You are on page 1of 54

Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

BỘ MỞ BÀI – KẾT BÀI CÁC TÁC PHẨM 12


HỌC VĂN CHỊ HIÊN

BỘ MỞ BÀI
1. Tây Tiến
Mở bài 1:
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ
phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có
nhụy”. Thật vậy! Cái nhụy sống ấy đã nảy nở trong trái tim của Quang Dũng - một con
người rất mực đa tài. Quang Dũng, lớp nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Pháp đã mang đến cho đời cái “nhụy” có vị ngọt của cảm hứng “lãng mạn, anh
hùng” trong những năm kháng chiến đau thương. Để rồi, kết trái thành “Tây Tiến”, một
bản hùng ca tuyệt vời về hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ dù phải đối mặt với những
muôn vàn khó khăn, gian khổ
nhưng vẫn lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào chiến thắng ngày mai + Vấn đề nghị luận.

Mở bài 2:
“Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm


Em đã bao ngày em nhớ thương?...”
Ôi! Trái tim bạn đọc đã từng bao lần phải sửng sốt trước đôi mắt “dìu dịu buồn Tây
Phương” mà Quang Dũng miêu tả về người em trong thi phẩm quen thuộc này. Một đôi
mắt vừa tình tứ, vừa linh động thật hợp với hồn thơ của thi sĩ xứ Đoài mây trắng: hồn hậu,
phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa. Bên cạnh mảng thơ viết về quê hương “để thương,
để nhớ” của mình, người nghệ sĩ đa tài ấy còn đặc biệt gây ấn tượng với bạn đọc về mảng
thơ ca kháng chiến – cụ thể viết về hình ảnh người lính. “Tây Tiến” chính
là một trong số những bài thơ như thế - tác phẩm nổi bật trong mảng thơ ca thời kỳ đầu
kháng chiến chống Pháp + Vấn đề nghị
luận.

Học Văn Chị Hiên


2. Việt Bắc
Mở bài 1:
Trong “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên đã viết:
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ


Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn”!


Trong quá trình sáng tác nghệ thuật, mỗi người nghệ sĩ đều có một không gian nghệ
thuật của riêng mình, không gian ấy là nơi gắn bó sâu nặng với cuộc đời sáng tác của
mỗi người. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường một đời tìm về với Huế thương, Hoàng Cầm
cả cuộc đời gắn với mảnh đất Kinh Bắc nơi có dòng sông Đuống “nghiêng nghiêng trong
kháng chiến trường kỳ”. Thì Tố Hữu lại một lòng một dạ với mảnh đất tình nghĩa Việt
Bắc. Một trong những thi phẩm được đánh giá “đỉnh cao đời thơ Tố Hữu” đó là “Việt
Bắc” + Vấn đề nghị luận.

Mở bài 2:
Tôi từng đọc được nhận định của nhà thơ Xuân Diệu về Tố Hữu thế này: “...Không phải
một cây bút trong tay Tố Hữu, mà nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh,
bút tả người. Người ta thấy văn chương cách mạng, văn chương chiến đấu, gian khổ,
quyết tâm cũng lại cũng là văn chương chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên nhạc, nên
thơ”. Nhận định trên vừa đúng với “Việt Bắc” - một đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu bước
lên. + Vấn đề nghị luận.

3. Đất Nước
Đất nước ta đã đi qua ba mươi năm của hai cuộc chiến tranh trường kì gian khổ song
đó cũng là khoảng thời gian thật huy hoàng:
“Cha ông ta đâu bố trí những binh đoàn
Trên đỉnh Trường Sơn dọc bờ Đông Hải
Tên Tổ quốc vang vang ngoài bờ cõi

Ta đội triệu tấn bom để hái mặt trời hồng”

Học Văn Chị Hiên


Trong bối cảnh ấy, đất nước đã bước vào thơ ca nghệ thuật trở thành một điểm nhấn quan
trọng, một đề tài lớn. Để phản chiếu cả một diện mạo đất nước trong suốt ba mươi năm
ấy vào trong thơ, thể loại trường ca đã xuất hiện. Nhắc đến trường ca trong giai đoạn
này, ta không thể không nhắc tới trường ca “Đất nước hình tia chớp” của Trần Mạnh
Hảo, trường ca “Chim Chơ - rao” của Thu Bồn, “Những người đi tới biển” của Thanh
Thảo… Nhưng sẽ thật là thiếu sót nếu ta không nhắc đến trường ca “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn trích “Đất Nước” nằm ở chương năm của
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

trường ca đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả + Vấn đề nghị luận.

4. Sóng
Mở bài 1:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
Suốt cả chặng đường sáng tác của mình, có rất nhiều nghệ sĩ theo đuổi giấc mơ, tìm hiểu
và cắt nghĩa được tình yêu. Thế nhưng câu trả lời vẫn là một con số khó đoán định. Nhìn
lại chặng đường sáng tác, có lẽ từ thời Hồ Xuân Hương, qua các chặng phát triển, phải
đến Xuân Quỳnh nền thơ của ta một lần nữa xuất hiện một nữ thi sĩ viết về tình yêu thật
đến như vậy. Đúng như Lưu Khánh Thơ từng nhận xét “Thơ Xuân Quỳnh có nhiều cung
bậc tình cảm khác nhau, khi đắm say hạnh phúc, lúc day dứt suy tư. Nhưng xuyên suốt
các tập thơ của chị là một tình yêu sâu nặng không nhạt phai. Trong cái hữu hạn ngắn
ngủi của cuộc đời, tình yêu trở thành vĩnh cửu. Với bản chất trong sáng và tinh diệu của
nó, tình yêu không thể bị thời gian tàn phá, bị không gian chia rẽ và ngăn cách. Tình yêu
bất tận và bền vững, vượt ra ngoài cái giới hạn thường tình của lẽ tử sinh”. “Sóng” là một
bài thơ như thế! + Vấn đề nghị luận.

Mở bài 2:
Nếu ai đó hỏi tôi tình yêu là gì? Tôi sẽ ngập ngừng chẳng biết, bởi lẽ đã có ai cắt nghĩa
được chữ “yêu” cho trọn vẹn, đủ đầy:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Học Văn Chị Hiên
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều”
Nếu như ta bắt gặp ở hồn thơ Xuân Diệu là những khúc ca tình yêu cháy bỏng, mãnh
liệt thì giữa những chông chênh của cuộc đời, trái tim ta lại vô tình bắt gặp những tiếng
thơ yêu giản dị, gần gũi nhưng sâu sắc, ấm áp vô cùng của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. “Sóng”
khoác lên cho mình câu chuyện tình yêu muôn thuở về nỗi nhớ, sự thủy chung, những
trăn trở và khát vọng vĩnh viễn hóa tình yêu + Vấn đề nghị luận.

5. Ai đã đặt tên cho dòng sông?


Mở bài 1:
Ai đó đã từng nói rằng: "Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

thương để nhớ, giống như cuộc đời của mỗi con người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có
một cuộc tình để mãi mãi mang theo". Vâng! Dòng sông để thương để nhớ của mỗi người
rất khác nhau. Nếu như Văn Cao cả đời gắn liền với dòng sông Lô hùng tráng, nếu Hoàng
Cầm là nỗi nhớ khi ta đi ngang qua "sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh", nếu Hoài Vũ
cả đời gắn liền với con sông Vàm Cỏ tha thiết chở Phù Sa thì Hoàng Phủ Ngọc Tường
lại song hành cùng sông Hương đi vào trái tim độc giả qua bút ký: "Ai đã đặt tên cho dòng
sông".

Mở bài 2:
Đã có biết bao nhiêu người nghệ sĩ viết về sông Hương bằng tình cảm yêu thương và
trân trọng của mình. Tôi vẫn còn nhớ những câu thơ của nhà thơ Thu Bồn khi viết về
dòng sông này:
"Công sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu "
Tôi lại tự băn khoăn hỏi mình, có khoảng không gian nào để đo chiều dài của nỗi nhớ
thương gửi về dòng sông Hương muôn đời lững lời trôi, e ấp nơi thành phố Huế. Rồi
lại tự ôm trọn vào mình những cảm xúc luyến lưu khi tới thành phố này. Có một nhà
văn, cũng yêu Huế bằng tất cả tình yêu chân thành như thế, viết về Huế xuất phát từ trái
tim mình. Không ai khác, đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường với kí "Ai đã đặt tên cho dòng
sông".

Học Văn Chị Hiên


Mở bài 3:
Sông Hương - khúc hát tình ca của Huế, nói đến sông Hương nhiều người hình dung
dòng sông êm ả, thơ mộng nơ cây cầu Tràng Tiền hay thành quách, đền đài, chùa miếu cổ
kính soi mình. Nhưng còn có một sông Hương rất khác nhìn từ cội nguồn Trường Sơn,
với những cụm rừng già nguyên sinh hoang sơ xanh ngút ngàn bên dòng nước nơi giang
đầu xanh biếc. Và cũng có một sông hương "nồng nàn" và khao khát đến vậy khi được
về gặp lại thành phố của riêng mình. Hình như, người nghệ sĩ nào khi biết tới dòng sông
này đều như lẽ tự nhiên mà dành cho nó nhiều tình yêu đến vậy. Huống hồ, một người
yêu Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường trong những tác phẩm của mình cứ nhớ mãi về
dòng sông Hương. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của người nghệ sĩ này chính
là kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.

6. Người lái đò Sông Đà


Mở bài 1:
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét về Nguyễn Tuân thế này “Khi thì trang
nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ
bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ
cũng rất đỗi tài hoa”. Chính vì lẽ đó Nguyễn Tuân được ví như cây bút “độc huyền cầm”
của nền văn học Việt Nam hiện đại. Người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác với phong cách
ngông nghênh khinh bạc đã tìm đến miền đất Tây Bắc, nơi mà ông thỏa sức chơi cái lối
“độc tấu” có một không hai. Và cũng chính miền đất ấy đã khiến Nguyễn Tuân “no”
những khát khao truy tìm “chất vàng mười của tâm hồn vùng Tây Bắc” - “thứ vàng mười
đã qua thử lửa” (Đi mở đường). Tiêu biểu cho con người nơi đây là ông lái đò trên dòng
Đà giang - “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”.

Mở bài 2:
Nguyễn Minh Châu khẳng định về Nguyễn Tuân rằng: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa
về người nghệ sĩ”. Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên
một “huyền sử” - huyền sử của một con người ưu lối chơi “độc tấu”. Bởi khi ta lật mở
từng trang viết của nhà văn Nguyễn Tuân, không khó để nhận thấy lối chơi “độc tấu” ấy.
Đó là những con người phi thường, những cảm xúc dữ

Học Văn Chị Hiên


dội, mãnh liệt, những khung cảnh ấn tượng nơi thác ghềnh, rừng thiêng, núi cao, bão,
gió - Tất cả được thâu tóm qua lăng kính “vạn hoa” của nhiều ngành nghệ thuật và diễn
tả bằng ngòi bút sắc bén, ngang tàng. Dường như, cá tính không thể trộn lẫn ấy nảy
sinh từ cẩn tắc, từ trăn trở khôn nguôi trên hành trình đi tìm cái đẹp của một con người
rất mực tài hoa. “Người lái đò sông Đà” được coi là tác phẩm xuất sắc nhất của lối
chơi “ngông nghênh”, tài hoa” ấy.

Mở bài 3:
“Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Thì xa xôi gấp mấy vẫn lên đường.
Sống ở thủ đô mà dạ để mười phương.
Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn”.
(“Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên)
Vì lẽ sống của tuổi đôi mươi đang sục sôi trong ngực trẻ, đã có biết bao lớp người nghe
theo tiếng vẫy gọi của trái tim lên Tây Bắc - một vùng đất mới để xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Và cũng chính miền đất ấy đã nâng giấc cho biết bao cây bút gạo cội. Ta biết đến
Tô Hoài với tập “truyện Tây Bắc” nổi bật là truyện ngắn “Vợ
Chồng A Phủ”, hay Nguyễn Khải cũng đã từng xôn xao lòng mình với “Mùa Lạc” thì
Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập tùy bút “Sông Đà” và linh hồn là
thiên tùy bút “Người lái đò Sông Đà”. Tây Bắc là nơi mà Nguyễn Tuân thỏa mãn khát
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

khao suốt một đời đi tìm cái đẹp và sự thật. Cái đẹp của dòng sông Đà ấy cũng thật đặc
biệt, đúng như Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét “Nguyễn Tuân sáng tạo ra con sông Đà
không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách,
cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau
như tác giả nói “hung bạo và trữ tình”.

7. Vợ chồng A Phủ
Mở bài 1:
Tôi bắt gặp thiên nhiên mĩ lệ, hùng vĩ của một miền sơn cước mang tên Tây Bắc qua bài
thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Tôi được đến với những bản làng hiền hòa chìm trong
sương đêm, rồi cảnh núi rừng hùng vĩ và cả những đêm liên hoan, ca hát thắm tình dân
quân. Có lẽ tôi sẽ nghĩ mãi như vậy về vùng đất Tây Bắc ấy! Nhưng nhà văn Tô Hoài -
với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” đã dẫn tôi đến từng

Học Văn Chị Hiên


ngóc ngách đời sống bản làng, tôi phát hiện ra rằng, hóa ra những con người bé nhỏ nơi
đây vẫn hàng ngày vật lộn với cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn. Chẳng những thế, thần
quyền và cường quyền còn đang đè nặng lên vai họ. Nhưng đằng sau tất cả vẫn là sức
sống luôn tiềm tàng trong họ - mãnh liệt và mạnh mẽ.

Mở bài 2:
Nguyễn Minh Châu đã nói lên sứ mệnh của một người viết văn rằng “Nhà văn tồn tại ở
trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng
đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả
tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con
người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không
có ai để bênh vực.” Tô Hoài đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của người cầm bút khi viết
về nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

Mở bài 3:
“Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề ngân tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”

(“Tiếng hát con tàu” - Chế Lan Viên)


Cùng lên chuyến tàu Tây Bắc năm ấy có Nguyễn Tuân một người suốt đời săn tìm “thứ
vàng mười đã qua thử lửa” của con người Tây Bắc. Còn Tô Hoài lên Tây Bắc để được
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

đóng góp một phần sức lực nhỏ bé của mình cho cuộc đấu tranh của nhân dân. Tám
tháng gắn bó với bà con dân tộc miền núi phía Bắc (trong đợt theo bộ đội lên Tây Bắc
mở trại sáng tác) là tám tháng Tô Hoài hiểu và đồng cảm với cuộc sống, cùng tấm lòng
tình nghĩa của người dân nơi đây. Tám tháng ấy, đã để thương, để nhớ trong Tô Hoài
quá nhiều. Chính vì lẽ đó ông đã viết tập “Truyện Tây Bắc” và truyện ngắn “Vợ chồng
A Phủ” đóng vai trò linh hồn của truyện này.

Học Văn Chị Hiên


8. Vợ nhặt
Mở bài 1:
Kim Lân được coi là nhà văn thành công về đề tài nông thôn với những con người bé
nhỏ và cam phận, những vẻ đẹp chân quê bình dị và những phong tục tập quán độc đáo
của làng quê Bắc bộ. Từng trang viết của nhà văn sinh ra từ đồng ruộng này đều cay xè
khói bếp, thơm thơm mùi lúa mới, ngai ngái mùi rơm rạ, bảng lảng những cánh cò chao
nhịp... Trên mảnh đất xưa cũ ấy nhà văn Kim Lân cũng đã xây cho mình ngôi nhà rất
riêng, rất vững giữa lòng người và thách thức với thời gian. Khác với tư tưởng của các
cây viết cùng đề tài, làng quê trong văn Kim Lân dẫu với các nhân vật nghèo, dân lao
động thô sơ vẫn không bao giờ bị lam lũ, thô mộc, tuềnh toàng vây bủa mà vẫn toát lên
những nét yêu đời, trong sáng, tài hoa. “Vợ nhặt” đã thể hiện rõ phong cách sáng tác của
Kim Lân, nơi mà “Cái đói hành hành hạ tất cả mọi người, nhưng không át được sức sống
đơn sơ của tâm hồn họ. Đói. Nó vừa cay đắng vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó lại
lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự”.

Mở bài 2:
Đất nước Việt Nam - đất nước của những câu hát ru ngọt ngào một thuở, đất nước của
cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tảo tần qua bao năm tháng... và từ trong
nguồn mạch dạt dào ấy, người phụ nữ kết tinh của non nước ngàn năm, là đề tài chưa bao
giờ vơi cạn trên ngọn bút của người nghệ sĩ, qua nhiều thời đại khác nhau. Nếu chị Dậu
của Ngô Tất Tố là điển hình cho người phụ nữ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Một người phụ nữ mẫu mực, không gục ngã trước thử thách, là chỗ dựa cho cả gia đình
ở thế cùng quẫn. Thì thị của Kim Lân dường như chỉ còn lại sự bé nhỏ, nổi trôi, bất hạnh
và khổ sở không biết đi đâu về đâu. Nhưng chính trong những con người mang số kiếp
ấy lại ẩn chứa những những “hạt ngọc” mà bất kì người nghệ sĩ nào đều khao khát tìm
kiếm.
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

Mở bài 3:
Pautôpxki - một nhà văn người Nga từng nhận xét rằng “An-đéc-xen đã lượm lặt những
hạt trơ trên luống đất của những người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào
những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở những đóa hoa thơ đẹp, chúng an ủi trái tim của
những người cùng khổ”. Ở Việt Nam tôi đã bắt gặp một An-đéc
xen như thế mang tên Kim Lân. Một người một lòng một dạ đi về với “đất”, với

Học Văn Chị Hiên


“người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn. Và trên những trang
văn cay xè khói bếp hương ruộng đồng ấy là những bông hoa đang đua nhau bừng nở.
Hình ảnh người mẹ - bà cụ Tứ một bông hoa chan chứa tình yêu, lòng bao dung và cả sự
đồng cảm bung tỏa hương thơm khắp cả tác phẩm.

9. Chiếc thuyền ngoài xa


Mở bài 1:
Tôi đã từng được nghe lời nhận xét của nhà nghiên cứu người Nga Nikulin về Nguyễn
Minh Châu rằng: “Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước năm 1980 được Nguyễn
Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng”. Thật dễ nhận
ra điều đó ở nhân vật Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” - một cô gái xinh đẹp, trẻ
trung, vẻ đẹp của thế hệ trẻ kháng chiến chống Mĩ. Nhưng ở giai đoạn sau, Nguyễn Minh
Châu tập trung bút lực để viết về đời sống thế sự, đời tư, những triết lí nhân sinh. Tiêu
biểu cho giai đoạn sáng tác ấy là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, ở đó ta bắt gặp
người đàn bà hàng chài - một người đàn bà trong cuộc sống lao động đời thường với
những lam lũ, vất vả, cực nhọc nhưng sâu thẳm trong con người ấy lại là những hạt ngọc
mà suốt đời Nguyễn Minh Nguyễn Minh Châu kiếm tìm.
Mở bài 2:
Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn xuôi Việt nam
hiện đại, là người mở đường tinh anh và thành công nhất của nền văn học thời kì đổi mới.
Nguyễn Minh Châu mang trong mình một ước nguyện muốn khám phá những ẩn khuất
bên trong con người và cuộc sống nên ông đã mang đến cái nhìn đa chiều vào tác phẩm
của mình. “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là một ví dụ điển hình. Bởi đằng sau bức ảnh
nghệ thuật thuyền và biển trong buổi bình minh đẹp đến mê hồn thì chính trong đó lại
hiện hữu một cảnh đời rất thực, thực đến phũ phàng của một gia đình thuyền chài, nghèo
đói, bạn hành gia đình, thất học, ...
Mở bài 3:
Bước qua khói lửa, bom đạn của chiến tranh, những tưởng con người sẽ có một cuộc
sống bình yên, hạnh phúc. Thế nhưng, trong cuộc sống thời hậu chiến, những con người
bé nhỏ, đáng thương vẫn đang phải “vật lộn” với những lo toan, mưu sinh. Dường như
Nguyễn Minh Châu sinh ra, ở đây để trở thành “kẻ nâng giấc cho những người bé nhỏ
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

ấy. Những con người cùng đường, tuyệt độ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi đẩy con người ta
đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đày đọa đến ê chề,
hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời để bênh vực cho những con người
không có ai để bênh vực”. Chính cuộc sống mưu sinh đã khiến một người đàn ông hiền
hậu, chăm chỉ làm ăn ngày nào trở thành một kẻ vũ phu, chỉ còn biết đánh đập vợ để giải
tỏa những áp lực đang đè nặng trên đôi vai của một người đàn ông - mái chèo vững chắc
nhất chèo trống con thuyền qua những ngày bão tố.

BỘ KẾT BÀI:
1. Tây Tiến
Kết bài 1:
“Tây Tiến” - câu chuyện của nỗi nhớ thương, sự tự hào và cả những xót xa tiếc nuối mà
Quang Dũng viết lên. Những vần thơ ấy cứ như những dấu ấn để khi đến với nó rồi thì
ai cũng sẽ không khỏi bồi hồi, nhớ thương theo từng khung cảnh thiên nhiên, câu chuyện
về người lính Tây Tiến đầy bi hùng. Những rung cảm trong “Tây Tiến” thật sự cuốn hút
lòng người trong từng câu chữ, ý thơ. Vậy mới thấy “Thơ hay luôn có sức rung động
mãnh liệt”.
Kết bài 2:
Thời gian vô tình cứ trôi đi mãi để lại cho con người biết bao nhiêu là kỉ niệm, là những
nỗi niềm nhớ thương. Từng hình ảnh của thiên nhiên, của những người lính Tây Tiến
được khắc họa lại bằng nỗi nhớ, bằng những kí ức của Quang Dũng thực sự khiến con
người ta xúc động. Lịch sử có thể ngày càng lùi xa nhưng sự dũng cảm, những hi sinh
can trường của những người lính ấy vẫn mãi ở đây, mãi là niềm tự hào cho mọi thế hệ về
một đất nước Việt Nam độc lập.
Kết bài 3:
Bức tranh “Tây Tiến” mà Quang Dũng vẽ lên không chỉ đơn thuần là chặng đường
hành quân, mà hơn cả thổi hồn vào trong từng câu thơ, tạo nên sức sống cho bài thơ
chính là hình tượng người lính Tây Tiến. Những vần thơ mà Quang Dũng để lại cho
đời thực sự là một khúc ca oai hùng nhất, lãng mạn nhất về hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ
không quan khó khăn, gian khổ sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc:
"Đoàn vệ quốc quân một lòng ra đi
Nào có sá chi đâu ngày trở về

Học Văn Chị Hiên


Ra đi ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui"
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

Kết bài 4:
Tây Tiến - "Một bài thơ kì diệu và có 1 vị trí đặc biệt trong lòng công chúng, một bài thơ
làm sống dậy cả trung đoàn, khiến địa danh Tây tiến trường tồn trong lịch sử và kí ức
mỗi người.” Chính vậy, Tây Tiến như một đoạn hồi ký của Quang Dũng về những năm
tháng gắn bó hành quân cùng đoàn binh Tây Tiến nơi núi rừng Tây Bắc. Khúc ca “Tây
Tiến” đã đem đến cho người đọc cái nhìn toàn diện nhất về hình ảnh người lính Tây Tiến
trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp còn nhiều gian khổ. Có lẽ,
“Tây Tiến” chính là kiệt tác lớn nhất mà Quang Dũng để lại cho đời, những hồi ức, kỉ
niệm đẹp đẽ nhất của đoàn binh Tây Tiến.
Kết bài 5:
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy


Vẫn sống muôn đời với núi sông"
Thời gian vô tình cứ trôi đi mãi nhưng có lẽ chẳng thể nào cuốn trôi đi được giá trị mà
những vần thơ Quang Dũng để lại cho đời. Bài thơ “Tây Tiến” - khúc ca oai hùng, lãng
mạn mà Quang Dũng đã viết lên đầy tự hào. Mỗi khi lật mở lại những trang thơ ấy,
những cảm xúc, những nỗi niềm nhớ thương vẫn mãi luôn như thuở ban đầu, đầy tự hào
nhưng cũng thật xót thương.

2. Việt Bắc
Kết bài 1:
“Việt Bắc” thực sự là đỉnh cao của thơ ca Tố Hữu. Đến với “Việt Bắc” là đến với cả một
bầu trời thương nhớ, những tháng năm gắn bó mặn nồng của cán bộ và nhân dân Việt
Bắc. Mối ân tình ấy đọng lại trong trái tim, trong tâm thức của những người con Việt
Nam đầy tha thiết và tự hào. Những vần thơ, những tiếng ca ấy sẽ mãi luôn vang vọng
với đầy đủ những cảm xúc, chan chứa tình yêu thương và niềm tự hào dân tộc.

Học Văn Chị Hiên


Kết bài 2:
Viết về Việt Bắc bằng cả niềm thương, nỗi nhớ, Tố Hữu đã chạm đến đỉnh cao của cảm
xúc. Mỗi câu, mỗi chữ, mỗi vần thơ đều thấm đẫm một thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng
- một mối tình quân dân đậm đà, thắm thiết. Gấp những trang thơ ấy lại, người đọc vẫn
không khỏi bồi hồi về một mối tình thủy chung trong cuộc đời Tố Hữu, về những trang
thơ tình yêu gửi lại nơi Việt Bắc đầy kỉ niệm.

Kết bài 3:
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

Khép lại những trang thơ của “Việt Bắc”, người đọc cảm nhận được những vần thơ ấy
không chỉ là thơ nữa mà đó là cả trái tim, linh hồn, máu thịt của Tố Hữu vậy. Quê hương
Việt Bắc, tình nghĩa đồng bào đã chắp cánh cho ngòi bút của Tố Hữu. Nỗi nhớ thương,
hình ảnh thiên nhiên, con người Việt Bắc đi vào từng trang thơ của Tố Hữu nhẹ nhàng
mà đằm thắm biết bao, để lại trong lòng người đọc bao cảm xúc dạt dào về một mảnh đất
nghĩa tình, như lời thơ ngọt ngào mà Chế Lan Viên đã từng viết:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn"

Kết bài 4:
Tố Hữu đã từng nói: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy.”. Viết lên
“Việt Bắc” bằng nỗi nhớ thương vô vàn, Tố Hữu như gửi gắm cả vào trong những vần
thơ là tất cả những gì vốn có của một trái tim yêu thương, thủy chung. Mảnh đất Việt
Bắc ân tình đã trở thành niềm thương, nỗi nhớ, thành niềm cảm hứng để Tố Hữu cất lên
những câu thơ mang đậm nghĩa tình ấy. Dù thời gian có trôi hoài, trôi mãi, những ngày
tháng gắn bó của cán bộ và nhân dân nơi Việt Bắc cũng không bao giờ bị xóa nhòa, bởi
nó đã được Tố Hữu gói gọn lại, đủ đầy và trọn vẹn trong từng tiếng thơ của “Việt Bắc”.
Kết bài 5:
Vậy mới thấy, những trang thơ “Việt Bắc” không chỉ đơn thuần là thơ nữa mà đó là cả
trái tim, tâm hồn của người chiến sĩ Cách Mạng Tố Hữu. Khi nói về “Việt Bắc”, Tố Hữu
đã từng tâm sự thế này: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt
tôi, Việt Bắc ở trong tôi.” Quả thực, tình cảm gắn bó, thủy chung của những chiến sĩ cách
mạng với nhân dân Việt Bắc đậm sâu vô cùng.
Học Văn Chị Hiên
Khúc ca mang tên “Việt Bắc” vẫn sáng ngời mãi và luôn là niềm tự hào mãnh liệt của
dân tộc Việt Nam.

3. Đất Nước
Kết bài 1:
“Đất Nước” - những vần thơ thật đẹp và đầy tự hào mà Nguyễn Khoa Điềm đã cất lên,
khúc ca về một đất nước giản dị và gần gũi như chính hình ảnh của những con người đã
làm ra, dựng xây và phát triển đất nước. Đó đích thực là đất nước của nhân dân, đất nước
của những con người sẵn sàng hi sinh vì hai tiếng dân tộc. Cuộc đấu tranh gian khổ đã
qua đi, chúng ta ngày hôm nay tiếp tục sống và phát huy những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, dựng xây một quê hương, đất nước phát triển vững mạnh, xứng đáng với những
gì cha ông ta đã để lại.
Kết bài 2:
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

Thật vây, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” chính là tư tưởng cốt lõi mà Nguyễn Khoa
Điềm muốn gửi gắm qua từng câu thơ. Đất Nước không xa lạ, không trừu tượng mà thực
sự rất gần gũi và thân thuộc. Gấp những trang thơ ấy lại rồi, nhưng chắc hẳn mỗi trái tim
bạn đọc vẫn không khỏi bồi hồi, tự hào về những câu chuyện của một đất nước anh hùng,
một đất nước nhỏ bé đầy đau thương nhưng kiên cường mạnh mẽ:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm nên Đất Nước”


Kết bài 3:
Pauxtôpxki từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường
đến với cái đẹp”. Trên chặng đường tìm đến cái đẹp ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự
mở ra một con đường kì diệu khi viết lên những tiếng thơ của “Đất Nước”. Những tiếng
thơ ca ngợi đất nước vang lên, những tiếng thơ hào hùng về một đất nước anh hùng. Có
thể nói, đoạn trích “Đất Nước” trong Trường ca “Mặt đường khát vọng” thực như một
khúc ca sử thi, hào hùng, một chứng minh lịch sử khẳng định tư tưởng “Đất Nước của
Nhân dân”.

Học Văn Chị Hiên


Kết bài 4:
Nguyễn Đình Thi cũng đã từng ôm ấp Đất Nước vào lòng mà cất lên những tiếng thơ:
“Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.”
Câu chuyện về Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm vẽ lên cũng giản dị và gần gũi như
vậy. Khúc ca “Đất Nước” không chỉ khẳng định tài năng của Nguyễn Khoa Điềm mà nó
còn là tiếng nói của một trái tim yêu nước sâu đậm, mãnh liệt “như máu xương của mình”.
Một lần nữa, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” thấm đẫm trong từng câu chữ, tiếng thơ
của Nguyễn Khoa Điềm, một lời khẳng định, một khúc ca tự hào dân tộc vang vọng mãi
muôn đời.
Kết bài 5:
Bằng cách riêng của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã viết lên tư tưởng Đất Nước từ những
điều giản đơn nhất. Ôm ấp Đất Nước vào lòng, từng câu chuyện, từng mảnh ghép của
“Đất Nước” đều được Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm vào đó nỗi niềm yêu thương, trân
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

trọng và đầy tự hào. “Đất Nước” - khúc ca vang vọng của đất nước một lần nữa vang
vọng, đầy yêu thương như tiếng thơ mà nhà thơ Thanh Thảo đã từng viết lên:
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”
4. Sóng
Kết bài 1:
Sao mà câu chuyện tình yêu của “Sóng” lại đẹp đến thế, dạt dào đến thế! Câu chuyện
tình yêu của “Sóng” cất lên từ trái tim của một người phụ nữ đã từng chịu những tổn
thương, nhưng trong mọi ngóc ngách, ngõ nhỏ của tiếng yêu ấy, không hề có một chút
đau thương hay bi quan nào cả. Xuân Quỳnh - nữ thi sĩ sinh ra để
yêu và thương nhớ ấy đã cất cao khúc ca yêu của sóng, của những người con gái và
“Sóng” đã trở thành thành khúc ca của tình yêu muôn thuở.

Học Văn Chị Hiên


Kết bài 2:
Tiếng thơ yêu của Xuân Quỳnh khi đứng trước sóng biển cũng đã từng cất lên rằng:
“Suốt cuộc đời biển gọi những ước mơ
Nỗi khát vọng những chân trời chưa đến”
Quả thực, đâu phải chỉ riêng “Sóng”, trái tim yêu của Xuân Quỳnh lúc nào cũng thường
trực những cảm xúc, những câu chuyện của tình yêu. Đến với thơ Xuân Quỳnh, người
đọc như được trẻ lại, được yêu đương, được rung động, được bồi hồi trong từng nhịp
sóng tình yêu. Chính bằng những cảm xúc chân thành nhất ấy, “Sóng” trước dòng chảy
vô tình của thời gian vẫn cứ mãi cất vang câu chuyện của muôn thuở - câu chuyện của
những trái tim yêu.
Kết bài 3:
“Thơ là thư ký trung thành của trái tim” (Duy bra by). Quả thực, mỗi tiếng thơ vang lên
là những tiếng lòng chân thực nhất của những tâm hồn nhạy cảm. “Sóng” khoác lên
mình màu áo của tình yêu chân thành, dịu dàng và đằm thắm như chính tính cách của
người nghệ sĩ đã viết lên nó vậy. Thử hỏi có ai mà chưa từng bồi hồi, xao xuyến trước
những tiếng thơ yêu cứ như từng nhịp sóng vỗ ấy, cứ xô vào trái tim từng nhịp, từng
nhịp. Xuân Quỳnh quả thực đã rất thành công khi viết lên câu chuyện tình yêu của
“Sóng” không ồn ào mà lại vô cùng dịu êm, chân thành.
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

Kết bài 4:
GS.TS Trần Đăng Suyền đã từng nhận xét như thế này về “Sóng”: “Đó là cuộc hành
trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn,
cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn
thành tình yêu muôn thuở.” Quả thực khi đến với “Sóng” là khi con người đến với những
cảm xúc, những câu chuyện của người con gái khi yêu, khát khao yêu và muốn vĩnh viễn
hóa tình yêu của mình. Những thanh âm, cảm xúc mà “Sóng” để lại trong lòng bạn đọc
thực sự đem tới một sức cuốn hút vô cùng mạnh mẽ. Giữa chiến trường “bom rơi đạn
nổ” ấy, bông hoa yêu của Xuân Quỳnh mọc lên thật đẹp, thật tinh tế, đem đến một câu
chuyện tình yêu không ồn ào lại vô cùng dịu êm.
Kết bài 5:
Xuân Quỳnh - nữ thi sĩ sinh ra để yêu và làm thơ ấy đã ghép thêm một mảnh tình yêu
mang tên “Sóng” vào giữa biển thơ yêu ấy. Không rạo rực như Xuân Diệu,

Học Văn Chị Hiên


không da diết như Hàn Mặc Tử, bản tình ca của “Sóng” cất lên đầy tha thiết, trìu mến
mà cuốn hút lòng người. Từng câu, từng chữ như từng nhịp sóng xô, cũng bởi những
mảnh ghép yêu đương của “Sóng” được ghép lại bởi chính người phụ nữ đã không ít
lần khiến người ta nao lòng:
“Nếu ngày mai em không làm thơ nữa
Cuộc sống trở về bình yên
Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm
Không nỗi khổ không niềm vui kinh ngạc”

5. Người lái đò Sông Đà


Khép lại trang viết của Nguyễn Tuân, dường như vùng đất Tây Bắc đã để lại trong chúng
ta thật nhiều thương nhớ. Đó là nỗi nhớ về một vùng đất mang trong mình thứ vàng
mười của thiên nhiên và trong tâm hồn con người, một thứ vàng mười như Nguyễn Tuân
khẳng định “đã qua thử lửa”. Cuộc sống quanh ta vốn rất cũ kĩ
và nhàm chán, gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, ngày lại qua ngày... nhưng chính Nguyễn
Tuân đã mang lại cho ta một thế giới mới, tinh khôi hơn, diệu kì. Mỗi lần đặt chân vào
thế giới ấy, chúng ta như bước vào một chân trời với màu sắc huyền bí riêng biệt, hấp
dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của tài hoa và sự
uyên bác.
6. Vợ chồng A Phủ
“Vợ chồng A Phủ” khép lại trên giá sách, tôi hiểu hơn vì sao mảnh đất sơn cước ấy lại
để nhớ, để thương cho Tô Hoài nhiều đến vậy. Trong tôi tràn ngập dư của âm tiếng sáo
đầu núi rủ bạn đi chơi xuân, tôi nhớ về Mị - cô gái Mèo với sức sống mãnh liệt, tiềm
tàng. Số phận của Mị cũng chính là số phận đáng thương của người dân dưới xã hội
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

phong kiến đương thời. “Vợ chồng A Phủ” xứng đáng là bản cáo trạng đanh thép về
người phụ nữ miền núi, là tiếng nói chung cho những số phận vẫn còn chìm trong bóng
tối nhưng vẫn luôn thắp sáng niềm hy vọng trong thời đại lúc bấy giờ.
7. Vợ nhặt
Một nhà văn “nguyện một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của
cuộc sống nông thôn" như Kim Lân đã thực sự thành công với “Vợ nhặt” bởi nó không
chỉ dựng lại bức tranh hiện thực về nạn đói năm 1945 mà cao cả hơn hết là sự yêu
thương, trân trọng vẻ đẹp, khát vọng của con người. Đúng với lời tâm sự mà Kim Lân
từng chia sẻ: “Cái đói hành hạ tất cả mọi người, nhưng không

Học Văn Chị Hiên


át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ. Đói. Nó vừa cay đăng vừa đớn đau, đồng thời
một mặt nào đó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự. Truyện ngắn “Vợ nhặt”,
khai thác các khía cạnh sau cùng của các bi kịch đó”. Có điều gì quý giá và đáng trân
quý hơn thế. Tình người, tình đời thêm một lần nữa thấm đẫm trong những trang sách
Kim Lân.
8. Chiếc thuyền ngoài xa
Khép lại “Chiếc thuyền ngoài xa”, hình ảnh để lại trong tôi dư âm sâu đậm nhất chẳng
phải bức tranh thuyền và biển đầy nghệ thuật mà Phùng mang về năm ấy. Mà chính là
hình ảnh một cặp vợ chồng nghèo đói, mệt nhọc sau một đêm dài kéo lưới. Nó khiến tôi
suy nghĩ về số phận và cuộc đời con người. Tại sao những con người bé nhỏ ấy vẫn cứ
mãi cực khổ, lam lũ như vậy? Cuộc đời của họ mỏng manh, xa vời, chấp chới như “chiếc
thuyền ngoài xa” không biết đâu là điểm đến, là bến bờ hạnh phúc. Nhưng cũng chính từ
cuộc đời ấy ta thấy được tấm lòng nhân hậu của một cây bút xuất sắc của văn học Việt
Nam hiện đại. Đó không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh
đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không
gì có thể làm vấy bùn. Tôi tin chắc những trang viết của Nguyễn Minh Châu dù cho lớp
bụi thời gian có phủ kín, giăng đầy như thế nào thì “hạt ngọc” trong đó vẫn ngời sáng, lấp
lánh - một thứ ánh sáng mê hoặc biết bao thế hệ độc giả.
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE
Học Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

Học Văn Chị Hiên


DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên


Học Văn Chị Hiên

THÔNG TIN TÁC GIẢ TÁC PHẨM + ĐOẠN VĂN MẪU


LĐ KHÁI QUÁT
I. KIẾN THỨC CẦN NHỚ VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả
STT Tác giả Những từ KHÓA QUAN Diễn đạt bằng 2 -3 câu ngắn gọn
TRỌNG

1 Tố Hữu - Chặng đường thơ // Được coi là lá cờ đầu của thơ ca Cách
chặng đường cách mạng Việt Nam, hồn thơ Tố Hữu gây ấn
mạng tượng với người đọc bởi giọng thơ “trữ
- Trữ tình chính trị tình chính trị". Chặng đường thơ của
- Là cờ đầu của thơ ca người nghệ sĩ này song hành cùng chặng
Cách mạng đường cách mạng. Thơ Tố Hữu mang
giọng điệu trẻ trung, sôi nổi, tinh thần lạc
quan và luôn tin tưởng vào ngày mai tươi
sáng của dân tộc.

2 Xuân - Sứ mệnh sinh ra để Xuân Quỳnh - Người phụ nữ sinh ra để


Quỳnh yêu và làm thơ yêu và làm thơ. Với chị, tình yêu chính là
- Viết thơ cho thiếu nhi sức mạnh để vượt qua những phong ba,
và về tình yêu
bão tố trong cuộc đời. Đề tài mà Xuân
- Nhẹ nhàng, giản dị,
Quỳnh lựa chọn trong những vần thơ của
đôn hậu, gần gũi,
mình là thơ viết cho thiếu nhi và thơ viết về
giàu xúc cảm
đề tài tình yêu. Thơ chị nhẹ nhàng, giản
dị, đôn hậu, gần gũi như hơi thở. Thường
viết về những điều giản đơn, bình dị
trong cuộc sống nhưng là mang những
cảm xúc phong phú, triết lý cuộc đời đáng
suy ngẫm.

1
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên


Học Văn Chị Hiên

3 Quang - Đa tài Quang Dũng là một nhà thơ đa tài: làm


Dũng - Quê hương, người thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, múa kiếm,... thứ
lính gì người nghệ sĩ này cũng đều giỏi cả. Đề
- Hồn hậu, lãng mạn, tài được lựa chọn trong những thi phẩm
phóng khoáng, tài của ông bao gồm quê hương và hình ảnh
hoa người lính. Hồn thơ của ông hồn hậu,
- Hiện tượng nhà thơ 1 lãng mạn, phóng khoáng, tài hoa. Ông
bài được biết tới với hiện tượng nhà thơ một
bài. (Nổi tiếng với bài thơ Tây Tiến).

4 Nguyễn - Nhà thơ - chiến sĩ Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà
Khoa Điềm - Hàm xúc, chính luận thơ mang đậm dấu ấn của lịch sử dân tộc
- Đúc kết triết lý về nửa sau thế kỷ XX. So với lớp nhà thơ ra
nhân sinh, thế sự và đời trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, bút
sự chiêm nghiệm về danh Nguyễn Khoa Điềm xuất hiện hơi
cuộc sống. muộn nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm
nhanh chóng được dư luận chú ý và
khẳng định, “đó là thứ thơ trữ tình thấm
đẫm chất men say khát vọng và hành
động. Một thứ thơ giàu chất sử thi của
một thời”. Phong cách thơ Nguyễn Khoa
Điềm chính là “ chất suy tư, chính luận
và sự dồn nén cảm xúc cũng như sự am
hiểu hiện thực trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm cùng cái nhìn giàu tính phát hiện
sâu sắc, bất ngờ”.

5 Kim Lân - Chân chất, mộc mạc, Kim Lân là nhà văn có sở trường thể loại
một lòng đi về với truyện ngắn. Đề tài của ông thường gắn
đất, với người, với liền với hơi thở làng quê Bắc Bộ, được

2
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên


Học Văn Chị Hiên

thuần hậu nguyên


gọi là “thú đồng quê”, “phong lưu đồng
thủy của cuộc sống
ruộng”. Những trang văn của Kim Lân đi
nông thôn
vào lòng độc giả bởi hồn văn chân chất,
- Tái hiện sinh động
mộc mạc, bởi tấm lòng “một lòng đi về
“thú đồng quê”,
với đất, với người, với thuần hậu nguyên
“phong lưu đồng
thủy của cuộc sống nông thôn”.
ruộng”

6 Tô Hoài - Vốn hiểu biết phong Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi
phú về phong tục, tập hiện đại Việt Nam với sức sáng tạo dồi
quán nhiều dân tộc dào. Những trang văn của ông là kết tinh
- Lối trần thuật hóm của vốn hiểu biết phong phú, đôi mắt
hỉnh, sinh động của quan sát, sự từng trải về phong tục, tập
người từng trải quán của nhiều dân tộc. Với lối trần thuật
hóm hỉnh, sinh động, uyên bác mà gần
gũi, văn chương Tô Hoài luôn gây ấn
tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc nhiều
thế hệ.

7 Nguyễn - Tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân là gương mặt nhà văn tiêu
Tuân - Suốt đời đi tìm cái biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
đẹp Với vốn tri thức uyên bác cùng tài năng
- Ngông, mạnh mẽ, tự
nghệ thuật bậc thầy, người nghệ sĩ suốt
do, phóng túng, ý
đời đi tìm cái đẹp ấy đã để lại rất nhiều
thức về cái “tôi” cá
những tác phẩm có giá trị cho nền văn
nhân
học Việt Nam. Ông thể hiện sự tài hoa
trong việc dựng người, dựng cảnh, tài hoa
trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật,
trong những so sánh, liên tưởng táo bạo,
bất ngờ với những hình ảnh đẹp đầy gợi

3
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

cảm; uyên bác trong việc vận dụng những


kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
để làm phong phú và giàu có thêm khả
năng diễn tả của nghệ thuật văn chương.
Nhắc đến Nguyễn Tuân là chúng ta nhắc
đến một hồn văn mạnh mẽ, tự do, phóng
túng và rất ngông.

8 Hoàng Phủ - Hành văn hướng nội, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong
Ngọc đậm đà chất Huế những nhà văn chuyên viết bút kí, các tác
Tường - Đa tài, có hiểu biết phẩm của ông để lại trong lòng người đọc
sâu rộng về nhiều nỗi xúc cảm mới lạ bởi lối văn hướng
mảng kiến thức nội, suy tư và triết lý. Hoàng Phủ Ngọc
- Con người giàu xúc
Tường trong suốt chặng đường lao động
cảm, hồn hậu, tinh tế
nghệ thuật đã thể hiện được vốn hiểu biết
sâu rộng, uyên bác của mình về nhiều
mảng kiến thức phong phú, chinh phục
người đọc qua chính những trang văn hồn
hậu, tinh tế và tài hoa.

2. Tác phẩm

STT Tác phẩm Hoàn cảnh sáng tác

1 Tây Tiến - Năm 1947 Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây
Tiến và giữ chức đại đội trưởng.
- Cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị
khác, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh
tác giả bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến
cùng đồng đội ở đơn vị cũ trong những tháng năm ở

4
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

miền biên cương Tây Bắc. Những ngày tháng gian


khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc
cảm trong tâm hồn nhà thơ viết nên bài thơ "Tây
Tiến".
- Bài thơ ban đầu có tựa đề “Nhớ Tây Tiến" in trong
tập thơ “Mây Đầu Ô”.

2 Việt Bắc - “Việt Bắc” được Tố Hữu sáng tác vào tháng
10-1954 , ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi , các cơ quan trung
ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ
đô Hà Nội.
- Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng
chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay
từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết
trong buổi chia tay lưu luyến đó .

3 Sóng - Ra đời năm 1967.


- Đó là những năm tháng dân tộc đang bước vào cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mĩ và tay sai, là khi
thanh niên trai gái ào ào ra trận, cho nên đặt bài thơ
trong hoàn cảnh ấy mới thấy rõ được nỗi khát khao
của người con gái trong tình yêu.
- “Sóng” được viết trong chuyến đi công tác vùng
biển Diêm Điền.
- Trước khi “Sóng” ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm
trải những đổ vỡ trong tình yêu

4 Đất Nước - Hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971 và in
lần đầu năm 1974.
- Đó là những năm tháng nhân dân miền Nam kiên

5
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên


Học Văn Chị Hiên

cường chống đế quốc Mĩ và tay sai.

5 Vợ nhặt - Truyện "Vợ nhặt" có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm


ngụ cư".
- Tác phẩm được viết ngay sau cách mạng tháng Tám
nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau hoà bình
lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ
và viết lại thành truyện "Vợ nhặt".
- Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu
xí".
- Truyện tái hiện lại bức tranh nạn đói năm 1945.

6 Vợ chồng A Phủ - Năm 1952, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây
Bắc. Trong chuyến đi dài 8 tháng này, ông đã sống
gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc vùng cao
Tây Bắc.
- Và chính cuộc sống của đồng bào miền núi đã khơi
nguồn cảm hứng sáng tạo để Tô Hoài hoàn thành 3
truyện ngắn Cứu đất cứu mường; Mường Giơn ; Vợ
chồng A Phủ vào năm 1953.

7 Chiếc thuyền ngoài xa - Tháng 8/1983


- Lúc đầu được in trong tập “Bến quê”, sau đó có vinh
dự được nhà văn dùng để đặt tên cho cả tập truyện
ngắn, xuất bản năm 1987.
- Năm 1983, đó là một thời điểm khá đặc biệt khi
cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay sai đã kết thúc
thắng lợi, chúng ta trở về muôn mặt của đời thường.
Và cũng trong thời điểm này, cả dân tộc đang bước
vào giai đoạn đổi mới, cho nên cuộc sống có nhiều
điều bất ngờ thú vị, có sức hút đối với văn nghệ sĩ,

6
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên


Học Văn Chị Hiên

trong đó có Nguyễn Minh Châu.

8 Người lái đò sông Đà - In trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài
tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
- Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở
miền Bắc.
- Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến
Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là
chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với
nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công
nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng
cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn
nguồn cảm hứng sáng tạo.

9 Ai đã đặt tên cho dòng - Được viết tại Huế, vào ngày 4-1-1981, sau đó in
sông trong tập sách cùng tên.
- Tập sách gồm 8 bài kí, viết ngay sau chiến thắng
mùa xuân 1975, đang bừng bừng cảm hứng ngợi ca
chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng ở HPNT,
lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình
yêu thiên nhiên và truyền thống văn hóa sâu sắc.

ĐOẠN VĂN MẪU LUẬN ĐIỂM KHÁI QUÁT TÁC GIẢ TÁC PHẨM

1. VIỆT BẮC

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.
Chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường
cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc,
đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh
nghệ thuật của chính nhà thơ. Xuân Diệu từng nhận xét rằng: “...Tố Hữu đã đưa thơ

7
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

chính trị lên đến trình rất đỗi trữ tình...” Minh chứng cho điều này phải kể đến bài thơ
‘‘Việt Bắc’’ trong tập thơ cùng tên. Tác phẩm được hoàn thành khi Hiệp định Genève
về Bán đảo Đông Dương được ký kết (tháng 7 năm 1954). Hòa bình trở lại, tháng 10
năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản
Việt Nam và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Trong không khí lịch sử
ấy và tâm trạng khi chia tay với Việt Bắc, Tố Hữu đã chắp bút viết nên thi phẩm này.
“Việt Bắc” như một khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc
kháng chiến và con người kháng chiến.

2. ĐẤT NƯỚC

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ
những năm chống Mĩ, với phong cách thơ giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang
màu sắc trữ tình - chính luận. Vũ Văn Sỹ từng nhận xét về hồn thơ này: “Nguyễn
Khoa Điềm đã thực sự đóng góp vào nền thơ hiện đại một giọng trữ tình giàu chất sử thi,
một giọng thơ sôi nổi và cá tính, một cây bút gắn kết được một cách tài hoa giữa vốn
sống, vốn tri thức văn hóa và sự mẫn cảm của một tấm lòng trước từng trang giấy”.
Tấm lòng nhà thơ có khi nào nguôi yên trước vận mệnh dân tộc, mỗi lần đặt bút viết là
mỗi lần trái tim cuộn trào tình cảm thiết tha cùng sự suy tư, trăn trở, triết luận chặt chẽ
và thuyết phục. Minh chứng cho điều đó phải kể đến đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần
đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm được sáng tác năm 1971
tại chiến trường Bình Trị Thiên. “Đất Nước” được xem là đoạn thơ hay và độc đáo về
đề tài quê hương đất nước của thơ ca Việt Nam hiện đại. Độc đáo ở chỗ nhà thơ đã tiếp
cận đất nước từ nhiều phương diện nhưng nhất quán trong tư tưởng “Đất Nước của
Nhân dân”. Khẳng định, ngợi ca vai trò của nhân dân trong quá trình bảo vệ và dựng xây
đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến những trang thơ thấm thía lòng người.

3. SÓNG

8
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời
kháng chiến chống Mỹ. Những dòng thơ của tác giả thể hiện trái tim phụ nữ đôn hậu,
chân thành, giàu đức hy sinh và lòng vị tha cùng khát vọng sống, khát vọng yêu chân
thành, mãnh liệt luôn gắn liền với những dự cảm, lo âu. Tiến sĩ Chu Văn Sơn từng
nhận định: “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương
thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời ...” Và quả thực, những vần thơ của Xuân
Quỳnh là vậy. Với chị, mỗi dòng thơ hệt như những dòng nhật kí bỏ ngỏ xuất phát từ
trái tim về những khát khao, những cảm xúc, những suy nghĩ lo âu của người phụ nữ khi
đứng trước bao lo toan, hạnh phúc đời thường. Để rồi cứ thế, “Sóng” của Xuân Quỳnh
lặng lẽ đi vào lòng người như một “ nốt nhạc xanh giữa thời kì lửa cháy” với bao khát
vọng về tình yêu và tuổi trẻ. Tác phẩm là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, tiêu biểu
cho phong cách thơ của nữ sĩ, được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng
biển Diêm Điền (Thái Bình),. Bài thơ được in trong tập ''Hoa dọc chiến hào''. Qua hình
tượng sóng và trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hoà hợp giữa ''sóng'' và ''em'',
bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vượt lên
thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó, bạn đọc cảm nhận được tình
yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.

4. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có
phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình". Đúng
vậy, những nhà văn, nhà thơ, những người nghệ sĩ luôn sáng tạo nên những sản phẩm
nghệ thuật độc đáo và đúng chất riêng của mình. Về phong cách độc đáo, ta không thể
không kể đến Nguyễn Tuân - người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, người đã tự nhận
mình “sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật bằng hai chữ viết hoa”. Phong cách sáng tác tài
hoa, uyên bác cùng đam mê xê dịch đã đưa Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng miền Tổ
quốc, chắp bút cho bao áng văn đặc sắc, điêu luyện. Và Nguyễn Tuân cứ thế đến với
sông Đà như một lẽ tất yếu. Là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hứng của Nguyễn

9
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 – 1960, tùy bút “Sông
Đà” nói chung mà tiêu biểu là đoạn trích “Người lái đò Sông Đà” đã không chỉ thỏa mãn
niềm khát khao xê dịch của tác giả mà chủ yếu đã tìm được chất vàng trong vẻ đẹp hùng
vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ vàng mười đã qua thử lửa của
tâm hồn con người nơi đây trong cuộc sống hằng ngày của họ.

5. VỢ NHẶT

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân được đánh giá là nhà văn của
làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển
hình cho người nông dân. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm
bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Chẳng thế mà nhà văn Nguyên
Hồng từng “phán” về đồng nghiệp của mình rằng: “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về
với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn”. Đến với
“Vợ nhặt” - tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, ta càng hiểu rõ và
thấm nhuần hơn điều này. Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí", có tiền
thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư", được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn
dang dở và mất bản thảo. Sau hoà bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt
truyện cũ và viết lại thành truyện "Vợ nhặt". Truyện ngắn ''Vợ nhặt'' của Kim Lân đã tái
hiện lại số phận con người tại nạn đói thê thảm ở nước ta năm 1945, đồng thời thể hiện
được vẻ đẹp tình người và sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn
hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau.

6. VỢ CHỒNG A PHỦ

Tô Hoài – nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với vốn am hiểu
sâu rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau, tác giả này thường lựa chọn được những hình
ảnh, từ ngữ rất phù hợp để đưa vào trong từng trang văn của mình. Tô Hoài sáng tác
nhiều ở các mảng đề tài khác nhau, có thể kể tới như truyện cho thiếu nhi, truyện về Tây
Bắc và viết cả về Hà Nội. Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi được tiếp xúc với người

10
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

nghệ sĩ này đã trầm trồ thán phục rằng: “Tô Hoài là nhà Hà Nội học” bởi những kiến
thức mà ông biết không có trong bất cứ một cuốn sách nào, một thư viện nào. Sáng tác
nhiều như vậy, nhưng nhà văn này lại dành một sự quan tâm đặc biệt cho hình ảnh của
người lao động đặc biệt là đồng bào Tây Bắc. Theo như Tô Hoài tâm sự, vì mảnh đất
miền Tây đã để thương để nhớ cho ông nhiều quá nên ông đã quyết định quay trở lại đây,
trả món ân tình bằng một tập truyện “Tây Bắc” xuất sắc. “Vợ chồng A Phủ” là một
trong số ba truyện ngắn in trong tập truyện này. Tác phẩm là thành quả đẹp của chuyến
đi thực tế dài 8 tháng vào năm 1952 cùng bộ đội. Thời gian ở đây, được sống, được làm
việc, được tiếp xúc đã giúp cho ngòi bút của nhà văn nay có biết bao nhiêu cảm hứng để
xây lên những áng văn đẹp và tình cho đời. Không quên sứ mệnh của một nhà văn, Tô
Hoài nhìn thấy những con người vất vả, yêu câu chuyện mà họ kể lại viết thành những
tác phẩm để đời. “Vợ chồng A Phủ” chính vì lý do đó mà đã thể hiện mạnh mẽ một
trong những phẩm chất cao đẹp của người lao động – sức sống tiềm tàng. Điều này
thật giống với nhận định Tô Hoài đã từng tâm sự: “Nhưng điều kỳ diệu là dẫu trong
cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay
lắt đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.”

7. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?


Hoàng Phủ Ngọc Tường được người ta ca ngợi như một nhà Huế học cũng bởi
ông viết nhiều, viết hay về xứ Huế mộng mơ, về dòng Hương giang đằm thắm, trữ
tình, tha thiết. Dưới ngòi bút của một nhà văn thấm đẫm chất tri thức, trí tuệ thâm sâu
nhưng không kém chất lãng mạn, uyển chuyển, suy tư đa chiều thì tác phẩm “Ai đã
đặt tên cho dòng sông” vô hình hiện lên thật rực rỡ và ấn tượng. Tác phẩm là bài kí ca
ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương qua nhiều góc độ khác nhau nhưng suy cho cùng đều
tạo được dấu ấn đậm nét trong sự cảm nhận của người đọc. Hai đoạn trích được trích
dẫn ra là hai phương diện âm nhạc và thi ca điều mà chỉ có sông Hương đạt được trong
suốt quá trình hình thành và phát triển cho đến ngày hôm nay. Đọc từng câu từ, vẻ đẹp
của Sông Hương dần dần hiển hiện làm ta cũng cảm thấy tự hào và trân quý hơn con
sông vốn là nét đẹp đặc trưng của vùng đất cố đô.

11
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

TÀI LIỆU VIẾT MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI


I. PHƯƠNG PHÁP VIẾT MỞ BÀI VÀ MỞ BÀI MẪU
Cách 1: Đi từ tác giả (Chú trọng sâu vào phong cách nghệ thuật, đời tư,...)
Lựa chọn 1 trong 2 hướng đi sau:
- Liệt kê dàn trải những hiểu biết của bản thân về tác giả
- Đi sâu về 1 khía cạnh nhất định ( Hướng đi này sẽ tốt hơn)
=> Công thức: Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, + tên tác giả + điểm đáng lưu ý
về tác giả (PCNT). Quá trình sáng tác không mệt mỏi, tên tác giả + đã để lại cho nền
văn học rất nhiều tác phẩm giá trị. Một trong số đó là + tên tác phẩm => Dẫn vào vấn
đề cần nghị luận.
=> MB mẫu
MB1: Mỗi người nghệ sĩ trong quá trình sáng tác đều có một chất giọng của riêng
mình. Nếu Xuân Diệu là chất giọng sôi nổi, trào dâng, tha thiết yêu đương, Xuân
Quỳnh là hồn thơ nhẹ nhàng, gần gũi, giàu cảm xúc, thì hồn thơ Quang Dũng lại đứng
riêng một ốc đảo của mình với những vần thơ tài hoa, hồn hậu, phóng khoáng mang hơi
thở riêng của một người chiến sĩ - thi sĩ. Mỗi câu thơ là một kí ức, cả đoạn thơ là một kỉ
niệm, để rồi bài thơ “Tây Tiến” đã hóa thành nỗi nhớ, thành bản hùng ca cũng đúng mà
bản tình ca cũng không sai. Rồi cứ thế từng nốt nhạc trong bài ca ấy đã trở thành bất tử,
đặc biệt là cung đường thiên nhiên Tây Tiến với những âm hưởng khi thì hào hùng oanh
liệt lúc lại thơ mộng trữ tình đến từng ngọn lau. Nỗi nhớ ấy thể hiện qua hai đoạn thơ:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Và:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc

1
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên


Học Văn Chị Hiên

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

MB2: Trong quá trình sáng tác nghệ thuật của mình, mỗi người nghệ sĩ đều có một
không gian nghệ thuật của riêng mình. Nếu nhà thơ Hoàng Cầm cả một đời đắm đuối
trong không gian Kinh Bắc đầy thơ và mộng, nếu Nguyên Ngọc Nguyễn Trung Thành
luôn trải lòng cùng bạn đọc qua không gian Tây Nguyên đậm chất sử thi, Hoàng Phủ
Ngọc Tường chọn Huế và viết về Huế bằng tất cả tình cảm, tình yêu của mình thì Tô
Hoài – nhà văn một thời của trẻ thơ lại chọn cho mình không gian nơi rẻo cao Tây Bắc
để đến, để sáng tác. Một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nằm trong
không gian nghệ thuật này không thể không kể tới đó là “Vợ chồng A Phủ”.

Cách 2: Đề tài (Đặt để từng tác phẩm trong các phạm trù đề tài khác nhau, phù
hợp để lựa chọn dữ liệu viết tốt nhất...)
Trình tự viết: Nêu tên đề tài => dẫn ra khoảng 2 đến 3 tác phẩm thuộc đề tài đó =>
Dẫn vào tác phẩm => Dẫn vào vấn đề cần nghị luận
=> Công thức: Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, + tên đề tài không biết tự bao
giờ đã trở thành cội nguồn sáng tác cho biết bao người nghệ sĩ. Chúng ta từng biết
tới...+ Trích dẫn 2 -3 tác phẩm, tác giả tiêu biểu viết về đề tài đó. Và khi đến với
những sáng tác của + tên tác giả, chúng ta lại thêm một lần nữa được nhìn về một tác
phẩm nổi bật thuộc đề tài này đó là+ tên tác phẩm => Dẫn vào vấn đề cần nghị luận.
=> B mẫu:
MB3: Đã từ lâu, quê hương đất nước trở thành đề tài muôn thuở trong thi ca Việt
Nam. Ta bắt gặp hình ảnh đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua những vần
thơ của thi sĩ Hoàng Cầm; cũng đã từng gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua
“khúc hát ngợi ca” của Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ hình ảnh đất nước được nhìn từ
nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất là được thể hiện qua bài thơ “Đất Nước” của
Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao
nhiêu sóng gió chiến tranh được khắc họa sinh động qua một hồn thơ tinh tế,

2
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên


Học Văn Chị Hiên

phóng khoáng của “ông vua thể loại trường ca” – nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Đó là
một “Đất Nước” của truyền thống văn hóa:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
...
Đất Nước có từ ngày đó...”
Đó còn là một “Đất Nước” gần gũi của nhân dân:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
...
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Cảm nhận hai đoạn thơ, bạn đọc đồng thời cảm nhận được tư tưởng mới mẻ, riêng biệt
của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.

MB4: Có những dòng sông không biết tự bao giờ đã trở thành nhịp bắt nguồn cho
những rung cảm trong tâm hồn người nghệ sĩ. Tôi cũng nhớ về những dòng sông trong
văn học theo cách của riêng mình. Là con sông quê hương trong thơ của Tế Hanh
những trưa hè oi ả, là con sông anh hùng trong thơ Hoàng Cầm sau mỗi lần lãng đãng về
xứ Kinh Bắc mộng mơ, là con sông Vàm Cỏ tha thiết chở phù sa những tháng ngày bão
lũ,... và là hình ảnh của dòng sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình trong tùy bút “Người
lái đò Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Khi đi tìm hiểu về vẻ đẹp của dòng sông
này, tôi đã thấy những khám phá thật độc đáo trong văn phong của người nghệ sĩ uyên
bác Nguyễn Tuân.

MB5:

“Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?”
Tình yêu cùng biết bao cung bậc cảm xúc nồng nàn trong đó vẫn luôn “ào ạt”, chẳng bao
giờ “đứng yên” trong những trái tim đương thổn thức vì nhau, và ngay cả trong thi

3
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

ca cũng vậy. Giữa muôn nẻo của thi ca tình yêu, ta bắt gặp một hồn thơ da diết, đôn
hậu, một nữ thi sĩ sinh ra để yêu và làm thơ - Xuân Quỳnh. Với sự từng trải, trưởng
thành và sự chiêm nghiệm sâu sắc, Xuân Quỳnh đã đưa người đọc cảm nhận, thấm
thía bao niềm thương, nỗi nhớ, cung bậc xúc cảm trong tình yêu qua nhiều thi phẩm đặc
sắc, tiêu biểu trong số đó là bài thơ “Sóng”. “Sóng” không chỉ là thông điệp tình yêu mới
mẻ, là khát vọng truy tìm căn nguyên của tình yêu... mà “Sóng” còn để lại ấn tượng khó
phai trong lòng bạn đọc qua những vần thơ viết về nỗi nhớ:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.”

MB6: Có một người nghệ sĩ đã từng viết trong tác phẩm của mình:
“Có khoảng không gian nào đo chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào, sâu thẳm hơn tình thương...”
Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ thương. Là nỗi nhớ
thương về quê hương nhà thơ Hoàng Cầm từng gửi gắm qua bài thơ “Bên kia sông
Đuống”, là nỗi nhớ thương của cô gái chỉ biết gửi qua hương bưởi cho người bên ấy
ngày mai đi xa qua bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn,...Nỗi nhớ
thương luôn biết cách “tự làm mới mình” nên mới khiến nhiều người nghệ sĩ siêu lòng
đến vậy. Quang Dũng – “Hiện tượng nhà thơ một bài” – đại diện cho thế hệ nhà thơ
trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, cùng lưu lại những niềm thương nỗi nhớ
của mình bằng bài thơ “Tây Tiến”.

MB7: Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nhà thơ Tố Hữu được biết tới là một
trong những đại diện tiêu biểu của mảng thơ ca cách mạng. Mỗi bước chuyển mình
của lịch sử, Tố Hữu đều ghi dấu ấn của mình với bạn đọc bằng những tập thơ xuất sắc.
Nhà thơ mang trong mình giọng thơ trữ tình chính trị, có thể viết về những sự kiện

4
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

lịch sử quan trọng nhưng lại bằng giọng thơ thủ thỉ, tâm tình. Một trong những thi
phẩm tiêu biểu cho đời thơ Tố Hữu đó là bài thơ “Việt Bắc” - đỉnh cao của thơ ca
kháng chiến chống Pháp. Trong thi phẩm này, Tố Hữu đã khắc họa…. [nêu vấn đề
nghị luận + trích thơ]

Cách 3: Nhận định (Những trích dẫn hay liên quan tới tác giả, tác phẩm,...)
Trình tự viết: Trích dẫn nhận định => Khẳng định nhận định đó phù hợp với tác giả
hoặc tác phẩm => Dẫn vào vấn đề cần nghị luận.
=> Công thức: Tên tác giả của nhận định +đã từng viết (đã từng nói rằng/ đã từng
tâm niệm rằng/...): Trích dẫn nhận định. Nhận định này khiến chúng ta nhớ về + tác
giả hoặc tác phẩm + ... => Dẫn sang vấn đề cần nghị luận.
=> MB mẫu:
MB8: Tôi vẫn còn nhớ nhà thơ Chế Lan Viên đã truyền tải một thông điệp ý nghĩa
trong câu thơ của mình: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Có
biết bao mảnh đất, con người đã để nhớ để thương với tâm trí ta trong suốt cuộc đời dài
rộng này. Đối với người chiến sĩ thời kì Cách mạng, nơi chiến khu, vùng căn cứ chính là
mảnh đất có thể “hóa tâm hồn” khi rời xa, bởi ở đó là thiên nhiên bao bọc, là tình quân
dân gắn bó, là đồng chí đồng đội sát cánh kề vai. Ta bắt gặp nơi chiến khu ân tình như
thế trong thi phẩm “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu. Một giọng thơ trữ tình
- chính trị tha thiết mà sâu lắng đã thật thành công khi khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên
Việt Bắc trong nỗi nhớ son sắt của người chiến sĩ trong đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Rừng xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình

5
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên


Học Văn Chị Hiên

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

MB9: Nhận xét về Nguyễn Tuân, có ai đó đã từng tinh tế cho rằng: “Nguyễn Tuân là
một định nghĩa đầy đủ nhất về người nghệ sĩ”. Ông là nhà văn của những cảm giác
mạnh, nhà văn của núi cao, vực sâu, thác dữ, của những phong cảnh tuyệt mĩ, nhà văn
có một phong cách nghệ thuật độc đáo. Trong suốt quá trình sáng tác của mình,
Nguyễn Tuân đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam rất nhiều những tác phẩm có giá
trị, một trong số đó, không thể không kể tới tùy bút “Người lái đò Sông Đà”. Hình ảnh
hiện lên trong tùy bút này để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc chính là vẻ đẹp
con sông Đà – một vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình.

MB10: Ai đó đã từng nói rằng: “Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả lại sau
lưng”, bởi nói như nhà văn Nguyễn Khải: “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh
phúc hiện hình từ những gian khổ, hy sinh. Ở đời, không có con đường cùng, chỉ có
những ranh giới, điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để vượt qua những ranh giới
đó”. Đọc “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, ta thêm một lần nữa hiểu sâu sắc hơn về
chân lý này.

MB11: "Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình trước thế
giới" (Targo). Mỗi tác phẩm thơ ra đời không chỉ là tiếng lòng của tác giả mà còn kết
tinh ở đó cái hồn của dân tộc, dù đậm đà hay là sự kín đáo gửi gắm. Phải chăng vì thế
mà khi đọc thơ Tố Hữu người đọc lay động trước từng câu chữ, sáng tạo độc đáo
nhưng thấm nhuần hương sắc đất Việt. Nhà thơ với “tình cảm và trái tim trần” ấy đã kế
tục truyền thống thơ ca dân tộc, thấm nhuần tư tưởng cách mạng lớn lao để đem đến
những trang thơ ngọt ngào, bình dị nhưng cũng căng tràn niềm tin, khí thế. Và “Việt
Bắc” chính là đỉnh cao của đời thơ Tố Hữu. Trong bài thơ, bạn đọc luôn ấn tượng
sâu sắc với ….. [nêu vấn đề nghị luận + trích thơ]

MB12: Tố Hữu từng tâm niệm: “Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã đầy.”
Phải chăng chính những niềm thương nỗi nhớ đã tạo ra bao rung động mãnh liệt trong

6
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên


Học Văn Chị Hiên

cảm xúc để rồi đã cất lên thành vần thành điệu, thành những trang thơ đi cùng năm
tháng. Và đối với Tố Hữu, “Việt Bắc” chính là sự rung động ấy. Bài thơ là kết tinh của
mười năm năm “thiết tha, mặn nồng” giữa cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
Đặc biệt, trong thi phẩm này ta không thể không kể đến…. [nêu vấn đề + trích thơ]

Cách 4: Cảm nhận cá nhân (Cần có 1 góc nhìn bao quát và sự hiểu biết rộng, sử
dụng vốn từ ngữ linh hoạt)
=> MB mẫu
MB13: Vào những thời điểm chuyển mình của lịch sử một dân tộc thường xuất hiện
những áng văn bất hủ, đánh dấu cho một thời đại. Không phải ngẫu nhiên người ta hay
nhắc đến những tuyên ngôn nổi tiếng thế giới như “Tuyên ngôn Độc lập” của người Mĩ
năm 1776, “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791”.
Lịch sử dân tộc ta cũng có những bản tuyên ngôn như vậy. Đó là “Bình ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và “Tuyên ngôn Độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn
thảo và đọc ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. “Tuyên ngôn Độc lập”
của Hồ Chí Minh từ lâu vẫn được coi là “một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, một bài
văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy
sức thuyết phục”. Có thể nói bản Tuyên ngôn là kết tinh trí tuệ của thời đại, là kết quả
cao của “bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng” của hơn hai mươi triệu nhân dân
Việt Nam.

II. PHƯƠNG PHÁP VIẾT KẾT BÀI VÀ KẾT BÀI MẪU


PHƯƠNG PHÁP:

- KẾT BÀI luôn phải đủ 2 phần: khẳng định lại vấn đề nghị luận và liên hệ mở
rộng:
+ Khẳng định lại vấn đề là phần bắt buộc phải có
+ Liên hệ mở rộng không bắt buộc và tuỳ vào sở thích, khả năng của mỗi
người
- Dung lượng tương xứng với MB, không để tình trạng đầu voi đuôi chuột

7
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

- Nên viết theo cấu trúc “ĐẦU CUỐI TƯƠNG ỨNG” với MB. MB dẫn dắt từ
đâu thì KB tổng kết tại đó:
+ MB dẫn dắt từ đề tài, chủ đề thì KB cũng tổng kết về đề tài, chủ đề ấy
+ MB dẫn dắt từ đoạn thơ hay nhận định thì KB cũng kết lại bằng đoạn
thơ hay nhận định tương tự
+ ...
- Với đề bài có thể liên hệ với đời sống hiện nay thì nên liên hệ
- Câu kết và đặc biệt là những chữ cuối cùng nên có thanh điệu trầm, nhẹ để tạo
sự lắng đọng
KẾT BÀI MẪU CÁC TÁC PHẨM
1. Tây Tiến
KB1: Thời gian trôi đi, chỉ còn tình yêu và nỗi nhớ thương ở lại... [Khẳng định lại vấn
đề nghị luận]...Lịch sử có thể ngày càng lùi xa, nhưng những tháng năm “bom rơi đạn
nổ" với sự dũng cảm, can trường của người lính sẽ còn mãi ở đây, trong trái tim của biết
bao nhiêu thế hệ sau này. Xin được mượn lời thơ của nhà thơ Giang Nam để thay lời kết
cho bài viết. Có phải chính những vần thơ đã thêm một lần nữa giúp khẳng định ý
nghĩa của “Tây Tiến"’ trong lòng đọc giả:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông"
KB2: Tôi vẫn còn nhớ Văn Cao đã từng viết trong tác phẩm “Thời gian” của mình:
“Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỉ niệm trong tôi
Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn
Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh”
Những vần thơ này thật đúng với những gì Quang Dũng đã để lại cho đời. Và bài ca “Tây
Tiến" sẽ là khúc tráng ca oai hùng, lãng mạn mà người đọc sẽ không bao giờ có

8
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

thể quên đi. … [Khẳng định lại vấn đề nghị luận]... Mặc cho dòng thời gian trôi chảy,
thế hệ hiện tại như chúng ta có quyền tự hào về lịch sử của đất nước mình, trân trọng
những giá trị mình đang có, đang lưu giữ và biết ơn thế hệ cha anh đã không hề ngần
ngại hy sinh thân mình cho Tổ quốc. “Tây Tiến" quả thực là bài thơ, là bước ngoặt
quan trọng giúp tên tuổi của Quang Dũng ở lại với đời.

2. Việt Bắc
KB1: “Việt Bắc" là thi phẩm tiêu biểu nhất - được coi là đỉnh cao trong sự nghiệp thơ
của đời thơ Tố Hữu. … [Khẳng định lại vấn đề nghị luận]... Để làm nên những vần thơ
gửi cả tình, cả cảnh, cả tinh thần ở lại như vậy tôi vẫn thường băn khoăn tự hỏi, Tố Hữu
đã phải dành nhiều tâm huyết của mình đến thế nào.
KB2: Những vần thơ “Việt Bắc" để lại biết bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ cho bạn
đọc…[Khẳng định lại vấn đề nghị luận]... Quả thực, những mảnh đất đã đi qua luôn ghi
dấu ấn đậm nét trong trái tim của mỗi người nghệ sĩ. Nói như nhà thơ Chế Lan Viên
thì đây có lẽ chính là những tâm tư mà nhà thơ Tố Hữu còn bỏ ngỏ:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn"

3. Sóng
KB1: …[Khẳng định lại vấn đề nghị luận]... Và dư âm trong những vẫn thơ còn vang
trong mãi trong trái tim bạn đọc. Đó là những cảm xúc trong trái tim của người con gái
khi yêu, khao khát yêu và muốn vĩnh viễn hóa tình yêu của mình. Năm tháng trôi đi, chỉ
còn tình yêu ở lại. Những thanh âm cảm xúc mà sóng để lại trong lòng bạn đọc đem tới
một sức cuốn hút vô cùng mạnh mẽ. Thế hệ bây giờ trân trọng tình yêu mà Xuân Quỳnh
gửi gắm, yêu thêm những giá trị cuộc đời và trân quý những người bên cạnh mình.
“Sóng" của nữ sĩ “sinh ra để yêu mà làm thơ" này vốn dĩ không ồn ào, mà trái lại cực kỳ
êm dịu. Những năm tháng “bom rơi đạn nổ” ấy, bông hoa hái dọc chiến hào này mới thật
đẹp, thật tinh tế làm sao!

9
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

KB2: “Sóng” - Bài thơ viết về tình yêu tiêu biểu của nhà thơ Xuân Quỳnh. Đây cũng
chính là thi phẩm đưa bạn đọc đến với những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tình
yêu, khám phá những phương diện, góc nhìn nhận đầy mới mẻ về tình yêu….[Khẳng
định lại vấn đề nghị luận]... Bạn đọc hiểu “Sóng", yêu “Sóng" và cũng nhớ tới nữ sĩ
Xuân Quỳnh với một hình ảnh dịu dàng, gần gũi, đôn hậu và đáng yêu đến vậy.

4. Đất Nước
KB1: “Đất Nước” là một đoạn trích hay nhất trong trường ca “Mặt đường khát vọng”
của Nguyễn Khoa Điềm. Đặc biệt….[Khẳng định lại vấn đề nghị luận]... hững năm tháng
hào hùng của dân tộc gắn bó trong những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm đến vậy. Và
tư tưởng mà Nguyễn Khoa Điềm truyền tải đến người đọc chẳng phải giống như Nguyễn
Đình Thi đã từng ghi lại trong một thi phẩm của mình hay sao:
“Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.”

KB2: Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ những điều giản dị. Có
một hình ảnh đất nước được lý giải với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết ngày
xửa ngày xưa. Có những giá trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một không gian
tình tứ như chuyện tình của đôi lứa, uyên ương. Tất cả những điều này, được Nguyễn
Khoa Điềm truyền tải trọn vẹn trong trích đoạn “Đất Nước" của mình và đặc biệt là
....[Khẳng định lại vấn đề nghị luận]... Cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ đã làm
con người xích lại gần nhau, tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ
quốc. Tình yêu và trách nhiệm cao cả ấy trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là
quyết tâm của cả một thời đại: “Thời đại của chúng tôi là thời đại của những thanh niên
xuống đường chiếm lĩnh từng tầng cao của mái nhà, của ngọn đồi, của nhịp cầu để bắn
toả lương tâm lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai).

5. Người lái đò Sông Đà


KB1: Một Sông Đà, một Nguyễn Tuân - một thiên nhiên dữ dội, một người nghệ sĩ tài
hoa. Tùy bút của Nguyễn Tuân chân thực mà hấp dẫn là vậy….[Khẳng định lại vấn đề

10
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

nghị luận]... Đọc từng dòng văn, ta như được tự mình trải nghiệm trong không gian
Tây Bắc, được gặp và chiêm ngưỡng cái tài hoa của những con người nơi đây. “Người
lái đò Sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước thiết tha, say đắm
của một người nghệ sĩ muốn dùng văn chương để khắc họa vẻ đẹp kì vĩ, hào hùng,
vừa trữ tình, thơ mộng, và nhất là tài năng của những người lao động bình dị. Sự đầu
tư nghiêm túc, công phu và tâm huyết cho nghệ thuật của Nguyễn Tuân thật khiến ta
khâm phục. Phải chăng đó chính là cái độc đáo tài hoa của Nguyễn Tuân - cái điều mà
ông vẫn quan niệm “đã viết văn thì phải viết cho hay, cho đúng cái tạng riêng của mình.
Văn chương cần sự độc đáo hơn bất kì một lĩnh vực nào khác....”.
KB2: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở của
cái đẹp” (K. Pautopxki). Đúng vậy, .[Khẳng định lại vấn đề nghị luận]... Với tuỳ bút
“Người lái đò Sông Đà”, ngòi bút của Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hoà phối diệu
kì giữa cái đẹp của ngôn từ và ánh sáng tuyệt mĩ của chiều sâu hình ảnh, dẫn dắt người
đọc đến với vẻ đẹp hung bạo mà trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, nhất là vẻ đẹp “vàng
mười” nơi tâm hồn con người mà nhà văn tập trung khắc họa qua hình tượng người
lái đò. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền
bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên
bác…

6. Vợ nhặt
KB1: Truyện ngắn “Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thực sự đã để lại rất nhiều ấn
tượng trong lòng bạn đọc bởi việc xây dựng được…[Khẳng định vấn đề nghị luận]...
Nhắc nhớ tới “Vợ nhặt" xin được mạn phép sử dụng những dòng văn của nhà văn
Nguyễn Khải để thay lời kết cho bài viết này. Có lẽ, đây cũng chính là những gì mà bản
thân Kim Lân thật sự muốn trải lòng: “Trên đời không có con đường cùng, chỉ có những
ranh giới, điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để bước qua những ranh giới đó.”
KB2: Một nhà văn “nguyện một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy
của cuộc sống nông thôn" như Kim Lân đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng
về nhân vật …. [Khẳng định lại vấn đề nghị luận nếu đó là phân tích 1 nhân

11
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

vật].... Đi bao biết bao những điều bất hạnh, đói khổ, khó khăn ở trên đời, cuối cùng
nhân vật này cũng đã neo đậu tới bến bờ của hạnh phúc. Có điều gì quý giá và đáng trân
quý hơn thế. Tình người, tình đời thêm một lần nữa thấm đẫm trong những trang sách
Kim Lân.

7. Vợ chồng A Phủ
KB1: Câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” khép lại nhưng đồng thời mở ra trong ta những
xúc cảm đặc biệt …[Khẳng định lại vấn đề nghị luận]... gòi bút Tô Hoài đã diễn tả thành
công cuộc đời cũng như con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của đồng bào miền
núi, bằng lời văn giàu tính tạo hình, ngôn ngữ giản dị, phong phú và nghệ thuật kể
chuyện linh hoạt, lôi cuốn. Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực sự trở thành “kẻ
nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi
dồn đến chân tường.” (Nguyễn Minh Châu)
KB2: Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” cùng tập “Truyện Tây Bắc”, nhà văn Tô
Hoài đã hoàn thành điều mong mỏi của mình đó là quay lại và trả niềm thương, nỗi
nhớ cho mảnh đất nơi đây. … [Khẳng định lại vấn đề nghị luận]... Những người lao
động ham sống và khát sống đã vươn lên, tìm ra ánh sáng, tương lai cho chính bản
thân mình. Lòng ham sống trong Mị hay trong A Phủ vượt qua tất cả cường quyền,
bạo quyền và thần quyền đã giúp Tô Hoài thể hiện trọn vẹn giá trị nhân đạo và thông
điệp hướng tới tương lai của mình. Con người lao động trong bất cứ thời điểm nào, họ
luôn hướng về sự sống, ánh sáng và luôn sẵn sàng đấu tranh cho chính hạnh phúc của
bản thân mình.

8. Chiếc thuyền ngoài xa


KB1: Qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã.[Khẳng
định lại vấn đề nghị luận]... Từ tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự
thật đời sống và qua sự thay đổi nhận thức của Phùng, của Đẩu, tác giả đã khẳng định
mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực. Theo ông, bổn phận của người nghệ sĩ là phải
phát hiện ra bản chất của cuộc đời. Cái Đẹp, cái Thiện trước hết phải là sự chân
thực, cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn

12
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

nhận con người và cuộc sống mà cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc cùng với sự tìm tòi,
phát hiện để hiểu đúng bản chất của nó.
KB3: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã trở
thành một viên ngọc quý của văn học Việt Nam trong những năm 80 của thế kỉ XX - giai
đoạn chứng kiến những đổi mới trong xã hội và cả trong lĩnh vực văn học.
…[Khẳng định lại vấn đề]... guyễn Minh Châu đi sâu vào khai thác những vấn đề
tưởng chừng nhỏ nhặt nhưng lại đem tới bài học thấm thía, giúp người đọc nhận ra
được những góc khuất khác nhau về con người. Nhìn mọi vấn đề, sự việc, chúng ta
cần trang bị cho mình một cái nhìn đa chiều. Không dừng lại ở đa chiều, hãy nhìn
nhận dưới góc độ cảm thông để cảm thấy cuộc đời này vẫn còn thấm đẫm tình người đến
vậy!

9. Ai đã đặt tên cho dòng sông?


KB1: Thiên nhiên Huế thật dịu dàng và thơ mộng dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Cuộc hành trình mà người đọc được trải nghiệm qua “Ai đã đặt tên cho dòng
sông” lần lượt theo dòng chảy của Hương giang, tôi bắt gặp….[Khẳng định vấn đề
nghị luận].... Tất cả đều sống động qua tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường
với con sông này. Không hiểu sao đọc xong ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, có
những dòng thơ cứ trở đi trở lại trong tôi:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu"
KB2: Dòng Hương thơ mộng của xứ Huế đã làm ngẩn ngơ không ít những tâm hồn
nhạy cảm và cũng làm đắm say không ít bậc nghệ sĩ tài hoa. Tôi vẫn còn nhớ nhà thơ
Thu Bồn viết về sông Hương: “Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy
vào lòng nên Huế rất sâu.” Và đến với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở
thành nàng thơ của xứ Huế….[Khẳng định lại vấn đề nghị luận]... . “Ai đã đặt tên cho
dòng sông” là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về con sông xứ Huế, chinh phục
người đọc bằng những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn kiến thức phong
phú, uyên bác, văn phong tao nhã, tinh tế và tài hoa. Đây không chỉ là một trong

13
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

Khóa học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị


Hiên Học Văn Chị
Hiên

những tác phẩm hay nhất viết về sông Hương mà còn là bút kí đặc sắc vào bậc nhất
của văn học Việt Nam hiện đại.

14
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

TUYỂN TẬP KẾT BÀI MỞ CỰC HAY CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12

“Gửi cho các em, với tất cả, trọn vẹn, đủ đầy...”

RỪNG XÀ NU - NGUYỄN TRUNG THÀNH


KB1: Trong tác phẩm “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi đã viết:
“Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh”
Không khí ấy, tâm thế ấy có lẽ đã được diễn tả sâu sắc nhất trong truyện ngắn “Rừng xà nu”.
Những trang văn của Nguyễn Trung Thành khép lại nhưng đã mở ra trước mắt ta tượng đài
những người anh hùng bất khuất, không bao giờ chịu khuất phục trước dã tâm của kẻ thù. Âm
hưởng sử thi của thiên truyện vẫn còn âm vang trong lòng bạn đọc như tiếng gọi của đại ngàn
Tây Nguyên, như lời khẳng định chắc chắn một sự thật lịch sử, rằng: để cho sự sống của đất
nước và nhân dân mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên,
cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác. “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành sẽ mãi sáng ngời
những vẻ đẹp tráng lệ và hào hùng ấy.
KB2: Bấy nhiêu hy sinh là bấy nhiêu tự hào. Biết bao gian khổ là biết bao những kiên trì, quyết
tâm cho một ngày mai “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Những người con của núi rừng Tây Nguyên
như cụ Mết, Tnú, Mai... là kết tinh của bao gian lao và cả tinh thần anh dũng, kiên cường của
tình yêu nước nồng nàn luôn rực cháy trong tim. Xây dựng thành công hình tượng người anh
hùng, tập thể anh hùng mang âm hưởng sử thi, với lời văn chau chuốt, sinh động, Nguyễn
Trung Thành cùng thiên truyện “Rừng xà nu” đã để lại ấn tượng mạnh mẽ nơi người đọc, khiến
ta vẫn còn nhớ mãi, thương mãi và tự hào mãi về những năm tháng gian lao mà huy hoàng của
dân tộc.
Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

Ngực dám đón những phong ba dữ dội


Chân đạp bùn không sợ các loài sên!

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ - NGUYỄN TUÂN

KB1: Một Sông Đà, một Nguyễn Tuân - một thiên nhiên dữ dội, một người nghệ sĩ tài hoa.
Tùy bút của Nguyễn Tuân chân thực mà hấp dẫn là vậy. Đọc từng dòng văn, ta như được tự
mình trải nghiệm trong không gian Tây Bắc, được gặp và chiêm ngưỡng cái tài hoa của những
con người nơi đây. “Người lái đò Sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất
nước thiết tha, say đắm của một người nghệ sĩ muốn dùng văn chương để khắc họa vẻ đẹp kì
vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng, và nhất là tài năng của những người lao động bình dị. Sự
đầu tư nghiêm túc, công phu và tâm huyết cho nghệ thuật của Nguyễn Tuân thật khiến ta khâm
phục. Phải chăng đó chính là cái độc đáo tài hoa của Nguyễn Tuân - cái điều mà ông vẫn quan
niệm “đã viết văn thì phải viết cho hay, cho đúng cái tạng riêng của mình. Văn chương cần
sự độc đáo hơn bất kì một lĩnh vực nào khác....”.

KB2: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở của cái
đẹp” (K. Pautopxki). Với tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, ngòi bút của Nguyễn Tuân như nở
hoa trong sự hoà phối diệu kì giữa cái đẹp của ngôn từ và ánh sáng tuyệt mĩ của chiều sâu hình
ảnh, dẫn dắt người đọc đến với vẻ đẹp hung bạo mà trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, nhất là
vẻ đẹp “vàng mười” nơi tâm hồn con người mà nhà văn tập trung khắc họa qua hình tượng
người lái đò. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí
riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác...

TÂY TIẾN - QUANG DŨNG

KB1: Thời gian trôi đi, chỉ còn tình yêu và nỗi nhớ thương ở lại. Bài thơ “Tây Tiến" của nhà
thơ Quang Dũng đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh của mình, để lại biết bao những xúc cảm
bâng khuâng trong lòng đọc giả. Lịch sử có thể ngày càng lùi xa, nhưng những tháng năm
“bom rơi đạn nổ" với sự dũng cảm, can trường của người lính sẽ còn mãi ở đây, trong trái tim
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

của biết bao nhiêu thế hệ sau này. Xin được mượn lời thơ của nhà thơ Giang Nam để thay lời
kết cho bài viết. Có phải chính những vần thơ đã thêm một lần nữa giúp khẳng định ý nghĩa
của “Tây Tiến"’ trong lòng đọc giả:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông"

KB2: Tôi vẫn còn nhớ Văn Cao đã từng viết trong tác phẩm thời gian của mình:

Thời gian qua kẽ tay

Làm khô những chiếc lá

Kỉ niệm trong tôi

Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn

Riêng những câu thơ còn xanh

Riêng những bài hát còn xanh

Và đôi mắt em như hai giếng nước.

Những vần thơ này thật đúng với những gì Quang Dũng đã để lại cho đời. Và bài ca “Tây
Tiến" sẽ là khúc tráng ca oai hùng, lãng mạn mà người đọc sẽ không bao giờ có thể quên đi.
Hình ảnh về người lính Tây Tiến cũng sẽ còn ở lại với đời. Mặc cho dòng thời gian trôi chảy,
thế hệ hiện tại như chúng ta có quyền tự hào về lịch sử của đất nước mình, trân trọng những
giá trị mình đang có, đang lưu giữ và biết ơn thế hệ cha anh đã không hề ngần ngại hy sinh
thân mình cho Tổ quốc. “Tây Tiến" quả thực là bài thơ, là bước ngoặt quan trọng giúp tên
tuổi của Quang Dũng ở lại với đời.
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

KB3: Hình tượng người lính Tây Tiến đã hiện lên vô cũng rõ nét trong những vần thơ cùng
tên của nhà thơ Quang Dũng. Điều nổi bật là người đọc có thể cảm nhận được một cách toàn
diện về hình ảnh người lính trong những tháng năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp
còn nhiều gian khổ. Tác giả Đinh Minh Hằng, khi đọc và cảm nhận về tác phẩm này đã từng
đưa ra quan điểm: “... Tây Tiến - nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây
Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn
thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và
tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ... Tất cả đều
gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên...” Quả thực, bài thơ này -
kiệt tác trong đời thơ Quang Dũng này, đã để lại cho đọc giả nhiều ấn tượng đến thế.

KB4: Bạn đọc biết tới Quang Dũng với một hồn thơ hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng, tài
hoa. Tác giả này bước vào “làng” thơ cách mạng với bài “Tây Tiến” và cũng nổi tiếng nhờ
bài thơ này. Như có mối duyên gì ràng buộc, bài thơ ấy gắn bó với người làm ra nó đến mức
cứ nói đến Quang Dũng là người ta nhớ đến bài thơ “Tây Tiến” và ngược lại. Có lẽ bởi từ sự
kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã
dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức
khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại mà cả dân tộc
đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.

SÓNG - XUÂN QUỲNH

KB1: Thi phẩm “Sóng” khép lại, vậy mà dư âm trong những vẫn thơ còn vang trong mãi
trong trái tim bạn đọc. Đó là những cảm xúc trong trái tim của người con gái khi yêu, khao
khát yêu và muốn vĩnh viễn hóa tình yêu của mình. Năm tháng trôi đi, chỉ còn tình yêu ở lại.
Những thanh âm cảm xúc mà sóng để lại trong lòng bạn đọc đem tới một sức cuốn hút vô
cùng mạnh mẽ. Thế hệ bây giờ trân trọng tình yêu mà Xuân Quỳnh gửi gắm, yêu thêm những
giá trị cuộc đời và trân quý những người bên cạnh mình. “Sóng" của nữ sĩ “sinh ra
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

để yêu mà làm thơ" này vốn dĩ không ồn ào, mà trái lại cực kỳ êm dịu. Những năm tháng
“bom rơi đạn nổ” ấy, bông hoa hái dọc chiến hào này mới thật đẹp, thật tinh tế làm sao!

KB2: “Sóng” - Bài thơ viết về tình yêu tiêu biểu của nhà thơ Xuân Quỳnh. Đây cũng chính là
thi phẩm đưa bạn đọc đến với những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tình yêu, khám phá
những phương diện, góc nhìn nhận đầy mới mẻ về tình yêu. Bạn đọc hiểu “Sóng", yêu “Sóng"
và cũng nhớ tới nữ sĩ Xuân Quỳnh với một hình ảnh dịu dàng, gần gũi, đôn hậu và đáng yêu
đến vậy.

KB3: Nhận định về bài thơ “Sóng", GS Trần Đình Sử có viết: “Sóng là một bài thơ về tình
yêu. Có hàng trăm dáng vẻ của thơ tình yêu. Thơ tỏ tình, thơ mong nhớ, thơ hoài niệm, thơ
đau khổ vì thất tình... Sóng là bài thơ giãi bày và chiêm nghiệm...” Quả thực là như vậy. Từ
cách sử dụng cấu tứ bài thơ, cách gieo vần nhịp, sử dụng hình ảnh và đôi khi còn bất tuân
theo cả những quy luật của nghề thơ, Xuân Quỳnh đã đưa người đọc từ cung bậc này tới cung
bậc khác trong tình yêu, để người đọc thêm một lần chìm đắm và suy ngẫm về tình yêu của
chính mình. “Sóng” đã tự nhiên, trở thành tiếng hát, tiếng lòng của biết bao nhiêu người trẻ
khát sống, khát yêu, hệt như Xuân Quỳnh.

KB4: May mắn cho nền văn học Việt Nam hiện đại khi có được một nữ sĩ tài năng như Xuân
Quỳnh. May mắn cho Xuân Quỳnh bởi chị sở hữu một trái tim khao khát yêu thương và một
tâm hồn nhạy cảm tới vậy. May mắn cho chúng ta vì thế hệ của những năm tháng này vẫn
được tiếp tục lắng nghe bản tình ca “Sóng" để rồi gật gù cái đầu nghĩ về những điều tưởng
cũ và chưa bao giờ cũ về tình yêu. Xuân Quỳnh đã thật sự thành công rồi, thành công với
những điều nhỏ nhặt, bình thường từ cuộc đời chị viết. Và chị cũng thành công, khi có đôi
lần cất lên vài dòng tâm sự khiến người ta nao lòng:

“Nếu ngày mai em không làm thơ nữa

Cuộc sống trở về bình yên

Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm

Không nỗi khổ không niềm vui kinh ngạc”


DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

VIỆT BẮC - TỐ HỮU

KB1: “Việt Bắc" là thi phẩm tiêu biểu nhất - được coi là đỉnh cao trong sự nghiệp thơ của đời
thơ Tố Hữu. Đây cũng là thi phẩm được đánh giá đậm đà tính dân tộc hòa chung với tính hiện
đại rất phù hợp với phong cách thơ thường thấy của người nghệ sĩ này: Trữ tình - chính trị.
Những câu thơ viết về sự kiện chính trị quan trọng, nhưng lại như lời thủ thỉ của đôi lứa uyên
ương, gửi tình yêu về mảnh đất và con người Việt Bắc. Để làm nên những vần thơ gửi cả tình,
cả cảnh, cả tinh thần ở lại như vậy tôi vẫn thường băn khoăn tự hỏi, Tố Hữu đã phải dành
nhiều tâm huyết của mình đến thế nào.

KB2: Những vần thơ “Việt Bắc" để lại biết bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ cho bạn đọc. Quả
thực, những mảnh đất đã đi qua luôn ghi dấu ấn đậm nét trong trái tim của mỗi người nghệ
sĩ. Nói như nhà thơ Chế Lan Viên thì đây có lẽ chính là những tâm tư mà nhà thơ Tố Hữu
còn bỏ ngỏ:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ


Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn"

KB3: Điều còn lại trong mỗi người nghệ sĩ, có lẽ chính là một miền đất, một không gian nghệ
thuật để đi về. Bởi “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có lẽ vì thế
mà thủ đô cách mạng Việt Bắc đã chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên
mà thời điểm hiện tại, thế hệ đi trước đọc cho thế hệ sau nghe về những nhớ thương mênh
mang còn ở lại.

KB4: Thi phẩm “Việt Bắc" thực sự là đỉnh cao của đời thơ Tố Hữu khi giúp người đọc hình
dung ra những năm tháng đã qua của dân tộc. Cuộc chiến đấu gian khổ nhưng đầy hào hùng
cùng với đó là tình quân dân đậm đà, thắm thiết. Tình cảm giữa người cán bộ cách mạng và
đồng bào Việt Bắc là mối ân tình đọng lại biết bao cảm xúc. Những vần thơ ấy, những tiếng ca
ấy, sẽ còn sống mãi với năm tháng để thế hệ trẻ như chúng ta sẽ trân trọng nhiều hơn những
gì mình đang có.
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

VỢ NHẶT - KIM LÂN

KB1: Truyện ngắn “Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thực sự đã để lại rất nhiều ấn tượng trong
lòng bạn đọc bởi việc xây dựng được 1 tình huống truyện hợp lý, chan chứa tình đời, tình
người. Nhắc nhớ tới “Vợ nhặt" xin được mạn phép sử dụng những dòng văn của nhà văn
Nguyễn Khải để thay lời kết cho bài viết này. Có lẽ, đây cũng chính là những gì mà bản thân
Kim Lân thật sự muốn trải lòng: “Trên đời không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới,
điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để bước qua những ranh giới đó.”

KB2: Một nhà văn “nguyện một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của
cuộc sống nông thôn" như Kim Lân đã thực sự thành công khi xây dựng hình tượng về nhân
vật anh Cu Tràng. Đi bao biết bao những điều bất hạnh, đói khổ, khó khăn ở trên đời, cuối
cùng nhân vật này cũng đã neo đậu tới bến bờ của hạnh phúc. Có điều gì quý giá và đáng trân
quý hơn thế. Tình người, tình đời thêm một lần nữa thấm đẫm trong những trang sách Kim
Lân.

KB3: Những phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam còn giữ lại, tình yêu, tình người, tình đời
là thứ ánh sáng đẹp đẽ vô cùng giúp cho người vợ nhặt trở nên lấp lánh đến vậy. Dẫu có chút
kiệm lời, dẫu có chút đối đãi không tốt, nhưng cuối cùng, Kim Lân vẫn hoàn thành sứ mệnh
đưa nhân vật của mình cập bến hạnh phúc. Ngày mai của người đàn bà này sẽ ra sao, tôi
không phân vân nhiều, bởi tôi biết rằng, phía trước của những con người nghèo khổ này chắc
chắn sẽ là ánh sáng, ánh sáng của niềm tin, của hạnh phúc.

KB4: Hình ảnh bà Cụ Tứ là một trong những hình tượng để lại nhiều cảm xúc trong lòng đọc
giả. Đi qua biết bao nhiêu khổ sở, bất hạnh trong cuộc đời. Người mẹ nghèo ấy cuối cùng vẫn
là người nói những câu chuyện vui, tin tưởng vào tương lai của các con và chu đáo cho những
tháng ngày còn vất vả. Trong đôi mắt của người mẹ nghèo, biết bao nhiêu những tình cảm yêu
thương con còn ở lại và bóng tối tan đi. Xin được mượn 1 lời thơ của nhà thơ Chế Lan Viên
thay lời kết cho bài viết này, cũng là những tâm tư đọc giả như tôi còn bâng khuâng mãi:
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ

Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con"

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI

KB1: Câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” khép lại nhưng đồng thời mở ra trong ta những xúc cảm
đặc biệt. Đó là sự thương cảm với số phận của người dân lao động như Mị, như A Phủ bị áp
bức, đày đọa. Nhưng cũng thật vui mừng làm sao, khi ở họ vẫn luôn âm ỉ tinh thần phản
kháng, để rồi khi ở vào hoàn cảnh cùng cực nhất, tinh thần ấy đã bùng cháy lên, mãnh liệt và
mạnh mẽ. Ngòi bút Tô Hoài đã diễn tả thành công cuộc đời cũng như con đường đấu tranh
từ tự phát đến tự giác của đồng bào miền núi, bằng lời văn giàu tính tạo hình, ngôn ngữ giản
dị, phong phú và nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, lôi cuốn. Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã
thực sự trở thành “kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc
số phận đen đủi dồn đến chân tường.” (Nguyễn Minh Châu) .

KB2: Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” cùng tập truyện Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài đã hoàn
thành điều mong mỏi của mình đó là quay lại và trả niềm thương, nỗi nhớ cho mảnh đất nơi
đây. Những người lao động ham sống và khát sống đã vươn lên, tìm ra ánh sáng, tương lai
cho chính bản thân mình. Lòng ham sống trong Mị hay trong A Phủ vượt qua tất cả cường
quyền, bạo quyền và thần quyền đã giúp Tô Hoài thể hiện trọn vẹn giá trị nhân đạo và thông
điệp hướng tới tương lai của mình. Con người lao động trong bất cứ thời điểm nào, họ luôn
hướng về sự sống, ánh sáng và luôn sẵn sàng đấu tranh cho chính hạnh phúc của bản thân
mình.

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - NGUYỄN MINH CHÂU

KB1: Qua truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã nêu lên bài học về cái
nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với các nghệ sĩ chân chính. Từ
tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện về sự thật đời sống và qua sự thay đổi nhận
thức của Phùng, của Đẩu, tác giả đã khẳng định mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

thực. Theo ông, bổn phận của người nghệ sĩ là phải phát hiện ra bản chất của cuộc đời. Cái
Đẹp, cái Thiện trước hết phải là sự chân thực, Cuộc sống vốn phức tạp, chúng ta không thể
đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận con người và cuộc sống mà cần có cái nhìn tỉnh táo, sâu sắc
cùng với sự tìm tòi, phát hiện để hiểu đúng bản chất của nó.

KB2: Những thay đổi trong nhận thức của nhân vật Phùng và Đẩu là bước ngoặt quan trọng
giúp nhà văn Nguyễn Minh Châu truyền tải thông điệp của mình. Thêm vào đó, đây cũng
chính là sự củng cố cho bản thân nhà văn với tư duy văn học đầy mới mẻ của mình: “Văn
học và đời sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người.”

KB3: Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã trở thành một
viên ngọc quý của văn học Việt Nam trong những năm 80 - Giai đoạn chứng kiến những đổi
mới trong xã hội và cả trong lĩnh vực văn học. Nguyễn Minh Châu đi sâu vào khai thác những
vấn đề tưởng chừng nhỏ nhặt nhưng lại đem tới bài học thấm thía, giúp người đọc nhận ra
được những góc khuất khác nhau về con người. Nhìn mọi vấn đề, sự việc, chúng ta cần trang
bị cho mình một cái nhìn đa chiều. Không dừng lại ở đa chiều, hãy nhìn nhận dưới góc độ cảm
thông để cảm thấy cuộc đời này vẫn còn thấm đẫm tình người đến vậy!

KB4: Hình ảnh người đàn bà hàng chài đã trở thành “nỗi ám ảnh" với chính nhân vật người
nghệ sĩ Phùng, cũng là hình ảnh đem đến những ấn tượng đặc biệt trong lòng đọc giả. Một
chút ồn ào, một chút đau đớn, một chút tủi hờn, một chút xót thương, một chút đồng
cảm,...tôi vẫn nghĩ rằng những cảm xúc bản thân còn lưu lại sau khi đọc xong câu chuyện
này còn nhiều hơn như thế. Và hình ảnh người đàn bà hàng chài vẫn vẫn, đẹp đẽ, thánh thiện,
bao dung. Người đàn bà ấy là biểu trưng cho biết bao nhiêu những người phụ nữ hàng chài
khác mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, chỉ cần gạt nhẹ một chút đã thấy sáng lấp lánh,
long lanh.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

KB1: Thiên nhiên Huế thật dịu dàng và thơ mộng dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Cuộc hành trình mà người đọc được trải nghiệm qua “Ai đã đặt tên cho dòng sông” lần lượt
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

theo dòng chảy của Hương giang, tôi bắt gặp khung cảnh thiên nhiên Huế lúc nguyên sơ,
trong trẻo, lúc mượt mà, khi kì ảo, lúc dịu dàng say đắm, khi thâm trầm trang nghiêm. Tất cả
đều sống động qua tình yêu tha thiết của Hoàng Phủ Ngọc Tường với con sông này.
Không hiểu sao đọc xong ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, có những dòng thơ cứ trở đi trở
lại trong tôi:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu"

KB2: Con sông Hương thơ mộng của xứ Huế đã làm ngẩn ngơ không ít những tâm hồn nhạy
cảm và cũng làm đắm say không ít bậc nghệ sĩ tài hoa. Tôi vẫn còn nhớ nhà thơ Thu Bồn viết
về sông Hương: “Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế
rất sâu.” Và đến với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành nàng thơ của xứ Huế.
Từ thủy trình của dòng sông đến những nét đẹp văn hóa, lịch sử, thi ca hội tụ trong nó đều
được nhà văn quan sát một cách tinh tế và chan chứa tình yêu với cái đẹp của thiên nhiên đất
nước. “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về con sông
xứ Huế, chinh phục người đọc bằng những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn kiến
thức phong phú, uyên bác, văn phong tao nhã, tinh tế và tài hoa. Đây không chỉ là một trong
những tác phẩm hay nhất viết về sông Hương mà còn là bút kí đặc sắc vào bậc nhất của văn
học Việt Nam hiện đại.

KB3: Dòng sông Hương đã từng là hình tượng trở đi trở lại trong rất nhiều những tác phẩm
hay. “Ai đã đặt tên cho dòng sông" của nhà văn Hoàng Phủ không chỉ hay mà còn đẹp. Đẹp
trong từng hình ảnh, đẹp trong câu từ, đẹp trong suy nghĩ, trong cảm xúc của một con người
yêu Huế và yêu sông Hương vô cùng. Từng bước dùng lời văn của mình chiếm lấy trái tim
của đọc giả, đưa đọc giả về một miền đất để nhớ để thương quá nhiều. Chợt lại nghe bâng
khuâng đâu đây những câu hát còn vang vọng:

“Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ

Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt


DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được

Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư...”

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT - LƯU QUANG VŨ

KB1: Còn gì đau khổ hơn khi phải sống trong tình cảnh bên trong một đằng, bên ngoài một
nẻo như Trương Ba? Thấm thía! Ngậm ngùi! Chấp nhận giải thoát để được là “tôi toàn vẹn”!
Từng lời thoại của vở kịch “Hồn Trương ba, da hàng thịt” như chất chứa bao trăn trở, suy tư
của người viết về cuộc đời, con người. Và sau tất cả, Lưu Quang Vũ, với đôi mắt nhìn đời
tỉnh táo, đã để nhân vật của mình được giải thoát, để cuộc đời của Trương Ba mãi là một cuộc
đời có nghĩa. Còn bạn, bạn chọn một cuộc sống thực hay chọn sự tồn tại vô nghĩa?

KB2: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được biết đến là một vở kịch hấp dẫn, có giá trị sâu sắc,
thể hiện rõ thế giới quan và nhân sinh quan của nhà viết kịch tài hoa Lưu Quang Vũ. Tác
phẩm khép lại nhưng đã đặt ra những câu hỏi để người đọc, người nghe tự vấn bản thân, rằng:
ta đã sống đúng là ta toàn vẹn chưa, ta đã hết mình tự đấu tranh để hoàn thiện nhân cách
chưa? Tư tưởng triết lí vừa biện chứng, vừa lạc quan, cao thượng của Lưu Quang Vũ thể hiện
qua “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” sẽ là những bài học mãi gây ấn tượng trong lòng mỗi
chúng ta.

ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM

KB1: Đất Nước là một đoạn trích hay nhất trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm. Thi phẩm ấy không chỉ khẳng định tài năng thơ phú của nhà thơ mà còn
qua đó nói lên được tiếng nói của người công dân yêu nước với tình yêu sâu nặng, mãnh liệt
“như máu xương của mình”. Những năm tháng hào hùng của dân tộc gắn bó trong những vần
thơ của Nguyễn Khoa Điềm đến vậy. Và tư tưởng và Nguyễn Khoa Điềm truyền tải đến người
đọc chẳng phải giống như Nguyễn Đình Thi đã từng ghi lại trong một thi phẩm của mình hay
sao:
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

“Ôm đất nước những người áo vải

Ðã đứng lên thành những anh hùng.”

KB2: Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ những điều giản dị. Có một hình
ảnh đất nước được lý giải với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết ngày xửa ngày xưa.
Có những giá trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một không gian tình tứ như chuyện
tình của đôi lứa, uyên ương. Tất cả những điều này, được Nguyễn Khoa Điềm truyền tải
trọn vẹn trong trích đoạn “Đất Nước" của mình. Cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ đã làm
con người xích lại gần nhau, tất cả đều hướng đến nhiệm vụ chung cao cả để bảo vệ Tổ
Quốc. Tình yêu và trách nhiệm cao cả ấy trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là quyết
tâm của cả một thời đại: “Thời đại của chúng tôi là thời đại của những thanh niên xuống
đường chiếm lĩnh từng tầng cao của mái nhà, của ngọn đồi, của nhịp cầu để bắn toả lương
tâm lên bầu trời đầy giặc giã” (Chu Lai).

KB3: Trích đoạn “Đất Nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng" là sự lý giải hoàn hảo
cho những thắc mắc của đọc giả về câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ và đất nước là của ai?”
Một cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Chẳng phải nơi chúng ta đang sống, mọi thứ
quanh mình, đều là những gì thuộc về đất nước hay sao. Và những câu hỏi thắc mắc về quê
hương, đất nước mình vẫn còn là những điều bỏ ngỏ, để bạn đọc không ngừng tìm kiếm
những điều mới lạ ấy, sự thú vị ấy trong thơ văn.

“Quê hương là gì hở mẹ

Mà cô giáo dạy phải yêu

Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều"

KB4: Hình tượng đất nước không phải lần đầu tiên xuất hiện, nhưng cách lý giải về đất nước
của Nguyễn Khoa Điềm lại đem tới cho bạn đọc sự thú vị đến bất ngờ. Đó là hình ảnh của
một đất nước gần gũi, dung dị, giống như hình ảnh của những con người đã làm ra, dựng
DANG KY KHOA HOC INBOX PAGE

TÀI LIỆU ÔN THI THPT QUỐC GIA Học


Văn Chị Hiên – “Hơn cả một bài văn”

xây và phát triển - Nhân dân. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân" cũng không phải là tư
tưởng lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam, nhưng đây lại là tác phẩm cho người
đọc thấy được tư tưởng về đất nước của nhân dân chân thực và gần gũi nhất. “Họ đã sống và
chết - Giản dị và bình tâm - Không ai nhớ mặt đặt tên - Nhưng họ đã làm nên đất nước...”
Những lời ca ấy, thế hệ sau này sẽ hát hoài, hát mãi và khắc thật sâu trong trái tim của mình.

You might also like