You are on page 1of 59

TỔNG HỢP MỞ BÀI – KẾT BÀI

I . TÁC PHẨM “ TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ’’

Mở bài
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng viết : “ Ôi Đất Nước sau bốn nghìn
năm đi đâu ta cũng thấy ” . Đất nước hai từ gần gũi mà thiêng liêng ấy thật tự hào khi dân
tộc ta với 4000 năm dựng nước và giữ nước đã viết nên những trang sử vẻ vang với chiến
công thắng lợi . Cách mạng tháng tám là một thành công chói lọi đưa dân tộc ta từ nô lệ lên
làm chủ đất nước . Cứ mỗi độ tháng Tám chúng ta lại được sống trong không khí của cách
mạng của ngày mùng 2 – 9 . Và không khỏi bồi hồi xúc động khi nhớ lại giọng đọc ấm áp
của chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ công hoà với bản “ Tuyên
ngôn độc lập ” sống mãi cùng tháng năm .
Kết bài
“ Nước Việt Nam là một,dân tộc Việt Nam là một,sông có thể cạn,núi có thể
mòn,song chân lí ấy không bao giờ có thể thay đổi được” ( Hồ Chí Minh). Quả thật bằng
ngòi bút đúc chiết những lí lẽ vô cùng sắc bén , đanh thép cùng với hệ thống luận điểm chặt
chẽ kết hợp với ngôn ngữ trong sáng giản dị mà hùng hồn, bản tuyên ngôn trở thành một áng
văn chính luận xuất sắc ,là một lời tuyên bố trịnh trọng về đạo lí và pháp lí của nhân
loại.Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng sánh ngang với các bản tuyên ngôn trên thế giới và các
thiên cổ hùng văn của các dân tộc khác như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô
đại cáo của Nguyễn Trãi.

II . TÁC PHẨM “ TÂY TIẾN ”


Mở bài 1 :
Cõi đời là cõi hữu hạn, nhưng nghệt thuật thì lại bất tử với thời gian. Nhà
soạn nhạc thiên tài Beethoven cũng đã từng để lại cho đời bản Sonat Ánh trắng- bản giao
hưởng định mệnh . Hay nhà văn Hàn Mạc Tử trước khi từ giã cõi đời đã để lại kiệt tác “Đây
thôn Vĩ Dạ”. Dòng sông của năm tháng vẫn cứ mãi trôi cuốn đi hết tất cả làm phai mờ đi
những vẻ đẹp của tạo hóa. Thế nhưng giữa dòng sông nghiệt ngã ấy vẫn đọng lại trong lòng
người đọc một bài thơ chẳng thể nào quên, một khúc hùng ca về người linh trong thời kì
khánh chiến của ngòi bút tài hoa Quang Dũng. Tây Tiến xuất hiện như một bông hoa đầu
mùa tỏa ngát cả một thời kì văn chương.
Mở bài 2 :
Dân tộc ta gắn với lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước. Một dân tộc đôi
khi cầm giáo, cầm gươm bảo vệ còn nhiều hơn cầm cuốc cày lao động chúng ta mới thấm
thía về giá trị của sự bình yên và cũng hiểu hơn về những con người “ra đi vì nghĩa lớn”.
Hình ảnh họ: từ những chinh phu tráng sĩ thời xưa đến những người lính nông dân, anh cán
bộ chiến khu,... đã trở thành cảm hứng cho những áng thơ, trang văn và thiên truyện ra đời.
Đặc biệt, ở mỗi thời kì, mỗi trang viết ta lại được cảm nhận những vẻ đẹp khác nhau, những
dáng hình khác nhau. Những “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”, đứng nhìn mảnh đất quê hương,
người thương yêu chịu đau thương, nhưng người nông dân đã đứng lên để chiến đấu vì hạnh
phúc của chính mình và dân tộc. Và nhà thơ Quang Dũng đã làm ngời sáng vẻ đẹp của những
người anh hùng ấy quá bài thơ “ Tây Tiến ” – một kiệt tác khi viết về người lính.
Kết bài :
Sự đời thương hải tang điền , rồi một ngày kia dòng sông năm tháng sẽ cuốn
trôi đi tất cả những thành quách ,lâu đài , những kì quan của tạo hóa . Nhưng những gì là giá
trị đích thực thì vẫn còn mãi với tháng năm . Cũng như mọi cuộc chiến tranh đã đi qua bụi
thời gian có thể phủ dày lên tất cả nhưng hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng,
hào hoa bi tráng đã trở thành bức tượng đài bất hủ . Tây Tiến đã kết thức những âm hưởng
của bài thơ vốn vang vọng núi non. Tây Tiến quả thực là một bài thơ kỳ diệu nó làm sống
động một hào khí chiến đấu, làm địa danh Tây Tiến sống mãi và biến đoàn quân thành bất tử.

III . TÁC PHẨM “ VIỆT BẮC ”


Mở bài :
Nhà văn Macxen Prut cho rằng: Thế Giới được tạo lập không phải chỉ một lần mà
mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Mỗi người
nghệ sĩ đều có nét đẹp riêng, phong cách riêng, phong cách độc đáo không ai giống ai. Và
người nghệ sĩ xuất hiện để mang đến một thế giới riêng dưới ánh mắt cách nhìn riêng. Cũng
trong thời kì khánh chiến chống Pháp nhưng nhà thơ Tố Hữu đã tạo nên một thế giới mới cho
mình với kiệt tác “Việt Bắc”. Bài thơ đã tô đậm tình cảm của tác giả với chiến khu Việt Bắc,
đồng thời làm nổi bật phong cách tài năng của nhà thơ.
Kết bài :
Việt Bắc với giọng thơ lục bát nhẹ nhàng, sâu lắng, mang âm điệu trữ tình dã thể
hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước của nhà thơ Tố Hữu. Bài
thơ như một bài hát tâm tình của một mối tình thắm thiết đầy lưu luyến của người cách mạng
và đồng bào Việt Bắc. Nỗi nhớ về chiến khu của Tố Hữu đã đi vào lòng người đọc để lại bao
say đắm về một mảnh đất gắn bó biết bao con người . Và như một lần Tố Hữu đã từng tâm
sự: “mình phải lòng đất nước mình, và nhân dân của mình. Và đã nói về đất nước về nhân
dân như nói về người yêu”.

IV . TÁC PHẨM “ ĐẤT NƯỚC ”


Mở bài :
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã từng có bài thơ về đất nước ta :
“ Có phải mẹ Âu Cơ đã đi vòng Trái Đất
Để chọn chỗ khai sinh ra con Lạc cháu Hồng
Mẹ đã chọn dải đất hình tia chớp
Chọn vùng tâm bão để sinh con ”

Đất nước ta cong cong hình chữ S- một miền đất nhỏ với trang sử bốn nghìn năm.
Thật hạnh phúc biết bao khi dòng máu chảy trong tim là dòng máu của mẹ Tiên cha Rồng.
Đất nước ấy đã trải qua bao sóng gió thăng trầm vẫn hiên ngang đã trở thành nguồn cảm
hứng bất tận cho các nhà thơ. Một trang số đó ta không thể nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm với
đoạn trích “Đất nước”. Đoạn trích đã thể hiện tình yêu, tư tưởng mới mẻ nhất của tác giả về
đất nước.
Kết bài :
Bằng việc vận dụng tâm tình chất liệu ca dao dân ca, chương thơ “Đất nước”
vang lên như một nốt nhạc đặc biệt. Đoạn trích đã thể hiện sâu sắc tình yêu quê hương, đất
nước. Hơn hết với giọng điệu trầm bổng, nhẹ nhàng sâu lắng mà thiết tha như lời tâm tình
của tác giả đã mang đến cho người đọc tư tưởng mới về đất nước. Đất nước trong thơ
Nguyễn Khoa Điềm không kì vĩ siêu sao mà rất bình dị gần gũi quen thuộc với tư tưởng đất
nước là nhân dân. Và nhà thơ Thanh Thảo trong bài thơ bài thơ “Những người đã tới biển”
cũng từng viết:
“ Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời. ”

V . TÁC PHẨM “ SÓNG ”


Mở bài :
Đại thi hào văn học Macket đã từng nói rất hay về tình yêu: “Con bướm phải
mất 180 năm mới cất cánh bay được. Con người phải mất bằng ấy năm mới biết khóc, biết
cười và biết chết cho tình yêu”. Tình yêu là một cảm xúc đặc biệt nó mang đến những cảm
xúc vui buồn, giận hờn. Và giữa phiên chợ nhộn nhịp của văn chương tình yêu xuất hiện như
một nốt nhạc diệu kỳ mang đến một làn sóng mới cho người nghệ sĩ. Cũng viết về tình yêu
nhưng mỗi người nghệ sĩ lại chọn cho mình những cách nhìn riêng. Nếu Hugo từng quan
niệm “cuộc đời là đóa hoa, tình yêu là mật ngọt” thì đến với nữ sĩ Xuân Quỳnh ta bắt gặp
tình yêu nóng sôi bỏng cháy, dịu dàng chân thành qua bài thơ “Sóng”.
Kết bài :
Bài thơ “Sóng” được viết vào giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ đang
diễn ra cam go và gay gắt. Khi các nhà thơ đang say mê viết về kháng chiến thì nữ sĩ Xuân
Quỳnh lại chọn chủ đề tình yêu. “Sóng” vang lên một nốt nhạc lạc nhịp nhưng không lạc
điệu. Bài thơ đẫ thể hiện tình yêu chân thành vừa nóng bỏng vừa nhẹ nhàng và khát khao tìm
đến với tình yêu đích thực của mình. Đúng như nhà phê bình Võ Văn Trực từng khẳng định:
“Điều đáng quý ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật, thành thật trong tất cả
các mối quan hệ bạn bè, xã hội và tình yêu. . Chị không quanh co không giấu diếm một điều
gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một suy nghĩ của chị. Chỉ cần
qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị. Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh ”

VI . TÁC PHẨM “ ĐÀN GHITA CỦA LORCA ”


Mở bài :
Người nghệ sĩ vốn đa sầu, đa cảm và dễ đồng bệnh tương lân. Nhà thơ, nhà văn
luôn kiếm tìm những tâm hồn đồng điệu, thấu cảm bới “xưa nay nỗi khổ của người ta không
gì bằng chữ tình mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ (Cao bá Quát). Nhưng tiếng nói
tri âm, đặc biệt trong văn chương là sự đồng cảm của nhà văn với người nghệ sĩ. Xưa Bằng
Việt từng viết về Pautopxki, Ximonop sung sướng khi tìm được được tri âmTố Hữu hay
Thanh Thảo đã viết về Lorca bằng những vần thơ với nỗi đau “bốc cháy như mặt trời” tạo
nên tuyệt phẩm “Đàn ghita của Lorca”.
Kết bài :
Mỗi tác phẩm hay đều chông chênh giữa ranh giới của cái khả giải và bất khả giải.
“Đàn ghi ta của Lorca” ( Thanh Thảo) cũng là một bài thơ như thế. Vì vậy, những kiến giải
của bài viết này chỉ là một trong những nỗ lực tìm tòi trong hành trình khám phá vẻ đẹp độc
đáo của bài thơ.Những “khoảng trống” của thi phẩm vẫn lấp lánh, vẫy gọi mọi thế hệ độc giả
hôm nay và mai sau như sức sống từ hành trình không mệt mỏi của chàng nghệ sĩ du ca
Lorca trên khắp đất nước Tây Ban Nha vậy.

VII . TÁC PHẨM “ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ ”


Mở bài :
Ta say đắm trước áng mây của sớm mai bình minh hơn áng mây bùn khi chiều
tàn, khất lối. Ta rung động trước đóa hoa đẹp lung linh dưới ánh mặt trời hơn cánh hoa úa
tàn. Cuộc đời con người là hành trình đi tìm cái đẹp và luôn vì cái đẹp mà tồn tại. Văn
chương cũng không ngoại lệ. Có lẽ vậy Nguyễn Tuân- người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp
đã đưa vẻ đẹp của thiên nhiên vùng Tây Bắc hơn hết là những con người lao động bình dị ,
nhỏ bé nhưng không tầm thường vào trang viết của mình . Vẻ đẹp ấy được ông kết tinh lại
tạo nên tùy bút “ Người lái đò sông Đà ”
Kết bài
Với tùy bút Người lái đò Sông Đà ngòi bút của Nguyễn Tuân như được nở hoa trong
sự hòa phối diệu kỳ của cái đẹp của ngôn từ và ánh sáng tuyệt mỹ của hình ảnh . Một Sông
Đà một Nguyễn Tuân một thiên nhiên dữ dội một người nghệ sĩ tài hoa khẳng định đúng
được phong cách cũng như điều mà tác giả vốn thường hay quan niệm : “ đã viết văn thì phải
viết cho hay cho đúng cái tạng của mình . Văn chương cần sự độc đáo hơn bất kỳ một lĩnh
vực nào khác ” . Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi
mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa…

VIII . TÁC PHẨM “ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG”


Mở bài

“ Đã bao lần đến Huế mộng mơ

Tôi ôm ấp tình yêu dịu ngọt ”

Những giai điệu quen thuộc vượt thời gian vượt không gian đưa ta về xứ Huế mộng
mơ . Đến với Huế người du khách như bắt gặp được người tình lâu năm được chìm đắm
trong vẻ đẹp cổ xưa của mảnh đất này . Đặc biệt hơn ở xứ sở này dòng Hương Giang mềm
mại như một chuỗi dài văn hoá lịch sử lắng đọng trong kiếp phù vân mà nuôi lớn bao tâm
hồn người nghệ sĩ . Với Hoàng Phủ Ngọc Tường người đã gắn bó 30 năm với quê hương này
đã nặng tình với sông Hương vì thế ông đã sáng tác nên kiệt tác “ Ai đã đặt tên cho dòng
sông ” để ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đồng thời thể hiện tình yêu của mình với sông
Hương .
Kết bài :
Ai đã đặt tên cho dòng sông đã mang đến những khám phá mới về sông
Hương .Cả bài kí dường như là cuộc hành trình đang đi tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” .Và cuộc đi tìm kiếm, lý giải về cái tên của dòng sông đã trở
thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà
còn là độ sâu lắng của tâm hồn và cảm xúc rung động. Con sông nơi xứ Huế hiện lên trong
cuộc tìm kiếm của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý mà nó
còn là một sinh thể, một con người “sônNawmzương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh
đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền
văn hoá riêng của nó. Một kí giả nặng lòng với sông Hương từng tâm sự :
“ Dòng sông ai đã đặt tên
Để người đi nhớ Huế không quên
Xa con sông mang bao nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ ”
IX . TÁC PHẨM “ VỢ CHỒNG A PHỦ ”
Mở bài :
Sinh thời nhà văn Nam Cao từng quan niệm : “ Một tác phẩm có giá trị phải vượt
lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn . Nó ca tụng lòng thương tình bác ái sự công bằng , nó làm
cho người gần người hơn ” . Quả thật đọc một tác phẩm văn chương đích thực người đọc
không chỉ được sống với nhiều cuộc đời mà còn được nuôi dưỡng bồi dưỡng thêm về tâm
hồn nhân cách để vươn lên một lẽ sống cao đẹp . Và truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ ” của Tô
Hoài là một tác phẩm như thế . Ở đó nhà văn không chỉ phơi bày hiện thực xã hội dưới ách
thống trị của bọn phong kiến chúa đất mà còn phát hiện được vẻ đẹp sức sống tiềm tàng của
khát khao tự do của con người vùng dẻo cao Tây Bắc .
Kết bài
Trang sách khép lại nhưng trong tâm trí người đọc vẫn còn xao xuyến với hình ảnh
cô Mị . Và như Tô Hoài từng tâm sự : Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám
tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi quá nhiều . Tôi
không thể quên lúc vợ chồng A Phủ đã tiễn tôi đến cái hốc núi Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi
theo “ chào hì ! Chào hì ” ( trở lại ! Trở lại ) . Có lẽ đây chính là lí do mà Vợ chồng A Phủ
trở thành kiệt tác của Tô Hoài , tác phẩm giống như lời tri ân dành cho mảnh đất và con
người nơi đây đồng thời là tiếng nói bênh vực cho cuộc đời con người ngợi ca những phẩm
chất lấp lánh giữa hiện thực bất công.

X . TÁC PHẨM “ VỢ NHẶT ”


Mở bài :
Cuộc sống trôi đi, bốn mùa luôn luân chuyển, sự vật cứ bị cuốn vào vòng xoay
của tạo hóa. Sinh ra, tồn tại, rồi lại tan biến vào hư vô. Có chăng còn lại mãi với đời chỉ là cái
đẹp, phải thế chăng mà vượt qua bao sự băng hoại của thời gian, những tác phẩm văn học
vẫn cháy lên một sức sống mãnh liệt với đời như thế để minh chứng một sự thiên vị rất có lí
của tạo hóa? Nhưng văn học lại có những quy luật đào thải riêng của nó, chẳng phải tác
phẩm nào sinh ra cũng còn mãi với đời. Sự sống của chúng bắt đầu từ bao giờ? Phải chăng sự
tồn tại của nó được quyết định ngay từ phút kết thúc. Và quả thật trên cái phông nền chết
chóc của truyền ngắn “ Vợ nhặt ” nhà văn Kim Lân đã gieo mầm sự sống khi phát hiện ra
khát vọng sống khát vọng hạnh phúc và ánh sáng của tình thương của con người .

Kết bài :
Truyện ngắn “ Vợ nhặt ” mở ra bằng cảnh chiều chạng vạng và kết thúc trong buổi
sáng mùa hè với ánh nắng chói lóa, rực rỡ , truyện bắt đầu bằng luồng tử khí và kết thúc bằng
luồng sinh khí . Có lẽ đó là chiều sâu của giá trị nhân đạo sâu sắc mà Kim Lân thể hiện qua
tác phẩm . Và phải chăng nhà văn đã phát hiện ra “ hạt ngọc ẩn giấu trong lòng con người ”
ấy chính là tình yêu thương, là sức sống mãnh liệt của các nhân vật bị đẩy tới đường cùng
tuyệt lộ buộc phải đối mặt với cái chết nhưng lại biết cách tỏa sáng để nâng tầm giá trị của
con người.

XI . TÁC PHẨM “ RỪNG XÀ NU ”


Mở bài :
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Những tác phẩm nghệ thuật đạt
đến chuẩn mực của cái hay, cái đẹp sẽ và mãi “vượt qua mọi sự băng hoại của thời gian và
chỉ mình nó không chấp nhận cái chết”. Bởi vậy người nghệ sĩ phải không ngừng thay đổi
sáng tạo vận động theo thời đại . Cùng chung xu hướng viết về những người anh hùng trong
thời kì kháng chiến chống Mỹ , Nguyễn Trung Thành đã chọn mảnh đất Tây Nguyên để trải
lòng chính mình . Đến với mảnh đất này đã thổi hồn vào trang viết của tác giả để cảm xúc
được thăng hoa mà viết nên truyện ngắn “ Rừng xà nu ” . Truyện ngắn là bức tranh thiên
nhiên hùng vĩ về mảnh đất Tây Nguyên, là bản hùng ca mạnh mẽ, tự hào về tinh thần, ý chí
của con người Tây Nguyên trong kháng chiến .

[ Kết bài ]

Chiến tranh đã đi qua bụi thời gian có thể phủ mờ lên hệ tất cả nhưng những kỉ
niệm về chiến tranh những hình tượng anh hùng vẫn bất tử với thời gian. Và Nguyễn Trung
Thành đã xây dựng nên những hình tượng bất tử như thế qua truyện ngắn “ Rừng xà nu ” .
Một cây xà nu độc đáo về sức sống mãnh liệt, bất diệt, tinh thần bất khuất, trỗi dậy khí thế
hào hùng của dân làng Xô Man trong giai đoạn đấu tranh , một Tnú kiên cường hiên ngang
một cây Xà nu bất khuất . Thiên truyện “Rừng xà nu” đã để lại ấn tượng mạnh mẽ nơi người
đọc, khiến ta vẫn còn nhớ mãi, thương mãi và tự hào mãi về những năm tháng gian lao mà
huy hoàng của dân tộc.
“Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!”

XII . TÁC PHẨM “ CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA ”

Mở bài :
Nhà phê bình văn học Hoàng Phong Tuấn đã từng cho rằng : “ Truyện ngắn chỉ là
một khoảnh khắc nhưng là một khoảnh khắc gợi mở đến vô cùng là giọt sương phản chiếu cả
bầu trời , là giọt nước mắt mang cả cõi lòng con người ” . Quả thật một truyện ngắn xuất sắc
là truyện ngắn có khả năng gợi lên quá khứ , hiện tại và mở ra tương lai . Qua một lát cắt thời
gian truyện ngắn dẫn con người khám phá những vẻ đẹp ẩn sâu dưới đáy xã hội, những vẻ
đẹp chưa từng ai khơi gợi qua một khoảnh khắc nhỏ bé . Và truyện ngắn “ Chiếc thuyền
ngoài xa ” của Nguyễn Minh Châu là một truyện ngắn như thế . Tác phẩm đã bắt trọn cái
khoảnh khắc đẹp như trời cho để thể hiện mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời để khẳng
định vẻ đẹp của con người .
[ Kết bài ]

Nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng từng nhận định : “ văn chương và cuộc đời là
những vòng tròn đồng tâm, mà tâm điểm của vòng tròn chính là cuộc sống con người”. Bởi
lẽ vậy văn của Nguyễn Minh Châu thường được dựng xây trên những nghịch lí để mà từ đó
khiến người đọc tự vỡ lẽ ra những thông điệp, giá trị mà nhà văn muốn gửi gắm. Và “Chiếc
thuyền ngoài xa” đã thể hiện triệt hơn dụng ý của những nghịch lí mà nhà văn đưa vào, có
thể ta sẽ bất bình tự hỏi là tại sao người đàn bà hàng chài kia lại không quay đi, bỏ mặt tất cả,
sao cứ phải cam chịu cảnh đòn roi từ người chồng vũ phu. Để rồi qua thiên truyện ta mới vỡ
lẽ rằng: hôn nhân không phải được dựng xây bằng hầu hết là tình yêu, mà hôn nhân còn đòi
hỏi trách nhiệm của những người yêu nhau hơn hết đó là sự nhận thức về mối quan hệ nghệ
thuật và cuộc đời : Nghệ thuật vị nhân sinh phải là cái đẹp cái thực của cuộc đời .

XIII . TÁC PHẨM “ NHỮNG ĐỨA CON GIA ĐÌNH ”

[ Mở bài ]

Có ý kiến cho rằng: “Nguyễn Thi là nhà văn của những người nông dân Nam Bộ”
trong thời kì ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ.” Nguyễn Thi sinh ra ở Hải Hậu (Nam
Định), nhưng có mối duyên ràng buộc với vùng đất Nam Bộ và trở thành cây bút nói lên
tiếng nói tâm tình của miền nắng gió . Mảnh đất, con người Nam Bộ là không gian nghệ
thuật đặc biệt trong những sáng tác của Nguyễn Thi, qua những trang văn của ông đã thể
hiện lòng cảm phục trước những con người bình thường nhưng mang tầm vóc ý chí phi
thường. Điều đó được thể hiện sâu sắc quá đoạn trích “ Những đứa con trong gia đình ”

[ Kết bài ]

“ Những đứa con trong gia đình” mãi là bông hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày
tháng đã ghi lại quá khứ hào hùng, sôi động của đất nước mình một thuở . Nguyễn Thi đã
dựng nên một gia đình có truyền thống yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc, mối thù nợ nước
nợ nhà . Giờ lật lại, chúng ta không khỏi tự hào, xúc động về những năm tháng đất nước
nước mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời của người con đất Việt. Và ta mãi cất lên những
bài ca không quên – bài ca viết về quê hương, viết về con người bằng niềm tự hào sâu sắc .

XIV . TÁC PHẨM “ HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT ”


Mở bài :
Tác giả Chu Lai nhận định “Kịch của Lưu Quang Vũ lúc ấy như đội quân tiên
phong của văn học nghệ thuật, dám xông vào những vấn đề xã hội nóng bỏng, tiêu biểu. Dự
cảm một cái gì đó nếu không ổn định cơ chế, đạo lí của con người thì sẽ vấp phải những
hiểm họa khôn lường. ” Vào giai đoạn 80 của thế kỷ XX , Lưu Quang Vũ là một hiện tượng
đặc biệt và cũng là nhà soạn kịch nổi tiếng của sân khấu kịch trường . Ông được xem là một
trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Bằng
nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo , cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại
thành một vở kịch nói hiện đại “ Hồn Trương Ba da hàng thịt “ và qua đó gửi gắm nhiều
triết lí nhân văn về cuộc đời và con người .
[ Kết bài ]
Nhà viết kịch Nguyễn Thế Vinh từng nhận định “Lưu Quang Vũ đã tiên phong từ
những năm 1980, tất cả những thông điệp ông đưa ra cho đến thời điểm này vẫn là tư tưởng
tiên phong. Những thông điệp không chỉ cho một cơ quan, một khu vực, một đất nước mà nó
là vấn đề của thế giới với một bối cảnh xã hội ngày càng phát triển thì tư tưởng tiên phong
rất cần thiết.” Quả thật thông qua đoạn trích kịch “ Hồn Trương Ba da hàng thịt ” Lưu
Quang Vũ đã mang đến một triết lí thấm đẫm nhân sinh : “ Được sống làm người là vô cùng
quý giá. Nhưng được sống là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình có, sống trong sự hài
hoà tự nhiên còn quý giá hơn”. Và vở kịch vẫn cứ thổn thức bồi hồi trăn trở trong lòng người
đọc muôn thế kỉ với câu hỏi dư âm cả một thời “ đã sống đúng là ta toàn vẹn chưa, ta đã hết
mình tự đấu tranh để hoàn thiện nhân cách chứ ? ”

Tây Tiến- Quang Dũng


MB
Có một người nghệ sĩ đã tùng viết trong tác phẩm của mình:
“ Có khoảng không gian nào, đo chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào, sâu thẳm hơn tình thương”
Thơ ca Việt Nam có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ thương. Đó là nỗi nhớ thương
Hoàng Cầm gửi lại mảnh đất Kinh Bắc dấu yêu của mình trong bài thơ “Bên kia sông
Đuống”, là nỗi nhớ của những kẻ đi xa qua bài “Bếp lửa” của Bằng Việt, đôi khi cũng là nỗi
nhớ thương tình yêu mà người bên ấy chỉ dám gửi cho người bên này ngày mai đi xa qua “
hương bưởi” trong bài “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn. Trước những rung cảm của
con tim, người nghệ sĩ dùng ngòi bút để trải lòng, viết về nỗi nhớ niềm thướng nhiều đến
vậy. Quang Dũng- người nghệ sĩ đa tài cũng không ngoại lệ khi đặt những tình cảm mình nơi
những người đồng chí, đồng đội qua bài thơ Tây Tiến khi ông rời xa đơn vị cũ chưa lâu.
KB
Khép lại trang thơ “Tây Tiến” ta vẫn không khỏi ám ảnh, bồi hồi trước vẻ đẹp dữ dội nơi
hồn thiêng sông núi, đắm đuối trước cái bình yên nồng đướm ẩn hiện trong những nếp nhà
Pha Luông nghi ngút khói bếp ban chiều. Và ta không sao quên được những chàng lính kiêu
dũng, ngang tàng với một vẻ đẹp lãng mạn đến đào hoa. Như Phong Lan từng nhận xét: “ Lý
tưởng Cách mạng đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và chất
men say lãng mạn ngay cả khi họ chết cũng như phảng phất nét nghệ sĩ tài tử”

Việt Bắc – Tố Hữu


MB
“ Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh”
Đó là những vần thơ đã đi vào sâu thẳm trái tim bao thế hệ học trò từ những ngày đầu biết
đọc, biết viết, những bài thơ trong bài thơ “Lượm” của Tố Hữu lại có sức sống lâu bền đến
vậy, thi phẩm của ông chính là dựa vào “tình cảm và trái tim trần” như nhà thớ Chế Lan Viên
có lần tâm sự “ Việt Bắc cũng là một trong những bài thơ như thế, một trong những bài thơ
đi cùng năm tháng, được ông cho ra đời vào cuối năm 1954. Tác phẩm được coi là khúc
hùng ca và bản tình ca về cách mạng, cuộc kháng chiến và con người khãng chiến.
KB
Trang thơ “Viêt Bắc” khép lại mà vấn vương miền đất ấy vẫn cứ quẩn quang mãi trong
ta. Giống như Tố Hữu đã từng được mảnh đất ấy, những con người ấy là cho mê đắm, yêu
thương là một phần gì đó neo đậu mãi trong tâm hồn người thi sĩ này thì có lẽ bản thân mỗi
người chúng ta cũng nên một lần đặt chân đến Việt Bắc để được sống, được cảm nhận, được
chiêm nghiệm, được yêu thương, được nhung nhớ và hơn cả là được cùng ngân vang bazif ca
tự do của con người của thiên nhiên miền cực bắc Tổ quốc. Ta canzgf thêm thắm thía câu nói
của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân”

Sóng – Xuân Quỳnh


MB
Có một người từng nói với tôi rằng “ Cuộc đời mỗi người đẹp nhất là thời thanh xuân và
càng đẹp hơn khi thanh xuân ấy xuất hiện trong bóng hình để ta nhung nhớ và yêu thương”
Riêng tôi, khi đọc qua từng bài văn, bài thơ về tình yêu, tôi lại tìm thấy cho mình những
chiêm nghiệm mới mẻ hơn về thứ cảm xúc đặc biệt này. Bởi có lẽ những thi nhân ấy- họ
cũng đã từng thương, từng gửi gắm tính yêu mãnh liệt vào một người để rồi chính họ lại chắp
bút mà viết tình ca. Vì tình yêu kì diệu và hấp dẫn thế nên khi đọc bài thơ “Sóng” của Xuân
Quỳnh, ta lại bắt gặp một cách thể hiện cảm xúc rất khác biệt- trực cảm và nữ tính, để lại
trong mỗi chúng ta nỗi niềm khó tả. Bài thơ là khát vọng, là những bậc đa sắc trong tình yêu
mà nữ sĩ Xuân Quỳnh đem lại cho độc giả.
KB
Thật may mắn cho nền văn học Việt Nam hiện đại khi có được một nữ siwx tài năng như
Xuân Quỳnh. May mắn cho Xuân Quỳnh bởi người nữ sĩ ấy sở hữu một trái tim khao khát
yêu thương và một tâm hồn nhạy cảm đến vậy. May mắn cho cả những độc giả như chúng ta
vì thế hệ của những năm tháng này vẫn được tiếp tục lắng nghe bản tình ca “Sóng” để rồi gật
gù tâm đắc khi nghĩ về những điều tưởng cũ mà chưa bao giờ cũ về tình yêu.
Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân
MB
Kể cả trước đây và mãi sau này, những người nghệ sĩ cứ hát mãi khúc ca về những dòng
sông. Hoàng Cầm từng khắc khoải về con sông quê hương- sông Đuống “ nằm nghiêng
nghiêng trong kháng chiến trường kì”, Văn Cao cất tiếng thơ về sông Lô với điệu hồn hùng
tráng, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại đưa sông Hương vào những trang văn êm dịu, đắm say.
Một nhà văn độc đáo như Nguyễn Tuân cũng dành tâm huyết viết vê con sông đất nước -
sông Đà – bằng tất cả hiểu biết , tình cảm, tâm tư. Tùy bút “ Người lái đò sông Đà” là kết quả
chuyến đi thực tế về miền Tây Bắc của nhà văn Nguyễn Tuân. Nội dung chủ yếu là ngợi ca
cảnh vật và con người Tây Bắc, đặc biệt ông đã khám phá “ chất vàng của thiên nhiên” và
“thứ vàng mười đã qua thử lửa” của vùng đất này.
KB
Qua việc phân tích nét hung bạo dữ dằn của thạch trận sông Đà, cùng với đó là sự mưu trí,
dũng cảm của ông đò trong từng trận chiến sinh tử, ta một lần nữa thấy được vẻ đẹp của
“chất vàng mười” trong thiên nhiên và “ thứ vàng mười đã qua thử lửa” của con người vùng
Tây Bắc Tổ quốc. Nhà vawncuar núi cao, vực sâ, thác dữ nhưng cũng lãng mạn và cũng tài
hoa vô cùng mang tên Nguyễn Tuân ấy đã để lại những trang văn thật đẹp, thật ấn tượng, có
sức sông lâu bền trong lòng bạn đọc và sẽ còn mãi nhắc nhở ta về cái đẹp nơi “ Người lái đò
sông Đà”.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường
MB
“ Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe ca Huế trên sông Hương? “ Nàng Hương” ấy chính
là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường, “nàng”
mang một vẻ đẹp nữ tính, dịu dàng. Nhà văn dựng lên một bức tranh thiên nhiên với phong
cảnh hữu tình, bộc lộ vẻ đẹp của một dòng sông kiều diễm qua bài kí “ Ai đã đặt tên cho
dòng sông?”
KB
Sông Hương đã cho ta thật nhiều cảm xúc tươi đẹp và rực rỡ. Bằng tất cả tấm lòng yêu
thương thắm thiết đối với mảnh đất Huế với con sông Hương không chỉ là Hoàng Phủ Ngọc
Tường không thôi mà còn bất kể ai khi dã thầm yêu, thầm thương dòng sông tuyệt diệu ấy thì
hãy đến với nó, để được thực lòng hòa quyện, được sống trong trong những giây phút trọn
vẹn và ý nghĩ nhất. Ai đó đã từng nói: “ Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng
sông để thương, để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình mãi
mãi mang theo”và sông Hương chính là “dòng sông để thương để nhớ” của đời tôi.

Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài


MB
Tô Hoài – Một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sau quá
trinh 60 năm lao động nghệ thuật không mệt mỏi, ông đã để lại cho nền văn học nước nhà
một công trình sáng tác đồ sộ đa dạng về cả thể loại và nội dung. Chúng ta từng chìm đắm
trong thế giớ loài vật sinh động, tươi sáng, đáng yêu với cuộc hành trình thú vị của Dế Mèn
và những bài học cuộc đời đáng trân trọng. Để rồi khi lớn lên một chút, những trang văn của
Tô Hoài lại để lại ấn tượng trong ta với hình ảnh mảnh đất Tây Bắc đầy thương nhớ, nơi có
những người lao động đang phải chiến đấu cho quyền sống, quyền tự do của mình. “Vợ
chồng A Phủ” đã đi vào trái tim bạn đọc từ những ấn tượng ban đầu như thế.
KB
Qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ cho ta thấy cuộc sống đầy khổ cực của nhân dân ta trước
cách mạng, tố cáo mạnh mẽ xã hội thời bấy giờ sự lộng quyền của bọn nhà giàu chúa đất ép
con người ta đến bước đường cùng. Tác phẩm cũng đề cao giá trị con người, giá trị của sự
đổi thay vùng lên phản kháng, người dân đã đến với cách mạng, tìm đến với tự do, hạnh
phúc. Những trang văn cũng chính là tiếng nói làm nổi bật lên nét tài hoa của nhà văn Tô
Hoài để tên tuổi ấy mãi đi vào lòng bạn đọc.

Vợ nhặt – Kim Lân


MB
Viết về số phận bi kịch của người nông dân Việt Nam trong đói nghèo, dường như là đề tài
muôn thuở của văn học. Trước và sau cách mạng tháng Tám, chúng ta bắt gặp bi kịch cuộc
đời đầy nỗi đau, tuyệt vọng như Chí Phèo, số phận người nông dân Việt Nam như chị Dậu
phải bán con của mình đi hay cả cuộc đời của Mị “ như một chiếc bóng” đã thấm lại trong
trang viết của nhà văn Tô Hoài. Có nhà văn từng nói: “ Không có chuyện cổ tích nào đẹp
bằng chính cuộc sống viết ra”. Hiện thực cuộc sống được xem như là cái nền cho những cảm
hứng nghệ thuật chắp cánh và đâm chồi. Chính vì vậy bức tranh hiện thực cuộc sống và con
người trong tác phẩm “ Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lânđã gây ấn tượng sâu sắc, ghi đậm
trong lòng người đọc.
KB
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân thực sự đã để lại rất nhiều ấn tượng trong
lòng bạn đọc bởi việc xây dựng được một tinhg huống truyện hợp lí, chan chứa tình đời, tình
người. Nhắc nhớ tới “Vợ nhặt” xin được mạn phép sử dụng những dòng văn của nhà văn
Nguyễn Khải để thay lời kết cho bài viết này. Có lẽ, đây cũng chính là những gì mà bản thân
Kim Lân thật sự muốn trải lòng: “Trên đời không có con đường cùng, chỉ có những ranh
giới, điều cốt yếu là phải có đủ suawsc mạnh để bước qua những ranh giới đó”

Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi


MB
Nguyễn Thi là cây bút tiêu biểu góp phần làm nên diện mạo của văn học miền Nam giai
đoạn kháng chiến chống Mĩ. Mảnh đất, con người Nam Bộ là không gian nghệ thuật đặc biệt
trong những sáng tác của Nguyễn Thi, qua những trang văn của ông, chúng ta không chỉ
sống dậy những cảm xúc hào hùng, tự hào trước cuộc chiến đấu gian khổ mà hào hùng của
dân tộc mà còn cảm phục trước những con người bình thường nhưng mang tầm vóc ý chí phi
thường. Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của
Nguyễn Thi viết về con người Nam Bộ tình cảm, yêu thương trong cuộc sống, anh hùng bất
khuất trong chiến đấu.
KB
Từ dòng chảy truyền thống của gia đình Chiến, Việt, nhà văn Nguyễn Thi đã gợi nhắc đến
cội nguồn của mọi dòng chảy, đó là dòng chảy truyền thống của một đất nước. Hình ảnh của
Chiến, Việt - những người con yêu nước, căm thù giặc, có trách nhiệm sâu sắc trong việc trả
nợ nhà, đền nợ nước người đọc còn thấy được trong "Những đứa con trong gia đình" hình
ảnh của cả một thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ xưa. Chính truyền thống yêu
nước, tinh thần dân tộc, ý thức đấu tranh của con người Việt Nam đã kết thành sức mạnh to
lớn giúp ta đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù, thống nhất đất nước.
 

Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành


MB
Nguyễn Trung Thành là nhà văn có duyên nợ gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên. Hai cuộc
kháng chiến vào sinh ra tử với những người dân nơi đây đã cung cấp cho Nguyễn Trung
Thành một vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng về mảnh dất âm vang rộn tiếng cầm chiêng trong
mùa lễ hội, nơi những con người trung dũng, kiên cường nếu trong kháng chiến chống Pháp,
Nguyễn Trung Thành – bút danh Nguyên Ngọc nổi tiếng cùng “Đất nước đứng lên thì trong
những năm kháng chiến chống Mĩ, đặc biệt là những năm 1965 khi cuộc kháng chiến của
nhân dân miền Nam đang diễn ra gay go ác liệt thì Nguyễn Trung Thành cho ra mắt người
đọc truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm này đã là bản hùng ca, ca ngợi cuộc sống và con
người Tây Nguyên vĩ đại.
KB
Bấy nhiêu hi sinh là bấy nhiêu tự hào. Biết bao gian khổ là biết bao những kiên trì, quyết
tâm cho một ngày mai “ rủ bùn sáng loài”. Những người con của núi rừng Tây Nguyên tiêu
biểu như Tnú, bên cạnh đó cụ Mết, là Mai, là Dít… là kế tinh của bao gian lao và cả tinh thần
anh dũng, kiên cường của tình yêu nước nồng nàn luôn rực cháy trong tim. Xây dựng thành
công hình tượng người anh hùng, tập thể anh hùng mang âm hướng sử thi, với lời văn chau
chuốt, sinh động, Nguyễn Trung Thành cùng thiên truyện “Rừng xà nu” đã để lại ấn tượng
mạnh mẽ nơi người đọc, khiến ta vẫn còn nhớ mãi, thương mãi và tự hào mãi về những năm
tháng gian lao mà huy hoàng của dân tộc.
“ Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ những loài sên!”

Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh


MB:
Dòng máu lạc hồng qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước vẫn tuôn trào trong
huyết quản của mỗi người dân Việt Nam. Một dân tộc mang trong mình dòng máu anh hùng
quyết chiến sinh tử với bè lũ cướp nước,quyết diệt tận vong lũ bè bán nước. Hỡi ôi! Một dân
tộc lừng lẫy chiến công vang dội mang tên Việt Nam.Mỗi một người dân đều là máu thịt của
đất nước,họ xứng đáng được hưởng quyền tự do,bình đẳng và mưu cầu hạnh phúc. Bản “
Tuyên ngôn độc lập “ của Hồ Chí Minh không chỉ là bản cáo trạng về tội ác của kẻ thù xâm
lược mà còn chính là một lời khẳng định chắc chắn về quyền tự do,tự chủ của dân tộc.
KB:
Tuyên ngôn độc lập là một văn bản lịch sử chính trị to lớn tuyên bố chấm dứt chế độ thực
dân phong kiến ở nước ra, mở ra một kỉ nguyên mới, độc lập tự do cho dân tộc. Có thể coi
đây là “bài thơ thần” của thời đại mới. Song đây cũng là bản tuyên ngôn chính luận hiện đại
có giá trị đặc sắc thể hiện cảm hứng nhân đạo: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” và cảm
hứng yêu nước, nhân văn thể hiện một tầm tư tưởng lớn - Hồ Chí Minh
Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu
MB
Chân lí là sự nhận thức đúng đắn hiện thực khách quan trong bộ óc con người. Vì vậy chân
lí sẽ phát triển cùng nhận thức của xã hội. Có những khẳng định được đúng một cách hiển
nhiên và cũng có những chân lí được chứng minh và kiểm nghiệm thực tế, thể hiện tính chất
phổ quát và không tìm được sự kiện trái ngược. Từ những đúc kết ấy, Nguyễn Minh Châu đã
mang người đọc đến những chân lí mà ông đã gửi gắm trong truyện ngắn "Chiếc thuyền
ngoài xa".
KB
Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã nêu lên bài học về cái nhìn
đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ chân chính. Từ tình
huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống và qua sự thay đổi nhận
thức của Phùng, của Đẩu, tác giả đã khẳng định mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực.
Theo ông, bổn phận của người nghệ sĩ là phải phát hiện ra bản chất của cuộc đời. Cái Đẹp,
cái Thiện trước hết phải là sự chân thực, Cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể đơn
giản, sơ lược khi nhìn nhận con người và cuộc sống mà cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng
với sự tìm tòi, phát hiện để hiểu đúng bản chất của nó.

Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm


MB
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ như Lê
Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh… Thơ Nguyễn Khoa Điềm hấp dẫn bạn đọc bởi
sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người
trí thức về đất nước, con người Việt Nam. “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm trích từ
chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” là một trong những vần thơ hay nhất về đề tài
đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.
KB
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn
lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui. Đất
nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước. Từ
những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà
trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không
chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt
Nam trong mọi thời đại.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ


MB
Con người sinh ra trong cuộc đời này là sự kết hợp thông nhất giữa phần con và phần
người. Nhưng đã bao giờ bạn tự hỏi: sẽ như thế nào nếu trong một con người mà phần xác
thịt một đằng, phần tâm hồn một nẻo? Liệu rằng bên nào sẽ thắng thế, bên nào xứng đáng
được làm chủ? Trả lời cho câu hỏi đó, và sâu sắc hơn là những triết lí nhân văn về con người,
về thế sự, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã cho ra đời đứa con tinh thần đầy tâm huyết – vở
kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Đặc biệt trong tác phẩm, những bi kịch của nhân vật
Trương Ba đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc và góp phần thể hiện sâu sắc nội dung
tư tưởng của tac giả.
KB
Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hòa giữa việc chăm lo
cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác.
Thông qua đó Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai hạng người: một loại chỉ biết trau
chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không chăm lo cho đời sống tâm
hồn. Loại khác thì luôn coi thường những giá trị vật chất, bỏ bê sự chăm sóc bản thân chỉ
khư khư giữ cho linh hồn được cao đẹp. Thông qua xác và hồn Lưu Quang Vũ nêu cao tư
tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc thật sự của con người. Bởi vậy
trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng
nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là mình –
được là chính mình toàn vẹn.

Đàn ghi ta của Lorca


MB
Thanh Thảo thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
nhưng đã tạo được giọng điệu riêng ngay từ khi trình làng thi phẩm đầu tiên "Dấu chân qua
trảng cỏ" rồi đến "Những người đi tới biển" sau đó là "Khối vuông ru-bích". Ông luôn tìm tòi
khám phá sáng tạo tìm cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do đem đến một mĩ cảm
hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Đàn ghi ta của Lorca là bài thơ tiêu biểu
cho kiểu tư duy sáng tạo ấy.
KB
Như vậy, thông qua hệ thống hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng và hình thức câu thơ tự do, tác
giả Thanh Thảo đã thổi một luồng gió mới vào sự đổi thay của nền văn học Việt Nam. Đó là
đóng góp về lối tư duy tượng trưng mang màu sắc siêu thực - một mỹ cảm mới mẻ, hiện đại
giàu tính sáng tạo trong tiến trình vận động của văn học. Bài thơ còn là sự quyện hòa và kết
hợp thành công giữa thơ và nhạc, đem đến những giai điệu ngân vang, bất tử về số phận và
những đóng góp nghệ thuật của Lorca - người nghệ sĩ thiên tài và vĩ đại của đất nước Tây
Ban Nha.
TÂY TIẾN
(Quang Dũng)

Mở bài:
Có những bài thơ đi cùng năm tháng, đó là những bài thơ ghi lại những ngày tháng gian khổ
mà hào hùng của dân tộc, là những sáng tác về những con người bình dị, vô danh nhưng lại
góp phần làm nên cái hữu dành cho đất nước, dân tộc. Chính văn học đã ghi lại những
khoảnh khắc thiêng liêng ấy, tiêu biểu là tác phẩm Tây Tiến của nhà văn Quang Dũng, không
chỉ khắc họa hình ảnh người lính một cách chân thực mà còn tái hiện sâu sắc những tàn khốc
của chiến tranh, những gian lao vất vả mà người lính phải trải qua trên chặng đường kháng
chiến. Thế nhưng chưa bao giờ họ lùi bước trước khó khăn thử thách, những người lính vĩ
đại ấy vẫn sống lạc quan yêu đời và chiến đấu anh dũng kiên cường.

Kết bài:
Có thể nói, với Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ thành công trong việc xây dựng hình tượng
bất hủ về bức tượng đài người lính trong kháng chiến chống Pháp mà nó còn để lại một ấn
tượng sâu sắc trong lòng người đọc, một bức họa tuyệt đẹp về mảnh đất Tây Bắc hùng vĩ
này.

VIỆT BẮC
( Tố Hữu )
Mở bài:
Nhà thơ Tố Hữu, được mệnh danh là “nhà thơ của cách mạng”,ông còn là cây đại thụ của
làng thơ ca Việt Nam hiện đại.Ông đã đem thơ ca của mình hòa quyện với ngòi bút như một
vũ khí chiến đấu trên mặt trận văn hóa văn nghệ Trong các tác phẩm văn chương đó có thể
kể đến bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tác phẩm là tấm chân tình trong buổi chia tay đầy lưu
luyến giữa tình cảm giữa nhân nhân Việt Bắc và cán bộ cách mạng.

Kết bài:
Tố Hữu thể hiện tình cảm lưu luyến, bịn rịn của những người cán bộ Cách Mạng về xuôi với
đồng bào Việt Bắc và đó cũng là tình cảm của người dân Việt Bắc với cán bộ Cách
Mạng.Ông còn khẳng định tình nghĩa thủy chung gắn bó, tình cảm uống nước nhớ nguồn của
những cán bộ Cách Mạng đối với thủ đô kháng chiến, quê hương Cách Mạng và người dân
VN.
SÓNG
(Xuân Quỳnh)
Mở bài:
Khi nhắc đến nhà thơ Xuân Quỳnh, ắt hẳn chúng ta sẽ nhớ ngay đến tác phẩm Sóng - một tác
phẩm gắn với tên tuổi của nữ tác giả. Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một bài thơ vô
cùng độc đáo thể hiện tâm trạng của một người con gái đang yêu. Những hờn giận vu vơ, tủi
hờn, ghen tuông rất phụ nữ, được tác giả Xuân Quỳnh gửi hồn trong thơ khiến khiến người
đọc, người nghe thổn thức theo từng câu thơ của bà, thơ ca của bà vẫn còn mang sức ảnh
hưởng đến giới trẻ ngày này qua những dòng trạng thái
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Kết bài:
Bài thơ đã nói lên những tâm tư, khao khát của người con gái khi yêu
“ Khi ta còn trẻ, thơ là người mẹ
Ta lớn lên rồi, thơ là người bạn, người yêu
Chăm sóc tuổi già, thơ là con gái
Lúc chết đi rồi, kỷ niệm hóa lưu thơ”
Nhịp điệu của sóng, nhịp điệu của tâm hồn. Tất cả đã làm hiện lên vẻ đẹp rất Xuân Quỳnh
giàu trắc ẩn suy tư và khát vọng trong tình yêu. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ
hơn những người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì
một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, chị đã làm
phong phú hơn cho nền thơ ca nước nhà

ĐẤT NƯỚC
(Nguyễn Đình Thi)

Mở bài:
Từ bao đời nay, đất nước luôn là đề tài muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ, nhà văn từ
khắp mọi miền, tình yêu quê hương đất nước dường như đã đi vào từng câu hát, từng lời văn,
lời thơ.Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ
quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về
Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì
Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước.
Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa,
truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần.

Kết bài:
Những vần thơ rất đẹp trong Đất Nước đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục tỏa sáng,
giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng
nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua góp phần khơi dậy
lòng tự hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con người trong khát vọng đưa Đất
Nước đi xa đến những tháng ngày mơ mộng

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG


(Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Mở bài:
R.Gamzatov đã từng nói rằng: “Nếu như người nghệ sĩ không tham gia vào việc hình thành
thế giới này thì thế giới không trở nên tươi đẹp như thế này.”Bằng một trái tim nghệ sĩ đắm
say, một vốn từ ngữ giàu có chính xác, gợi tả, một kho tri thức phong phú và một tấm lòng
ân tình với sông Hương xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sáng tác nên một thiên tuỳ bút
rất hấp dẫn “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đó không chỉ đơn thuần là một sông Hương mang
duy nhất một sắc thái, một vẻ đẹp trữ tình bên Huế nữa. Dòng sông ấy mang muôn vàn dáng
vẻ, là người con gái xinh đẹp và nổi bật nhất trong hành trình tìm đến với người tình xứ Huế
của nó.

Kết bài:
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn người đọc vào cuộc hành trình khám phá nét đẹp của thiên
nhiên Huế. Lần lượt theo dòng chảy của Hương giang, tôi bắt gặp khung cảnh thiên nhiên
Huế lúc nguyên sơ, trong trẻo, lúc mượt mà khi kì ảo, lúc dịu dàng say đắm khi thâm trầm
trang nghiêm. Sông Hương tôn lên vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên Huế, hòa nhập với không
khí của văn hóa Huế. Tất cả đều sống động qua tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc
Tường với con sông này. Qua hình tượng sông Hương tôi còn cảm nhận vẻ đẹp cái tôi Hoàng
Phủ Ngọc Tường: một cái tôi trí tuệ uyên bác qua những tri thức phong phú với nhiều lĩnh
vực, một cái tôi tài hoa phóng túng với những liên tưởng bất ngờ. Và trên hết là một cái tôi
sâu nặng tình yêu và tự hào với Huế – quê hương của mình.Tất cả làm nên sức sống của
thiên kì này.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


(Nguyễn Tuân)
Mở bài:
Nhắc đến Nguyễn Tuân, ắt hẳn chúng ta sẽ nhớ ngay đến tác phẩm “Chữ người tử tù” một
tác phẩm nói đến sự thiêng lương trong sáng của con người. Trước Cách mạng tháng Tám,
phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ "ngông".Sau Cách mạng
tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế
giới, con người thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm
thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở cả nhân dân đại chúng. Và cũng chính giai đoạn này Nguyễn Tuân
đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của
sông Đà cũng như thiên nhiên hùng vĩ núi rừng Tây Bắc qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”.
Giữa thiên nhiên bao la rộng lớn của núi rừng Tây Bắc, nối bật lên là hình ảnh người lái đò
sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà.

Kết bài:
Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú.Ở tùy bút “Người lái đò sông Đà” chúng ta
thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi
với một kho chữ nghĩa giàu có và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung
bạo và trữ tình” cùng hình tượng người lái đò tài hoa chảy mãi trong dòng văn học nước nhà
như niềm yêu mến và tự hào về con người, cỏ cây sông núi quê hương của nhà văn Nguyễn
Tuân

VỢ CHỒNG A PHỦ
(Tô Hoài)
Mở bài:
Khi nhắc đến nhà văn Tô Hoài, mọi người chắc sẽ nghĩ ngay đến tác phẩm “Dế Mèn phiêu
lưu ký”- một tác phẩm gắn liền với tuổi thơ. Ông là một trong những cây bút lớn của nền văn
học Việt Nam, với hơn 50 năm sáng tác cho ra những tác phẩm đồ sộ. Không chỉ dừng lại ở
đó, ông còn cho ra “tập truyện Tây Bắc”, tiêu biểu với tác phẩm vợ chồng A Phủ, một tác
phẩm mang đậm tính nhân văn, giàu giá trị nhân đạo và cũng phản ánh những thủ tục lạc hậu
ở vùng cao những ngày chưa có ánh sáng của Đảng soi rọi.

Kết bài:
Với cốt truyện sáng tạo, tình huống truyện độc đáo hấp dẫn, Tô Hoài đã đưa tên tuổi mình
đến gần với người đọc hơn. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã vạch trần nên sự bất công ở
mảnh đất này-mảnh đất mà nơi tiền quyền, thần quyền và cường quyền ngự trị, hơn nữa, ông
còn ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất và khát vọng tự do hạnh phúc cùng sức sống mãnh liệt trong
tâm hồn người lao động.

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA


(Nguyễn Minh Châu)
Mở bài:
Nhà văn Nam Cao đã viết rằng “Hãy rũ bỏ đôi mắt cũ khi nhìn cuộc đời mới vì càng đi
nhiều, càng quan sát lắm, ta chỉ càng chán nản hơn mà thôi”. Thật vậy, nhà văn Nguyễn
Minh Châu, trước năm 1975 đã từng viết rất nhiều tác phẩm về chiến tranh, nhưng sau 1975
ông đã là người đi đầu trong việc cải cách văn học nước nhà. Nguyễn Minh Châu là nhà văn
suốt đời đi tìm cái đẹp, vì ông đã cho ra mắt rất nhiều tác phẩm vào thời kỳ này, tiêu biểu là
tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”

Kết bài:
Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã nêu lên bài học về cái nhìn
đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ chân chính. Từ tình
huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống và qua sự thay đổi nhận
thức của Phùng, của Đẩu, tác giả đã khẳng định mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực.
Theo ông, bổn phận của người nghệ sĩ là phải phát hiện ra bản chất của cuộc đời. Cái Đẹp,
cái Thiện trước hết phải là sự chân thực, Cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể đơn
giản, sơ lược khi nhìn nhận con người và cuộc sống mà cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng
với sự tìm tòi, phát hiện để hiểu đúng bản chất của nó.

ĐÀN GHITA CỦA LORCA


(Thanh Thảo)
Mở bài:
Từ mấy thập niên trước, Thanh Thảo đã được công chúng chú ý qua những tập thơ và trường
ca mang diện mạo độc đáo viết về chiến tranh và thời hậu chiến.Đặc biệt, bài thơ Đàn ghi ta
của Lorca trong tập thơ Khối vuông ru-bích (1985) của ông được biên soạn vào giảng dạy
trong chương trình văn học trung học phổ thông toàn quốc. Tác phẩm đã xây dựng và tái
hiện thành công hình tượng người nghệ sĩ Lorca qua hình ảnh quen thuộc về cây đàn guitar
như một biểu tượng vĩnh hằng đại diện cho sự bất tử của các giá trị nghệ thuật.

Kết bài:
Như vậy, thông qua hệ thống hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng và hình thức câu thơ tự do, tác giả
Thanh Thảo đã thổi một luồng gió mới vào sự đổi thay của nền văn học Việt Nam. Đó là
đóng góp về lối tư duy tượng trưng mang màu sắc siêu thực - một mỹ cảm mới mẻ, hiện đại
giàu tính sáng tạo trong tiến trình vận động của văn học. Bài thơ còn là sự quyện hòa và kết
hợp thành công giữa thơ và nhạc, đem đến những giai điệu ngân vang, bất tử về số phận và
những đóng góp nghệ thuật của Lorca - người nghệ sĩ thiên tài và vĩ đại của đất nước Tây
Ban Nha.

VỢ NHẶT
(Kim Lân)
Mở bài:
Nguyễn Khải đã từng nhận định rằng “Là học trò của cụ Nguyễn Tuân, tôi không tin Nguyễn
Tuân viết Chữ người tử tù, lại càng không tin Kim Lân viết Làng, Vợ Nhặt mà đó là thần
viết, thần mượn tay người để viết lên những trang bất hủ”. Qua tác phẩm Vợ Nhặt,Kim Lân
đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn
tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông
dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành
công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn
biến tâm lý thật bất ngờ.

Kết bài:
Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lí nhân vật sắc sảo,độc đáo
và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn
lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương
giữa người với người luôn bất diệt.

RỪNG XÀ NU

(Nguyễn Trung Thành)

Mở bài:
Tây Nguyên là mảnh đất nắng gió bao la, nơi đại ngàn hoang sơ hùng vĩ.Chính mảnh đất và
tình người nơi đây đã thả hồn vào những trang viết của nhà văn và để lại dấu ấn sâu đậm
qua“Rừng xà nu”của nhà văn Nguyễn Trung Thành.Tác phẩm có kết cấu độc đáo – truyện
lồng truyện, truyện của cuộc đời những cánh rừng xà nu quyện hòa vào cuộc đời của nhân
vật chính – Tnú. Tất cả tạo nên một đội ngũ trùng điệp, bất tận về cuộc chiến tranh nhân dân
rộng lớn của dân tộc. Ấn tượng sâu đậm nhất, khắc sâu nhất trong tác phẩm này chính là hình
tượng nhân vật Tnú – một nhân vật mang tầm vóc sử thi của nhân dân các dân tộc Tây
Nguyên anh hùng.

Kết bài:

Rừng xà nu là truyện của một người nhưng qua đó ta thấy được số phận của cả một dân tộc .
Đó là bức tranh hoành tráng , hoành tráng trong hình ảnh, với vóc dáng vạm vỡ của cao cả
của rừng núi và của con người và hoành tráng trong âm hưởng với lời văn đầy nhịp điệu, khi
vang động, khi tha thiết trang nghiêm .

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT


(Lưu Quang Vũ)
Mở bài:
Lưu Quang Vũ là người có tài về nhiều mặt như: viết văn, làm thơ, vẽ tranh…nhưng khi ông
đắm mình vào sân khấu kịch, tên tuổi của ông mới được nhiều người biết đến, tiêu biểu là tác
phẩm Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt.Vở kịch đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc
đó-thời điểm những năm tám mươi của thế kỉ XX. Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lại một
tích truyện dân gian cũ để đan cài vào đó những suy nghĩ,quan niệm,triết lí nhân văn mới mẻ
và sâu sắc.

Kết bài:
Thông qua bi kịch sống "bên ngoài một đằng bên trong một nẻo" và bi kịch bị từ chối của
Trương Ba, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt đã tái hiện được
mâu thuẫn, xung đột trong chính bản thân con người, đó là cái bất đồng giữa con người bên
trong và con người bên ngoài, giữa nhu cầu vật chất và tinh thần, qua đó gửi gắm thông điệp:
Để được sống hạnh phúc, con người cần biết dung hòa được nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần, được sống là điều quý giá nhưng được sống là mình, sống theo những lí tưởng, nguyên
tắc tốt đẹp của mình còn quý giá hơn.

MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI CỦA CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC 12

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

MB: Khi Cách mạng Tháng Tám đại thắng, 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử,
thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bản Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định mạnh mẽ
quyền độc lập, tự chủ của dân tộc ta và ca ngợi tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất của
nhân dân Việt Nam quyết tâm giành lại độc lập. Bản Tuyên ngôn đã trở thành một trong
những áng hùng văn thiên cổ, hội tụ những tư tưởng cao đẹp cũng như tình yêu của Người
đối với quê hương, Tổ quốc và niềm khao khát của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam
được sống như một dân tộc bình đẳng mà không phải chịu khuất phục trước một thế lực nào.

KB: Trải qua hơn 75 năm, bản Tuyên ngôn Độc lập vẫn còn khắc ghi trong lòng người
đọc những quan điểm sâu sắc về chính trị và nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như
những giá trị của văn minh nhân loại. Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ đơn thuần là
bản tuyên ngôn thể hiện khát vọng mong muốn được sống trong hoà bình, tự do của nhân
dân Việt Nam, mà đó còn là bản tuyên ngôn về quyền sống của con người, của những đất
nước đang phải chịu chung cảnh phải trở thành thuộc địa của các cường quốc tư bản. Ngày
nay, khi hoà bình đã lập lại, đất nước ta đang đi trên con đường hội nhập và đổi mới, thế
nhưng những lời văn của Bác sẽ theo ta trên những chặng đường dài phát triển đất nước, mơ
về một ngày không xa: Việt Nam có thể sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

TÂY TIẾN

MB: Nhà văn Chu Lai từng bộc bạch rằng: "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng
quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Hình
tượng người lính ấy có lẽ là một mô tả rất đúng với hình ảnh những anh lính trực thuộc đoàn
quân Tây Tiến. Dẫu cho có phải trèo đèo lội suối, xuyên qua một miền rừng núi với khí hậu
khắc nghiệt, trải qua bệnh tật thì những người lính ấy vẫn băng băng tiến về phía trước vì sự
độc lập và tự do của Tổ quốc. tất cả những điều này đã trở thành những kỉ niệm khó quên đối
với nhà thơ Quang Dũng trong thời gian ông còn phục vụ cho đơn vị. Và cũng vì thế, trong
một lần ngồi ở Phù Lưu Chanh, nhớ về những người đồng đội cũ, những gian khổ đã qua,
Quang Dũng đã chấp bút viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến” sau được đổi tên thành “Tây Tiến”.

KB: Chiến tranh đã đi qua, bao khó khăn và mất mát đau thương của một thời máu lửa
đang dần chìm trôi vào dĩ vãng. Hòa bình - niềm khát vọng mãnh liệt đã được lập lại trên đất
nước, dân tộc Việt Nam đang hồi sinh mạnh mẽ như mầm cây nhú lên từ lòng đất mẹ sau cả
thập kỷ chết đi trong đạn lửa khói bom. Thế nhưng dẫu bao nhiêu năm có trôi qua thì hình
ảnh những người lính Tây Tiến sẵn sàng ngã xuống vì nền độc lập tự do của dân tộc vẫn còn
đó, hằn sâu trong từng tấc đất, in sâu vào hồn thiêng dân tộc. Và có lẽ, tác phẩm “Tây Tiến”
của nhà thơ Quang Dũng cũng sẽ sống mãi với những tượng đài bất tử ấy.
VIỆT BẮC

MB:
“Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!”
Nhà thơ Tố Hữu vốn được xem là “chim đầu đàn” của nền thi ca hiện đại Việt Nam với
những trang thơ bất hủ về hình ảnh người “Bộ đội Cụ Hồ”. Người ta từng nói rằng, có những
giai đoạn khi quá trình kháng chiến gặp nhiều gian nan, thơ ông đã trở thành chỗ dựa tâm
thần cho mọi người. Trải qua nhiều thăng trầm với đất nước, Tố Hữu đã cho ra đời rất nhiều
tập thơ nổi tiếng như “Từ ấy”, “Gió lộng”, “Một tiếng đờn”,… thế nhưng với nhiều người
yêu thi ca, có lẽ không ai là không biết đến “Việt Bắc” – một kiệt tác của thơ ca cách mạng
Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ “Việt Bắc” mang đậm bản sắc
dân tộc với thể thơ lục bát đã thể hiện tình cảm thiết tha, mặn nồng và sự gắn bó máu thịt
giữa quân và dân, khắc hoạ rõ nét hình ảnh người chiến sĩ “từ dân mà ra, vì nhân dân mà
chiến đấu.”

KB: Bài thơ “Việt Bắc” được ra đời cũng như một minh chứng sống cho những khó
khăn, thử thách trong kháng chiến chống Pháp mà quân và dân ta đã phải trải qua và tình
cảm gắn bó keo sơn giữa người chiến sĩ cách mạng và con người Tây Bắc. có thể nói, “Việt
Bắc” chính là một trong những tác phẩm để đời của nhà thơ Tố Hữu.

SÓNG

MB: Nhà thơ Chế Lan Viên từng cho rằng:

"Trái Đất rộng thêm một phần vì bởi các trang thơ
Vì diện tích tâm hồn các nhà thi sĩ"

Nhờ có thơ ca, nhờ có tâm tư tình cảm của người nghệ sĩ mà cuộc đời "phù phiếm và chật
hẹp của cá nhân" trở nên "thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần". Nhận định ấy có lẽ rất
đúng với nữ văn sĩ Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh được xem như là nữ sĩ của tình yêu khi trong
sự nghiệp sáng tác của mình, bà đã tích luỹ cho mình một gia tài vô giá với những trang thơ
tình đầy lãng mạn. Một trong số đó, nổi tiếng nhất có thể kể đến đó chính là “Sóng”. Bài thơ
tựa như lời tâm tình của người thiếu nữ nhỏ trong hành trình tìm đến với tình yêu đích thực
của đời mình.

KB: Khi nhắc đến "Sóng", Thạc sĩ Trần Đăng Suyền từng nói rằng: “Đó là cuộc hành
trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối
cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình
yêu muôn thuở.” Quả đúng là như thế, "Sóng" chính là một chuyến đi dài của một cái tôi
luôn hướng đến tình yêu bất diệt của đời mình. Bài thơ đã để lại nhiều giá trị cũng như quan
niệm mới mẻ của nữ sĩ Xuân Quỳnh đối với tình yêu. Kể từ vụ tai nạn mùa thu năm 1988
cướp đi sinh mệnh gia đình nhà thơ Xuân Quỳnh, đã hơn 30 năm trôi qua, tiếng thơ của Xuân
Quỳnh vẫn còn sống mãi với thời gian và trong trái tim của nhiều người thế hệ khán giả yêu
văn chương.

ĐẤT NƯỚC

MB: Nhà thơ Chế Lan Viên từng ví cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc của dân tộc ta như
một ngọn lửa dữ dội để thử thách “chất vàng mười” trong tâm hồn người nghệ sĩ. Trong cuộc
thử lửa đó thì nhiều tài năng đã toả sáng, Nguyễn Khoa Điềm là một tài năng như thế. Bởi
ông thuộc thế hệ những tài năng trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Nhờ trải nghiệm từ cuộc chiến tranh của nhân dân, nhà thơ đã có những phát hiện mới mẻ về
hình tượng đất nước. Điều đó thể hiện tập trung trong trích đoạn Đất Nước (trích trường ca
Mặt Đường Khát Vọng).

KB: Đất Nước là đoạn trích hay nhất trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm. Thi phẩm ấy không chỉ khẳng định tài năng thơ phú của nhà thơ mà còn
qua đó nói lên được tiếng nói của người công dân yêu nước với tình yêu sâu nặng, mãnh liệt
“như máu xương của mình”. Cuộc chiến tranh chống Mĩ gian khổ đã làm con người xích lại
gần nhau, tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ Quốc. Tình yêu và trách
nhiệm cao cả ấy trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là quyết tâm của cả một thời đại:
“Thời đại của chúng tôi là thời đại của những thanh niên xuống đường chiếm lĩnh từng tầng
cao của mái nhà, của ngọn đồi, của nhịp cầu để bắn toả lương tâm lên bầu trời đầy giặc giã”
(Chu Lai)
ĐÀN GHI TA CỦA LORCA

MB: Thanh Thảo là một trong những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống mĩ cứu nước. Thơ ông là tiếng lòng của người trí thức giàu suy tư, niềm trăn trở về
những vấn đề xã hội và thời đại. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” rút từ tập “Khối vuông ru
bích”, tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo: mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm và
không dễ hiểu vì ít nhiều nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực. Tác phẩm thể hiện nỗi đau
xót trước cái chết của nghệ sĩ Lorca thiên tài, đồng thời bày tỏ thái dộ khâm phục, ngưỡng
mộ, tri âm sâu sắc.

KB: Tiếng đàn của Lorca với đầy đủ các cung bậc, đại diện cho tâm hồn nghệ sĩ của
Thanh Thảo, đã khắc hoạ những gam màu, hình khối đầy tính tượng trưng và biểu cảm.
Xuyên suốt bài thơ, song hành cùng hình tượng Lorca chính là cây đàn thơ muôn thuở. Đàn
ghi-ta là tâm hồn của chính Lorca, là khí phách kiên cường của người chiến sĩ yêu tự do, hoà
nhịp trái tim mình với quần chúng nhân dân và toàn thể nhân loại. Qua bài thơ người đọc
cảm nhận được sự nỗ lực, sáng tạo bất tận của tác giả, ông đã đặt hết tâm huyết sự khát khao
của mình với mong muốn góp phần cải tạo tiếng Việt thêm phần giàu đẹp, phong phú và đa
dạng hơn.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

MB: Nguyễn Tuân là nhà văn có nhiều trang viết rất sống động về những con người phi
thường, tính cách phi thường. Nhân vật của ông mỗi khi đã xuất hiện thì dứt khoát phải để lại
nhiều dấu ấn sâu đậm đối với độc giả. Nếu trước Cách mạng Tháng Tám, ông cho rằng cái
đẹp chỉ có trong quá khứ của một thời vàng son và ông đã xây dựng nhân vật Huấn Cao dựa
trên nguyên mẫu lịch sử là Cao Bá Quát: một người có tài có tâm nhưng phải chịu án tử hình
vì đứng về nhân dân chống lại triều đình. Nhưng sau cách mạng tháng tám, do “xê dịch”
nhiều nên ông có sự thay đổi trong cách cảm nhận và miêu tả về con người. Ngòi bút tài hoa
của ông đã tìm thấy vẻ đẹp của con người ngay trong giai đoạn miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội, những con người vô danh lặng thầm trong công việc mà ông gọi đó là “chất vàng
mười” của nhữn người con miền đất Tây Bắc đó chính là “ Người lái đò” trong tùy bút
“Người lái đò Sông Đà”- Nguyễn Tuân.
KB: Tóm lại, sử dụng nhiều nghệ thuật đặc sắc cùng vốn hiểu biết phong phú, nhà văn
Nguyễn Tuân đã khắc hoạ thành công song song hai vẻ đẹp “vừa hung bạo vừa trữ tình" của
dòng sông Đà và vẻ đẹp "tài hoa trí dũng" của con người Tây Bắc thông qua hình ảnh người
lái đò. Đặc biệt là ở hình tượng người lái đò, nhà văn không chỉ ca ngợi “chất vàng mười đã
qua thử lửa” của người dân nơi đây, mà ông còn thể hiện quan niệm của bản thân: hình ảnh
người anh hùng không phải lúc nào cũng xuất hiện trong chiến đấu, mà họ vẫn luôn hiện hữu
ở xung quanh ta trong cuộc sống lao động thường ngày.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG

MB: Nếu như "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân in đậm cá tính sáng tạo và
thường phát huy sức mạnh của trí tưởng tượng, liên tưởng, so sánh để dựng cảnh, dựng
truyện, có mô tả tâm lý, khắc họa tính cách nhân vật ở một chừng mực nhất định, thì bút kí
"Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thấm đẫm chất trầm tư, trữ
tình với những trang viết về trí tuệ nhưng cũng mang nặng tấm lòng của nhà thơ khi đứng
trước vẻ đẹp đa chiều của dòng sông Hương.

KB: Viết về Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại đưa người đọc về vùng đất cố đô trầm
mặc, thơ mộng với những khu vườn xanh, thiên nhiên xanh, dòng sông xanh. Con sông
Hương khi đi vào tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành đối tượng thẩm mỹ của
nhà văn. Tác giả đã xem, đã ví von sông Hương như một con người có thân phận, có cảm
xúc riêng dưới những góc nhìn khám phá khác nhau. Khi thì sông Hương như một cô gái
mang trong mình tình yêu tha thiết với thành phố Huế, khi lại là một người mẹ sản sinh cho
xứ Huế những giá trị văn hóa truyền thống cùng âm nhạc, thi ca, khi lại là một chứng nhân
của lịch sử đầy oai hùng hiển hách.

VỢ CHỒNG A PHỦ

MB: Trong nhiều nhà văn gắn bó mật thiết với quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa của
người dân miền bắc, Tô Hoài có lẽ là nhà văn dành tình cảm sâu đậm nhất với con người và
thiên nhiên miền núi Tây Bắc. Ông đã từng bộc bạch rằng: “Tinh thần và sức mạnh bất khuất
của cả nước được nuôi dưỡng và phát triển trong những cánh rừng đại ngàn Tây Bắc. Sống
với những ngọn thác dữ dội, những núi đá hùng vĩ, những vạt rừng âm u là các dân tộc thiểu
số anh em. Đời sống sinh hoạt của họ khác nhau nhưng tinh thần kháng Pháp thì là một.” Với
tình cảm to lớn ấy, ông đã dành riêng một tập truyện viết về núi rừng Tây Bắc và con người
ở nơi vùng cao. Đó là tập “Truyện Tây Bắc”. “Vợ chồng a phủ” là một trong những câu
chuyện được rút trong tập đó. Có lẽ yêu Tây Bắc như thế nào thì Tô Hoài cũng gửi gắm tình
yêu vào nhân vật Mị nhiều như thế đó. Tuy vậy, cuộc đời Mị lại không theo ý muốn của cô,
cô không thể tự quyết định cuộc đời mình được và phải trải qua nhiều bi kịch trước khi tìm
được người đàn ông thật sự của cuộc đời mình.

KB: Nguyễn Minh Châu từng cho rằng: “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì
thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái
ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường… để bênh vực cho những con
người không còn ai để bênh vực”. Thật đúng như vậy, Tô Hoài sinh ra đã làm tròn sứ mệnh
ấy khi mang đến cho độc giả hình tượng nhân vật Mị và A Phủ trong tác phẩm Vợ Chồng A
Phủ. Đó là hình tượng với biết bao vẻ đẹp và nhất là sức sống tiềm tàng. Đồng thời, Tô Hoài
cũng cảm thông, yêu quý những người dân miền núi phải chịu cảnh nô lệ, tù đày và tin tưởng
vẻ đẹp nội tâm và sức sống mãnh liệt của họ.

VỢ NHẶT

MB: Bao giờ mới hết kiếp đọa đày? Đó có lẽ là câu hỏi của rất nhiều những cảnh đời,
những số phận trong xã hội cũ. Một chị Dậu loay hoay mãi trong cái vũng đời tối đen như
mực của mình, một Chí Phèo quay cuồng đi tìm cái lương thiện bị cuộc đời tàn nhẫn tước
đoạt và giờ đây trong cảnh nạn đói hoành hành năm Ất Dậu, những cảnh chết chợ, tha
phương cầu thực diễn ra hết sức thê lương. Trong hoàn cảnh đó con người biết chia sẻ cho
nhau miếng ăn là cả một nghĩa cử đầy hào hiệp. Và truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân đã
làm được điều đó. Ban đầu, truyện có tiền thân là một truyện dài được sáng tác vào năm
1945 thế nhưng sau một lần mất bản thảo, Kim Lân đã dồn đọng lại nội dung ý tưởng trong
một tập truyện ngắn – đó là lí do truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời.

KB: Trên phông nền u ám của nạn đói Ất Dậu, Kim Lân vẫn chấm chút sắc màu của
hạnh phúc lứa đôi, tình cảm gia đình và sự mong chờ đến một tương lai tươi sáng hơn của
hàng triệu người. Thông qua tình huống dở khóc dở cười trớ trêu đó, tác giả đã ngầm khẳng
định một chân lý mà nhà văn Nguyễn Khải đã từng viết trong “Mùa lạc”: “Sự sống nảy sinh
từ trong lòng cái chết, hạnh phúc hiện hình từ ranh giới của gian khổ hi sinh. ở đời này không
có con đường cùng mà đây chỉ là những ranh giới. Điều cốt yếu là chúng ta phải chuẩn bị
cho mình những sức mạnh để có thể vượt qua ranh giới ấy.”

RỪNG XÀ NU

MB: Nếu như Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật thì Nguyễn Trung
Thành là nhà văn suốt đời đi tìm cái thật và những tính cách anh hùng. Có thể nói, trong toàn
bộ sáng tác của Nguyễn Trung Thành, mảnh đất badan Tây Nguyên đã trở thành đề tài, cảm
hứng không hề vơi cạn. Và cho đến hôm nay, Nguyễn Trung Thành là cây bút văn văn xuôi
viết hay nhất về miền rừng núi ấy. Từng có thời gian gắn bó máu thịt với con người nơi đây,
ông đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm như “Đất nước đứng lên”, “Rẻo cao”,… Trong số đó,
“Rừng xà nu” được xem là tác phẩm nổi bật nhất khi khắc hoạ sống động những người anh
hùng Tây Nguyên. Tác phẩm đã đem lại ngỡ ngàng cho người đọc khi một truyện ngắn mà
phản ánh được cả một cuôc đấu tranh chống Mỹ nguỵ của người dân Tây Nguyên, vì vậy mà
tính sử thi càng được tô đậm rõ nét hơn thông qua cách xây dựng nhân vật, hình tượng cây xà
nu và ngôn ngữ của tác phẩm.

KB: “Tây Nguyên ơi, rừng bao nhiêu lá… có hoa nào đẹp nhất rừng.” Ai đã từng lắng
nghe tiếng hát ấy trong những ngày sôi sục thời đánh Mĩ. Ai đã từng biết đên hoa Pơ-lang,
loài hoa đẹp nhất của núi rừng Tây Nguyên có hàng ngàn cánh, nở tươi thơm mát đến hàng
vạn năm. Tiếng hát ấy, loài hoa ấy còn đem đến cho ta bao xúc động, bồi hồi khi nghĩ tới
những phẩm chất anh hùng trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Thế
nhưng, dưới góc nhìn của tác giả, loài thực vật đại diện cho vẻ đẹp hào hùng của những
người dân miền núi ấy phải là cây xà nu. Cây xà nu là hình tượng bao trùm mạch sống, mạch
hồn của tác phẩm và đại diện cho từng từng lớp lớp thế hệ con người Tây Nguyên. Bằng bút
pháp sử thi, với những hình ảnh đặc tả giàu khả năng gợi cảm, tác giả Nguyễn Trung Thành
đã khắc hoạ vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên và hình tượng dũng cảm, kiên cường của những
người dân nơi đây trong quá trình kháng chiến chống Mỹ.

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH

MB: Giai đoạn 1945 – 1975, văn học nước nhà đã ghi dấu những vẻ đẹp của khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đặc biệt là vẻ đẹp anh hùng của con người Việt Nam
thời đại chống Mĩ. Hình ảnh những người anh hùng luôn được đề cao và khắc họa với một
tình cảm trân trọng nhất. Khi viết về người dân Nam Bộ, Nguyễn Thi lại có cách tiếp cận
khác và được thể hiện ở “Những đứa con trong gia đình”. Tác phẩm “Những đứa con trong
gia đình” miêu tả truyền thống gia đình hoà trong truyền thống của đất nước. Hai nhân vật
Chiến và Việt, cùng sinh ra trong 1 gia đình có lòng căm thù sâu sắc với đế quốc. Hai chị em
cùng các cô, chú du kích đánh giặc, hăng hái tòng quân, tham gia đánh trận, lập nhiều chiến
công. Việt bị thương nặng nhưng lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu. Đó là những hình ảnh thật
cụ thể của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng.

KB: Tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi viết về một gia
đình lớn với những nét tính cách không giống nhau nhưng cùng chung một lí tưởng lớn:
“Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng”
Nhân vật của Nguyễn Thi hiện ra như những bức chân dung rõ rệt, sống động qua bút
pháp miêu tả nhân vật điêu luyện. Đó là những người nông dân Nam bộ sống bộc trực, thẳng
thắn, nghĩa tình, họ đẹp như những dòng kênh nước bạc nơi đây. Tác phẩm đã khắc hoạ hiện
thực đau thương, đầy hi sinh gian khổ nhưng rất đỗi anh dũng, kiên cường, bất khuất của
nhân dân miền Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

MB: Nguyễn Minh Châu là một tác giả tiêu biểu của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Hành trình sáng tác của ông trải qua hai thời kỳ, thời kỳ chống Mỹ và thời kỳ đổi mới sau
1975. Ở thời kỳ đổi mới, Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong
và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện
ngắn đặc sắc của Nguyễn Minh Châu trong chặng đường văn thời kỳ đổi mới. Truyện xoáy
sâu vào bức tranh hiện thực của đời sống người lao động thuyền chài ở một vùng ven biển
miền Trung.

KB: “Chiếc thuyền ngoài xa” là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, đó là vẻ đẹp của một
bức tranh toàn bích, và đằng sau hình ảnh đẹp đẽ đó là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội với
những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Thế nhưng trong cuộc sống nghèo
khổ, chật vật trên chiếc thuyền ọp ẹp vẫn ngời lên ánh sáng của khao khát hạnh phúc trọn
vẹn. Khát khao ấy được thể hiện vô cùng cảm động qua hình tượng người đàn bà hàng chài.
Đó là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến. Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc
đời trăm đắng ngàn cay của chị có một vẻ đẹp riêng không thể trộn lẫn. Từ chị, nhà văn đã
đem đến cho chúng ta một cái nhìn đa diện về số phận con người trong cuộc sống hôm nay.

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

MB: Lưu Quang Vũ là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt Nam những năm
tám mươi của thế kỷ XX.Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ
thuật Việt nam hiện đại. tác phẩm của ông toát lên một ý vị triết lí và nhân sinh về đời người,
kiếp người. Ông có nhiều tác phẩm kịch gây chấn động dư luận, trong đó có vở kịch "Hồn
Trương Ba, da hàng thịt". “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc nhất của Lưu
Quang Vũ, được sáng tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán
giả.Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và
lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người.

KB: Qua việc khắc hoạ bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã thể hiện
những quan niệm về triết lí, về hạnh phúc con người. Qua tác phẩm, tác giả muốn góp phần
phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ đồng thời đã khẳng định khao
khát hoàn thiện nhân cách, đấu tranh chống lại sự tha hoá trong mỗi con người. Với tất cả
những ý nghĩa đó, tác phẩm đã đọng lại trong lòng người đọc, người xem với những bài học
nhân sinh sâu sắc.

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - HỒ CHÍ MINH

*Mở bài:

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, dân tộc ta đã phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm:
từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, từ Đông vào, làm nên những chiến công hiển hách:
phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh; để từ đó làm cơ sở cho sự phát triển văn học Việt Nam.
Nền văn học nước nhà ngày càng trở nên đa dạng bởi ngày càng có thêm nhiều những áng
văn kiệt khẳng định đanh thép chủ quyền độc lập của dân tộc. Như Giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh đã nói: Người ta gọi “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là “ thiên cổ hùng văn”.
Cũng có thể nói như thế về bản “Tuyên ngôn Độc lập” của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi lẽ nó
là bản khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự do của
dân tộc, nó kết tinh một cách sáng ngời những tư tưởng nhân văn và khát vọng độc lập tự do
của dân tộc.

*Kết bài:
Giống như Chế Lan Viên đã nói: “ Cách lập luận của Hồ Chí Minh về phía ta như một
trái táo còn về phía kẻ thù nó giống như một trái lựu đạn nhét vào cổ họng chúng. Nuốt
không vô mà khạc cũng không ra”. Thật vậy, với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén,
giọng văn hùng hồn, thống thiết, Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng sánh ngang với các bản
tuyên ngôn trên thế giới và các thiên cổ hùng văn của dân tộc như Hịch tướng sĩ hay Bình
Ngô đại cáo. Và cũng từ tác phẩm, người đọc càng thêm thấm thía hơn sự hi sinh của bao thế
hệ anh hùng cho độc lập, tự do của Tổ quốc.

TÂY TIẾN – QUANG DŨNG

*Mở bài:

Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” nhà thơ Chế Lan Viên đã viết:

“ Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta về, đất đã hóa tâm hồn”.

Quả vậy, trong cuộc đời mỗi con người ai cũng đã từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Và
mỗi mảnh đất ta đi qua đều trở thành một dấu ấn, đều để lại trong lòng chúng ta những kỉ
niệm, kí ức khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng vậy, ông cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy.
Một thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với những người đồng đội, với núi rừng miền Tây đã
làm cho ông không khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào. Nỗi nhớ của
ông về những năm tháng kháng chiến, về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất ấy đã được ông
ghi lại một cách chân thực trong bài thơ “Tây Tiến”.

*Kết bài:

Cho đến nay Tây Tiến vẫn là một đài thơ đầy kì bí. Cái ma lực, cái âm hưởng của bài
thơ Tây Tiến ... chưa ai có thể lý giải hết được. Với Tây Tiến, Quang Dũng đã đưa người đọc
đi vào thế giới đầy mùi hương cùng với những hoài niệm sâu sắc, đưa chúng ta đến với một
vùng đất đẹp đẽ, mộng mơ, và những con người duyên dáng. Tác phẩm đã xây dựng thành
công bức tượng đài anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến đầy gian khổ nhưng cũng rất đỗi hào
hùng, anh dũng. Giống như những câu thơ của nhà thơ Giang Nam:

“ Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Vẫn sống muôn đời cùng núi sông”.

VIỆT BẮC – TỐ HỮU

*Mở bài:

Nhắc đến Việt Bắc nhà thơ Tố Hữu không khỏi bồi hồi, xúc động mà viết rằng: “ Cảnh
vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi”. Để rồi từ
những cảm xúc, những rung động mãnh liệt ấy nhà thơ viết nên tác phẩm “ Việt Bắc - tuyệt
tác của đời mình – thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm không
chỉ là âm hưởng hùng ca hào hùng về cuộc kháng chiến chống Pháp mà còn là khúc hát
nghĩa tình giữa những cán bộ cách mạng với nhân dân trong bối cảnh một cuộc chia tay lịch
sử được viết bởi lăng kính trữ tình và chính trị, đậm tính dân tộc và ngòi bút phiêu cảm xúc
của thi nhân.

*Kết bài:

Hoài Thanh đã từng nói: “ Thời đại ta may mắn có được nhà thơ Tố Hữu”. Quả thật
vậy, với mỗi bài thơ ông viết luôn gắn liền với những mốc son trong lịch sử, cũng như đọng
lại trong lòng người đọc những rung cảm, những sự chân thành, mộc mạc tha thiết ân tình.
Bởi thế, qua bao năm tháng, Việt Bắc vẫn giữ nguyên giá trị trong lòng bạn đọc. Tố Hữu đã
khắc họa thành công những sự kiện, những kỉ niệm thời kháng chiến với những cảm xúc trọn
vẹn, đó chính là khúc hát tâm tình và truyền thống, đạo lí cội nguồn của dân tộc.

ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM

*Mở bài:

Như Huy Văn đã từng nói: “ Nếu như trong thơ Nguyễn Đình Thi, hình ảnh đất nước
hào hoa, kiêu hãnh, lãng mạn và tràn đầy sức sống thì trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh
đất nước lại giàu có về văn hóa, là sức mạnh của chân lý”. Quả vậy, giữa muôn vàn thơ ca về
đề tài Đất nước, ta vẫn nhận ra được chất riêng, chất mới của Nguyễn Khoa Điềm với thi
phẩm “Đất nước”. Với lối viết văn gần gũi, quen thuộc, bình dị, đậm màu sắc văn hóa dân
gian khác hẳn với những nhà thơ cùng thời đã thể hiện quan niệm vô cùng mới mẻ và sâu sắc
về Đất Nước:

“ Đất nước này là của nhân dân

Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao, thần thoại”.

*Kết bài:

Đất Nước là một đoạn trích hay nhất trong trường ca “ Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với
cảm xúc cùng ngôn ngữ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Thi phẩm không chỉ khẳng
định tài năng thơ phú của nhà thơ mà còn qua đó nói lên tiếng nói của người công dân yêu
nước với tình yêu sâu nặng, mãnh liệt cùng niềm tự hào về đất nước với 4000 năm lịch sử.

SÓNG – XUÂN QUỲNH

*Mở bài:
Trong bài thơ “ Chỉ có sóng và em”, nhà thơ Xuân Quỳnh có viết:
“Chỉ riêng điều được sống cùng nhau
Niềm sung sướng với em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim chẳng đập vì anh”.
Nhắc đến tên tuổi Xuân Quỳnh là trong tiềm thức của mỗi người yêu văn
chương lại dạt dào những cảm xúc. Bởi thơ của bà là tiếng nói tấm lòng của một
người phụ nữ trong tình yêu: hồn nhiên, chân thành nhưng cũng giàu những trắc ẩn,
luôn mang trong mình một khát khao về một hạnh phúc bình dị đời thường. Và “
Sóng” là một bài thơ như thế, mượn cặp hình tượng “sóng – em” để bày tỏ quan
điểm của tác giả về một tình yêu vĩnh hằng.
*Kết bài:

Đọc thơ Xuân Quỳnh ta phần nào hiểu được những vẻ đẹp của tình yêu tuổi trẻ trong những năm kháng chiến
chống Mĩ cứu nước: vừa mang nhiều đau thương của sự chia ly, mất mất nhưng cũng mang sự bay bổng, lãng mạn, lạc
quan, tin yêu của tuổi trẻ. Với cấu trúc song hành giữa hai hình tượng “sóng” và “em”, Xuân Quỳnh đã khắc họa
thành công tâm trạng người phụ nữ đang đắm chìm trong một tình yêu đằm thắm, tha thiết. Mỗi khi đọc lại những vần
thơ tình của một thời đã qua, độc giả dường như lại thấy thêm trân trọng với tình yêu hơn bao giờ hết. Qua đó, chúng
ta có thể khẳng định: Sóng không chỉ là những trang viết tâm tình mà còn là bài thơ đi cùng năm tháng.

ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA – THANH THẢO

*Mở bài:

Nhà thơ Tố Hữu từng nói: “ Thơ là tiếng nói của tri âm”. Thật vậy, thơ là sự xót
thương, đồng cảm đối với những cuộc đời bi kịch, những số phận ngang trái hay thơ còn là
sự ngưỡng mộ, ngợi ca những tài năng, những đẹp bình dị, đời thường. Từ những cảm xúc
ấy, nhà thơ Thanh Thảo trong bài thơ “ Đàn ghi ta của Lor-ca” đã dựng lên một bức họa đầy
sống động về con người và những cống hiến vĩ đại mà thầm lặng của Lor-ca - người nghệ sĩ
được mệnh danh là “ con chim họa mi của đất nước Tây Ban Nha” đối với nền nghệ thuật,
chính trị của đất nước Tây Ban Nha. Bài thơ chính là sự ngưỡng mộ, thái độ trân trọng của
Thanh Thảo nói riêng, của nhân dân Tây Ban Nha bấy giờ nói chung đối với những sản phẩm
tinh thần mà Lor-ca sáng tạo ra, đó là những sản phẩm vô giá,có sức sống lâu bền, có sức lan
tỏa mạnh mẽ đến cả những độc giả yêu thơ trên toàn thế giới.

*Kết bài:

Qua chuỗi hình ảnh thơ mang màu sắc tượng trưng, siêu thực, bài thơ “ Đàn ghi ta của
Lor-ca” đã khắc họa thành công bức chân dung người chiến sĩ nhân dân chống phát xít bạo
tàn vừa mang màu sắc lãng mạn vừa mang màu sắc tráng ca. Âm vang tiếng đàn “li-la li-la
li-la” ở cuối thi phẩm như tiếng ca về sự bất tử của thi ca Lor-ca, của tâm hồn thanh cao yêu
tự do, yêu cái đẹp, yêu đất nước Tây Ban Nha mà chàng nghệ sĩ cho đến khi bước đến bên
hồn súng kẻ thù vẫn cất cao. Hay nó cũng là một biểu tượng vĩnh hằng đại diện cho sự bất tử
của các giá trị nghệ thuật.

NGƯỜI LÁI ĐỒ SÔNG ĐÀ - NGUYỄN TUÂN

*Mở bài:

Như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “ Nguyễn Tuân- một cây bút vốn luôn
khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm...”. Thật vậy, với mỗi nhà văn
họ luôn có cho mình một quan điểm sáng tác riêng theo họ xuyên suốt sự nghiệp văn học.
Nhưng có lẽ, Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi quan điểm sáng tác và phong cách
văn chương của ông có sự khác biệt rõ rệt ở thời kì trước và sau năm 1945. Nếu trước năm
1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với “Chữ người tử tù” cùng những hoài niệm về cái
đẹp của quá khứ thì sau năm 1945 ông được người ta biết đến với “Người lái đò sông Đà”
cùng một năng lượng, tình yêu tha thiết dành cho cuộc sống, dành cho thiên nhiên mà bạn
đọc có thể dễ dàng cảm nhận được. Thành công của nhà văn trong tác phẩm này không chỉ ở
việc xây dựng thành công hình tượng sông Đà sống động, chân thực mà còn ở hình tượng
người lái đò trong cuộc chiến với dòng thác dữ đầy tài hoa, điêu luyện và cũng thật dũng
cảm.
*Kết bài:

Như K.Pautopxki viết: “ Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn
đường đến xứ sở của cái đẹp”. Với tùy bút “ Người lái đò sông Đà”, ngòi bút của Nguyễn
Tuân như nở hoa trong sự hòa phối diệu kì giữa cái đẹp của ngôn từ và ánh sáng tuyệt mĩ của
chiều sâu hình ảnh, dẫn dắt bạn đọc đến với vẻ đẹp của không gian Tây Bắc cùng cái tài hoa
của những con người nơi đây. Sự đầu tư nghiêm túc, công phu và tâm tâm huyết cho nghệ
thuật của Nguyễn Tuân thật khiến ta khâm phục. Phải chăng đó chính là cái độc đáo tài hoa
của nhà văn – cái điều mà ông vẫn luôn quan niệm “ đã viết văn thì phải viết cho hay, cho
đúng cái tạng riêng của mình. Văn chương cần sự độc đáo hơn bất kì một lĩnh vực nào
khác...”.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG – HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

*Mở bài:

Trong thơ Huy Tập có viết:

“Nếu như chẳng có dòng Hương

Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi

Thương màu tím Huế đầy vơi

Sông Hương xanh suốt những lời cho nhau”.

Nếu người Hà Nội tự hào khi có con sông Hồng đỏ nặng phù sa thì người Huế lại tự
hào khi có dòng Hương Giang thơ mộng chảy qua thành phố Huế cổ kính với những lăng
tẩm hay đền đài.Sông Hương bước vào những trang văn, trang thơ hay những lời ca tiếng hát
như một niềm cảm hứng bất tận đối với tất cả các văn nghệ sĩ. Dù khác nhau về thời đại, về
thể loại hay bút pháp nghệ thuật thì sông Hương vẫn luôn mang một dáng vẻ vô cùng dịu
dàng, nữ tính, làm nên một xứ Huế rất thơ và cũng rất tình. Nằm trong mạch cảm xúc ấy làm
sao ta có thể quên được bút kí sang trọng “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” của nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Với giọng văn trầm lắng, tha thiết, Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài kí đã
bày tỏ tình yêu quê hương, thiên nhiên qua một cách rất riêng, rất lạ và cũng rất mê đắm, tài
hoa.

*Kết bài:

Bằng tài năng, sự tài hoa, sự liên tưởng tài tình, quan sát tỉ mỉ cùng sự am hiểu sâu
rộng về các kiến thức xã hội, văn hóa của xứ Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tâm
huyết cho ra đời một bút ký thật đặc sắc. Nó như họa vào lòng người đọc người nghe một
bức tranh xứ Huế và một sông Hương thơ mộng, hoàn mĩ và tuyệt đẹp. Vẻ đẹp ấy vừa gần
gũi, lại vừa thiêng liêng, nhưng cũng rất dịu dàng, e lệ và tình tứ. Tất cả như hướng độc giả
đến cái khao khát mong muốn được một lần đến thăm xứ Huế, đến thăm dòng Hương Giang
để được chiêm ngưỡng thiên nhiên xứ Huế và đắm mình vào với dòng sông Hương thơ
mộng, tươi đẹp và oai hùng.

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI

*Mở bài:
Đến với Tây Bắc - mảnh hồn thiêng của núi sông, con người ta sẽ đắm chìm vào
những bản làng hiền hòa chìm trong sương mờ, những phong cảnh núi rừng hùng vĩ nhưng
cũng rất trữ tình. Thế nhưng đằng sau những bản làng, những cánh rừng ấy lại là những cuộc
đời nghèo khổ, cơ cực, gánh vác trên đôi vai bé nhỏ là sức mạnh của thần quyền, của cường
quyền và cả của những hủ tục lạc hậu. Trong hoàn cảnh khổ vực ấy đâu đó vẫn ánh lên khát
vọng và sức sống mãnh liệt, mạnh mẽ. Tất cả những điều ấy đã được nhà văn Tô Hoài phẩm
ánh một cách chân thực qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.

*Kết bài:

“ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là truyện ngắn có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
sâu sắc khi đã lên án thế lực cường quyền, thần quyền lạc hậu, bạo tàn ở vùng núi Tây Bắc
đã đẩy con người vô tội vào tận cùng đau khổ, đọa đầy. Đồng thời nó cũng là tiếng nói cảm
thông, trân trọng của nhà văn Tô Hoài đối với những nông dân nghèo bất hạnh như Mị, A
Phủ. Giống như Nguyễn Minh Châu khi nói về sứ mệnh của các nhà văn: “ Nhà văn tồn tại ở
trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng
đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi đồn đến chân tường. Những con người cả tâm
hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và
cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh
vực”.

VỢ NHẶT – KIM LÂN

*Mở bài:

Nhà giáo Trần Đồng Minh đã từng nhận xét: “ Nhà văn dùng Vợ Nhặt là cái đồn bẩy
để nâng con người lên tình nhân ái. Câu chuyện Vợ Nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã
lóe lên những tia sáng ấm lòng”. Phải chăng “ những tia sáng ấm lòng” ấy chính là tình yêu
thương giữa con người trong hoàn cảnh khó khăn với nhau, là tinh thần lạc quan, vượt lên số
phận. Bằng sự thấu hiểu cùng tấm lòng đồng cảm sâu sắc với số phận người nông dân nghèo
khó, nhà văn Kim Lân đã thực sự chạm đến trái tim bạn đọc bởi sức sống mãnh liệt cũng như
niềm tin vào một tương lai tươi sáng của nhân vật.

*Kết bài:

Nhà văn Nga Nhicolai Ôxtropxki từng viết rằng: “ Hãy biết sống cả những khi cuộc
đời trở nên không thể chịu được nữa”. Thật vậy, truyện ngắn “Vợ Nhặt” là một tác phẩm
tiêu biểu chứng minh cho quan niệm đó. Thành công của nhà văn trong truyện ngắn này là
khắc họa một cách chân thực sâu sắc nhất về những cuộc đời nghèo khó nhưng luôn lạc
quan, yêu đời, luôn hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn, luôn biết cách cố gắng vượt lên
trên số phận. Qua đó người đọc cũng thấu hiểu được tài năng cũng như tấm lòng của nhà thơ.

RỪNG XÀ NU - NGUYỄN TRUNG THÀNH

*Mở bài:

Nhắc đến Tây Nguyên, người ta hay nghĩ đến một vùng đất hoang sơ, đầy nắng và gió,
với những con đường đất đỏ khúc khuỷu, hiểm trở. Bên cạnh đó Tây Nguyên cũng mang đến
cho người ta một cảm giác ngưỡng mộ, đáng tự hào bởi cái vẻ kiên cường, bất khuất, anh
dũng và can đảm của những con người nơi đây. Từ lâu mảnh đất ấy đã trở thành nguồn cảm
hứng bất tận của nhiều nhà văn, nhà thơ. Nằm trong mạch cảm xúc đó làm sao ta có thể quên
được truyện ngắn “Rừng xà nu” của nhà văn Nguyễn Trung Thành. Đến với tác phẩm người
đọc sẽ bắt gặp hình tượng con người Xô Man anh hùng, kiên cường cùng hình tượng cây xà
nu - một loài cây mang sức sống hoang dại, mãnh liệt tưởng như bất diệt.

*Kết bài:

Thông qua hình ảnh những cánh rừng xà nu trải dài bất tận cùng những con người Xô
Man giàu yêu thương, đoàn kết trong cuộc sống, kiên cường anh dũng trong chiến đấu nhà
văn Nguyễn Trung Thành đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực, sâu sắc
nhất về quá trình trưởng thành trong nhận thức và đấu tranh của cả cộng đồng làng Xô Man
hay cũng chính là những con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Từ đó
dựng lên bức tượng đài sử thi sáng chói về những người anh hùng yêu nước đã vùng lên đấu
tranh, hi sinh xương máu để bảo vệ nền độc lập dân tộc.

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - NGUYỄN MINH CHÂU

*Mở bài:

Nguyễn Minh Châu được mệnh danh là người mở đường tinh anh và tài hoa của nền
văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới. Bằng sự thức thời, nhạy bén của người nghệ sĩ nhà văn
không chỉ nhận ra nhu cầu đổi mới nền văn học mà còn chủ động đi đầu trong công cuộc tìm
kiếm những cách tân nghệ thuật ấy. Nếu trước năm 1975 người ta biết đến ông với những
trang sách viết về đề tài chiến tranh, người lính đậm nét thì sau đổi mới ông lại được biết đến
bởi sự sáng tạo, tài hoa trong cách quan sát, tìm kiếm, khám phá những vấn đề thế sự nổi
cộm. Ông khám phá con người trong cuộc sống mưu sinh đầy cực nhọc, vất vả thời hậu
chiến, đồng cảm, thấu hiểu và xót thương cho những số phận đó, để từ đó ông tìm ra “ hạt
ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm hồn con người”. Tiêu biểu cho phong cách sáng tác ấy của
ông là truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa”.

*Kết bài:

Khép lại tác phẩm cùng với một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau
bức tranh ấy, Nguyễn Minh Châu đã để lại trong lòng bạn đọc nhiều suy ngẫm. Trước hết
con người nên có một cái nhìn đa điện, nhiều chiều để khám phá, phát hiện ra bản chất thật
sau vẻ đẹp bên ngoàicura hiện tượng. Từ đó truyện ngắn còn khẳng định mỗi người trong
cuộc đời, nhất kaf với những người nghệ sĩ không thể điện giản và sơ lược khi nhìn nhận về
cuộc sống và con người.

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH - NGUYỄN THI

*Mở bài:

Nhận xét về phong cách sáng tác trong văn Nguyễn Đình Thi có ý kiến cho rằng: “
Văn Nguyễn Đình Thi thấm đượm chất triết lí - một thứ triết lý thoát ly sách vở và bật lên từ
những tình huống hiện thực, từ mạch ngầm tâm lí... Truyện Nguyễn Thi thường hồn nghiền
rành mạch một cách sâu sắc...”. Thật vậy, thông qua truyện ngắn “Những đứa con trong gia
đình” của ông, bạn đọc không khó để nhận ra sự hòa quyện, gắn bó giữa tình cảm gia đình
với tình yêu Tổ quốc. Từ đó, nhà văn cũng đem đến một cái nhìn chân thực về tinh thần đoàn
kết, cũng như ý thức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân miền Nam nói riêng, của dân tộc Việt
Nam nói chung trong cuộc chiến giành độc lập.
*Kết bài:

Hòa chung với không khí sử thi, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thơ văn kháng
chiến, Nguyễn Đình Thi đã mang đến một truyện ngắn vô cùng đặc sắc. “Những đứa con
trong gia đình của Nguyễn Đình Thi không chỉ khai thác cái dữ dội, ác liệt của không gian
cuộc kháng chiến mà còn hướng ngồi bút đến với không gian ấm cúng, sum vây của một gia
đình. Thông qua đó nhà văn khẳng định những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người,
những phẩm chất được nuôi dưỡng từ truyền thống gia đình, truyền thống yêu nước.

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT – LƯU QUANG VŨ

*Mở bài:

Có thể nói nền văn học của Việt Nam ta vô cùng phong phú, đa dạng, với vô vàn thể
loại khác nhau từ truyện, thơ... và mỗi thể loại lại thể hiện những nội dung, lĩnh vực khác
nhau, tạo cho con người cái nhìn đa chiều, toàn diện hơn về cuộc sống. Một trong số những
thể loại văn học chứa đựng nhiều bài học, triết lí sắc sắc chính là kịch. Một đại diện tiêu biểu
của thể loại kịch vô cùng nổi tiếng chính là tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu
Quang Vũ.

*Kết bài:

Qua tác phẩm “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nhà văn đã giúp bạn đọc mở mang tầm
hiểu biết, thêm đồng cảm, yêu thương nhân vật ông Trương Ba. Đồng thời tắc phẩm cũng thể
hiện tài năng uyên bắc của tác giả Lưu Quang Vũ trong việc dùng ngòi bút của mình để khắc
họa thành công nhân vật. Có người từng nói: “ Nếu cuộc đời toàn chuyện xấu xa, tại sao cây
táo lại nở hoa? Sao rãnh nước trong veo đến thế”. Có thể thấy nhiều năm tháng qua đi nhưng
câu chuyện vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và đường như nó cũng
trở thành nguồn động lực để con người ta tiếp tục cố gắng, gồng gánh với cuộc sống này.

1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP


● MỞ BÀI

Dân tộc Việt Nam ta có rất nhiều mốc thời gian được xem là dấu ấn không thể phai mờ
trong lịch sử . Ví như mùa Xuân năm Tân Tỵ 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (bí danh Lý
Thụy) vượt qua cột mốc 108 biên giới Việt-Trung vào ngày mùng 2 Tết Nguyên đán, khép
trọn hành trình 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin, thành
lập Đảng cộng sản Việt Nam, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, hoặc là việc ký Hiệp
định Pa-ri 1973 trở thành là tiền đề tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước năm 1975,… và ngày không thể nào quên nhất của nhân dân Việt Nam ta nhất đó là
ngày 2 tháng 9 năm 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản truyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, và đó cũng chính là một dấu ấn không bao giờ phai mờ
trong lịch sử dân tộc, trong tâm trí của người dân Việt Nam. Bản tuyên ngôn độc lập cũng
chính thức mở ra cho nhân dân Việt Nam ta một con đường mới, không còn gió tanh mưa
máu, không còn tiếng khóc của trẻ con và quả phụ, kết thúc những ngày tháng khói đạn mù
mịt,…. Trên con đường mới đó chỉ có độc lập, tự do và hạnh phúc.
● KẾT BÀI

Tóm lại qua những câu từ chặt chẽ, lý lẽ không thể bác bỏ kết hợp với giọng văn hùng
hồn Tuyên ngôn độc lập xứng đáng được gọi là một án “ thiên cổ hùng văn”, kế thừa ánh hào
quang của “ Nam quốc sơn hà” và “ Bình ngô đại cáo”, từ đó ta có thể khẳng định rằng đây
chính là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Dẫu đã rất nhiều năm trôi qua bản Tuyên
ngôn độc lập đối với đồng bào Việt Nam ta đã như một mốc son đánh dấu sự chấm dứt một
thời kỳ đầy đen tối âm u của đất nước ta hàng ngàn năm, chấm dứt chế độ thuộc địa của thực
dân Pháp kéo dài gần một trăm năm và mở ra một con đường mới đầy ánh sáng. Và cuối
cùng hy vọng là Tuyên ngôn độc lập sẽ mãi mãi lưu lại dấu ấn trong lòng hậu thế về sau,
truyền tải những giá trị tốt đẹp nhất.

2. TÂY TIẾN
● MỞ BÀI

“ Có những chàng trai trẻ


Nhựa sống ngập đường gân
Đã từng đi xa gần
Đem máu thề rửa hận ”
< Duy Liên >
          Những chàng trai ấy là những người lính cụ Hồ, hình tượng của họ đã trở thành một đề
tài hấp dẫn trên diễn đàn văn chương Việt Nam. Nhất là trong thời kì kháng chiến chống
Pháp, hình tượng người lính như một que diêm đốt cháy lên ngọn lửa của những người yêu
văn chương thời kỳ bấy giờ, trong đó có Quang Dũng. Ông vừa là nhà thơ, vừa là người
chiến sĩ, chính vì vậy Quang Dũng có trong mình những hiểu biết và tình cảm sâu sắc về thời
kì đầy khói lửa bom đạn ấy. Với tâm hồn phóng khoáng, lãng mạn, hồn hậu Quang Dũng đã
đem đến cho đời một tác phẩm mang tên Tây Tiến. Qua tác phẩm Quang Dũng đã vẽ nên
một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc và chặn đường hành quân đầy gian khổ thông qua lăng
kính lãng mạn.
● KẾT BÀI
Bằng bút pháp hiện thực thông qua lăng kính lãng mạn Quang Dũng đã thành công
trong việc khắc họa một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc và chặn đường hành quân đầy gian
khổ của người lính cụ hồ một đời vất vả gian truân vì nước quên mình. Đồng thời cũng thay
tất cả đọc giả trên mọi miền tổ quốc gửi đến Quang Dũng lời cảm ơn chân thành và sâu sắc
nhất vì đã xây nên một bức tượng đài về người lính đi vào lịch sử đi vào lòng người, họ là
những người anh hùng bất khuất, là những huyền thoại của thế kỷ hai mươi, sống mãi cùng
tháng năm. Và có lẽ chính vì vẻ đẹp của người lính Tây Tiến “ người đi không hẹn ước” đã
góp phần tạo nên nguồn sức mạnh to lớn. Đó là những tình cảm của người đồng chí, đồng
đội, là tình yêu quê hương đất nước đã hòa quyện cùng máu thịt của những con người Việt
Nam chính những tình cảm đó đã góp phần tạo nên nhiều trận chiến thắng vinh quang trong
lịch sử dân tộc:
"Ôi! Tổ quốc, ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng!
Ôi Tổ quốc! Nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…"
< Chế Lan Viên >

3. VIỆT BẮC
● MỞ BÀI
  Tố Hữu là lá cờ đầu của phong trào thơ ca cách mạng. Ông có rất nhiều tập thơ trong
đó “ Việt Bắc ” được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Ở những câu đầu
của bài thơ tác giả đã thành công khi khắc họa khung cảnh chia tay và tâm trạng của kẻ ở
người đi. Tố Hữu là một nhà thơ mang phong cách trữ tình và chính trị. Trữ tình là giải bày
và lưu trữ cảm xúc, còn chính trị là viết về những vấn đề lớn trọng đại mang tính dân tộc. Là
một nhà thơ cách mạng Việt Nam, được giác ngộ lý tưởng cộng sản từ rất sớm. Tháng 10
năm 1954 sau thắng Điện Biên Phủ đầy kiêu hãnh của dân tộc ta, Tố Hữu đã thổi vào cánh
đồng văn chương Việt Nam một bài thơ mang tên Việt Bắc và in trong tập thơ cùng tên. Việt
Bắc được nhìn nhận như một bản tổng kết về cuộc kháng chiến trường kì gian khổ chống
Pháp của nhân dân ta, ví thế bài thơ vừa mang ý nghĩa lịch sử đồng thời mang ý nghĩa văn
học sâu sắc. Cũng có ý kiến cho rằng: “ Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng
là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến”.
● KẾT BÀI
Hoàng Trung Thông đã từng nói: “ Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng
những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất
giai cấp, từ đời sống thực. Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc,
chính là người nông dân nghèo khổ” .Bởi thế khi đọc Việt Bắc ta sẽ cảm nhận được tình yêu
thiên nhiên, con người một cách tha thiết đồng thời cũng là tấm lòng yêu quê hương đất nước
của Tố Hữu. Kết hợp với âm điệu trữ tình, lời thơ giản dị trong sáng, thể hiện niềm rung
động và cảm giác bịn rịn của người lính trước vẻ đẹp, sự nguy hiểm của núi rừng và con
người Việt Bắc. Cuối cùng thay tất cả độc giả trên mọi miền tổ quốc gửi đến  Tố Hữu lời
cảm ơn trân thành sâu sắc nhất vì đã mang đén cho đời một tác phẩm xứng đáng trở thành bài
ca bất hủ trong văn học dân tộc viết về tình yêu quê hương đất nước, mang giá trị tồn tại mãi
cho đến ngày nay.
4. ĐẤT NƯỚC
● MỞ BÀI
Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng sử thi
và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang- chiến tranh cách mạng” thì
các đề tài xây dựng đất nước, hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều tác giả chọn đưa vào
tác phẩm của mình mới những vần thơ, lời văn chân thành tha thiết, thấm đẫm hào khí dân
tộc. Ví như Tố Hữu với “Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn,
Người ơi!”, Chế Lan Viên với “Sao chiến thắng”, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải
phóng quân đã tạo nên “Dáng đứng Việt Nam”. Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc
qua “Đất Nước” – một chương thơ trong trường ca “Mặt đường khát vọng”. Nguyễn Khoa
Điềm là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
thế nên ông đã chọn cho mình đề tài đất nước để sáng tác, giữa những năm tháng cuộc chiến
đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục sôi máu lửa, thế nhưng không vì thời điểm đất
nước đang trong khoảng thời gian mưa bom bão đạn mà đặt nặng trong tác phẩm của mình
màu sắc tuyên truyền, ồn ào, rộn rã mà ông lại chọn cho mình hướng đi ngược lại hoàn toàn
đó là những êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc. Ông đã nhìn nhận Tổ quốc từ những

điều giản dị, từ những con người rất đỗi bình thường. Những chương thơ trong tác phẩm đã
thể hiện một cách sâu sắc vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng lớn của thời đại “Đất nước của
nhân dân”. 

● KẾT BÀI
Thông qua tác phẩm người đọc dễ dàng cảm nhận được tình yêu thương chân thành
giản dị của tác giả gửi đến đất nước. Chính vì tình cảm thiên liêng cùng với lối viết theo lối
quy nạp, biểu hiện nội dung chính luận một cách trữ tình bằng cách mượn các chất liệu văn
hóa dân gian thân thuộc đó đã giúp cho tác giả sáng tác ra những vần thơ tuyệt tác hay đến
như vậy. Sử dụng giọng điệu tâm tình, tha thiết, sâu lắng như giọng điệu của đôi lứa yêu
nhau làm cho nội dung nghị luận vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào thấm sâu vào
lòng người. Cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ đã làm con người xích lại gần nhau, yêu
thương nhau, cùng nhau đoàn kết một lòng hướng đến một nhiệm vụ chung đấy là bảo vệ Tổ
Quốc, bảo vệ những gì mà ông cha ta từ xa xưa đã bỏ ra biết bao xương máu để gìn giữ.

5. SÓNG
● MỞ BÀI
“ Làm sao sống được mà không yêu,
Không nhớ không thương một kẻ nào. ”
<  Xuân Quỳnh >
          Đề tài tình yêu là một nguồn cảm hứng bất tận trong thi ca Việt Nam, ví như Xuân
Diệu một tình yêu khao khát luôn muốn hiến dâng, Nguyễn Bính là một trái tim luôn mơ
màng, tìm kiếm tình yêu đồng đội,…., đến với nhà thơ Xuân Quỳnh ta sẽ cảm nhận tình yêu
trong thơ của bà là một thứ tình cảm đời thường hơn bao giờ hết. Cảm xúc lúc yêu của người
con gái cũng cũng được nhà thơ diễn tả rất chân thực, phong phú , phức tạp, rạo rực và cháy
bỏng. Mặc dù trưởng thành trong thời kì mưa bom bão đạn nhưng trong trái tim bà vẫn chứa
đựng nỗi khát khao hạnh phúc bình dị. Tập thơ “ Hoa dọc chiến hào” là một tập thơ vô cùng
đặc sắc trong sự nghiệp sáng tác của bà, trong đó tác phẩm Sóng chính là vết son đẹp nhất
trong tập thơ, tác phẩm được sáng tác năm 1967 trong một chuyến đi thực tế ở vùng biển
Diêm Điền, tỉnh Thái Bình. Tác phẩm là nỗi niềm của một người con gái khi yêu, lúc thì thiết
tha cháy bỏng, lúc thì dịu dàng đằm thắm muốn vươn qua bức tường rào cản của không gian
và thời gian để tìm đến một tình yêu thủy chung trường tồn mãi mãi.
● KẾT BÀI
Qua tác phẩm Sóng, với giọng điệu hết sức tự nhiên của mình, Xuân Quỳnh đã khéo
léo thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người con gái khi yêu vừa có nét hiện đại qua cách thổ
lộ tình cảm hết sức táo bạo, mãnh liệt cháy bỏng cả trong mơ, nhưng không thiếu đi cái khí
chất truyền thống vốn có của người con gái Việt Nam đó là dịu dàng, đằm thắm, ân tình và
thủy chung. Cuối cùng, xin thay mặt tất cả độc giả trên khắp mọi miền tổ quốc gửi đến nhà
thơ lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất vì đã mang đến cho đời tác phẩm Sóng, dù đã ba
mươi năm trôi qua nhưng độ nồng nàn, đắm say của tác phẩm vẫn không hề phai mờ theo
năm tháng trong lòng người đọc. Đồng thời cho ta thấy cái “ tôi” tràn đầy niềm khao khát
hướng về một tình yêu thủy chung tuyệt đối, giống như trái tim đang yêu trong vần thơ của
bài thơ “ Tự hát”:
“ Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi…”

6. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


● MỞ BÀI

“ Tây Bắc ư ? Có riêng gì Tây Bắc


Khi lòng ta đã hóa những con tàu”
( Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên )

Tây Bắc là một vùng núi mà khi con người ta có được một cơ hội để chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của nó sẽ khiến cho trái tim luôn thương nhớ thổn thức về nó rất nhiều. Trong những
năm 1958 đến 1960 khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ
đến với nơi đây để tìm kiếm cho mình nguồn cảm hứng mới. Đã có rất nhiều tác phẩm xuất
sắc được nhiều nhà văn lấy cảm hứng từ vùng đất này, ví như Tô Hoài với tập “truyện Tây
Bắc”, hay Nguyễn Khải với “Mùa Lạc” thì khi đến với Nguyễn Tuân ta được có vơ hội lại
thăng hoa trên mảnh đất này với tập “Tùy bút Sông Đà” và linh hồn là bài kí “Người lái đò
Sông Đà”. Là một nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân đã đi khắp mảnh đất hình
chữ S này, nhưng ông lại chọn Tây Bắc làm nơi cho ra đời đứa con tinh thần của mình là bởi
chỉ có nơi đây mới thỏa mãn nhãn quan sáng tác của ông. Tùy bút sông Đà là những trang
văn được viết bằng ngôn ngữ điêu luyện, những đoạn tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội,
hoặc cảnh thiên nhiên đẹp đến tuyệt đỉnh, nhưng lấp lánh giữa những vẻ đẹp ấy là hình ảnh
con sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình và lãng mạn.

● KẾT BÀI
Viết về người lái đò Sông Đà, viết về một vùng đất của Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã thể
hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết với người lao động và thiên nhiên đất nước. Sông
Đà càng đẹp, càng sinh động thì ông lái đò hiện lên càng anh dũng, ngoan cường trong lao
động, ta lại càng thấy được bản lĩnh, tấm lòng và tài năng của Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát
hiện ra trong con người bình dị ấy “ thứ vàng mười đã qua thử lửa” của núi rừng Tây Bắc.
Cuộc sống quanh ta vốn rất cũ kĩ, tầm thường, gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, ngày lại qua ngày..
nhà văn chính là người đã mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi hơn,diệu kì hơn. Đọc
Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa
công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như
một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của
Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý
thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự
giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ.

7. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG


● MỞ BÀI
Ta về thăm Huế mộng mơ
Câu thơ ai thả lững lờ trên sông
Nghe mênh mang, thổn thức lòng
Con thuyền buông lái giữa dòng Hương Giang.
( SÔNG HƯƠNG CHIỀU NHẠT NẮNG - Vũ Nguyên Đạt )

Chẳng biết tự bao giờ sông Hương đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào và tốn không
biết bao nhiêu giấy bút của giới văn nhân, thi sĩ. Khi nhắc tới thủ đô Paris hoa lệ, người ta
không thể không nói tới dòng sông Seine nổi tiếng cũng như khi nhắc đến cố đô Huế, sẽ
không ai có thể quên được dòng Hương giang chảy trôi hiền hòa giữa lòng thành phố. Sông
Hương là không chỉ là một biểu tượng mà còn là niềm tự hào của người dân xứ Huế. Có lẽ
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “phải lòng” sông Hương – xứ Huế chính bởi vẻ đẹp nao lòng
như một lần gặp gỡ định mệnh từ đó mà gắn bó với mảnh đất này hơn 40 năm.Và cũng chính
vì tình yêu gửi hết vào dòng sông nên ông đã sáng tác ra một bài kí trang trọng. Cả bài kí
dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải “Ai đã đặt tên cho dòng
sông” .Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào
hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn
sự rung động. Con sông xứ Huế hiện lên trong cuộc tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã
không chỉ là con sông địa lý mà là một sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là
Kiều, rất Kiều” vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm
thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó.

● KẾT BÀI

Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường quả là một người có trái tim nhạy cảm và tâm hồn
phong phú khi đã nhìn và cảm nhận con sông Hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác
nhau. Sông Hương nó không chỉ là một cảnh đẹp của xứ Huế mà còn là một chứng nhân lịch
sử ghi lại biết bao năm tháng hào hùng của dân tộc. Thông qua tùy bút nhà văn đã có dịp bộc
lộ bút pháp nghệ thuật độc đáo, tài hoa và phong tình củachính mình. Tác giả đã tạo nên chất
thơ quyến rũ làm I say lòng người. Những tri thức về địa lí, văn hóa, thi ca, âm nhạc hòa
cùng với tình cảm yêu thương, cảm xúc chân thành của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên
một bức tranh tuyệt đẹp đầy lãng mạn về dòng sông Hương, đấy là một vẻ đẹp rất riêng, rất
dịu dàng và cũng đậm chất Huế khiến người đọc muốn một lần đến đó tận hưởng, nhìn ngắm
những gì mà tác giả vẽ nên trong bức tranh.
8. ĐÀN GUITAR CỦA LORCA
● MỞ BÀI

Thanh Thào là một trí thức mang trong lòng nhiều trăn trở về các vấn đề xã hội và thời
đại, những tác phẩm của nhà thơ đều giàu chất suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm
và nhuốm màu sắc tượng trưng siêu thực. Thanh Thảo đã từng quan niệm: “ Với những bài
thơ hay, thi sĩ phải sáng tạo bằng cả thể xác lẫn tâm linh mình.. phần tích điện, phần thu góp
là cả một quá trình nhưng sáng tạo thì lại là khoảnh khắc. Khoảnh khắc ấy càng xảy ra càng
đột ngột bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu”. Bài thơ Đàn ghi ta của Lorca là một sản phẩm
tuyệt vời của quá trình tích điện, thu góp và sáng tạo ấy. Đàn ghi ta là niềm tự hào xưa nay
của xứ sở Tây Ban Nha, còn Lorca là một nghệ sĩ sáng tạo, ca ngợi và tôn vinh sự tự do bằng
lời thơ, tiếng hát. Trước một Tây Ban Nha dưới sự cai trị của chế độ độc tài đã trở nên phản
động về chính trị và già cỗi về nghệ thuật, Lorca đã nồng nhiệt đứng lên cổ vũ nhân dân đấu
tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng đồng thời cũng khởi xướng và thúc
dẩy mạnh mẽ những cách tân trong lĩnh vực nghệ thuật. Lorca đã tự nguyện làm người du ca
đi lang thang với cây đàn ghita hát lên những bài ca lãng tử, dùng tiếng đàn giãi bày nôĩ đau
buồn và niềm khát vọng yêu thương của nhân dân.

● KẾT BÀI

“Đàn ghita của Lorca” quả là một bài thơ xuất sắc nhất mọi thời đại, lưu lại dấu ấn khó
quên trong lòng người đọc. Nó xuất sắc ở chỗ không chỉ tạo dựng chân dung của một người
nghệ sĩ, chiến sĩ Phêđêricô Gaxia Lorca  một cách chân thực mà còn giúp người đọc cảm
nhận sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn và tính cách đậm chất Tây Ban Nha của Lorca. Bài thơ là sự
hòa nhập chất nhạc đặc biệt của thơ Lorca và năng lượng sáng tạo đặc biệt của hồn thơ
Thanh Thảo. Nhạc điệu của bài thơ không phải là chất nhạc do âm, vần hay thanh điệu đem
lại mà là giai điệu xuất phát từ chính tâm hồn, của hai trái tim đồng điệu cùng lí tưởng và
khát vọng nên khó thấy hơn và cũng dễ ám ảnh hơn. “Đàn ghita của Lorca” cũng là tiếng nói
tri âm của người nghệ sĩ với người nghệ sĩ, người chiến sĩ với người chiến sĩ. Sự đồng cảm
của Thanh Thảo và Lorca trong bài thơ vừa cho người đọc hiểu sâu hơn về Lorca vừa cho
người đọc một cái nhìn trọn vẹn hơn về con người Thanh Thảo - một trí thức giàu suy tư và
một người nghệ sĩ tràn đầy nhiệt huyết, lí tưởng. “ Đàn ghita của Lorca” như là sự tiếp nối
trọn vẹn cái mạch thơ đã được khơi dòng từ trường ca “Những người đi tới biển ”.

“ Chúng tôi đi không tiếc đời mình


Tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc ”.

9. VỢ CHỒNG A PHỦ
● MỞ BÀI
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại 1945 đến 1975, cùng với thơ, truyện ngắn là một
trong hai thể loại có thành tựu nổi bật, được nhiều đọc giả quan tâm. Bên cạnh những truyện
ngắn có giá trị viết về đề tài chiến đấu và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, song song đó còn
có những truyện ngắn viết về cuộc sống thường ngày với nộ dung chủ yếu là đi sâu vào phản
ánh số phận người lao động, đặc biệt là số phận người phụ nữ, khám phá những khát vọng tự
do và vẻ đẹp tiềm ẩm trong tâm hồn họ, ý thức phản khác những thế lực cai trị độc tài, khát
vọng khôi phục và bảo vệ gìn giữ những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Và nhà văn Tô Hoài,
với những kiến thức về những phong tục tập quán của người dân niền núi Tây Bắc kết hợp
với sự nhân đạo từ trong cốt tủy ông đã vẽ nên một bức tranh sâu sắc về hiện tực cuộc sống
với hai màu đen trắng, hai thái cực đối lập nhau ấy chính là bọn phong kiến chúa đất và
những người dân lao động nghèo khổ như Mị và A Phủ.

● KẾT BÀI

Thông qua tác phẩm người đọc có thể thấy được cái tâm của Tô Hoài dành cho đứa
con tinh thần của mình chính là sự trân trọng, đồng cảm xoáy sâu ngòi bút nhằm khơi dậy
những phẩm chất đẹp đẽ, giá trị tiềm ẩm, niềm khát vọng được sống hạnh phúc và tự do. Dù
đã nữa thế kỷ trôi qua nhưng hình ảnh về hai vợ chồng A Phủ vẫn còn lưu lại trong tim mỗi
người. Qua đó cho người đọc thấy được sự bất tử của nghệ thuật như câu nói của Sê – đư –
rin: “ Văn học nghệ thuật luôn đứng ngoài những quy luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó
không thừa nhận cái chết ”. Cuối cùng, xin gửi đến tác giả Tô Hoài lời cảm ơn chân thành
sâu sắc nhất vì đã mạnh dạng dùng ngòi bút đầy tài năng và nghệ thuật của mình vạch trần bộ
mặt giả dối độc ác của bọn tay sai địa chủ và thực dân độc ác.

10.VỢ NHẶT
● MỞ BÀI

Nạn đói năm Ất Dậu 1945 là một thảm họa đối với người dân khắp cả nước. Nạn đói
đã cướp đi mạng sống của hai triệu đồng bào. Khiến hàng trăm ngàn người phải rời bỏ quê
hương, ly tán khắp nơi sau nạn đói nhiều gia đình không thể tìm lại người thân đã bị mất tích,
tình cảnh con mất cha, vợ mất chồng, những người mẹ già phải trở thành người đầu bạc tiễn
kẻ đầu xanh,…. Và viễn cảnh đó đã được thể hiện vô cùng chân thực, rõ nét trong tác phẩm
Vợ Nhặt, dưới ngòi bút của Kim Lân, tác phẩm đã thể hiện vô cùng chân thực, rõ nét trong
tác phẩm Vợ Nhặt, dưới ngòi bút của Kim Lân, tác phẩm đã tái hiện lên một khung cảnh năm
1945 với những người nông dân cùng cực, khốn khổ, thê thảm và thân phận tủi nhục của
người nông dân khi bị bọn thực dồn vào chỗ chết.

● KẾT BÀI

Thông qua tác phẩm Vợ Nhặt đã thể hiện sự đồng cảm, tình thương của những con
người cùng khổ với nhau. Nói lên khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc dù họ đang ở trên bờ
vực cái chết. Đồng thời phê phán chế độ thực dân Pháp và bọn tay sai độc ác đã gây ra cho
đất nước ta một khoảng thời gian tâm tối như chốn địa ngục. Và khi con người đứng trước
cái đối, cái chết, giá trị của họ cũng thật rẻ rúng. Điển hình chính là Thị, bỏ hết lòng tự trọng
để theo không một người đàn ông xa lạ. Tác phẩm được Kim Lân sử dụng lối ngôn ngư giản
dị, giàu chất tạo hình, tình huống truyện đặc sắc, nghệ thuật phân tích diễn biến tâm lý nhân
vật tinh tế sắc xảo. Cuối cùng, thông qua tác phẩm cũng xin gửi đến nhà văn Kim Lân lời
cảm ơn trân thành nhất vì đã thổi vào cánh đồng văn chương Việt Nam một tác phẩm khiếm
người đọc phải khắc ghi mãi trong tim.

11. RỪNG XÀ NU
● MỞ BÀI

Miền đất rừng núi Tây Nguyên thiên nhiên dạt dào sức sống, đây cũng là nơi gắng bó
của biết bao thế hệ những con người bất khuất, kiên trung và họ cũng là một nguồn đề tài lớn
của văn nghệ thuật rất nhiều nhà văn. Tiêu biểu nhất chính là nhà văn Nguyễn Trung Thành,
ông đã gắn bó với đề tài này từ khá sớm. Cuốn truyện kí “Đất nước đứng lên” của ông là một
tuyệt bút ghi lại một thành tựu xuất sắc của nền văn học kháng chiến chống Pháp. Truyện
ngắn “Rừng xà nu” chính là sự tiếp nối hướng sáng tác này trên bối cảnh mới của thời đại.
Ra đời trong khoảng thời gian đất nước đang chiến đấu đầy máu lửa, hào hùng, quyết tâm
một lòng đánh đuổi giặc Mĩ (1965). Và khi đến vơi tác phẩm “Rừng xà nu” ta sẽ được dịp trở
về với miền đất Tây Nguyên ở thời kì chịu nhiều mất mát, đau thương nhưng kiên cường bất
khuất. Nhưng những mất mát ấy càng tô đậm nên phẩm chất anh hùng con người Tây
Nguyên, con người của những người lính máu đỏ da vàng tình nguyện ngã xuống xuống để
đất nước đứng lên.

● KẾT BÀI

Đọc “ Rừng xà nu ” ta lại càng thêm yêu mến và trân trọng hơn nữa những con người
Tây Nguyên anh hùng, có tâm hồn trong sáng thủy chung. Kết hợp với điểm nhìn đậm chất
điện ảnh giúp cho hình ảnh cây xà nu hiện lên một cách chân thực và rõ nét “ Tôi yêu say mê
cây xà nu. Ấy là một cây hùng vĩ và cao thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút,
vạm vỡ ứ nhựa. Tán lá vừa thanh vừa rắn rỏi, mênh mông tưởng như đã sống ngàn đời, còn
sống đến ngàn đời sau”. Trong dụng ý miêu tả của mình, Nguyễn Trung Thành đã lựa chọn
cánh rừng xà nu bạt ngàn nằm cạnh con nước lớn, chạy xa tít tắp đến tận chân trời để làm
nền cảnh cho tác phẩm của mình, để từ đó hiện lên là hình ảnh một tập thể anh hùng Tây
Nguyên bất khuất, kiên cường.

12. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA


● MỞ BÀI

Có người đã từng nói rằng một người cả đời không đọc một tác phảm văn học nào cả
thì khi họ chết đi họ chỉ sống một cuộc đời. Nhưng nếu một người khi còn sống, họ có đọc
một nghìn tác pẩm thì khi chết đi họ sẽ được sống và được thấu hiểu một nghì cuộc đời. Thật
vậy, mỗi tác phẩm nó sẽ chứa đựng một câu chuyện, một thế giời khác nhau nên khi đọc một
tác phẩm ta như có thêm một thể nghiệm về con người. Ta sẽ biết được cách sẻ chia, cảm
thông,… khi ta đã học được cách nhìn cuộc sống với một cái nhìn đa chiều. Và trong truyện
ngắn Chiếc thuyề ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng đac dùng cái nhìn đa chiều đó
mang đến những hình ảnh tồn tại mãi trong trái tim người đọc về một nhân vật được gọi là
người đàn bà hàng chài.

● KẾT BÀI

Như một con tằm chăm chỉ Nguyễn Minh Châu đã tỉ mẫn, chắc chiu để mang đến cho
đời những sợi tơ văn chương vàng óng, làm nổi bật lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
sống, từ đó đánh thức thị giác của từng con người và trong đó có cả nhà văn phải nhìn nhận
lạ hiện thực của cuộc sống. Tóm lại, thông qua tác giả ta có thể thấy được thấp thoáng bên
trong người đàn bà lam lũ, lấm láp của cuộc sống đời thường này chính là đại diện cho biết
bao người phụ nữ Việt Nam bao dung, nhân hậu, giàu đức hy sinh, luôn vì chồng con. Mà
những vẻ đẹp lam lũ, lấm láp ấy ta sẽ không bao giờ thấy được nếu chỉ đọc tác phẩm một
cách sơ lược, hay chỉ hiểu theo hương một chiều. Từ hình tượng người đàn bà hàng chài,
Nguyễn Minh Châu đã thể hiện lòng nhân hậu sâu sắc, qua đó giúp bạn đọc cảm nhận rõ
được sự thấu hiểu, niềm cảm thông và tình yêu thương mà tác giả gửi đến nhân vật người đàn
bà hàng chài nói riêng và những gười phụ nữ Việt Nam nói chung.

13. HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT


● MỞ BÀI

Lưu Quang Vũ là một nhà viết kịch xuất sắc nhất mọi thời đại, ông đã xây dựng thành
công rất nhiều tác phẩm kịch nói hiện đại như: “ Lời thề thứ 9 ”, “ Mùa hạ cuối cùng ”,
“Bệnh sĩ”, “ Nàng Sita ” và đặc sắc nhất phải nhắc đến“ Hồn Trương Ba, da hàng thịt ” khi
ông đã lồng vào trong vở kịch những triết lí nhân văn, đạo đức sâu xa về con người, về cuộc
đời, về sự sống và cái chết. Đây được xem như tiết mục kịch đặc sắc nhất của nhà viết kịch
tài ba này. Rất nhiều những sân khấu kịch lớn nhỏ tại Việt Nam diễn vở kịch và trong khuôn
khổ nhà trường, rất nhiều trường cấp ba, đại học diễn lại vở kịch với sự ngưỡng mộ và yêu
quý tác giả cũng như bộ môn kịch Việt Nam. Vở kịch không chỉ mang ý nghĩa triết lí về
nhân sinh, về hạnh phúc con người mà trong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu
Quang Vũ cũng muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy
giờ, những mặt trái của cuộc sống, sự chuyên quyền của những giai cấp thống trị và đến nay
vẫn còn nguyên giá trị.

● KẾT BÀI

Thông qua tác phẩm người đọc dường như cũng hiểu được hạnh phúc đích thực của
cuộc sống là khi con người được sống thật với chính mình, không bị ép buộc phải sống theo
ý chí của người khác. Thông qua vở kịch Lưu Quang Vũ đã thành công truyền tải một quang
niệm sống đúng đắng đậm chất triết lý và tư tưởng nhân văn đó là: Trước hết, hãy sống là
chính mình. Chính vì những điều mà Lưu Quang Vũ đã thổi vào vở kịch đã tạo nên dấu ấn
khó phai trong lòng người đọc, để rồi sau bao năm tháng trôi qua khán giả của vở kịch vẫn
không sao quên được cảnh Trương Ba ra đi, để lại xác anh hàng thịt, quyết tâm thà chọn cái
chết còn hơn sống nhờ, sống gửi, làm theo những cái sai khiến phàm tục. Sự ra đi này thể
hiện ước muốn được sống với chính bản thân mình của Trương Ba, đồng thời chứa đựng
nhiều giá trị nhân văn sâu sắc mà Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm.

14. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH


● MỞ BÀI
“Lớp cha trước lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành”
( Tiếng hát sang xuân – Tố Hữu )

Qua những hình ảnh người lính cầm súng chiến đấu trong thơ Tố Hữu hay hình ảnh
của chú bé Lượm đưa thư liên lạc đáng yêu và vô cùng dũng cảm, chẳng hề sợ hãi trước cảnh
"đạn bay vèo vèo" để hoàn thành được nhiệm vụ giữ liên lạc và đưa những lá thư thượng
khẩn cấp bạc phục vụ cho kháng chiến. Thì đến với tác phẩm “Những đứa con trong gia
đình”, nhà văn Nguyễn Thi đã viết về một gia đình lớn mỗi người có những nét tính cách
không giống nhau nhưng cùng chung một lí tưởng lớn. Với bút pháp miêu tả nhân vật điêu
luyện, bức chân dung dần hiện lên rõ rệt sống động. Đó là những người nông dân Nam bộ có
lối sống giàu nghĩa tình, bộc trực và thẳng thắng, họ là những con người có tình yêu nước
nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, họ mang trên mình một vẻ đẹp sáng ngời khi chiến đấu,
trong những phút giây đời thường, một vẻ đẹp mộc mạc giản dị. Và tất cả vẻ đẹp ấy đã được
kết tinh trọn vẹn nhất ở trong hai nhân vật Chiến và Việt.

● KẾT BÀI

Chiến tranh qua đi, lịch sử nước nhà cũng không ngừng dịch chuyển nhưng những gì
mà tác phầm “ Những đứa con trong gia đình ” tạo nên vẫn luôn tồn tại mãi trong tim mỗi
người. Bụi thời gian cũng phải nghiên mình trước vẻ đẹp của những con người Việt Nam
năm xưa đã vì nước quên mình, giành lại độc lập cho tổ quốc, để rồi ngày hôm nay chúng ta
mới được sống trong ấm no, hạnh phúc. Từ đó ta lại cất lên những tiếng ca trong trẻo về tình
yêu quê hương, tình yêu con người, hay lớn lao hơn cả đó là tình yêu đất nước, tình yêu dân
tộc, để cho những người con Việt Nam dù có đi xa thì cũng mãi luôn nhớ về và tự hào biết
mấy hai tiếng Việt Nam.

- HẾT -

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Nguyễn Minh Châu

MB :Belinsky từng nói: “Tác phẩm sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả,nếu nó
không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan,nếu nó không đặt ra những câu
hỏi và trả lời cho những câu hỏi đó”.Quả thật vậy,tác phẩm nghệ thuật luôn là chiếc bình
tinh túy chứa đựng những giá trị cốt lõi của cuộc sống con người và “Chiếc thuyền ngoài xa
“của Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm như thế.Từ việc xây dựng điểm nhìn và tình
huống nhận thức,Nguyễn Minh Châu đã đưa ra quan điểm về nhiệm vụ và cách nhìn của
một người nghệ sĩ giữa mối quan hệ giữu nghệ thuật và cuộc đời.

KB: Như một thanh âm trong trẻo của cuộc đời vang lên dai dẳn trong tiềm thức của người
đọc.Như một hồi chuông âm vang ,tha thiết ngân dãi mãi cho đến tận cùng của thời gian,
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu thật sự là một tác phẩm luận đề xuất
sắc,đưa ra cho ta những triết lí sâu sắc và nhận thức rõ nét hơn về mối quan hệ giữa nghệ
thuật và cuộc đời,gây được ấn tượng mạnh mẽ trong lòng của người đọc

SÓNG

Xuân Quỳnh

MB: Trong bài thơ “Biển”,Xuân Diệu đã từng viết:

“Đã hôn rồi hôn lại

Cho đến mãi không rời

Đến tan cả đất trời

Anh mới thôi dào dạt”

Đã từ lâu,sự sục sôi và mãnh liệt của biển đi vào thơ ca như một biểu tượng cho sức mạnh
của tình yêu.Những con người với cái nhìn đặc biệt, sự thể hiện mạnh mẽ ,táo bạo, thoải mái
,thẳng thắn và bộc trực bộc lộ một cách rõ ràng về quan điểm ,về cảm xúc và về cả khát
khao của mình với tình yêu đôi lứa như Xuân Diệu đã đạt được rất nhiều thành công và nay
ta lại một lần nữa bắt gặp điều đó ở Xuân Quỳnh qua bài thơ “Sóng” .Bài thơ chính là tiếng
lòng thổn thức ,là trái tim bồi hồi ,cháy bỏng và cũng là ước mơ ,khát khao về hạnh phúc
luôn thường trực trong tâm hồn người con gái trong tình yêu.

KB : Đúng như tên gọi của mình,tác phẩm kết lại mang theo từng đợt sóng trào dâng trong
tâm hồn người đọc.Ta cảm nhận được từng cảm xúc bang khuâng,khó tả,trái tim ta như
thấu hiểu ,hòa cùng với nhịp đập của trái tim người con gái ấy,cũng thiết tha và nồng
nàn,cũng hồi hồi và cháy bỏng để rồi từ đó ta nhận ra ý nghĩa và giá trị chân thực của tình
yêu giữa cuộc đời.

ĐẤT NƯỚC

Nguyễn Khoa Điềm

MB: Trong “Lòng yêu nước”, I-Ê –Renbua đã từng viết: “Lòng yêu nước ban đầu là yêu
những vật tầm thường nhất:yêu cái cây trồng ở trước nhà ,yêu con phố nhỏ đổ ra bờ
sống,yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu
mạnh.Chiến tranh khiến cho mỗi công dân Xô Viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê
hương”.Thật vậy, tình yêu đất nước chính là tình yêu giản dị và thiêng liêng nhất,thế nhưng
vượt qua tất cả những cách thể hiện tình yêu ấy đã tồn tại trước đây,Nguyễn Khoa điềm với
bài thơ “Đất nước” đã thể hiện tình yêu,niềm tự hào về đất nước của mình một cách vô
cùng mới mẻ khi xây dựng hình tượng đât nước của nhân dân và do nhân dân làm ra .

KB:Những vần thơ đã khép lại nhưng lại mở ra nhiều xúc cảm trong suy tưởng của người
đọc.Đó là tình yêu ,là niềm vui, là hạnh phúc ,là sự tự hào và hơn cả chính là những khát
vọng lớn lao. “Đất nước” đã cho ta nhận ra sứ mệnh và nhiệm vụ của mình đối với đất nước
,là khúc hùng ca ca ngợi nhân dân lao động,ca ngợi đất nước muôn đời.Để rồi từ nhữ lời ca
ấy,mỗi chúng ta cần phải biết gìn giữu ,kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp,để
đất nước mãi mãi trường tồn và phát triển,mãi mãi là đất nước của nhân dân.

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

Hồ Chí Minh

MB: Khi xưa,trong “ Nam quốc sơn hà” ,Lý Thường Kiệt đã từng viết:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Từ xưa tới nay,lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc và chủ quyền vẫn luôn thường trực
trong lòng mỗi con người Việt Nam dù trong thời bình hay thời chiến.Trải qua bao nhiêu
tháng năm với chiều dài của lịch sử,tình yêu và sự tự hào ấy vẫn không hề vơi cạn và đặc
biệt khi Tổ quốc giành lại được nên độc lập,sự tự hào ấy lại càng được thể hiện một cách sâu
sắc.Tất cả những điều đó đều hội tụ lại trong bản “Tuyên ngôn độc lập “của Hồ Chí
Minh.Tác phẩm chính là lời tuyên bố đanh thép ,đầy tự hào của một dân tộc đã đấu tranh
hết mình cho nên độc lập nước nhà.

KB:Tác phẩm kết thúc như một lời tuyên bố dõng dạc và dứt khoát,là tiếng nói của cả một
dân tộc bất khuất và kiên cường.Nước Việt Nam từ đây hoàn toàn độc lập và tự chủ,con
người Việt Nam từ đây hoàn toàn được làm chủ cuộc đời mình mà không có bất cứ thế lực
nào có thể xâm phạm.Qua đó người đọc cũng thấy được tài năng và phong cách văn học
xuất chúng của Hồ Chí Minh được thể hiện qua cách lập luận chặt chẽ ,luận cứ rõ ràng và
dẫn chứng xác thực.
RỪNG XÀ NU

Nguyễn Trung Thành

MB:Tây Nguyên trong cái nhìn của tất cả mọi người hiện lên với vẻ đẹp của núi rừng đại
ngàn,là nơi nổi tiếng với nên văn hóa cồng chiêng ,với điệu múa của các dân tộc bên ánh
lửa,với nhà sàn và với cả hình ảnh những chú voi .Thế nhưng trong con mắt của nhà văn
Nguyễn Trung Thành,vẻ đẹp của Tây Nguyên không chỉ đơn thuần hiện lên qua những hình
ảnh đó ,mà với ông đó là vẻ đẹp của những con người vững như sắt thép,đẹp tự hoa
hồng,đẹp từ trong chân lí sinh ra.Tất cả những điều đó đẫ được quy tụ lại và được ông thể
hiện một cách sâu sắc qua hình tượng nhân vật người anh hùng Tnú trong tác phẩm “Rừng
xà nu”-truyện ngắn xuất sắc in trong tâp truyện “Trên quê hương những anh hùng Điện
Ngọc”

KB:Nói như Nguyên Ngọc: “Rừng xà nu là truyện của một đời và được kể trong một
đêm.Đó là cái đêm dài như một đời,nhưng nó cũng ngắn,cũng chỉ là một đêm mà trong đó
sự sống vất vả,đau khổ và hạnh phúc trường tồn ở đây”.Với lời văn trau chuốt ,giàu hình
ảnh, “Rừng xà nu” mang vẻ đẹp của một khúc sử thi trong văn xuôi hiện đại,tái hiện một
cách sâu sắc vẻ đẹp tráng lệ ,hào hùng của núi rừng,của con người và của truyền thống văn
hóa Tây Nguyên.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nguyễn Tuân

MB:Hà Thi Hoài Phương từng nói: “Theo qui luật điển hình hóa của văn học,qua một giọt
sương để thấy cả bầu trời.Nghệ sĩ lớn là người có khả năng chưng cất cả đại dương vào
trong một giọt nước,cả vũ trụ vào trong một giọt sương”,và quả thực,Nguyễn tuân là một
nghẹ sĩ như thế.Bằng vốn từ phong phú và giàu có ,bằng khả năng biến hóa tài tình,Nguyễn
Tuân đã dùng ngòi bút thần kì của mình viết lên tùy bút “Người lái đò sông Đà”.Tác phẩm
chính là vẻ đẹp của sông Đà vừa hùng vĩ vừa trữ tình cùng hình ảnh giản dị và kỳ vỹ của
những người lái đò trên dòng sông ấy.

KB:Hành trình tìm kiếm cái đẹp và tìm kiếm chất vàng mười đã qua thử lửa của Nguyễn
Tuân vẫn còn rất nhiều nhưng có lẽ người đọc luôn bị ám ảnh bởi hình tượng con sông Đà
với vẻ đẹp diệu kì ,biến hóa.Người nghệ sĩ tài hoa và tận tụy ấy đã vẽ lên một bức tranh đẹp
bằng ngôn từ được gọt giwuax một cách tỉ mỉ để sông Đà đến với người đọc trở thành một
con sông với nhiều vẻ đẹp khác nhau,từ đó cũng làm nổi bật lên vẻ đẹp của con người lao
động trước sự dữ dội cuat thiên nhiên tạo hóa.

VỢ CHỒNG A PHỦ

Tô Hoài
MB:Tô Hoài đã từng nói: “Muốn viết văn ,điều quan trọng nhất là chi tiết.Mà chi tiết thì
không thể bịa ra được.Phải chịu khó quan sát,ghi chép,đọc và tiếp xúc càng nhiều càng
tốt”.Chuyến đi 8 tháng lên vùng rẻo cao Tây Bắc với bao kỉ niệm,bao ấn tượng và bao gắn
bó đã khiến cho Tô Hoài có một thứ tình cảm yêu thương sâu nặng với những con người nơi
đây và kết tinh của thứ tình cảm cao quý ấy được người nghệ sĩ kết đọng lại trong những
trang truyên của truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” sáng tác năm 1952 và là linh hồn của tập
truyện “Tây Bắc".

KB:Tám tháng cho một cuộc hành trình của sự thấu hiểu và cảm thông,của sự xót xa và yêu
mến,tám tháng cô đọng lại trong mươi trang viết nhưng lại là câu chuyện của cả hàng mươi
năm.Bằng việc sử dụng nghệ thuật trần thuật linh hoạt,lời văn tinh tế ,giàu chất thơ và sự
thành công trong nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật đã giúp cho Tô Hoài nói lên tiếng kêu
xót thương của mình với số phận những con người như Mị và A Phủ ,qua đó lên tiếng tố cáo
xã hội phong kiến cổ hủ và lạc hậu,áp bức và bất công.

VỢ NHẶT

Kim Lân

MB:Sinh ra và lớn lên ở một làng quê thanh bình và giản dị ,con người Kim Lân cũng như
quê hương mình ,cũng chân thành và giản dị như thế.Bằng giọng văn chân thực,Kim Lân
đưa cả làng quê và con người Việt Nam vào những câu chuyện của mình cùng một tầm hồn
đầy tình cảm gắn bó với quê hương đất nước và “Vợ nhặt” là một tác phẩm như thế.Bằng
những nét đặc sắc trong việc tạo dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí nhân vật ,Kim
Lân đa vẽ lên tình cảnh khốn khổ của người nông đan trong nạn đói năm 1945 nhưng qua
đó lại nói lên được sự lạc quan và khát khao được sống,được hạnh phúc,niềm tin và tình yêu
thương giữa những người nông dân trong thời kì đó.

KB:Lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió ,phấp phới trong đoàn người kéo nhau đi trên đê
Sộp khép lại câu chuyện nhưng lại mở ra một câu chuyện khác.Đó là câu chuyện của niềm
tin,của sự dũng cảm,của sự quyết tâm và của khát khao hạnh phúc.Viết về cái đói những
câu chuyện của Kim Lân lại hoàn toàn không hề kết thúc u tối và đau thương,ngược lại ,nó
còn cho ta thấy ánh sáng và hào quang toát lên từ những con người lam lũ và nghèo khổ kia
khi họ biết tự đứng lên bảo vệ và giải phóng cho chính bản thân mình khỏi những đau
thương và khốn khổ.

VIỆT BẮC

Tố Hữu

MB:Trong bài thơ “Quê hương Việt Bắc”,Nguyễn Đình Thi đã từng viết:

“Còn đâu những bản trường yêu dấu

Giặc đến trời hoang đất ngập tro


Nhớ bước lui quân lòng rỏ máu

Ôi nắm xoi bà cụ Thái cầm cho”

Quê hương Việt Bắc,quê hương anh hùng đã đi vào những trang viết của các nhà thơ ,nhà
văn với tình cảm yêu thương và trận trọng nhất với Tố Hữu cũng vậy.Ngày miền bắc hoàn
toàn sạch bóng quân thù cũng là ngày những người lính như Tố Hữu phải rời xa nơi đây về
tiếp quản thủ đô Hà Nội.Giây phút chia ly giữa kẻ ở và người về đầy xúc động với những
cảm xúc không nói thành lời ấy được Tố hữu thể hiện trong 90 câu thơ của bài thơ “Việt
Bắc”,là lời tâm tình ,từ biệt và cũng là mối tình cảm gắn bó keo sơn giữa kẻ ở và người đi.

KB:Với thể thơ lục bát,ngôn từ giản dị mà sâu sắc,nhịp thơ chập rãi mà sâu nặng,mỗi câu
thơ như mang nặng một nỗi niềm .Đó là tình yêu,là nỗi nhớ và cả những nỗi buồn.Qua
đó ,ta cảm nhận được một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ và anh hùng,nhất là
nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc và dạt dào thêm
tình yêu quê hương đất nước từ trong tâm hồn.

TÂY TIẾN

Quang Dũng

MB:Trong bài thơ “Tống biệt hành”,Thâm Tâm từng viết;

“Chí nhớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại

Ba năm mẹ già cũng đừng mong”

Thật vậy,con người trong chiến tranh luôn hiện lên với vẻ đẹp diệu kì của lòng dũng cảm
cũng như tinh thần chiến đấu kiên cường và những anh bộ đội của đoàn binh Tây Tiến cũng
như vậy.Qua nỗi nhớ của Quang Dũng về đơn vị của mình khi ông ở Phù Lưu Chanh,ta có
thể cảm nhận được vẻ đẹp riêng của thiên nhiên miền Tây và hình ảnh quả cảm của những
người lính qua những vần thơ của “Tây Tiến”-sáng tác năm 1948 và được in trong tập
“Mây đầu ô”.

KB:Bằng bút pháp lãng mạn và những sáng tạo về hình ảnh,ngôn ngữ và giọng điệu,Quang
Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nên của thiên nhiên
miền Tây hùng vĩ ,dữ dội và mĩ lệ.Đó là vẻ đẹp lãng mạn,hào hoa nhưng lại đậm chất bi
tráng,để lại trong long người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG

Hoàng Phủ Ngọc Tường


MB:Bù Thị Hải Hạnh đã nói rằng :”Nhiều thế hệ văn nghệ sĩ đến với Huế và đã bị con Sông
Hương mê hoặc. Nhiều tác phẩm văn học đã đưa con sông này đến với người đọc để từ đó
đem lòng yêu Huế, dù chưa một lần đặt chân đến nơi này. Nhưng với Hoàng Phủ Ngọc
Tường, người một đời gắn bó với Huế, bằng tình cảm tha thiết, bằng tiềm năng văn hóa đã
khám phá vẻ đẹp của Hương Giang một cách toàn diện, đưa Sông Hương trở thành biểu
tượng của đất cố đô…”.Thật vậy,bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã vẻ nên hình ảnh sông Hương mơ mộng và trữ tình,tạo nên ấn tượng đậm nét
trong suy tưởng của độc giả khắp mọi nơi.

KB:Tác phẩm kết thúc với một câu hỏi và cũng chính là tiêu đề của tác phẩm như gắn chặt
vào tâm ý của người đọc về thắc mắc về cội nguồn của con sông.Từ vốn hiểu biết phong phú
về văn hóa,lịch sử ,địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã,hướng nội ,tinh tế mà
hào hoa,baid kí đã có cho mình một sức hút ấn tượng,biến nó trở thành biểu tượng trong
lòng người đọc về hình ảnh con sông mộng mơ của xứ Huế.

You might also like