩ Chế Lan Viên khi viết về mảnh đất và con
người Tây Bắc. Vùng đất “sớm sương muối, tối sương mù - Trưa hoe hoe nắng, chiều tà tà
mây” đã trở thành nơi gửi gắm tâm tình của biết bao thi sĩ và một trong số đó có Nguyễn
Tuân. Trong hành trang du kí của mình lên vùng Tây Bắc, nhà văn đã ấn tượng sâu sắc với vẻ
đẹp nơi đây, đứa con tinh thần “Người lái đò Sông Đà” cũng ra đời vì lẽ đó. Tác phẩm viết về
dòng Đà giang hung bạo, dữ dội nhưng cũng rất thú vị, độc đáo. Đặc biệt nhất trong đoạn
trích: “Hùng vĩ của Sông Đà…khuỷnh sông dưới”. Không chỉ làm bật lên sự hùng vĩ, độc địa
của sông Đà, nhà văn còn đem đến cho người đọc thấy được sự tài hoa trong cách sử dụng
ngôn ngữ xứng danh “bậc thầy” đáng ngưỡng mộ.
Nhà văn Trần Dần từng nhận xét về Nguyễn Tuân: “Nhân cách của nhà văn chính là
văn cách của anh ta”. Lời bình ấy quả đúng! Nguyễn Tuân luôn coi trọng nghề viết, coi trọng
độc giả như coi trọng cái tôi của chính mình. Người quen Nguyễn Tuân đều biết ông rất cầu
kỳ, kỹ tính trong từng con chữ bởi như ông từng chia sẻ: “Tôi quan niệm đã viết văn thì phải
cố viết cho hay và phải viết đúng cái tạng của mình. Văn chương cần cần có sự độc đáo hơn
trong bất kì lĩnh vực nào”. Có thể thấy trên trang văn của Nguyễn Tuân chưa bao giờ tồn tại
hai chữ nhạt nhòa cũng vì lẽ đó. Tuy rằng xuất thân trong một gia đình nhà nho khi Hán học
đã tàn, trước Cách mạng Tháng Tám, ông bất mãn với thời thế, chỉ hướng ngòi bút về quá
khứ với những vẻ đẹp “vang bóng một thời” ngày xưa, thế nhưng sau khi cách mạng thành
công, phong cách Nguyễn Tuân đã có nhiều thay đổi. Nhà văn nhận ra chất tài hoa nghệ sĩ
của nhân dân đại chúng, ông thấy ở họ tồn tại những vẻ đẹp đáng quý và bình dị vô cùng.
Ông cũng nhìn ra được mối quan hệ mật thiết giữa quá khứ và tương lai tươi sáng. Đồng thời
giọng văn cũng từ đó trở nên đôn hậu, tin yêu đến lạ thường. Có lẽ, ánh sáng của cách mạng
đã khiến Nguyễn Tuân sống lại một lần nữa, để ông đem đến cho đời những tác phẩm văn
học đong đầy bóng dáng của quê hương. Và tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là một trong số
đó. Tác phẩm được in trong tập “Sông Đà” sáng tác năm 1960, là thành quả của một chuyến
đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc của “cây bút duy mĩ” đầy tài hoa. Đoạn trích miêu tả sự hung
bạo của Sông Đà là một trong những đoạn trích đắt giá nhất của tác phẩm.
Để mang đến cho người đọc một con sông với vẻ đẹp độc đáo một cách chân thật và
đầy đủ nhất, Nguyễn Tuân đã dày công tìm hiểu nguồn gốc, lai lịch của dòng Đà giang. Con
sông bắt nguồn từ Trung Quốc, với cái tên khá mĩ miều là Ly Tiên. Qua đến Việt Nam, nơi
chào đón đầu tiên là Mường Tè (Lai Châu) về sau tới ngã ba Trung Hà thì hợp với nước sông
Hồng của Thủ đô. Sở dĩ nói đây là dòng sông độc đáo bởi dòng chảy của nó rất lạ, theo như
lời đề từ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn của Nguyễn Quang Bích có viết: “Chúng thủy giai
Đông tẩu - Đà Giang độc Bắc lưu”. Câu thơ chữ Nôm có nghĩa là mọi dòng sông đều chảy về
hướng Đông theo quy luật của tự nhiên, duy chỉ có sông Đà là chảy về hướng Bắc. Dường
như chính con sông đang chống lại tạo hóa của mẹ thiên nhiên để đi theo chất riêng của mình.
Điều này vừa tôn lên vẻ hoang sơ, góc cạnh của nó, đồng thời lại cũng rất phù hợp với nét bút
và thái độ “ngông” của cây bút Nguyễn Tuân.

Trang 54
Mở đầu cho sự hùng vĩ, hung bạo, đó là Sông Đà với cảnh đá bờ sông. Nguyễn Tuân
miêu tả đá ở đây “dựng vách thành” rất kiên cố và vững chắc, vừa rộng lại vừa sâu, thẳng
đứng đến mức “chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”. Độ hẹp của con sông cũng được miêu tả rất
độc địa khi “có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ
tay ném hòn đá qua bên kia vách”. Độ hẹp ấy cảm tưởng như là rất nhỏ, giống như ai đang
ghì tay, siết chặt dòng nước không cho chảy nữa. Động từ “chẹt” được sử dụng tạo cảm giác
khó thở và dường như còn thấy chưa đủ, tác giả tiếp tục khắc họa thêm cho người đọc bằng
cách miêu tả “có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ bên kia”. Dù chưa một
lần ngắm nghía hình thù, chứng kiến sự dữ dội của dòng sông, tuy nhiên qua ngôn từ trên
trang giấy của Nguyễn Tuân, ta cũng thấy đây là một quãng vô cùng nguy hiểm cho thuyền
bè qua lại, một quãng hẹp đến mức độ khủng khiếp. Ngồi trên thuyền ở Sông Đà, “đang mùa
hè mà cũng thấy lạnh”. Cái lạnh ở đây vừa là lạnh do không có ánh nắng của mặt trời chiếu
rọi khiến quãng sông lạnh lẽo, u tối, cũng vừa lạnh gáy, sởn gai ốc. Khi đi thuyền vì nguy
hiểm chực chờ như đang trong miệng một con thú dữ, nó có thể vồ lấy thuyền mà nuốt chửng
ta bất cứ lúc nào. Nhà văn Nguyễn Quang Trung từng nhận xét về bài kí này của Nguyễn
Tuân là “Bài kí chật ních so sánh”. Và đúng thế, Nguyễn Tuân không chỉ so sánh nhiều mà
còn so sánh rất độc, rất hay. Ông mô tả cái lạnh “như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng
lên một khung cửa nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Con người đứng
trước thiên nhiên như một sinh thể nhỏ bé đang chờ mong thứ “ánh sáng” tươi đẹp của nó
mang lại. Nhưng thay vì làm vui lòng du khách, thiên nhiên phũ phàng “tắt phụt” đi hi vọng
nhỏ nhoi ấy khiến bỗng chốc con người thấy lạnh vì lạc lõng, bơ vơ, run sợ khi bóng tối bao
trùm. Phải chăng đây là thứ cảm giác mà Sông Đà muốn đem tới vài lời thách thức đầy ngạo
nghễ mỗi lần có vị khách nào muốn khám phá nó chăng?
Qua góc nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà còn độc địa, nguy hiểm hơn ở quãng mặt
ghềnh Hát Loóng. Ghềnh là nơi nằm ngay dưới chân thác, gồm có phần nổi và phần chìm,
phần nổi là những hòn đá sắc nhọn chồng chất lên nhau như một hàng rào phòng thủ đầy gai
góc và sát thương, phần chìm là nước với độ sâu nông vô cùng khó đoán. Đi thuyền quãng
này phải rất chắc tay nếu không nguy hiểm vô cùng. Bởi vậy mới có câu ca dao mà ông cha
ta truyền dạy:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh.”
Ghềnh làm tăng thêm sự hiểm trở cho dòng Đà giang, khiến nó hung bạo lại càng thêm hung
bạo. Ở quãng ghềnh ấy “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” cứ liên tiếp
quăng quật vào nhau. Phép điệp cấu trúc cùng với động từ mạnh “xô” tạo cảm giác xô đẩy,
chen chúc, ào ạt, dồn dập nhau đến hỗn loạn. Nguyễn Tuân dùng hệ thống câu văn ngắn,
thanh trắc và nhiều dấu phẩy liên tiếp khiến câu văn như bị ai bẻ gãy làm đôi, bạo liệt, cuồng
nộ, trắc trở như chính tính cách con sông Đà ngang bướng. Không chỉ có vậy, âm thanh “gùn
ghè” suốt năm cứ “cuồn cuộn” bên tai của gió cũng góp phần đánh đòn tâm lý đến những ai
đi thuyền qua đây. Nhà văn miêu tả dòng sông Đà hung hăng, hằm hặp như một chủ nợ khó
tính và vô lý khi “đòi nợ xuýt” cả những người mà chẳng hề mắc nợ nó. Chao ôi! Nó sẵn
sàng “tóm” lấy bất kỳ ai mà nó không “vừa ý”, một dòng sông bẩn tính đến khó hiểu! Có lẽ

Trang 55
ngàn đời này tính khí của nó vẫn vậy nên là người lái đò ai cũng phải biết mà cẩn thận tay lái,
vì nếu lơ là, khinh suất dù chỉ phút giây thôi “thì cũng đè lật ngửa bụng thuyền ra” chìm dưới
tay của con quái thú sông Đà. Quả thực, Sông Đà qua trang văn của Nguyễn Tuân nhất là
quãng ghềnh chứng tỏ nó là một đối thủ đáng gờm, khó tính, đôi khi người phải thật bản lĩnh
mới có thể đi qua.
Quãng Tà Mường Vát ở dưới Sơn La cũng là một nơi con sông Đà bộc lộ được vẻ
hung dữ, bạo liệt của nó. Ở đây xung quanh là những cái hút nước rất nguy hiểm. Cái hút
nước được miêu tả “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”.
Vừa sâu hun hút, vừa tối tăm như hố đen vũ trụ có thể nuốt tất cả mọi thứ nếu ngay gần nó.
Nguyễn Tuân rất độc đáo khi gợi tả âm thanh của cái hút nước bằng biện pháp nhân hóa,
‘Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” rồi thì “ặc ặc lên như rót dầu sôi vào”. Âm
thanh hoang dã, ghê rợn đến “đinh tai nhức óc” nghe là đã thấy được dòng sông ấy có nhiều
sự nguy hiểm như nào. Bởi vậy mà “không thuyền nào dám men gần những nơi hút nước ấy”
chỉ muốn “chèo nhanh lướt quãng sông”. Đứng trước mặt của con thủy quái Sông Đà, nếu
nhanh và may mắn thì thoát nạn, còn nếu thuyền bè nào “đi nghênh ngang vô ý” coi thường
nó thì nó sẵn sàng “lôi tuột”, “hút xuống”, khiến thuyền “trồng ngay cây chuối”, “vụt biến
đi”. Một loạt động từ mạnh được sử dụng cho thấy uy lực của một con sông “ngàn đời làm
mình làm mẩy với thiên nhiên và con người Tây Bắc” thật đáng e sợ. Tác giả dùng từ “tan
xác” để chỉ con người. Tuy nhiên sự đáng sợ không hề đơn giản đi mà ngược lại. Bởi nếu
thuyền còn “tan xác” thì số phận con người trên thuyền ấy sẽ ra sao?
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh từng nói về Nguyễn Tuân: “Khi thì trang
nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèn, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi
như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy nhưng bao giờ cũng rất đời tài
hoa”. Vâng! Nguyễn Tuân cực kì tài hoa và sắc sảo trong cách sử dụng ngôn ngữ. Như ý của
Tô Hoài thì ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người
thợ kim hoàn của chữ”. Ông đã dùng hết bút lực của mình gợi tả con sông Đà bằng những từ
ngữ độc lạ, dường như chưa từng bắt gặp trong trang văn khác như “gùn ghè”, “đòi nợ xuýt”.
Song song với đó, từ ngữ còn được chọn lọc tỉ mẩn để gọi sự vật vừa lạ mà còn đúng tên,
đúng tính chất của nó. Thoạt tiên là “hút nước” tác giả gọi là “cái giếng sâu”, những chiếc
thuyền bị con sông đánh úp thì trông như “trồng ngay cây chuối ngược”. Sự uyên bác và tài
tình như đạt đến đỉnh điểm. Trong đoạn trích miêu tả sự hung bạo, dữ dội của Đà giang,
Nguyễn Tuân còn sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa cùng rất nhiều so sánh, liên tưởng
khác nhau để đem đến một góc nhìn ấn tượng cho người đọc. Từ chiều rộng, chiều sâu, độ
hẹp đến cảm giác lạnh gáy, run sợ qua ngòi bút tài hoa của ông đều hiện rõ đến chân thực.
Không chỉ có thế, cách thành lập câu từ cũng rất đắt giá, câu văn thường ngắn, nhiều dấu
phẩy tạo nhịp điệu như dồn dập, liên tục như đang đưa người đọc lên con thuyền phiêu du lên
chính con sông đọc dữ, nham hiểm của rừng núi Tây Bắc. Liệu rằng con sông Đà cuốn hút
người đọc là do chính bản chất tính của nó hay là do cái tài của người viết lên nó đây?
Nhà thơ Chế Lan Viên từng tâm niệm: “Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng
mà đời rơi vãi, hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang”. Hiện thực cuộc sống luôn là
mảnh đất màu mỡ cho văn học đâm rễ nảy chồi, chính những chuyến đi thực tế lên vùng cao

Trang 56
Tây Bắc cùng chất tài hoa nghệ sĩ mà Nguyễn Tuân đã mang đến một áng văn thật đẹp, thật
hay cho đời. Đây chắc chắn là “chất vàng mười” của đất nước quê hương mà nhà văn luôn
tìm kiếm. Với những giá trị mang theo bên mình, tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” nói
chung và đoạn trích Sông Đà hung bạo nói riêng xứng đáng là một bản trường ca bất hủ, sống
mãi với non sông gấm vóc Việt Nam yêu quý!

Đề 2:Cho đoạn trích sau:


“Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền
bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng
tây nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố
in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã
Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho
dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống
như sông Seine của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng
thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc
hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa
đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền
xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn
mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy,
cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông
Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi
đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy
trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch
ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc
hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện
Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa
Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi,
tôi muốn hoá làm một con chim như đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển.
Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một
điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một
người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế
vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi
ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho huế, có thể cảm nhận được
bằng thị giác trăm qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng
Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên
mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”
(Trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ Văn 12,
Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam)

Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích, từ đó nhận xét cái tôi trữ tình của
Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Trang 57
Chẳng biết từ bao giờ, những dòng sông đã trở thành sợi thương sợi nhớ, nhân lên
hành tình yêu trong mỗi trái tim người nghệ sĩ. Để rồi tình yêu ấy gợi tình, gợi nhạc cho
những câu hát; là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng những vần thơ; là làn gió ấm thổi vào từng
áng văn. Và người con của xứ Quảng - Hoàng Phủ Ngọc Tường, một nhà văn được mệnh
danh là “người đi cùng những dòng sông kỷ niệm” cũng bị đắm sau bởi vẻ đẹp của dòng
Hương Giang mà không kìm lòng viết nên tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Với sở
trường về bút ký, nhà văn đã mang tới vẻ đẹp của dòng sông Hương khi chảy trong lòng Huế
một cách rõ nét và ấn tượng qua đoạn trích “Từ đây, như đã… của một nỗi lòng”. Từ đó, ta
cảm nhận được cái tôi trữ tình của tác giả thêm sâu sắc hơn.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên viết về bút ký, nét đặc sắc trong bút
kí của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc
bén và tư duy đa chiều với một vốn kiến thức tổng hợp từ nhiều lĩnh vực, nhất là lịch sử, địa
lý, văn hóa Huế. Tất cả đều được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và
tài hoa. Chính vì thế mà Nguyên Ngọc đã không ngần ngại mà nhận xét ông là “một trong
mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học nước ta hiện nay”. Ông được mệnh danh là “nhà
văn của xứ Huế mộng mơ” và tuổi thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn gắn liền với thành
phố huế và dòng Hương Giang lung linh, huyền ảo. Chính nó là nguồn cảm hứng bât staanj,
là mảnh đất màu mỡ cho ngòi bút của ông thỏa sức tung hoành mà viết nên tùy bút “Ai đã đặt
tên cho dòng sông”. Tác phẩm được viết vào năm 1981 ở Huế và in trong tập cùng tên. Đây
được coi là một trong những thiên tùy bút xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và
của thể loại bút ký, tùy bút trong nền văn học nước ta nói chung. Xuyên suốt tác phẩm, vẻ
đẹp đắm say lòng người của sông Hương hiện lên rất rõ nét và chân thực, đặc biệt là vẻ đẹp
của dòng chảy khi trong thành phố.
Qua ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không phải là một dòng
chảy vô tri, vô giác mà nó có cảm xúc, tình cảm với người tình của mình giống như bao
người. Tâm trạng háo hức và vẻ đẹp tình tứ duyên dáng của sông Hương khi được gặp gỡ
Huế được nhà văn miêu tả chân thực. Thành phố Huế hiện lên là nơi mà sông Hương mong
ngóng được trở về, là người tình mong đợi mà nàng đắm say và muốn ở bên mãi mãi. Vì vậy
khi biết mình đã tìm đúng đường về, nàng ta “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc
của những vùng ngoại ô Kim Long”. Phải trải qua một cuộc hành trình gian truân, đầy thử
thách ở thượng nguồn, từ một cô gái Digan phóng khoáng và man dại rồi đến một người mẹ
của vùng văn hóa xứ sở, cuối cùng, sông Hương mới có thể gặp được Huế. vậy làm sai mà
không vui, không háo hức cho được chứ? Từ “về” được tác giả khéo léo sử dụng như muốn
ngầm khẳng định Huế là bến đỗ thân thương, là nơi duy nhất mà sông Hương thuộc về. Qua
đó, ta càng thêm cảm nhận sâu xa hơn về sự thủy chung của nàng ta với người tình của mình.
Sau khi đã “kéo một nét thẳng thwucj yên tâm theo hướng Tây Nam - Đông Bắc”, nagf ta
dường như vui sướng hân hoan khi nhận ra dầu hiệu của thành phố Huế “chiếc cầu trắng của
thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non” ngay trước mắt. Vậy là
sông Hương và Huế đã gặp nhau sau bao vất vả, gian lao. Hoàng Phủ Ngọc Tường không coi
đây là sự sắp đặt ngẫu nhiên của thiên nhiên tạo hóa mà theo ông, đây chính là sự chủ động

Trang 58
của thiếu nữ Hương giang tìm về với thành phố. Tới đây, ta lại nhớ tới hình ảnh sông qua hai
câu thơ của Xuân Quỳnh, biểu trưng cho hình ảnh người phụ nữ chủ động đi tìm kiếm tình
yêu của mình:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Khi giáp mặt tới thành phố, người thiếu nữ ấy dịu dàng hẳn đi; mang đúng tâm
trạng, hành động của người con gái khi yêu. Nàng ta “uốn một cách cung rất nhẹ” làm dòng
chảy mềm mại hẳn đi. Nét duyên dáng, e ngại hiện ra trước mắt Huế - người tình mong đợi
mà nàng muốn gặp bấy lâu nay. Tác giả đã so sánh đường cong mềm mại ấy như một tiếng
“vâng” không nói ra của tình yêu. “Tiếng vâng” này thật sự rất độc đáo và ấn tượng. Đó là sự
e ngại, thẹn thùng của sông Hương hay chính là một lời đồng ý mang bao sự tin tưởng với
tình cảm giữa mình và Huế. Dường như họ quá hiểu lòng nhau nên chỉ cần một tiếng “vâng”
như cái gật đầu cũng đủ biết rằng đối phương mong muốn gì. Đến đây, nhà văn đã tự hào và
đặt dòng sông ngang hàng với những con sông khác. “và như vậy, giống như sông Seine của
Pari, sông Đa Nuýp của Bu - đa - pét”, sông Hương nằm giữa ngay thành phố yêu quý của
mình. Với sự góp mình của dòng Hương Giang, “Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng
một đô thị cổ”, một vẻ đẹp “mô tê xưa cũ” mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn
thấy. “Nước sông Hương tỏa khắp phố thị”, bao trùm nguyên vẹn thành phố, sông Hương như
đang tận dụng hết cơ hội để chảy trôi trong mọi ngóc ngách của Huế để khám phá sâu hơn
nữa người tình của mình. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, “sông Hương khi qua thành ohoso
đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ dư còn là mặt hồ yên tĩnh.” Nêu snhuw ở thượng nguồn,
nàng ta chảy trôi với sự gấp gáp, đổ dồn thì khi về với thành phố, lưu tốc dòng sông đã thay
đổi chậm đi. Không phải ngẫu nhiên mà người con gái duyên dáng ấy lại thay đổi nhanh
chóng như vậy. Tất cả cũng chỉ vì nàng ta muốn ở bên thành phố Huế lâu hơn một chút nữa.
Huế luôn là nơi nàng mong đợi ngày trở về, được thân thiết và gần gũi hơn nữa. Vì vậy mà
sông Hương không nỡ chia xa, chỉ mong giây phút này ngưng đọng lại để niềm hạnh phúc
này còn mãi.
Bên cạnh tâm trạng và vẻ đẹp của dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn mở ra
cho người đọc góc nhìn riêng của ông về dòng chảy đặc biệt này. Đối với nhà văn, sông
Nê-va mang một vẻ đẹp lộng lẫy, tráng lệ, “nhấp nháy trăm màu dưới sáng sáng mặt trời của
mùa xuân”. Chính chuyến đi này đã đánh thức trong tâm hồn ông :giấc mơ lộng lẫy của tuổi
dại”. Ai cũng có trong mình một giấc mơ ấp ủ thời thuở bé, đó có thể là những mong ước hồn
nhiên, ngây thơ mà khi lớn lên, con người ta thường sẽ quên mất. Và Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã thức tỉnh giấc mơ thuở bé của mình “tôi muốn hóa thành một con chim nhỏ đứng
co chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển”. Có lẽ ngay từ bé, nhà văn xứ Quảng đã ấp ủ giấc
mơ khám phá, phiêu lưu, dành một tình yêu nồng nàn cho thiên nhiên là thế! Sông Neeva đẹp
là thế nhưng lại vô tình quá, khiến nhân vật trữ tình cũng hụt hẫng “nhưng sông Nêva chảy
nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì đó với người bạn của chúng đang ngẩn
ngơ trông theo”. Có lẽ hầu hết các dòng sông trên thế giới dẫu đẹp, dẫu lộng lẫy đến đâu thì
cũng không dành riêng cho một nơi nào cả. Cúng thường hối hả, trôi đi rất nhanh mà chẳng
chờ đợi ơi. Chính vì thế mà Hoàng Phủ Ngọc Tường lại nhớ về dòng Hương Giang và dành

Trang 59
tình cảm cho nàng nhiều hơn thế nữa. Có thể sông Hương không lộng lẫy, tráng lệ như những
dòng sông khác nhưng ông vẫn “chợt quý điệu chảy lặng lờ của nó”. Điều mà ông quý nhất
vẫn là sự lặng lẽ, thủy chung không thể trộn lẫn của dòng sông Hương. Dường như dòng
chảy của sông Hương khi đi qua Huế cũng chính là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”,
luôn nhẹ nhàng, tinh tế và đầy sâu lắng. Dòng chảy qua Huế dưới ngòi bút của nhà văn “ngập
ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi
lòng”. Cái ngập ngừng ở đây có phải chính là tâm trạng tiếc nuối, không nỡ chia xa người
tình mong đợi của mình mà cố “chao nhẹ trên mặt nước” để níu kéo sự chảy trôi của thời
gian? Qua nỗi lòng của sông Hương đối với người tình của mình, ta cũng nhìn được đó là
tình cảm của tác giả với Huế sâu nặng như thế nào.
Qua đoạn trích, ta có thể cảm nhận được cái tôi trữ tình của tác giả nằm ở ba phương
diện: mê đắm, tài hoa, uyên bác. Phải là người có cảm xúc sâu nặng với Huế và dòng Hương
Giang, ông mới có thể viết nên những trang kí giàu tình cảm thân thương như thế! Để miêu tả
dòng sông Hương, vị tác giả tài ba đã vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau từ địa
lý, lịch sử, văn hóa… Ông hiểu được một cách tường tận dòng chảy nên mới ví đó như là một
người thiếu nữ e ấp, dịu dàng và không nỡ rời xa người tình mong đợi. Bên cạnh đó, để chạm
được tới cảm xúc bạn đọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng linh hoạt các thủ pháp nghệ
thuật so sánh, nhân hóa để biến dòng sông có tâm tư , cảm xúc giống con người, từ đó giúp
độc giả tiếp cận với con sông dễ dàng hơn. Với những ngôn từ bình dị, mộc mạc, giọng văn
nhẹ nhàng, từ tốn, sông Hương chảy trong lòng thành phố quả là một kiệt tác và nghệ thuật.
Với tài năng xuất sắc về bút kí của mình, vẻ đẹp của dòng sông Hương như chiếu
sáng toàn bộ tác phẩm, xứng đáng được góp tên mình vào kho tàng “những dòng sông để
thương để nhớ”. Qua đó, người đọc như được cảm nhận tình yêu da diết của tác giả đối với
quê hương, đất nước. Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” sẽ sống mãi trong lòng người
đọc và luôn là sư vị khó phai trong kho tàng văn học Việt Nam.

Trang 60
Trang 61

You might also like