You are on page 1of 19

SÓNG

- Xuân Quỳnh -
A. MỞ BÀI CHUNG
Đại văn hào Mác-két đã từng nói rất hay về tình yêu: “Con bướm phải mất 180
triệu năm mới cất cánh bay lên được. Con người phải mất bằng ấy năm mới biết
khóc, biết cười và biết chết cho tình yêu”. Tình yêu là món quà vô giá mà tạo hóa ban
tặng cho loài người. Đó cũng là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn đối với các văn
nghệ sĩ. Nói đến thơ tình Việt Nam hiện đại, người đọc không thể không nhắc đến nữ
hoàng tình yêu Xuân Quỳnh. Bà là một trong số nhà thơ tiêu biểu nhất thuộc thế hệ các
nhà thơ trẻ thời chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ
nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm nhưng cũng đầy lo âu và
luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ là kết tinh sở trường thơ
Xuân Quỳnh và đặc biệt thành công trong việc sáng tạo hai hình tượng nghệ thuật đặc
sắc là sóng và em. Bài thơ được xem như một bông hoa lạ giữa vườn thơ chống Mỹ.

B. PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ


Đoạn số 1:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng của Xuân Quỳnh:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.155)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ "Sóng" được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967,
trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền, Thái Bình. Sau đó, bài thơ được đưa
vào tập thơ "Hoa dọc chiến hào" in 1968.
- Đề tài: Đã là thi sĩ thì ít có ai lại không muốn mượn thơ để gửi gắm vào đó khát
vọng tình yêu. Bởi vậy mà các thi sĩ đã tạo ra cả một khu vườn thơ tình yêu lung linh
đầy sắc màu. Trong vườn thơ ấy, mỗi nhà thơ lại đem đến một sắc màu riêng lại cảm
nhận và thể hiện tình yêu theo một cách riêng. Nếu Xuân Diệu thể hiện một tình yêu say
đắm, cuồng nhiệt, vồ vập, ham hố và đầy nam tính:
1
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu bò lắm lắm em ơi
Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên rực rỡ đầy sắc màu:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử lại là sắc trắng mong manh của một mối tình đơn
phương chưa ngỏ... thì trong bài thơ "Sóng", nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã đem đến cho vườn
thơ tình yêu một sắc màu mới. Đó là tình yêu của người phụ nữ rất nữ tính,sôi nổi, say
đắm, chân thành và đầy da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
- Hình tượng thơ: “Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở
thành bất tử.” (Shelly). Có những giá trị vững bền của cuộc sống được lưu giữ lại nhờ
những vần thơ, có những nhịp ngân của tâm hồn được in dấu lại qua mỗi trang văn. Có
lẽ thơ ca ra đời để làm bạn với con người, để đồng cảm, sẻ chia với con người trong mọi
vui buồn của cuộc sống. Chính bởi vậy khi đứng trước cửa biển Diêm Điền( Thái Bình),
trước muôn ngàn con sóng lớn của đại dương, Xuân Quỳnh đã thổn thức lòng mình và
cất lên những vần thơ “ Sóng” đầy xúc cảm. Xuyên suốt trong bài thơ là hai hình tượng
sóng và em. Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi
trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi
chiếu, cộng hưởng để diễn tả một cách sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình yêu trong trái tim
của người phụ nữ. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình,
nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Qua hai hình tượng này, nữ thi sĩ
đã diễn tả được những cảm xúc phong phú, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực
và khát khao yêu thương.
2. Phân tích đoạn thơ:
2.1. Khổ thơ thứ nhất: Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Những cung bậc khác nhau của con sóng và tâm hồn người phụ nữ đang yêu
- Ngay từ những những câu thơ đầu tiên của bài thơ, người đọc đã có thể cảm
nhận được âm điệu và sắc điệu chung của cả bài. Đó là âm điệu của những con sóng
ngoài biển cả dạt dào, trùng điệp, vô hồi, vô hồi vô hạn, miên man xô bờ. Sắc điệu
chung là sắc điệu trữ tình sâu lắng khi nhà thơ mượn hình ảnh con sóng để nói đến
những cung bậc tình yêu trong trái tim của người phụ nữ.
- Trong hai câu thơ đầu, nghệ thuật đối lập đã được sử dụng một cách rất tinh tế.
Các cặp từ đối lập: dữ dội - dịu êm, ồn ào - lặng lẽ đã miêu tả trạng thái phức tạp của
con sóng ngoài đại dương. Con sóng có lúc êm ái, lắng dịu nhưng cũng có lúc trào dâng
mãnh liệt, thậm chí có lúc nó dữ dội đến mức có thể nhấn chìm tất cả. Thông qua hình
ảnh con sóng, nhà thơ Xuân Quỳnh muốn nói đến trạng thái tâm hồn của người phụ nữ
2
đang yêu. Mỗi biểu hiện của con sóng đều tương hợp với trạng thái tâm hồn của người
con gái. Nhịp thơ 2/3 cộng hưởng với sự hô ứng của thanh điệu ở những cặp từ vế câu,
kiểu đối lập song hành đã thể hiện đối cực của sóng biển cũng như nhịp đập bất thường
trong trái tim của người con gái đang yêu.
Cách miêu tả những trạng thái đối nghịch, bất thường của con sóng trước hết gợi
liên tưởng về trạng thái tâm lí đầy bí ẩn, nhiều khi đầy đối cực trong tâm hồn người phụ
nữ. Trạng thái tâm lí ấy cũng từng được miêu tả trong ca dao xưa:
Đưa tay ngắt một cọng ngò
Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ
Tâm tính người con gái khi yêu luôn là như thế, luôn mâu thuẫn, thậm chí đối lập
trong lời nói và hành động như người con gái trong đoạn thơ sau đây:
Em bảo anh đi đi
Sao anh không đứng lại?
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh vội về ngay?

Lời nói gió thoảng bay


Đôi mắt huyền đẫm lệ
Sao mà anh ngốc thế
Không nhìn vào mắt em
Sóng từ cực này sang cực khác cũng giống như tâm tình của người phụ nữ đang
yêu lúc mạnh mẽ, lúc yếu đuối, lúc sôi nổi, lúc bình lặng, suy tư và có lúc không thể
đứng yên mà luôn dào dạt, nhiều khi lại vô cớ:
Có những đêm vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Ôi tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên
( Thuyền và biển của Xuân Quỳnh )
Điểm gặp gỡ đồng điệu kì lạ ấy giữa sóng và nhân vật em cho thấy sóng là ẩn dụ
của em, của khát vọng tình yêu cháy bỏng.
- Ngoài ra, trong hai câu thơ đầu này, thi sĩ Xuân Quỳnh đã thể hiện những cảm
nhận rất sâu sắc và tinh tế về tình yêu của người phụ nữ. Nữ thi sĩ nhận ra rằng, dù tâm
hồn người phụ nữ đang yêu có đầy phức tạp, dẫu ồn ào, dữ dội đến đâu thì cái căn cốt
nhất, cái bản chất nhất, cái có chiều sâu nhất trong tình yêu của người phụ nữ vẫn là sự
dịu dàng, nữ tính. Điều đó có thể được cảm nhận rõ qua cách lựa chọn và sắp xếp ngôn
từ. Các từ ngữ "lặng lẽ", "dịu êm" được đặt ở cuối các câu thơ cho thấy sau những "dữ
dội", "ồn ào" vẻ đẹp tình yêu dồn lại, đổ về phía cuối các câu thơ, lắng lại trong "dịu
êm" và "lặng lẽ".
- Hai câu thơ sau của khổ thơ nói về hành trình của con sóng đi từ sông ra bể.
Sông và bể là hai khái niệm và hai giới hạn khác nhau, mà trong đó sông là cái gì đó rất
giới hạn và chật hẹp. Ngược lại, biển là cái gì đó mênh mông, rộng lớn bát ngát tưởng
3
đến vô cùng, vô tận. Khoảng cách từ sông ra bể không chỉ là khoảng cách chiều dài từ
đầu câu thơ trước đến cuối câu thơ sau mà còn là một cuộc hành trình đầy gian nan và
thử thách. Từ “tận” mang sắc thái biểu trưng cho những xa xôi, khó khăn ấy. Con sóng
phải vượt qua một hành trình đầy xa xôi, cách trở để tìm thấy và khẳng định giá trị đích
thực của nó và nó đã sẵn sàng dấn thân vào một cuộc hành trình không đơn giản để tìm
thấy chính mình. Phải ra đến bể rộng con sóng mới thực sự tìm thấy mình, nhận thức
được sức mạnh, khát khao của mình và sống đến tận cùng từng nhịp đập của một trái tim
yêu. Người con gái đang yêu cũng giống như con sóng, cũng sẵn sàng dấn thân vào cuộc
hành trình đầy gian nan để từ bỏ giới hạn chật hẹp tìm đến cái bao dung, đồng cảm và
đồng điệu. Nếu "Sông không hiểu nổi mình - Sóng tìm ra tận bể", dứt khoát từ bỏ cái
giới hạn, nhỏ bé để tìm đến tình yêu và hạnh phúc đích thực. Nhịp thơ của hai câu thơ
này so với hai câu thơ trước có sự biến đổi, từ nhịp thơ 2/3 chuyển sang nhịp thơ 1/2/2
để góp phần nhấn mạnh và tô đậm trạng thái phức tạp của con sóng và tình yêu.
- An - đéc - xen nhà viết truyện cổ tích nổi tiếng của thế giới đã từng viết: "Không
có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra". Đọc Sóng
của Xuân Quỳnh, soi chiếu vào đời và thơ Xuân Quỳnh, ta thấy người phụ nữ ấy đã yêu
hết mình, yêu đến từng nhịp đập của một trái tim đau:
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ”.
Yêu hết mình, đốt cháy mình trong những xúc cảm của tình yêu, nhưng người phụ
nữ không cam chịu, nhẫn nhục, mà quyết tìm đến tình yêu chân thành, đồng cảm, mãnh
liệt, bao dung. Trái tim người con gái trong tình yêu cũng như trái tim của sóng đầy thao
thức, rạo rực, khát khao trong hành trình tìm ra biển lớn. "Bởi tình yêu muôn thuở/ Có
bao giờ đứng yên". Trong khổ thơ này, Xuân Quỳnh còn thể hiện một quan niệm mới
mẻ, táo bạo về tình yêu của người phụ nữ. Người phụ nữ Việt Nam xưa nay luôn bị lệ
thuộc, nhất là trong tình yêu và hôn nhân. Điều đó xuất phát từ quan niệm trọng nam
khinh nữ từ thời phong kiến mà tư tưởng đó ngày nay ở nước ta vẫn còn khá nặng nề.
Nhưng ở đây, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã không còn cam chịu, thụ động,
chấp nhận mà chủ động dứt khoát tìm đến với hạnh phúc và tình yêu. Không chấp nhận
ngủ yên trong dòng sông lạnh chật hẹp, không cam chịu, nhẫn nhịn bao cay đắng, tủi
nhục theo kiểu: "Một duyên hai nợ âu đánh phận", "Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn" hay
"Thiếp như cái chổi đầu hè – Phòng khi mưa nắng đi về chùi chân". Người con gái trong
thơ Xuân Quỳnh mạnh mẽ, quyết liệt vươn đến biển tình yêu mênh mông, đến bến bờ
hạnh phúc viên mãn. Có lẽ, sau Hồ Xuân Hương đây là lần đầu tiên trong văn học Việt
Nam có một người phụ nữ mạnh bạo, chủ động, tự tin bày tỏ, phơi trải lòng mình một
cách mãnh liệt đến như vậy.
2.2. Khổ thơ thứ 2: Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
4
Bồi hồi trong ngực trẻ
Sự tương hợp giữa con sóng và tình yêu
Sóng không chỉ mang vẻ đẹp đầy nữ tính mà còn ẩn chứa những khát vọng lớn lao
trong trái tim của người phụ nữ. Qua hình ảnh con sóng, khát vọng tình yêu của nữ thi sĩ
thể hiện rất nhẹ nhàng, thấm thía. Thán từ "Ôi!" được cất lên đầy cảm xúc khi nhà thơ
nhận ra sự tương hợpgiữa những con sóng và tình yêu, cảm nhận được sức sống kỳ diệu
của những con sóng ngoài biển cả và tình yêu của con người. Con sóng mãi mãi vỗ
ngoài biển khơi và vĩnh viễn hướng vào bờ. Nó tồn tại vĩnh hằng, vĩnh cửu với thời gian
và theo như Xuân Quỳnh quan sát chiêm nghiệm thì từ ngày xưa nó đã thế, bây giờ và
mãi mãi sau này vẫn thế.
Tình yêu của con người cũng giống như con sóng vĩnh hằng vĩnh cửu với thời
gian. Xuân Diệu - ông hoàng của thơ tình yêu đã từng nói:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào
Con người không thể sống mà không yêu, khao khát tình yêu đã trở thành quy luật
trong tình cảm của con người. Từ xa xưa con người đã đến với tình yêu và còn mãi đến
với tình yêu cuối bao khát vọng bồi hồi, xôn xao, rạo rực.
Cách sử dụng từ ngữ "ngày xưa", "ngày sau" cũng góp phần nhấn mạnh nhận thức
về sự vĩnh hằng, vĩnh cửu của con sóng và tình yêu. Và tình yêu đặc biệt bồi hồi thiết
tha say đắm trong trái tim của những người còn trẻ. Xuân Quỳnh ở đây muốn khẳng
định, tình yêu luôn song hành với tuổi trẻ. Tuổi trẻ không thể thiếu tình yêu vì nếu thiếu
tình yêu thì tuổi trẻ cũng như cuộc đời con người sẽ không còn còn nhiều ý nghĩa. Từ
"bồi hồi" đã thể hiện rõ khát vọng tình yêu trong trái tim tuổi trẻ. Cũng từ "bồi hồi" ấy,
ca dao đã sử dụng để nói đến nỗi nhớ trong tình yêu:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Tình yêu luôn làm trái tim trẻ thổn thức bồi hồi những khát khao gặp gỡ:
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ
Có yêu nhau mới thấy cồn cào của nỗi nhớ, mới khát khao những ngày gặp mặt,
mới hiểu thế nào là "bồi hồi trong ngực trẻ". Ở đoạn thơ này ta bắt gặp một tình yêu
khỏe khoắn hồn nhiên trẻ trung của tuổi trẻ đang căng đầy sức sống. Tình yêu ở đây
không non nớt, nông nổi, không bi lụy thê lương như thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu đắm
say đấy, cuồng nhiệt đấy, vồ vập đấy nhưng ngay sau đó lại là cảm giác dại khờ, lại là
"yêu là chết trong lòng một ít". Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh ở đây cũng say đắm
mãnh liệt nhưng hơn nữa là tình yêu của một con người dám sống, dám yêu và tình yêu
của chị luôn chứa chan ngọn lửa nhiệt thành.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật

5
Bằng thể thơ ngũ ngôn và hai hình tượng sóng và em song hành, nghệ thuật ẩn dụ,
nhân hóa, đối lập cùng với nhịp thơ tiến hóa đã tạo nên âm điệu của những con sóng
ngoài biển cả, cách lựa chọn và sắp xếp ngôn từ sáng tạo... Từ những con sóng biển để
thể hiện nhịp sóng lòng trong trái tim của người phụ nữ với nhiều cung bậc tình cảm,
cảm xúc khác nhau. Có thể nói với "Sóng", Xuân Quỳnh đã cống hiến cho đời những
vần thơ hay về tình yêu để biết bao thế hệ bạn đọc say mê, yêu quý.

Đoạn số 2:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng của Xuân Quỳnh:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió


Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.155)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ "Sóng" được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967,
trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền, Thái Bình. Sau đó, bài thơ được đưa
vào tập thơ "Hoa dọc chiến hào" in 1968.
- Đề tài: Đã là thi sĩ thì ít có ai lại không muốn mượn thơ để gửi gắm vào đó khát
vọng tình yêu. Bởi vậy mà các thi sĩ đã tạo ra cả một khu vườn thơ tình yêu lung linh
đầy sắc màu. Trong vườn thơ ấy, mỗi nhà thơ lại đem đến một sắc màu riêng lại cảm
nhận và thể hiện tình yêu theo một cách riêng. Nếu Xuân Diệu thể hiện một tình yêu say
đắm, cuồng nhiệt, vồ vập, ham hố và đầy nam tính:
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu bò lắm lắm em ơi
Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên rực rỡ đầy sắc màu:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương

6
Tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử lại là sắc trắng mong manh của một mối tình đơn
phương chưa ngỏ... thì trong bài thơ "Sóng", nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã đem đến cho vườn
thơ tình yêu một sắc màu mới. Đó là tình yêu của người phụ nữ rất nữ tính,sôi nổi, say
đắm, chân thành và đầy da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
- Hình tượng thơ: “Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở
thành bất tử.” (Shelly). Có những giá trị vững bền của cuộc sống được lưu giữ lại nhờ
những vần thơ, có những nhịp ngân của tâm hồn được in dấu lại qua mỗi trang văn. Có
lẽ thơ ca ra đời để làm bạn với con người, để đồng cảm, sẻ chia với con người trong mọi
vui buồn của cuộc sống. Chính bởi vậy khi đứng trước cửa biển Diêm Điền( Thái Bình),
trước muôn ngàn con sóng lớn của đại dương, Xuân Quỳnh đã thổn thức lòng mình và
cất lên những vần thơ “ Sóng” đầy xúc cảm. Xuyên suốt trong bài thơ là hai hình tượng
sóng và em. Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi
trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi
chiếu, cộng hưởng để diễn tả một cách sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình yêu trong trái tim
của người phụ nữ. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình,
nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Qua hai hình tượng này, nữ thi sĩ
đã diễn tả được những cảm xúc phong phú, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực
và khát khao yêu thương.
2. Phân tích đoạn thơ:
2.1. Giới thiệu về đoạn thơ
- Nếu như đoạn thơ trước thể hiện nhiều cung bậc khác nhau trong tâm hồn người
phụ nữ đáng yêu và cho thấy cái căn cốt, cái bản chất nhất trong tình yêu của người phụ
nữ là sự dịu dàng, sâu lắng, đầy nữ tính thì đoạn thơ này nữ thi sĩ khát khao muốn được
muốn lý giải con sóng và lí giải cội nguồn của tình yêu.
2.2. Lí giải cội nguồn của con sóng
- Những câu thơ này được viết ra khi con sóng đã vươn ra biển lớn để tìm thấy
chính mình. “Giữa muôn trùng sóng bể” – con sóng ấy đã phá vỡ được giới hạn của
mình để đi tới đích tìm kiếm tình yêu chân chính. Trong câu thơ "Trước muôn trùng
sóng bể" thì từ "Muôn trùng” gợi mở không gian rộng lớn bao la. Biển vốn đã mênh
mông nhưng giờ lại càng rộng lớn hơn gấp bội trong cách kết hợp “muôn tùng sóng bể”.
Dường như chỉ có không gian rộng lớn mênh mông ấy, sóng mới có thể thỏa sức vẫy
vùng. Trong không gian ấy, người phụ nữ đang yêu mới có thể là chính mình, sống thật
với những suy nghĩ cảm xúc của mình.
- Đứng trước biển cả mênh mông nhìn những con sóng trùng trùng điệp điệp miên
man xô bờ, nữ thi sĩ bất chợt muốn lý giải cội nguồn của con sóng "Từ nơi nào sóng
lên?". Các câu hỏi tu từ liên tiếp đã thể hiện khao khát, mong muốn được khám phá về
hiện tượng "sóng" trong tự nhiên và khám phá về tình yêu trong trái tim con người. Nữ
thi sĩ đã tự lí giải "Sóng bắt đầu từ gió". Vì có gió nên mới sinh ra sóng nhưng nếu như
vậy thì chưa thể đi đến cội nguồn con sóng nên câu hỏi tiếp theo được đặt ra là "Gió bắt
đầu từ đâu?". Bằng kiến thức khoa học nữ thi sĩ hoàn toàn có thể lí giải được rằng gió
được sinh ra do di chuyển của không khí vì sự chênh lệch áp suất giữa các vùng. Vậy sự
7
không khí di chuyển vì đâu?... thực sự không thể đi đến tận cùng để giải thích để hiểu rõ
ngọn nguồn của con sóng.
2.3. Lý giải tình yêu
Nói về sóng nhưng thực chất là nói về tình cảm của em dành cho anh. Bởi vậy,
trước biển cả mênh mông, nữ thi sĩ không chỉ muốn lí giải con sóng, tìm đến ngọn
nguồn của nó mà còn thể hiện sự băn khoăn muốn đi được hiểu rõ về tình yêu của mình.
Đây là một tâm lý phổ biến của con người, bởi khi yêu người ta thường có tâm lí muốn
được hiểu rõ về tình yêu của mình. Người ta thường đặt ra những câu hỏi như "Ta yêu
nhau từ khi nào?", "Yêu nhau là bởi lẽ gì?"... Có biết bao người đã cố gắng tìm cách để
lý giải tình yêu và đã có bao nhiêu câu trả lời khác nhau. Xuân Diệu là ông hoàng của
thơ tình yêu cũng đã từng thử định nghĩa về tình yêu:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu
Tình yêu là một trạng thái tinh thần đầy thần bí ẩn và có lẽ mãi mãi con người
không lý giải cho cặn kẽ hết được. Bởi vì, ngay cả Xuân Diệu yêu say đắm, nồng nàn,
tha thiết, đến thế nhưng đã bao nhiêu lần ông bỗng nhận ra yêu là chết trong lòng một ít,
càng yêu càng thấy dại khờ, càng thấy tình yêu như "nước đổ lá khoai":
Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu
Tình yêu bí ẩn đến thế nên càng yêu nhiều bao nhiêu người ta lại càng khao khát
muốn thấu hiểu bấy nhiêu. Vì yêu mà con sóng đã phải đi muôn trùng vạn dặm để tìm ra
cội nguồn, cũng như vì yêu anh mà em đã trăn trở, băn khoăn nhiều lắm để tìm kiếm nơi
khởi nguồn của tình yêu chân chính. Sóng hay gió bắt nguồn từ nơi nào chẳng ai biết,
cũng như tình yêu sinh ra vốn dĩ không có điểm đầu và điểm cuối, không có giới hạn và
không dễ gì tìm kiếm câu trả lời.
Điệp ngữ “Em nghĩ về” kết hợp với điệp cấu trúc câu thể hiện niềm khát khao tìm
kiếm thật sự, ước ao cháy bỏng được lí giải cặn kẽ nơi khởi sinh của con sóng và tình
yêu. Nhưng dẫu có khát khao đến mấy thì nữ thi sĩ vẫn nhận ngay ra rằng mình hoàn
toàn bất lực trong việc lí giải con sóng và tình yêu. Nhà thơ bỗng nhận ra tình yêu của
con người cũng giống như sóng biển gió trời không thể đi đến tận cùng để giải thích. Và
có lẽ, trong tình yêu, nếu có thể đi đến tận cùng để giải thích, để hiểu hết thì lúc đó tình
yêu đã tan biến.
Đoạn thơ như vậy đã thể hiện trạng thái tâm lý của người con gái trong tình yêu.
Đó là cảm giác ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước một tình cảm mới lạ không rõ từ đâu mà nó
lại chiếm lĩnh tâm hồn mình từ lúc nào. Thi sĩ Xuân Quỳnh đã không giấu giếm mà thể
hiện nó một cách thành thật hồn nhiên, đầy nữ tính. Sự hồn nhiên, nữ tính ấy được thể
hiện rõ qua cái lắc đầu thành thật:
Em cũng không biết nữa
8
Khi nào ta yêu nhau.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Bằng thể thơ 5 chữ, nhịp thơ linh hoạt biến hóa, hai hình tượng sóng và em song
hành, các biện pháp tu từ như: câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ... đoạn thơ đã thể hiện
khao khát trong tình yêu trong trái tim người phụ nữ một cách chân thật, hồn nhiên. Sự
gặp gỡ giữa tâm trạng riêng của người phụ nữ trong tình yêu với tâm trạng phổ quát của
toàn nhân loại đã làm đoạn thơ giàu tính nhân văn. Đọc đoạn thơ, người đọc có thể cảm
nhận được một vẻ đẹp rất lung linh nhưng cũng đầy bí ẩn của tình yêu. Một nhà phê
bình Pháp từng khẳng định: “Thơ, tự truyện của khát vọng”. Câu nói ấy rất đúng với
Xuân Quỳnh. Thơ ca, với chị là sự sống, là tình yêu, làm thơ là được sống với chính
mình, sống đầy đủ và trọn vẹn là mình. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta cũng cảm nhận được
tình yêu và nghe được khát vọng trong mình. Đó là lý do vượt qua sự băng hoại thời
gian, thơ ca đã, vẫn và sẽ sống cùng ta đến ngày tận thế.

Đoạn số 3:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng của Xuân Quỳnh:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc


Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.155,116)

I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ "Sóng" được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967,
trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền, Thái Bình. Sau đó, bài thơ được đưa
vào tập thơ "Hoa dọc chiến hào" in 1968.
- Đề tài: Đã là thi sĩ thì ít có ai lại không muốn mượn thơ để gửi gắm vào đó khát
vọng tình yêu. Bởi vậy mà các thi sĩ đã tạo ra cả một khu vườn thơ tình yêu lung linh
đầy sắc màu. Trong vườn thơ ấy, mỗi nhà thơ lại đem đến một sắc màu riêng lại cảm

9
nhận và thể hiện tình yêu theo một cách riêng. Nếu Xuân Diệu thể hiện một tình yêu say
đắm, cuồng nhiệt, vồ vập, ham hố và đầy nam tính:
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu bò lắm lắm em ơi
Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên rực rỡ đầy sắc màu:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử lại là sắc trắng mong manh của một mối tình đơn
phương chưa ngỏ... thì trong bài thơ "Sóng", nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã đem đến cho vườn
thơ tình yêu một sắc màu mới. Đó là tình yêu của người phụ nữ rất nữ tính,sôi nổi, say
đắm, chân thành và đầy da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
- Hình tượng thơ: “Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở
thành bất tử.” (Shelly). Có những giá trị vững bền của cuộc sống được lưu giữ lại nhờ
những vần thơ, có những nhịp ngân của tâm hồn được in dấu lại qua mỗi trang văn. Có
lẽ thơ ca ra đời để làm bạn với con người, để đồng cảm, sẻ chia với con người trong mọi
vui buồn của cuộc sống. Chính bởi vậy khi đứng trước cửa biển Diêm Điền( Thái Bình),
trước muôn ngàn con sóng lớn của đại dương, Xuân Quỳnh đã thổn thức lòng mình và
cất lên những vần thơ “ Sóng” đầy xúc cảm. Xuyên suốt trong bài thơ là hai hình tượng
sóng và em. Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi
trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi
chiếu, cộng hưởng để diễn tả một cách sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình yêu trong trái tim
của người phụ nữ. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình,
nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Qua hai hình tượng này, nữ thi sĩ
đã diễn tả được những cảm xúc phong phú, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực
và khát khao yêu thương.
2. Phân tích đoạn thơ:
2.1. Giới thiệu về đoạn thơ
Ở đoạn thơ trước nhà thơ Xuân Quỳnh đã miêu tả con sóng ở nhiều cung bậc thể
hiện sự phức tạp trong tâm hồn người con gái đang yêu, bộc lộ quan niệm mới mẻ, táo
bạo về tình yêu của người phụ nữ. Nữ thi sĩ đã giãi bày khát vọng của lòng mình, mong
muốn được lý giải tình yêu nhưng bất lực thì đến đoạn thơ này dù không thể lý giải tình
yêu, thừa nhận tình yêu bí ẩn khó nắm bắt như sóng biển gió trời nhưng nhà thơ đã phát
hiện ra rằng tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Từ đó thể hiện một nỗi nhớ da diết của
một tình yêu mãnh liệt sâu sắc, thủy chung.
2.2. Khổ thơ thứ 5: Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
10
Cả trong mơ còn thức
Nỗi nhớ trong tình yêu
- Khái quát về sáu câu thơ: Tình yêu là một trạng thái tình cảm, cảm xúc đầy bí
ẩn không thể lý giải, không thể hiểu hết nhưng có một điều chắc chắn là tình yêu luôn đi
liền với nỗi nhớ. Yêu là nhớ và nhớ là yêu, yêu càng nhiều thì nhớ cả da diết. Từ thuở xa
xưa con người đã đến với tình yêu và đã phát hiện ra tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ.
Chẳng thế mà ca dao xưa đã có rất nhiều câu nói về nỗi nhớ trong tình yêu. Có khi là nỗi
nhớ như có lửa đốt ở trong lòng:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Có khi là nỗi nhớ đến ngẩn ngơ, ngơ ngẩn, không thể kìm nén mà hóa thành dòng
nước mắt đầm đầm:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Nhà thơ Xuân Diệu cũng nói đến nỗi nhớ trong tình yêu một cách mãnh liệt, cháy
bỏng:
Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi!
Nếu Xuân Diệu yêu là nhớ tất cả những gì thuộc về người ấy, nhớ lắm nhưng
không thể nói thành lời thì nhà thơ Chế Lan Viên lại khẳng định nỗi nhớ trong tình yêu
có tính tất yếu, dĩ nhiên như một quy luật, khăng khít như đông với rét:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Còn nhà thơ Xuân Quỳnh ở đây đã thể hiện một nỗi nhớ cồn cào da diết mãnh liệt
biểu hiện rõ qua việc tổ chức ngôn từ và sử dụng các biện pháp tu từ. Toàn bộ bài thơ
gồm 9 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu thơ, riêng khổ thơ thứ 5 có tới 6 câu thơ. Sự phá
vỡ quy tắc thơ ở đây cũng như ngầm ám chỉ tình yêu vốn dĩ là sự phá cách và không có
giới hạn như thế, trái tim khi yêu thì có thể phá vỡ mọi rào cản và nỗi nhớ thì cũng
không bao giờ thôi sục sôi. Hơn nữa, nếu chia bài thơ làm 3 phần: phần một gồm 4 khổ
đầu, phần hai là khổ 5, phần ba gồm 4 khổ thơ còn lại thì có thể liên tưởng phần 1 +3 là
chân của con sóng, còn khổ thơ thứ 5 này như một cột sóng lên cao nhất. Khổ thơ này
chính là đỉnh điểm của con sóng, thể hiện cảm xúc thăng hoa và cao trào nhất, diễn tả
nỗi nhớ của một tình yêu say đắm, nồng nàn, thiết tha, cháy bỏng nhất.
Trong sáu câu thơ, hai hình tượng sóng và em lúc thì tách ra lúc lại hòa nhập làm
một để diễn tả những cung bậc khác nhau trong tình yêu của người phụ nữ. Bốn câu đầu
của khổ thơ là hình ảnh con sóng, nhà thơ mượn hình ảnh con sóng để nói đến nỗi nhớ
trong tình yêu. Còn trong hai câu thơ sau thì nhà thơ lại trực tiếp bày tỏ lòng mình, sóng
và em hòa nhập tuy hai mà một, tuy một mà hai để thể hiện dòng cảm xúc tuôn trào:
- Mượn hình ảnh sóng để diễn tả nỗi nhớ: Trong bốn câu thơ đầu, thi sĩ đã mượn
hình ảnh con sóng để diễn tả được nỗi nhớ da diết mãnh liệt, không thể nào yên không
thể nào nguôi, cuồn cuộn dào dạt như những con sóng ngoài biển cả triền miên, vô hồi,

11
vô hạn. Nữ thi sĩ như muốn soi mình vào con sóng để thấy rõ lòng mình vì sóng nhớ bờ
cũng như em nhớ anh.
+ Nỗi nhớ thể hiện qua hình ảnh con sóng là nỗi nhớ choán ngợp cả không gian,
chiếm lấy cả tầng sâu bề rộng. Nỗi nhớ có trong từng con sóng nên con sóng dưới lòng
sâu cũng mang nỗi nhớ, con sóng trên mặt nước cũng mang nỗi nhớ. Mà nỗi nhớ trong
con sóng trên mặt nước còn dễ nắm bắt chứ nỗi nhớ trong con sóng dưới lòng sâu thì
vạn biến. Bởi con sóng dưới lòng sâu là những con sóng ngầm, có khi bình lặng nhưng
có khi đầy nguy hiểm, dữ dội, có thể nhấn chìm tất cả.
+ Nỗi nhớ choán ngợp cả thời gian, cả ngày lẫn đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ tức
là luôn thường trực ở trong lòng. Nỗi nhớ chiếm cả không gian, thời gian; chiếm lấy cả
chiều dài và chiều rộng, con sóng nhớ bờ cũng như em lúc nào cũng nhớ anh.
+ Các biện pháp tu từ: Điệp từ "con sóng" được lặp lại ba lần; nghệ thuật đối lập
dưới-trên, lòng sâu- mặt nước, ngày - đêm; nghệ thuật nhân hóa "con sóng nhớ bờ";
nghệ thuật cường điệu "ngày đêm không ngủ được"... đã nhấn mạnh nỗi nhớ và biến
thành một nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp như muôn đợt sóng lòng đang trào dâng.
- Nỗi nhớ được bộc lộ trực tiếp: Ở bốn câu thơ trước nhà thơ còn phải mượn hình
ảnh con sóng để nói đến nỗi nhớ như một chút thẹn thùng, e ấp đầy con gái nhưng đến
hai câu thơ sau tình yêu mãnh liệt đã thôi thúc trái tim tự hát thành lời "Lòng em nhớ
đến anh", nhớ đến trong mơ vẫn nhớ. Như vậy nỗi nhớ trong tình yêu ở đây đã được
nâng lên ở một cung bậc cao nữa, nó không chỉ choán ngợp không gian, thời gian,
thường trực trong tâm thức mà còn đi vào tiềm thức, vô thức. Bất cứ lúc nào em cũng
đều nhớ đến anh đến cồn cào, da diết. Yêu là khát khao gặp gỡ nên những ngày không
gặp nhau thì bạc đầu thương nhớ, lòng đau đến rạn vỡ, có khi ở bên nhau mà vẫn nhớ.
Cô gái trong thơ Xuân Quỳnh là thế, cô gái trong ca dao cũng thế cho nên có thể nói đó
là tâm trạng chung của con người khi yêu:
Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Cứ mong trời sáng ra đường gặp anh
(Ca dao)
=> Có thể nói sóng và em đã hòa quyện cộng hưởng để thể hiện một tình yêu say
đắm, mãnh liệt, tuyệt đích. Sáu câu thơ không sử dụng từ "yêu" nào mà vẫn thể hiện
được một tình yêu cháy bỏng, dạt dào. Nữ thi sĩ đã không ngần ngại để thể hiện tình yêu
say đắm mãnh liệt, cho thấy một dấu ấn riêng rất táo bạo của hồn thơ Xuân Quỳnh.
2.3. Khổ thơ thớ 6: Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
Khẳng định tình yêu là thủy chung, duy nhất
Dường như thể hiện tình yêu và nỗi nhớ da diết cồn cào, mãnh liệt nhưng cảm
thấy vẫn chưa đủ, chưa thỏa nên ở khổ thơ tiếp theo này nhà thơ khẳng định tình yêu của
mình là thủy chung, duy nhất. Giữa đất trời bao la rộng lớn, nhà thơ không chỉ thấy
phương Bắc, phương Nam mà còn phát hiện ra một phương nữa là "phương anh". Đất
12
trời có bốn phương tám hướng mênh mông nhưng em vẫn chỉ thấy, chỉ hướng về một
phương duy nhất là phương anh, phương của tâm trạng, của tình yêu cháy bỏng, da diết,
mãnh liệt. Các biện pháp điệp từ, điệp cú "Dẫu xuôi...Dẫu ngược..."; nghệ thuật đối lập
xuôi-ngược, Bắc -Nam đã gợi lên một tình cảnh không xuôi chiều. Hơn nữa, người ta
thường nói xuôi Nam ngược Bắc thì Xuân Quỳnh lại nói ngược lại thành xuôi Bắc
ngược Nam như để khẳng định: Dù cuộc đời, trời đất có thay đổi quay cuồng, đảo điên,
thay phương đổi hướng, dù thế nào đi chăng nữa tình yêu của em cũng chỉ dành duy
nhất cho riêng anh mà thôi. Không có ngăn trở nào, không có khoảng cách địa lý nào có
thể ngăn cách được tình yêu của em với anh. Chỉ có anh và em, chỉ có tình yêu của anh
và em là còn lại cho nên trong khổ thơ này cũng hoàn toàn không có hình ảnh con sóng.
Vẻ đẹp của tình yêu son sắc, thủy chung đến tận cuối cùng ấy còn được bắt gặp trong
bài thơ "Thơ tình cuối mùa thu" của nữ thi sĩ:
Chỉ còn em và anh
Cùng tình yêu ở lại
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Bằng thể thơ ngũ ngôn, nhịp điệu linh hoạt biến hóa gợi âm hưởng của những con
sóng ngoài biển cả, hai hình tượng nghệ thuật sóng và em song hành, các thủ pháp nghệ
thuật như điệp từ, điệp ngữ, cường điệu, đối lập, nhân hóa... Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã
thổ lộ, giãi bày tình cảm là nỗi nhớ da diết, cồn cào, cháy bỏng của một tình yêu mãnh
liệt, chân thành. Sức hấp dẫn của đoạn thơ cũng như bài thơ là đã thể hiện một cách táo
bạo, không giấu giếm một tình yêu say đắm, thủy chung duy nhất khiến cho tình yêu
vừa mang những nét truyền thống vừa mang tinh thần hiện đại. Đó đúng là tình yêu của
người phụ nữ Việt Nam vừa dịu dàng, đằm thắm, thủy chung, son sắc vừa sôi nổi, mãnh
liệt và táo bạo. Ra đời trong khói bom những năm kháng chiến chống Mỹ, "Sóng" đã
vượt thoát ra khỏi dòng thơ cách mạng vốn rất phổ biến lúc bấy giờ để mang đến cho
người đọc cảm xúc thơ mới mẻ. Nó xứng đáng trở thành một trong những bài thơ tình
hay nhất của Việt Nam ở thế kỉ XX.

Đoạn số 4:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng của Xuân Quỳnh:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

13
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.155)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ "Sóng" được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967,
trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền, Thái Bình. Sau đó, bài thơ được đưa
vào tập thơ "Hoa dọc chiến hào" in 1968.
- Đề tài: Đã là thi sĩ thì ít có ai lại không muốn mượn thơ để gửi gắm vào đó khát
vọng tình yêu. Bởi vậy mà các thi sĩ đã tạo ra cả một khu vườn thơ tình yêu lung linh
đầy sắc màu. Trong vườn thơ ấy, mỗi nhà thơ lại đem đến một sắc màu riêng lại cảm
nhận và thể hiện tình yêu theo một cách riêng. Nếu Xuân Diệu thể hiện một tình yêu say
đắm, cuồng nhiệt, vồ vập, ham hố và đầy nam tính:
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu bò lắm lắm em ơi
Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên rực rỡ đầy sắc màu:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử lại là sắc trắng mong manh của một mối tình đơn
phương chưa ngỏ... thì trong bài thơ "Sóng", nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã đem đến cho vườn
thơ tình yêu một sắc màu mới. Đó là tình yêu của người phụ nữ rất nữ tính,sôi nổi, say
đắm, chân thành và đầy da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
- Hình tượng thơ: “Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở
thành bất tử.” (Shelly). Có những giá trị vững bền của cuộc sống được lưu giữ lại nhờ
những vần thơ, có những nhịp ngân của tâm hồn được in dấu lại qua mỗi trang văn. Có
lẽ thơ ca ra đời để làm bạn với con người, để đồng cảm, sẻ chia với con người trong mọi
vui buồn của cuộc sống. Chính bởi vậy khi đứng trước cửa biển Diêm Điền( Thái Bình),
trước muôn ngàn con sóng lớn của đại dương, Xuân Quỳnh đã thổn thức lòng mình và
cất lên những vần thơ “ Sóng” đầy xúc cảm. Xuyên suốt trong bài thơ là hai hình tượng
sóng và em. Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi
trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi
chiếu, cộng hưởng để diễn tả một cách sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình yêu trong trái tim
của người phụ nữ. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình,
14
nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Qua hai hình tượng này, nữ thi sĩ
đã diễn tả được những cảm xúc phong phú, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực
và khát khao yêu thương.
2. Phân tích đoạn thơ:
2.1. Khái quát
Bài thơ gồm có chín khổ thơ. Ở những khổ thơ trước Xuân Quỳnh đã tìm ra
những điểm tương hợp của con sóng và tình yêu. Con sóng cũng mang vẻ đẹp đầy nữ
tính như tâm hồn người con gái đang yêu đầy phức tạp, mang những đối cực như những
con sóng ngoài biển khơi. Qua hình ảnh sóng, nữ thi sĩ đã bộc lộ khát vọng tình yêu, thể
hiện một nỗi nhớ của một tình yêu sâu sắc, mãnh liệt, thủy chung, duy nhất. Đến khổ thơ
thứ năm, thứ sáu thì cảm xúc tình yêu thăng hoa và lên đến cao điểm nhất thành những
đợt sóng biển sóng lòng dâng cồn lên cao nhất từ tâm điểm. Sang đến khổ thơ thứ bảy,
thứ tám thì nhịp thơ có phần dịu lại, lắng xuống thể hiện những suy tư chiêm nghiệm
của nhà thơ về cuộc đời, về tình yêu. Để rồi khát vọng tình yêu lại trào dâng mãnh liệt
ở khổ thơ cuối cùng.
2.2. Khổ thơ thứ 7: Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Suy tư về không gian và niềm tin vào hạnh phúc tình yêu
Khổ thơ này là suy tư của Xuân Quỳnh về không gian. Nhà thơ mượn hình ảnh
những con sóng ngoài biển cả để thể hiện niềm tin vào hạnh phúc và tình yêu. Từ những
trải nghiệm của cuộc đời mình, Xuân Quỳnh nhận ra rằng, tình yêu dù trong sáng đẹp đẽ
nhưng cũng khó tránh khỏi những lẽ thường của cuộc đời, khó tránh khỏi những khó
khăn, thử thách, khắc nghiệt như những con sóng ngoài đại dương mênh mông cũng có
những ngày phong ba bão táp. Những con sóng mang khát vọng đến bờ nên cho dù gió
xô, bão dạt cuối cùng nó vẫn vượt qua muôn vời cách trở để tìm được tới bờ. Những
người yêu nhau cũng vậy, tình yêu không chỉ cần có sự say đắm mà còn cần nghị lực để
vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, thử thách để đến với tình yêu. Chẳng thế mà ông bà ta
xưa đã có những câu ca dao như:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua
Dù vẫn biết con đường tình yêu đầy khó khăn, trắc trở nhưng nữ thi sĩ vẫn bộc lộ
niềm tin vào hạnh phúc, tình yêu. Tình yêu của con người dù có phải vượt qua muôn vàn
khó khăn, thử thách nhưng nếu có niềm tin, có đủ lòng quyết tâm thì tất yếu sẽ đến được
bến bờ hạnh phúc, sẽ tìm được tình yêu đích thực. Cũng giống như những con sóng
ngoài đại dương, đại dương dù mênh mông, bao la đến mấy, dù phải vượt qua muôn vàn
cách trở, con sóng cũng sẽ tới bờ.
Khi sáng tác bài thơ này, thi sĩ Xuân Quỳnh mới 25 tuổi nhưng đã trải qua những
thất bại, đổ vỡ trong tình yêu. Trong tình cảnh đó, con người dễ bị mất niềm tin vào
cuộc sông, mất niềm tin vào tình yêu nhưng người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết yêu đời
15
này vẫn ấp ủ, vẫn phơi phới niềm tin, hi vọng vào hạnh phúc tình yêu. Đó là điều rất
đáng quý của hồn thơ Xuân Quỳnh. Sau này trong bài thơ "Thơ tình cuối mùa thu" nữ
thi sĩ cũng thể hiện vẻ đẹp tình yêu khi nó đã trải qua những khó khăn thử thách:
Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ
2.3. Khổ thơ thứ 8: Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Suy tư về thời gian, cuộc đời và tình yêu
- Suy tư về thời gian, cuộc đời: Nếu khổ thơ trước là những suy tư của Xuân
Quỳnh về không gian thì khổ thơ này nhà thơ đã thể hiện những suy tư chiêm nghiệm về
thời gian và cuộc đời, thể hiện ý thức về sự hữu hạn của đời người so với sự vô hạn của
trời đất, vũ trụ. Cuộc đời con người tuy dài thế nhưng những ngày tháng cũng sẽ trôi qua
và đến một ngày nào đó chuỗi thời gian của một con người sẽ dừng lại. Cách sử dụng
cấu trúc "Tuy...vẫn...", "Dẫu... vẫn..." cùng với cách sử dụng các từ ngữ như "đi qua",
"dẫu rộng", "về xa", biện pháp tu từ so sánh "Như biển kia dẫu rộng"... đã hướng tâm
hồn thi sĩ đến không gian mênh mông để trong không gian ấy nhà thơ tự nhận thức về
cuộc đời và tình yêu. Biển kia dẫu rộng như những con sóng rồi cũng đến bờ, gió vẫn
thổi, mây vẫn bay về xa xôi cùng sóng biển. Mây vẫn bay qua biển để về xa. Cái vô hạn
vẫn bị khuất phục trước cái vô hạn và con người cũng thế, con người có thể sống 60
năm, 70 năm, 80 năm hay hơn 100 năm nhưng vẫn có một ngày trái tim ngừng đập để
nghỉ ngơi và về cùng đất mẹ. Đời người vẫn bị chi phối bởi cái hữu hạn, bởi quy luật
nhân sinh: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Thực ra, quy luật cuộc đời ấy ai chẳng biết và từ xưa
đến nay đã có biết bao người đã nói, đã rơi lệ vì điều này. Người xưa vẫn ví cuộc đời
như bóng câu qua cửa sổ vụt qua trong thoáng chốc, tựa áng phù vân hợp tan, tan hợp
không thể biết trước. Theo quan niệm của Phật giáo thì "Nhân sinh như trường mộng",
cuộc đời con người chỉ như một giấc mộng dài, lẽ sinh tử chỉ như một hơi thở ngắn ngủi
lắm. Một nhà thơ Trung Quốc thời trung đại cũng đã từng than thở, rơi lệ:
Ngẫm trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ
Ngay cả Xuân Diệu, một người yêu đời, yêu người là thế nhưng khi nhận ra quy
luật ấy cũng bâng khuâng, tiếc nuối:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
- Suy tư về sự mong manh, dễ vỡ, khó giữ của tình yêu: Những câu thơ trong khổ
thơ này của Xuân Quỳnh cho thấy nữ thi sĩ đã nhận thức được về lẽ thực của cuộc đời,
16
về cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người. Nhưng điều đáng nói hơn ở đây là chị còn
nhận ra tình yêu dẫu đẹp đẽ, thiêng liêng thật đấy nhưng nó cũng rất mong manh, dễ vỡ
và khó giữ. Thực tế cuộc sống không đơn giản, xuôi chiều, vì thế nhiều khi tình yêu của
con người không thể vượt qua những trắc trở và sẽ tàn phai theo thời gian . Cũng có tình
yêu theo suốt cả đời người nhưng cũng có tình yêu chỉ kéo dài vài năm, vài tháng và đôi
khi chỉ như chút cảm nắng thoáng qua rồi tan biến mất. Xuân Quỳnh còn cảm nhận và
thể hiện rất rõ những khó khăn, thử thách này của tình yêu trong bài thơ "Hoa cỏ may":
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết tình anh có đổi thay!
Nhà thơ Đỗ Trung Quân cũng đã nhận ra điều đó và từng viết:
Anh đã thấy một điều mong manh nhất
Là tình yêu, là tình yêu ngát hương
Tuy không hiện hình qua từng câu chữ nhưng ở đoạn thơ này Xuân Quỳnh đã thể
hiện một trái tim nhạy cảm đầy những lo âu, phấp phỏng, những dự cảm, bất an về cái
ngắn ngủi, mong manh của tình yêu và đời người. Nhưng dù có thế chăng nữa, ở đây ta
thấy Xuẫn Quỳnh vẫn cứ tin vào hạnh phúc và tình yêu. Bà nhận ra rằng thời gian cũng
là thử thách tình yêu nhưng dù thời gian có khắc nghiệt đến đâu thì tình yêu cũng sẽ
vượt qua tất cả và sẽ chiến thắng. Sóng vẫn tới bờ, mây vẫn bay qua biển về xa và tình
yêu đích thực thì mãi vẫn đẹp đẽ và vĩnh hằng vĩnh cửu với thời gian.
2.4. Khổ thơ thứ 9: Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Szzzzzzzz
Khát vọng về tình yêu vĩnh hằng, vĩnh cửu
Khổ thơ cuối đã thể hiện những khát vọng về tình yêu vĩnh hằng vĩnh cửu, ý thức
về sự thời gian chảy trôi của thời gian, đời người. Khi ý thức được sâu sắc sự hữu hạn
của đời người, mỗi người có một cách ứng xử, một thái độ khác nhau. Nếu như người
xưa không hề lo sợ bởi vì họ tin rằng con người một phần của vũ trụ, sống là gửi thác
mới là về; nếu như nhà thơ người Trung Quốc Trần Tử Ngang buồn đến rơi lệ; nếu như
nhà thơ Xuân Diệu muốn sống vội vàng, gấp gáp để tận hưởng cuộc đời, để cuộc đời,
tuổi trẻ dẫu có trôi qua cũng không bao giờ phải ân hận vì đã sống hoài, sống phí thì
Xuân Quỳnh cũng xuất phát từ khát vọng sống sâu sắc với cuộc đời đã thể hiện khát
vọng to lớn, vô hạn về tình yêu. Điều đó được cảm nhận sâu sắc qua cách sử dụng các từ
ngữ:
- Tan ra: tan ra ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa là tan ra để biến mất và tan ra để
hòa nhập, hòa tan vào nhau. Với Xuân Quỳnh thì tan ra không phải là để biến mất mà để
hòa nhập, hòa tan vào nhau. Từ "tan ra" ở đây làm người đọc liên tưởng đến câu chuyện
cổ tích về một nàng tiên cá vì muốn cứu sống người mình yêu mà chấp nhận bị tan ra
thành bọt biển. Có thể nói đây là cách sử dụng ngôn từ đầy tinh tế để thể hiện sự hi sinh,
dâng hiến, hóa thân vào tình yêu.
17
- Số từ ngàn năm: Cách sử dụng số từ có tác dụng nghệ thuật bất ngờ. Con số
ngàn năm ấy đã từng làm ta xúc động trong bài thơ "Thề non nước" của Tản Đà:
Ngàn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước chưa nguôi lời thề
Xuân Diệu cũng nhắc đến số từ ngàn năm khi nói về khát vọng tình yêu:
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu bờ lắm lắm em ơi
Có lẽ với các thi sĩ, số từ "ngàn năm" là cách nói ước lệ để thể hiện khát vọng tình
yêu trường tồn, vĩnh cửu với thời gian. Tất cả rồi cũng đi qua, cuộc đời và năm tháng
đều sẽ trôi qua như mây kia vẫn bay qua biển để đi đến cõi xa xăm vô định. Tình yêu
của mỗi con người thường chỉ gắn với cái hữu hạn của đời người. Muốn vượt qua ngoài
giới hạn đó, người ta chỉ có cách là hòa tan tình yêu của mình vào thiên nhiên vĩnh cửu
để ngàn vạn năm sau những con sóng ngoài đại dương vẫn ca hát về tình yêu bất diệt
của con người.
- Làm sao: Bao nhiêu mong muốn, ước vọng và khao khát thể hiện qua hai tiếng
"làm sao". Nữ thi sĩ đã khát khao đến cháy bỏng được tan ra thành những con sóng gữa
đại dương bao la để tình yêu bé nhỏ của mình trở nên bất tử. Sau những suy tư, cảm xúc
trầm lắng ở khổ thơ 7,8 thì đến khổ thơ này tình yêu bỗng bùng lên mãnh liệt. Khát
vọng mãnh liệt, sôi nổi mà cũng rất khiêm nhường, nữ tính bởi đó là khát khao được
dâng hiến, hi sinh góp cuộc đời mình và tình yêu bé nhỏ của mình vào tình yêu rộng lớn
để được bất tử trong tình yêu. Khát vọng về một tình yêu đích thực, bền chặt, vĩnh viễn
còn được nhà thơ Xuân Quỳnh nhắc đến một lần nữa trong thơ của chị:

Em trở về đúng nghĩa trái tim em


Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Biết yêu anh cả khi chết đi rồi
Sự hòa nhập, hòa tan được nhắc đến trong khổ thơ còn là sự hòa nhập giữa các
chung và cái riêng. Tình yêu của em ở đây còn được chan hòa trong tỉnh đồng bào, đồng
chí. Đó là tình yêu cao thượng, lớn lao và khi cái riêng hòa vào cái chung thì cái riêng
cũng tồn tại vĩnh hằng, bất diệt. Mỗi chữ, mỗi câu trong đoạn thơ đều được lựa chọn sắp
xếp một cách rất khéo léo và có giá trị biểu cảm cao. Sự phối hợp các thanh bằng, trắc
nhịp nhàng, các từ ở cuối câu là "qua", " xa", "ra" và "nhỏ", "vỗ" bắt vần với nhau tạo
âm hưởng riêng và sức hấp dẫn cho đoạn thơ.

C. KẾT LUẬN CHUNG


Thơ ca là hoa thơm của cuộc đời. Nếu chỉ được kiến tạo từ trí tưởng tượng và
“cái tôi” nhỏ bé của người nghệ sĩ, thơ ca chỉ là những bông hoa làm bằng “vỏ bào”
(Pauxtôpxki). Nhà thơ phải nhặt những hạt “bụi quí” trong cuộc đời mênh mông vô
tận để làm nên những “bông hồng vàng” quí giá, đem lại niềm vui và cái đẹp cho tâm
hồn người đọc thơ, hiểu thơ và yêu thơ. Với bài thơ “Sóng” nhà thơ Xuân Quỳnh đã từ

18
tình yêu trái tim mình để thể hiện được vẻ đẹp của tình yêu của con người nói chung,
đem đến cho đời những vần thơ lấp lánh. Bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ
đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: táo bạo, mãnh liệt, dám bước qua mọi trở
ngại để gìn giữ hạnh phúc, tình yêu. Dù có lo âu, phấp phỏng, bất an trước cái ngắn
ngủi, hữu hạn của tình yêu, đời người so với sự vô hạn của trời đất ,vũ trụ, thời gian
nhưng vẫn vững tin vào sức mạnh của tình yêu, luôn khao khát tình yêu đích thực, vĩnh
cửu. Người đọc yêu mến và nhớ mãi bài thơ "Sóng" nữa vì nó không đơn thuần là thơ
nữa mà là những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất của trái tim con người, của tâm hồn
người phụ nữ luôn nhạy cảm và tha thiết muốn được yêu thương. Bài thơ rất tiêu biểu
cho phong cách thơ của Xuân Quỳnh, rất dịu dàng, nữ tính nhưng cũng rất táo bạo và
đầy khát khao trong hạnh phúc đời thường.

19

You might also like