You are on page 1of 8

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TRÀNG GIANG CỦA TÁC GIẢ HUY CẬN

Nhà phê bình Hoài Thanh đã từng nhận định: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng
một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy
Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận…”. Thật vậy, thơ Huy Cận là
sự đan xen giữa nổi sầu vũ trụ của thế nhân với nổi cơ đơn mang tính thời đại của các nhân, nó tạo
MỞ BÀI

thành nổi sầu vạn kỉ trong hồn thơ ông. Đó là một tiếng thơ có nét gì đó rất riêng, là sự hòa trộn
giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại. Bài thơ “Tràng Giang” (Huy Cận) là một tác phẩm tiêu cho
phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Qua bài thơ mang “vẻ đẹp cổ điện mà hiện đại”, Huy Cận đã
bộc lộ cái sầu của một cái tối cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người,
tình đời, lòng yêu nước thầm kín nhưng thật thiết tha.
“Huy Cận cũng là” một người của đời, một người ở giữa loài người. Huy Cận là một
trong số những nhà thơ mới trong giai đoạn 1930 – 1945. Ông là một trong những hồn
Tác thơ “Sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của ông đều chất chứa những nỗi buồn miên man, sầu bi
Giả của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống. Đằng sau những nổi sầu ấy là
tiếng lòng của một con người yêu nước. Nếu như Xuân Diệu say đắm trong trường tình
thì Huy Cận lại chìm đắm trong nỗi sầu của nhân thế.
Tác Tràng giang là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận nói riêng và thơ ca lãng mạn 1932-
Phẩ
m 1945 nói chung. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên buồn. Cảnh chiều trong bài thơ có
chiều kích không gian cao rộng, sông nước mênh mang và tất cả đều hoang vắng, tiêu
sơ, thiếu vắng sự sống.
Luận Hai khổ thơ đầu của bài thơ, là những nét vẻ vừa đẹp vừa thấm đẩm chút buồn man
điểm
1: mác phủ lên toàn bộ cảnh vật:
Khun “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
g
cảnh
Con thuyền xuôi mái nước song song,
sông Thuyền về nước lại, sầu trăm ngày
nước Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
mênh
mông Với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu trăm ngả”, “lạc
bất mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần thái
THÂN BÀI

tận
và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã
hòa lẫn với nét hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là
hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô định.
Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, một con sông dài, một con sông mang nét
đẹp u buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương.

Lọt thỏm giữa dòng sông vũ trụ mênh mông vô định là những hình ảnh lẻ mọn, nhỏ
nhoi khiến cho không gian trở nên thật khác lạ: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”.
Câu thơ dung chứa cả hai đợt sóng, sóng nước và sóng lòng. Đây là con sóng đa tầng
nghĩa khiến cho dòng sông cựa mình biến thành một thực thể vô thường. Nhạc sóng và
nhạc lòng, không gian vũ trụ và không gian tâm tưởng hoà quện vào nhau tạo thành thứ
sắc màu tâm lý, màu buồn đổ bóng lên vạn vật: “Con thuyền xuôi mái nước song song”.
Hai chữ “xuôi mái” đầy bất lực và phó mặc, tất cả mọi quyền lực được trao trọn cho số
phận, cho sự chiếm lĩnh của không gian và thời gian.

Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác
giả viết “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự
chia lia không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh lòng hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến
tận cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu
thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi.
Có thể nói câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ
đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật
chội như thế này.

Tê tái nhất vẫn là hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Đây là câu thơ cô
đơn nhất, xót xa nhất trong bài thơ. Câu thơ bảy chữ vỡ vụn thành sáu mảnh đầy nhói
buốt: “Củi - một cành khô - lạc - mấy dòng”. “Củi” là trạng thái chết chóc của cô đơn vì
cô đơn vốn là cội nguồn của cái chết. Xưa nay không ai chết vì buồn nhưng lại chết vì
cô đơn. “Một” là số từ gợi sự lẻ loi đơn độc bởi cô đơn thường là một mình. “Cành” là
cái nhỏ nhoi, yếu ớt gợi thân phận của kiếp người. “Khô” là trạng thái cằn cỗi thiếu sức
sống, “lạc” là sự trôi dạt bơ vơ. “Mấy dòng” là cái mênh mông vô định của không gian,
cũng là sự lạc loài bơ vơ của cảm xúc.
Câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, mới thực là sự đắc địa và cẩn trọng trong
cách chọn từ của Huy Cận. Củi, đã là sự vật gợi sự khô héo, tàn lụi, thậm chí là mất dần
sự sống. Tiếp đến, lượng từ “một” gợi sự đơn lẻ đơn độc và lạnh lẽo trên dòng sông bất
tật, thế nhưng không chỉ một mình, đơn độc mà cành củi ấy còn vô phương vô định lưu
lạc về chân trời nào. Ở đây có thể thấy, Huy Cận đã đưa vào trong thơ những chất liệu
từ đời thực, những chất liệu sống để diễn tả một cách chân thực, mộc mạc nhất sự cố
đơn, mất phương hướng thậm chí là bế tắc của chính tác giả, hay của những cái tôi thơ
mới lúc bấy giờ.
Câu thơ trải qua một cuộc hành trình từ kiếp củi đến kiếp người. Đó là hành trình
đầy cô đơn tuyệt vọng của con người nhỏ nhoi, yếu ớt bị lọt thỏm giữa vũ trụ mênh
mông rợn ngợp. Trạng thái khô héo, cô đơn và chết chóc ngay trong sự sống mới càng
trở nên buốt nhói hơn vì nước là sự sống, là cội nguồi của sự sống được bắt đầu từ
những hạt Coasenva. Một quan niệm nhân sinh hiện đại, sự tự ý thức về nỗi cô đơn
được hình thành trên cơ sở của sự thức tỉnh ý thức cá nhân mạnh mẽ mà trước đó chưa
từng có.
Nếu trong Tràng Giang, Huy Cận mượn cành củi khô để diễn tả tình cảnh lưu lạc,
hoang hoải trong tâm hồn của những cái tôi thợ mới, thì Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối.”
Khi đánh giá thơ ông, Xuân Diệu nói rất tình: “Thơ Huy Cận không gắn đến cái hằng
ngày, cái trước mắt mà là cái ngàn năm”. Đây là một quan niệm nhân sinh mới mẻ thể
hiện sự vụt tỉnh của ý thức cá nhân, thôi thúc Huy Cận sáng tạo nên một hình ảnh tương
phản thể hiện rõ cảm quan buốt nhói về thời gian ngay trên chính dòng sông “Tràng
giang”.
Nếu như nỗi ám ảnh thời gian luôn vận động theo quy luật tuyến tính, một đi không
trở lại đã khiến Xuân Diệu luôn vội vàng, cuống quýt trong từng nhịp điệu sống thì nỗi
ám ảnh không gian đã mang vào trong thơ Huy Cận những thế giới rộng lớn, mênh
mông sầu mộng của thi sĩ. Ở “Tràng Giang” cũng không phải là ngoại lệ, mở đầu bài
thơ là hình ảnh sông dài với những đợt sóng buồn điệp điệp nối đuôi nhau. Cái hay ở
đây, là cách nhà thơ dùng từ “tràng giang” để gọi nó, nó gợi màu sắc cổ điển, vì thế con
sông trong thơ Huy Cận dường như gọi về bao nhiêu nỗi niềm xưa, bao nhiêu dấu rêu
phong, bao nhiêu những con sống hoàng hà cổ đại, từ đó chảy trên dòng thời gian bất
tận để đưa người đọc xuôi dòng về hiện thực. Thuyền và nước, nỗi niềm của sự chia rẽ
được thể hiện rất rõ trong nỗi sầu ở câu thơ thứ ba. Nỗi sầu của dòng sông, nỗi buồn
man mác của dòng chảy bất tận về muôn ngã rẽ, mang theo nỗi lòng của mình để hướng
về muôn nơi, sự chia cắt của thuyền và nước, tưởng như là sự chia cắt của lòng người
khiến cho sự vật cũng như tan tác, chia li.
Hình ảnh “Tràng giang” gợi lên một con sông dài, rộng hùng vĩ, với những đợt
sóng tung bọt trắng xóa, biểu trưng cho vẻ hùng vĩ của sông nước. Nhưng, những đợt
sóng ấy lại cứ nối dài triền miên, gối đầu nhau trong những cơn buồn “điệp điệp”. Con
thuyền lại một lần nữa xuất hiện, đó là hình ảnh khá quen thuộc ta từng gặp trong nhiều
tứ thơ khác:
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Con thuyền buộc chặt mối tình quê).
(Thu Hứng – Đỗ Phủ)
Con thuyền trên sông đưa tiễn người bạn tri kỉ trong thơ của Lí Bạch ở bài “Tống
mạnh hao nhiên chi Quảng lặng”:
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.”
Hình ảnh con thuyền đã trở thành một thị liệu quen thuộc, cổ điển thường gợi sự cố
đơn. Con thuyền ấy trôi dạt mênh mông, vô định trên sông nước, gợi sự cô đơn và vô
định của kiếp người . Thuyền và nước gắn liền nhau, ở đây nước sông và con thuyền lại
chia đôi ngả, thuyền xuôi mái song song, từ đó thấy sự bơ vơ, lạc lõng của kiếp người
trôi nổi.
Luận Nếu trong khổ thơ mở đầu của bài thơ, tác giả vẽ nên không gian sông nước mênh
điểm
2: mông thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả lại mở ra không gian nơi còn nhỏ. Hai câu thơ
Cảnh mở đầu khổ thơ thứ hai đã vẽ nên một không gian hoang vắng, hiu quạnh.
cồn
bến
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
hoan Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
g Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đặc biệt gợi
vắng
trong cảm tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi còn nhỏ vừa thưa thớt, hoang vắng, lạnh lẽo
nắng vừa gợi nên một nỗi buồn mênh mang. Thêm vào đó, sự hoang vắng, tĩnh mịch của
chiều
không gian như càng được tô đậm thêm qua câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.
Có thể nói, đây là một câu thơ có nhiều cách hiểu, “đầu” là đâu có, là phủ nhận âm
thanh của tiếng chợ chiều hay là đâu đó, gợi lên âm thanh yếu ớt của tiếng chợ. Nhưng
có lẽ dẫu hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì câu thơ vẫn gợi lên trong lòng người đọc
nỗi buồn, sự hoang vắng, tàn tạ, thiếu vắng đi sự sống của con người. Chợ vốn là là hình
ảnh của không gian sống, là biểu tượng của cuộc sống nhộn nhịp, đông đúc. Nhưng chợ
ở đây, cũng là chợ chiều đã vãn. Cảnh vật héo buồn, sinh hoạt và cuộc sống của con
người cũng đi dần vào thế nghỉ ngơi, vào sự buồn bã hiu quạnh.
Tác giả sử dụng từ “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi sự xuất hiện ít và thư thớt, cảm giác của
con người thoáng buồn khi đứng trước tầm nhìn rộng. Đây là sự cảm nhận bằng thị giác.
Bên cạnh đó, tác giả còn có sự cảm nhận bằng thính giác: cảm nhận về âm thanh cuộc
sống tiếng chợ chiều. Cảnh vật như thiếu vắng hơi ấm của cuộc sống con người, cần lắm
tìm đến sự tri ân. Từ “đấu” mang nhịp chậm, giọng buồn nhuốm sẩu. Không gian được
thắp lên màu nắng, tăng thêm cả về chiều rộng, độ cao, chiều sâu. Từ đó tác giả đã gợi
ra một không gian từ mặt nước đến đáy sông, không gian được đẩy đến tận cùng, khắc
họa nỗi buồn, cô đơn của con người trước cuộc đời. Tác giả như không tìm thấy sợi dây
liên hệ với cuộc đời, mang đến sự vô vọng.
Theo tác giả, đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông của sông Hồng gợi
tứ. Huy Cận đã có lần tâm sự: “Một chiều mùa thu năm 1939, tôi đi dạo trên bờ sông
Cái bằng xe đạp, có đọn dắt xe đi bộ thấy buổi chiều trên đế và sông đẹp quá: nắng
chiều đã nhạt, mây đùn phía núi xe và man mác một nỗi buồn khó tả, nửa như gần gũi,
nửa xa vời, quạnh hiu”. Vì vậy, bức tranh thiên nhiên được khắc họa trong bài thơ này
gần như đã trở thành cổ điển mà linh hồn của nó là một nỗi buồn đìu hiu, mênh mang,
cô đơn bao trùm. Qua mỗi khổ thơ, tác giả điểm thêm một nét buồn, gợi thêm một tâm
sự. Tất cả những điều ấy cứ trở đi trở lại như sóng nước, vẫn là bát ngát mênh mang
những phủ trùm bởi hoang vắng và tàn tạ, lụi tắt, bơ vơ, nổi trôi, chia lìa, phiêu bạt,
bềnh bồng.
Nếu hai câu thơ đầu khổ hai gợi lên không gian còn nhỏ vắng vẻ, hiu quạnh thì
dường như trong câu ba và câu bốn, không gian ấy như được mở rộng cả về bốn phía
làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu và tĩnh mịch hơn.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Không gian thơ càng trở nên rợn ngợp và ám ảnh hơn khi tứ thơ đột ngột được nhấc
bổng lên để toả ra đôi bờ và phía “cồn nhỏ”, “làng xa” gợi cảm giác về vũ trụ quá rộng
nhưng rỗng và lạnh. Huy Cận diễn tả không gian bằng hai câu thơ đầy tài hoa: “Nắng
xuống, trời lên sâu chót vót/Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Không gian trong thơ cổ
thường bị đập bẹp với hai chiều cao - thấp. Huy Cận cũng làm như vậy nhưng khi diễn
tả chiều rộng, ông bổ sung thêm chiều sâu “sấu chót vót” khiến không gian được dựng
dậy, mở rộng về tứ phía tạo không gian hình lập phương ba chiều hiện đại đầy ám ảnh.
Huy Cận còn khéo léo tạo ra nỗi ám ảnh dai dẳng cho người đọc bằng thủ pháp đối lập
giữa hai khổ thơ. Nếu khổ thơ thứ nhất là sự nhói buốt bởi cái nhìn nhỏ nhoi và hữu hạn
của kiếp người trong sự “vô thủy vô chung” của không gian thì khổ thơ thứ hai lại
choáng váng trước cái thăm thẳm vô cùng của vũ trụ.
Thiên nhiên một lần nữa xuất hiện trong thơ nhưng chỉ là những cảnh vật gợi sự
khô héo, đìu hiu tàn lụi. Những cồn nhỏ như đang nương vào cơn gió để khe khẽ kể về
nỗi buồn của mình. Và ngọn gió, dường như cũng mang trong nó nỗi buồn man mác của
cảnh vật mà hồn thơ âu sầu ảo não của Huy Cận đã họa thành.
Hai câu thơ cuối của khổ có thể nói là tuyệt bút nên thơ của Huy Cận, cách dùng từ
độc đáo của thi nhân đã lột tả một cách chính xác cảm giác của nhân vật trữ tình khi
đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Những chuyển động đối lập nhau: lên - xuống cùng với
cách tạo vế đối “nắng xuống” - “trời lên” tạo cảm giác như một chiếc tù giam lỏng dồn
nén con người ở giữa cảm thấy ngột ngạt, bí bách và chán chường trong sự vận động
xoay guồng của tạo hóa. “Sau chót vót” là cụm từ độc đáo, vừa diễn tả độ sâu, vừa diễn
tả độ cao, vừa tạo cảm giác mở về sự cảm nhận của người đọc. Và rồi tiếp nối mạch cảm
xúc ấy, là cảm giác cô liêu, cô đơn đến cùng cực của con người giữa sông dài trời rộng,
giữa sự vô tận.
Đây là nỗi buồn cô đơn đến rợn ngợp của con người cá nhân bé nhỏ trước không
gian ba chiều bao la, luôn luôn có niềm khát khao hoà hợp, cảm thông giữa người và
người trong tình cảnh đất nước và tình thương yêu nhân loại.
Thiên nhiên trước giờ là đề tài chung của thi nhân, là cảm hứng dạt dào bất tử. Nhưng rõ
ràng, sự xuất hiện của con người, bóng dáng của cái tôi cá nhân là một nét mới - hoàn
toàn đứt lìa với “cái ta” cổ kính trung đại để dấn thân vào khám phá những chiều kích
nội tâm. Là nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới, Huy Cận đã để lại những dấu ấn
khó phai trên thị đàn, vừa tiếp nối, gìn giữ những nét cổ điển trong thơ xưa vừa thực
hiện cuộc khai phá ngoạn mục trong hành trình thơ mới
Luận Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của
điểm
3: nỗi khắc khoải không gian, nhà thơ của nỗi sầu nhân thế. Huy Cận là một tài năng nghệ
Cảnh thuật độc đáo, của một hồn thơ “ảo não nhất” trong phong trào Thơ mới.
bèo
trôi,
Với Thơ mới, Huy Cận đã đủ cho một đầy đủ. Sau đó chỉ là những tiếp nối trên cõi
bờ bềnh bồng của thi pháp ấy. Như thế đã đủ cho một đời thơ vinh dự. Đêm mưa làm nhớ
xanh không gian. Cảm hứng sáng tạo thơ ca của Huy Cận thiên về thẩm mĩ của không gian.
hoan
g Về với một vẻ đẹp xưa và cặp mắt thi nhân cũng nhìn vào:
vắng Ngập ngừng nếp núi quanh co
Lưng đèo quán dựng, mua lò mái ngang
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hùng mây cao...
Đưa trái tim đi vào nỗi buồn, Huy Cận cũng đặt nó vào không gian: Vạn lí sầu lên
núi tiếp mây (“Vạn lí tình”). Hát lên khúc ru tình yêu, Huy Cận cũng lấy hòa âm trong
không gian làm nền nhạc đệm: “Ngủ đi em, mộng bình thường/Ru em sẵn tiếng thủy
dương mấy bờ” (“Ngậm ngùi”)
Thế giới Huy Cận là thế giới của “Buồn bã không gian/Mây bay lững thấp giăng
màn âm u” (“Thu rừng”). Trong thế giới ấy, thời gian dừng lại, lặng lẽ chuyển hóa thành
tĩnh tại thành một điểm của không gian. Hình thái cảm ứng ấy đặc biệt được biểu hiện
trong bài thơ “Tràng giang”. Đó là khúc trữ tình của một chiếc linh hồn nhỏ, mang
mang thiên cổ sầu. “Tràng giang” là một bức tranh phong cảnh. Phong cảnh “Tràng
giang” không có màu sắc.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Khổ thơ thứ ba này là cái rùng mình lạnh toát mồ hôi của sự đứt mối giao cảm. Vạn
vật vỡ vụn, đứt mối liên hệ dồn con người về phía cô đơn và ngột thở trong cái không
gian ba chiều hun hút. Nỗi cô đơn của khổ thơ được diễn tả bằng hình ảnh cánh bèo
truyền thống nhưng mang linh hồn hiện đại “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Câu thơ là
sự ngân dài qua ba biến tấu, từ kiếp “củi” đến kiếp “bèo” và cuối cùng là kiếp “người”.
Đặc sắc nhất là chữ “dạt” đứng sau chữ “bèo gợi sự chới với, chơi vơi. Càng ấn
tượng hơn nữa là hai chữ “không”: “không cầu”, “không đò” như những nhát dao cắt
đứt mọi mối liên hệ dù là mỏng manh nhất khiến thế giới thống nhất trở nên vỡ vụn, vạn
vật hoàn toàn bị cô lập. Đây là thủ pháp nghệ thuật dùng cái không để diễn đạt cái có,
lấy cái “không cầu”, “không đồ” để diễn tả nỗi cô đơn đã chiếm lĩnh hết vị trí của ô-xi
trong cái không gian hình lập phương ba chiều ấy.
Một đặc trưng nữa của thơ mới là cái buồn gắn với cái đẹp, tác giả cũng tạo ra một
câu thơ lấp lánh vẻ đẹp như dòng sông dưới ánh trăng nhưng hoang vắng và lặng lẽ như
“côi không người”: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Hai chữ “bờ xanh” và “bãi vàng”
khiến câu thơ đẹp như trong miền cổ tích ngày xưa hay từ lời ru đưa nôi nhưng hoang
vắng lạ thường. Thực chất đây là thủ pháp dùng cái lặng lẽ ở bên ngoài để tồn tụ, để
lắng đọng những cái đang náo động, đang nhảy múa toán loạn bên trong. Đó là nỗi khắc
khoải, nỗi khát khao của tâm hồn ham sống cho ra sống.
Từ láy “mênh mông” được tác giả đẩy lên đầu câu thơ nhằm khéo léo mở ra tầm
nhìn bao quát toàn cảnh “tràng giang”. Trong cái nhìn bao quát ấy, Huy Cận càng như
thất vọng trước cái hoang vắng, lạnh lẽo của thiên nhiên. Hình ảnh cây cầu và chuyến
đò ngang xuất hiện trong đoạn thơ không chỉ là hiện thân cho dấu vết của sự sống con
người mà còn là những nhịp cầu nối những bờ sông, là con đò nối hai bờ sông nước.
Tuy nhiên, cách nói phủ định “Không cầu, không một chuyến đò ngang và hình ảnh
“bờ xanh tiếp bãi vàng” đã khiến cho cảnh vật thiên nhiên càng hoang vắng, trống trải.
Lời thơ đó của Huy Cận gợi nhớ cảm nhận về thiên nhiên của Truyện Kiều khi nàng
đang đứng ở lầu Ngưng Bích:
“Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Huy Cận cùng tập thơ “Tràng giang” đã từng được nhận xét: “Nhà thơ đã gọi dậy
cái hồn của Đông Á, đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi
đất này”. Đúng vậy, bài thơ là một nỗi niềm buồn vời vợi, sâu lắng của tâm hồn nhà thơ
khi đứng trước khung cảnh sông nước rộng lớn, mênh mông. Chính nỗi u hoài đó đã
được chuyển tải vào trong thơ mang nét cổ điển mà vừa hiện đại tạo nên chất thơ chỉ
riêng Huy Cận.
Luận Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm mong tìm chỗ nương tựa của nhà thơ (Khổ 4) Nhà phê
điểm
4: bình văn học Hoài Thanh từng nhận xét rằng: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi.
Tâm Mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu, càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng
sự
nhớ
Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn
quê Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta say đắm cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình
và yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngân buồn trở về hồn
nỗi
niềm ta cùng Huy Cận”. Và bài thơ “Tràng Giang” điển hình cho phong cách sáng tác,
của cho nỗi buồn mang mác, u hoài của nhà thơ.
nhà
thơ
“Buồn thương, sầu não là âm hưởng chính khiến “Lửa thiêng như bản ngậm ngùi
dài. Tập thơ dằng dặc một nỗi buồn nhân thế, một nỗi đau đời” (Hoài Thanh). Trong đó,
người đọc biết đến Huy Cận nhiều nhất qua bài “Tràng giang” trích trong tập thơ này.
“Tràng giang” đã khắc họa thành công cái lăng kính sầu vạn cổ cùng hiện thực giàu sắc
thái. Chính vì lẽ đó, bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận đã khắc họa thành công hai vẻ
đẹp: cổ điển và hiện đại và khổ cuối bài thơ là minh chứng đậm sâu nhất cho sự hòa
quyện của hai yếu tố này.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn với con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Khổ thơ nói đến hoàng hôn trên trang giang. Một cái nhìn xa vời vợi. Trước mắt
nhà thơ là những núi mây nhô lên, đùn lên lớp lớp màu trắng bạc. Cảnh sắc thiên nhiên
rất tráng lệ. Bầu trời chắc là xanh thẳm, hoặc tím thầm trong khoảnh khắc hoàng hôn
nên màu mây ở cuối chân trời mới ánh lên màu bạc ấy.
Giữa cái bao la mênh mông bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi. Cánh chim
dang chở nặng bóng chiều, bay vội vã. Trên cái nền tím sẫm, nhạt nhòa của bóng chiều
hôm, hiện lên những núi bạc mây cao và một con chim lạc đàn nghiêng cánh nhỏ. Hai
nét vẽ ấy tượng trưng cho những cảnh chiều hôm trong tâm tưởng người lữ thứ:
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan)
“Chim hôm thoi thóp về rừng” (Nguyễn Du).
Nghệ thuật tương phản giữa cánh chim nghiêng nhỏ bé và mờ dần với núi mây bạc
hùng vĩ, với trời đất bao la đã làm cho cảnh đất trời và tràng giang thêm mênh mông
hơn, xa vắng hơn, và cũng buồn hơn.
Khổ thơ cuối cùng là đỉnh điểm của cảm xúc, là sự lắng tự ý tưởng của bài thơ.
Tác giả tạo ra hai hoàng hôn, hoàng hôn của cảnh vật với sự đối lập của hai phạm trù
khônggian, không gian của dáng chiều và không gian của cánh chim. Dáng chiều đẹp và
hoành tráng với núi mây kỳ vĩ bao la, cánh chim lại nhỏ nhoi yếu đuối nhưng chính
cánh chim ấy mang một tầm vóc phi thường. Chỉ cần nghiêng cánh mà cả dáng chiều
hấp hối đã đổ sập xuống. Đấy là thủ pháp cường điệu hoá dùng để diễn tả hữu hiệu nhất
cái đẹp không bền vững cứ chới với chơi vơi. Đặt chúng trong pháp tư duy tổng thể, ta
thấy xuất hiện hoàng hôn lòng. Thông qua phút hoàng hôn chấp chới ấy tác giả muốn
nhấn mạnh rằng: Sự sống thì quá đỗi nhỏ nhoi, cái cô đơn lại quá đỗi khổng lồ giữa
không gian vô định.
“Lòng quê dợn dợn với con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Hai câu thơ cuối cùng xuất hiện đầy bất ngờ, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì ta từng
bắt gặp nỗi nhớ quê da diết ấy trong tâm hồn của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà
xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (“Hoàng Hạc lâu”). Lạ vì mãi cho đến hai câu
cuối cùng mới thấy sự xuất hiện của con người mà lại là con người của cảm thức cá
nhân mới mẻ. Thôi Hiệu phải nhìn thấy khói sóng, phải có khói mới nhớ nhà còn Huy
Cận thì “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nỗi nhớ như đầy ắp và luôn trào ra khỏi
cái vực thẳm của tâm hồn cô đơn trước không gian ám ảnh. Đây không đơn thuần là nỗi
nhớ nhà, nhớ gia đình mà là nỗi nhớ quê hương, nhớ đất nước ngay khi đang đứng chân
trên chính quê hương đất nước, đang tắm mình trong không gian của quê hương đất
nước mình. Đây chính là nỗi buồn “vong quốc” của một thế hệ nhà thơ như tác giả vì
quê hương đất nước không còn là của mình mà đã bị giặc chiếm.
Đối lập với cảnh tượng hùng vĩ của mây cao, núi bạc là hình ảnh cánh chim nhỏ bé
chìm vào sự vô cùng vô tận của vũ trụ. Và lúc này đây, điểm nhìn thi nhận có sự thay
đổi, nhà thơ không nhìn ngắm ngoại cảnh bao la rộng lớn nữa mà quay ngược hướng về
lòng mình “lòng quê”. Hai chữ “dọn dẹn” chính là sáng tác riêng của Huy Cận, là tâm
trạng nôn nao, day dứt triền miên của một người đứng trên quê hương mà lại cảm thấy
thiếu quê hương như các nhà thơ cùng thời.
Bốn câu kết mang ý vị cổ điển rất đậm đà. Ý vị ấy, màu sắc ấy được thể hiện ở
hình ảnh nhà thơ một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vô cùng
của không gian, thời gian đối với kiếp người hữu hạn. Một cánh chim, một núi mây
bạc... cũng dẫn hồn ta đi về mọi nẻo, đến với mọi phía chân trời như trong tứ thơ của Đỗ
Phủ:
“Lưng trời sóng rợn lòng sông thơm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Cảm hứng đơn độc bao trùm cả bài thơ. Tạo vật cứ chảy trôi như nó vốn dĩ, cứ chia
li như nó đã từng. Để rồi trong sự mênh mông ấy, con người lọt thỏm và nhỏ bé đến
đáng thương. Con người như người lữ hành cô độc giữa không gian, thời gian vô thủy
vô chung. Cất lên tiếng nói tâm tư chính là bộc bạch nỗi lòng sâu kín của thi nhân về
tình yêu quê hương xứ sở.
Thơ Huy Cận hàm súc, cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lí suy tưởng. Một hồn thơ
bơ vơ, sầu não ấy luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo vật trên một không
gian mênh mông, vắng lặng. Cảnh sắc trong “Tràng giang” đẹp mà buồn. Tình quê, lòng
quê trong bốn câu kết thật vô cùng sâu sắc, thắm thiết. Đó là những vần thơ mãi mãi
vương vấn lòng người trong mọi thời gian và không gian.
Thơ thất ngôn trong “Tràng giang” mang vẻ đẹp cổ kính, trang trọng. Mỗi khổ thơ
nếu đứng tách riêng ra sẽ trở thành một bài tứ tuyệt thể hiện sâu sắc cảm hứng mà tác
giả đã viết trong lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Nỗi buồn bâng
khuâng và nỗi nhớ ấy là của một tấm lòng đang hoài vọng quê hương. Âm điệu đoạn thơ
trầm bổng như muôn ngàn sóng gợn buồn điệp điệp trong lòng người đọc bấy lâu nay.
Cảnh sắc hoàng hôn và lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi mãi khơi gợi trong ta
hình bóng quê hương yêu dấu. Tràng giang đã và đang mang theo bao vạn lí tình trong
hồn ta.
Bằng biện pháp sắp đặt các sự vật của vũ trụ trong “mối quan hệ vô quan hệ”, các
thủ pháp nghệ thuật tu từ và tạo ra mối tương quan giữa các từ ngữ trong bài thơ “Tràng
giang, Huy Cận đã đem đến cho người đọc nhiều khoái cảm thẩm mỹ mới lạ về không
gian vũ trụ và con người với ý thức cá nhân bừng tỉnh mà trước đây chưa từng có. Đặc
biệt hơn cả là tác giả đã nhẹ nhàng “đánh bẩy” người đọc vào nỗi ám ảnh không gian dai
dẳng lạ thường.
Nội Bức tranh Tràng Giang hiện lên với tất cả sự đối lập, tương phản giữa thiên nhiên,
Dung
không gian vũ trụ mênh mông với sự sống nhỏ bé đơn chiếc, lạc lõng, mong manh. -
Thể hiện nỗi cô đơn, nỗi sầu vô tận của kẻ lữ thứ - cái “Tôi” bơ vơ trước thiên nhiên vũ
trụ rộng lớn, bao la, mênh mông rợn ngợp. Thể hiện niềm khát khao hòa hợp giữa
những con người và tình yêu quê hương đất nước kín đáo của nhà thơ.
Nghệ Bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển, nhất là yếu tố Đường thi
Thuậ
t với yếu tố thơ mới. Nhiều yếu tố hiện đại thể hiện “tinh thần Thơ mới” và sự sáng
tạo mới mẻ cuả Huy Cận: Một cái “Tôi” thơ mới lãng mạn, giàu cảm xúc trước tạo
vật. Hình ảnh sinh động, cảm giác tinh vi phong phú, nhiều sáng tạo bất ngờ: sâu
chót vót, củi một cành khô, chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa, nước sâu trăm
ngả. Đặc biệt chất Đường thì thấm đượm: từ thể thơ, thi đề, thị tứ thì liệu đến những
thủ pháp nghệ thuật đặc trưng (phép đối ngẫu, từ láy dùng theo lối song đối)
Mang âm hưởng nhịp nhàng ,trầm buồn da diết,” Tràng Giang “ hiện ra như một
bản sonata nhẹ nhàng mang cả nỗi lòng của Huy Cận gửi vào chốn mênh mông sâu
KẾT BÀI

thẳm chẳng hề có bờ bến nào đó. Con người mang bao nỗi niềm trăn trở đại diện cho
cả một thế hệ nhiều nhà Thơ mới lúc bấy giờ,nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê
hương,nhưng quê hương đã không còn.

MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VĂN HỌC


1. “Tràng giang” là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn
Tổ quốc. (Xuân Diệu)
2. Cải buồn “Lửa Thiêng” là cái buồn tỏa ra từ đáy hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại
cảnh. (Hoài Thanh)
3. Bài thơ hầu như trở thành cổ điển, của một nhà “Thơ mới”. Vào một cách dõng dạc, đàng
hoàng, vì đây là “đại giang”, là sông lớn, ví dụ như sông Hồng; là tràng giang: rộng bao gồm cả
trường giang: dài sầu trăm ngả chứ không phải là ít ngả, vì là sông lớn...Hơi thở cổ điển là
đúng...duy câu thứ tư thì là hiện đại, thơ truyền thống của cha ông ta không đưa cái nét hiện
thực, thực tế, nôm na, chân thật đến sống sót, là củi một cành khô trôi đi trên sông. (Xuân Diệu)
4. Huy Cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não.
Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc
thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn
thơ những dấu tích không bao giờ tan được (Hoài Thanh)
5. Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi . Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng
lạnh. Ta thoát lên tiến cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên
cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép,
tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngân ngơ buồn trở về hồn ta
cùng Huy Cận. (Hoài Thanh)

You might also like