You are on page 1of 6

TÂY TIẾN

“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội


Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Đất nước – Nguyễn Đình Thi
Nếu như ở đoạn thơ trên Nguyễn Đình Thi viết về khoảnh khắc lên đường chiến đấu của
những chàng trai Hà thành thì ở bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng sẽ là người tái hiện
trực tiếp chặng đường hành quân đầy gian truân, vất vả đó của họ. “Tây Tiến” đã đưa
tên tuổi ông vào hàng đầu các nhà thơ thời kỳ chống Pháp. Với một hồn thơ đôn hậu,
lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, ông đã thành công trong việc khắc họa hình tượng
nghệ thuật của người lính giữa núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng vừa lãng mạn vô cùng.
Phần đầu của tác phẩm là nỗi nhớ của Quang Dũng về những cuộc hành quân gian khổ
gắn với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Nhắc đến Tây Tắc ta lại nhớ đến cuộc vận
động văn nghệ sĩ năm nào dùng ngòi bút mở đường tìm thắng lợi, ghi dấu bao chiến
công oanh tác của quân đội ta. Và thế là Quang Dũng mở đầu một lời gọi tha thiết:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Hai tiếng “ xa rồi” đã xác định hiện thực của sự xá cách. Nỗi nhớ day dứt ấy đã nhanh
chóng được khái quát qua địa danh sông Mã, con sông như một dòng chảy xuôi ngược
kí ức chảy qua Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa. Một cái cớ vô cùng duyên dáng để Quang
Dũng khơi gợi tâm tư của mình, bao nhiêu kỉ niệm cùng đồng đội cũ, đều từ đó mà ra.
Tiếp tục với một tâm hồn hoài niệm, điệp từ “nhớ” và câu cảm thán “Tây Tiến ơi” bộc lộ
nỗi nhớ va giúp ta có thể hình dung về những tháng ngày cùng đồng đội vào sinh ra tử
của tác giả khiến cho nỗi nhớ kia ngày càng thêm cháy bỏng, da diết đến quặn lòng.
Rừng núi Tây Bắc vừa bí ẩn, hoang vu vừa lãng mạn trong đôi mắt nghệ sĩ trẻ, “nhớ
rừng núi” cũng chính là nhớ về những gương mặt sát cánh trên con đường hành quân,
là nhớ về Tây Tiến. Từ láy “chơi vơi” đặt cuối câu thơ là một sáng tạo độc đáo, nỗi nhớ
không cạn, cũng chẳng tận trời cao, cứ “chơi vơi” lơ lửng, khắc khoải như một làn
sương hoài niệm chẳng lúc nào tan biến. Nỗi nhớ càng được khắc họa cụ thể ở hai câu
thơ sau:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Tác giả liệt kê các địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát” để người đọc gần xa ít nhiều thấy
được vẻ heo hút, hoang vu, bí ẩn của vùng đất lạ, thấy được những khó khăn, thử thách
chờ chực. Hình ảnh tả thực “sương lấp” và “đoàn quân mỏi” cho ta thấy bao vất vả mà
đoàn quân Tây Tiến đã phải chịu, họ hành quân trong sương mù lạnh giá. Khắc nghiệt
là thế nhưng “hoa về trong đêm hơi” lại là một hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ. Phép
đối làm ta cảm nhận được Quang Dũng- con người xứ Hà Nội hoa lệ nay đã hấp thụ
được hết tinh hoa của núi rừng Tây Bắc.Vậy là ở bốn câu thơ đầu, với âm điệu thơ sâu
lắng, Quang Dũng đã kết hợp hài hòa chất hiện thực và lãng mạn, càng cho ta thấy
được ngòi bút tài hoa, phóng khoáng, sự cân bằng và hài hòa về nhịp điệu, cảm xúc và
hình ảnh của ông. Những câu thơ tiếp theo được Quang Dũng tận dụng tất cả sự đa tài
của mình để khắc họa địa hình hiểm trở của núi rừng Tây Bắc:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Đây là đoạn thơ được tác giả miêu tả rất thực về con đường hành quân đầy gian khổ.
Điệp từ “dốc” kết hợp với từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả sự quanh co, hiểm
trở của địa hình Tây Bắc. Câu thơ bảy chữ mà đến tận năm chữ được gieo thanh trắc
tạo âm điệu trúc trắc, gọi cho người đọc một thế núi cheo leo, gập ghềnh. . Từ láy “heo
hút” ở đầu câu thơ thứ hai cho thấy sự hoang sơ, vắng vẻ cùng cảm giác bí ẩn, dường
như ta có thể cảm nhận âm vang núi rừng từ bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ. Tác giả sử
dụng hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” góp phần tạo thêm sự thú vị cho bài thơ, vừa
có thể thấy được độ cao chót vót, vời vợi của ngọn núi mà cùng vừa thấy được sự tinh
nghịch, dí dỏm đặc trưng của Quang Dũng – một người lính lạc quan, hài hước.
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Điệp ngữ “ngàn thước” cũng là hoán dụ ước đoán phỏng chừng đã gợi sự vô cùng, vô
tận của thế núi. Hai vế tiểu đối trong câu thơ đã vẽ ra một sườn núi dốc dựng đứng, lên
tận cao vót và đổ xuống rất sâu, bao nhiêu là nguy hiểm, bao nhiêu là gian khó. Câu thơ
còn thể hiện sự cân xứng, hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả qua 1 ngòi
bút khỏe khoắn, bản lĩnh của người chiến sĩ. Thế núi đang “khúc khuỷu” là thế, vậy mà
nhìn lưng chừng sườn núi, “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, câu thơ trải dài toàn thanh
bằng mở ra một không gian xa và rộng. Cảnh tưởng phút chốc lại trở nên lãng mạn,
bình thản biết bao, đâu còn những khung cảnh trần trụi tàn khốc nữa. Như vậy, bốn câu
thơ phối hợp hài hòa đã vẽ ra một bức tranh sinh động về con đường hành quân của
những người lính. Khổ thơ không hẳn là che giấu đi hiện thực tàn khốc mà là lấy cái
nhìn lạc quan, tâm hồn phiêu lãng của đời trai trẻ để tiến ra chiến trận.
Và Quang Dũng đã dành những cảm xúc chân thành nhất để viết:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Từ láy “dãi dầu” kết hợp với hình ảnh hoán dụ “không bước nữa” để giảm đi sự đau
thương của những người lính. Đồng đội vừa đập vai, bôi thuốc, vừa chia nhau bát cơm
đang dần ngã xuống. Các anh biết đồng đội mình mạnh mẽ lắm. Vậy nên dẫu có ngã
xuống cũng sẽ ở một tư thế hiên ngang nhất: “Gục lên súng mũ”, tim đã ngừng đập
nhưng tâm hồn dành cho núi song vẫn còn đó. Anh đã quỳ xuống, ôm súng trong tay,
đưa mắt hướng về đồng đội lần cuối. Cách nói giảm, nói tránh vốn dĩ đã làm giảm bớt
sự buồn đau của sự việc, thế nhưng vẫn giữ được đúng tinh thần thép, tư thế kiên
cường của những người lính. Câu thơ của Quang Dũng đã diễn tả đúng chất của âu
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Ngọn lửa hào hùng trong thơ văn chưa dừng lại ở
đó, đồng đội anh chết nhưng động đội vẫn tồn tại còn đang chiến đấu. Hành trình chưa
bao giờ kết thúc:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Hình ảnh nhân hóa “ Thác gầm chết”, “cọp trêu người” đã tái hiện hình ảnh thiên nhiên
hoang sơ, man dại và đầy bí ẩn. Các từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy chuỗi
ngày dài mà bộ đội đối mặt với gian nan nơi rừng núi Tây Bắc. Hiện thực “hiểm ác” lại
một lần nữa được nhà thơ xoa dịu bởi câu thơ tiếp theo, câu thơ mang nặng tình nghĩa
của người dân Tây Bắc.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Phép đảo ngữ “nhớ ôi Tây Tiến” bao gồm từ cảm thán đã nhấn mạnh sự hoài niệm
mãnh liệt về một vùng đất tình người. Hình ảnh ảnh cơm lên khói vừa chân thật vừa trữ
tình, cùng với mùi hương “thơm nếp xôi” của vùng đất Mai Châu đã khắc họa tình quân
dân vô cùng ấm áp, Những kí ức đó như được thêu dệt từ hương vị từng bữa cơm. Hóa
ra những người lính như Quang Dũng cầm súng trên tay để bảo vệ những điều bình dị
như thế.
Vậy là qua 14 câu thơ đầu với sự kết hợp hài hòa giữa ngòi bút hiện thực và lãng mạn,
Quang Dũng đã thành công dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, cùng với đó là nỗi
nhớ da diết về những ngày tháng vào sinh ra tử cùng đồng đội. Qua đó, ta có thể thấy
tinh thần của những người lính dẫu có “dãi dầu” hi sinh thì vẫn hi vọng ngày chiến
thắng, vẫn kiêu hùng bước từng bước hiên ngang chẳng hề lo sợ.
Nối tiếp bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào và
cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Động từ “bừng lên” là một chi tiết đắt giá khiến cho đêm tối mịt bỗng bừng sáng với
những âm thanh vui tươi, sôi động. Một lần nữa hình ảnh “hoa” xuất hiện lần này là hoa
chúc, hoa của ngọn lửa góp vui cho đêm văn nghệ cùng với “kèn, man điệu, nhạc về
Viên Chăn”. Đó là những tâm hồn lạc quan vì không biết ngày mai có còn tiếp tục được
sống hay không nên cháy hết mình trong đêm. Linh hồn của đêm văn nghệ là những cô
gái vùng sơn cước bất ngờ xuất hiện trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Hai tiếng “kìa
em” cùng với câu hỏi tu từ “tự bao giờ” đã diễn tả tâm trạng bất ngờ phấn khích của
những người lính, vừa ngạc nhiên vừa tinh nghịch, đáng yêu. . Giọng thơ trở nên vui
nhộn, hóm hỉnh, trẻ trung nhưng không làm mất đi tinh thần khí phách của người lính.
Bức tranh miền Tây sông nước thơ mộng trữ tình của tác giả vẽ ra thật sinh động:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Một không gian mênh mông huyền ảo xuất hiện, chắc hẳn “chiều sương ấy” là một buổi
chiều sương giăng với nhiều kỉ niệm.Các cụm từ như “hồn lau”, “dáng người trên độc
mộc”, “hoa đong đưa” đã làm bức tranh sinh động hơn hẳn. Ta có thể thấy khi đoàn
quân ăn bước qua nơi này tâm họ đang lặng để nhớ về điều gì xa vời lắm, có thể là
đồng đội vừa mất của họ, có thể là nỗi nhớ miên man về thời thơ ấu về một ánh mắt
gieo bao tương tư chờ đợi. Điệp từ “có” và sự bắt vần giữa các tiếng “ấy”, “thấy” cùng
những câu hỏi tu từ “có thấy” “có nhớ” cho ta biết nhà thơ đang đắm chìm trong sự
hoài niệm. Trong hiện thực tàn khốc của chiến tranh vẫn luôn hiện diện những khoảng
lặng như thế. Phía xa là những cô gái Thái với dáng hình uyển chuyển mềm mại trên
chiếc thuyền độc mộc vượt qua dòng lũ sông Mã. Từ láy “đong đưa” vô cùng duyên
dáng đưa câu thơ trở nên có hồn hơn tình từ hơn. Ở những câu thơ tiếp theo, chân dung
người lính trên nền hùng vĩ, dữ dội lại càng thêm phi thường, bi tráng
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Đảo ngữ “Tây Tiến đoàn binh” để nhấn mạnh khí chất của đoàn quân trong hồi ức của
nhà thơ. Các anh vừa tắm vừa gội đầu, hãnh diện với mái tóc của mình lắm. Nhưng tại
sao lại là “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”? Vì các anh còn xông pha chiến trận còn
đánh giáp lá cà với bọn địch, các anh còn chịu rét mà rụng tóc. Hiện thực khắc nghiệt
buộc những người lính đứng dậy với một diện mạo mới chẳng còn dáng vẻ thư sinh của
chàng trai Hà thành nữa. “Quân xanh màu lá” cũng là một hình ảnh thực chỉ màu xanh
lá ngụy trang trong lối đánh du kích của quân đội ta và cũng là màu da xanh xao của
người lính chịu cơn sốt rét nhưng vẫn kiên cường. Bằng bút pháp tả thực Quang Dũng
đã vẽ ra một bức tranh trần trụi khốc liệt về chiến tranh nhưng sự trần trụi ấy lại đậm
tính lãng mạn.
Để tả hiện thực bi tráng thì đến tiếp theo là những câu thơ của một tâm hồn lãng mạn,
tài hoa.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hình ảnh “mắt trừng” vừa là cách nói cường điệu của bút pháp lãng mạn vừa là hoán
dụ. “mắt trừng” là cách thể hiện sự căm thù tức giận của người lính, họ có thể ngã
xuống nhưng niềm hi vọng đánh tan giặc thì không bao giờ dập tắt được. Ở nơi này
“dáng kiều thơm” chỉ dám xuất hiện trong đêm mơ, bộc tả nét đào hoa, đa tình của
những chàng trai Hà Thành. Nhờ những nét tiêu biểu mà Quang Dũng chọn lọc thật kỹ
lưỡng, đoạn thơ thứ ba đã khắc họa lên tượng đài tập thể của người lính Tây Tiến: vừa
bi tráng lại vừa lãng mạn, nét bút không ngơi nghỉ mà tạo ra khí thế hào hùng.
Hi sinh mất mát trong chiến tranh là điều hiển nhiên, cũng là một điều cấm kỵ trong
giới làm nghệ thuật lúc bấy giờ. Ấy vậy mà qua “Tây Tiến”, lý tưởng quên mình đó
không còn sự bi lụy, thê lương
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Có người nói cảm hứng của Quang Dũng đôi lúc sắp chìm vào trạng thái bi thương thì
ngay lập tức được nâng đỡ bởi đôi cánh lý tưởng lãng mạn. Từ láy “rải rác” ở đầu câu
thơ kết hợp với những từ Hán Việt như “biên cương” “viễn xứ” đã làm bức tranh nhuốm
màu tang thương, một sự thật nghiệt ngã và đau lòng. Đảo cấu trúc “chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh” khiến cho giọt nước mắt bi thương kia được hong khô hẳn. Giờ
đây chỉ còn tâm thế cầm chắc súng, hiên ngang sẵn sàng đấu tranh bảo vệ dân tộc.
Hình ảnh hoán dụ “đời xanh” đã gây ra sự quên mình vì tổ quốc của người lính ở độ tuổi
đẹp nhất họ cống hiến sức người thanh xuân của mình cho sự nghiệp của Tổ quốc.
Tính phi thường trong câu thơ còn nằm ngay ở cái chết
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nơi chiến trường trận mạc, những người lính nằm xuống cũng chẳng có tấm chiếu
manh để che đậy. Tác giả gọi áo người lính là “áo bào” để bày tỏ sự kính trọng. Hiện
thực tuy khắc nghiệt nhưng cái chết vẫn trang trọng qua vần thơ của Quang Dũng.
Nghệ thuật nói giảm “anh về đất” chỉ sự ra đi nhẹ nhàng và lý tưởng. Các anh chỉ trở về
đất mẹ sau một kiếp rong ruổi đầy bụi trần mà thôi. Hình ảnh nhân hóa “sông Mã gầm
lên” kết hợp từ Hán Việt “khúc độc hành” đã tạo ra một giọng thơ đang hào hùng bi ai
bỗng ngay lập tức trở nên bi tráng. Bút pháp lãng mạn kết hợp với cảm hứng bi tráng
đã giúp nhà thơ khắc họa chân thực cái chết của người lính vừa oanh liệt vừa hào
hùng. Chân dung người lính qua câu thơ đã thể hiện nét phi thường từ diện mạo, tâm
hồn cho đến khí phách. “Thơ là thơ đồng thời họa là nhạc là chạm khắc theo một cách
riêng” (Sóng Hồng).
Ở đoạn thơ cuối cùng, tác giả mang đến lời thơ gắn bó với Tây Tiến dẫu chỉ bằng hồi
ức:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Đoạn thơ mang nhiều ý nghĩa, song đảo ngữ “Tây Tiến người đi” để thấy tinh thần quyết
chiến của người lính, đã dứt áo ra đi thì chẳng trông mong ngày trở về. Từ láy “thăm
thẳm” khiến ta bất giác rùng mình, lòng can đảm và quyết tâm phải lớn đến mức nào
mới nói ra lời đanh thép như thế. Dẫu phải xa đơn vị nhưng một lần cùng Tây Tiến đi về
Sầm Nứa thì hồn cũng như tâm hồn, linh hồn nguyện đi theo họ, chẳng cần trở về.
Nói tóm lại, bài thơ là cảm hứng lãng mạn và âm điệu hào hùng, bi tráng. Từ ngữ hình
ảnh giàu chất thơ, chất nhạc và cách thể hiện tài hoa, tinh tế đã khắc họa thành công
hình tượng ng lính tây bắc
Tây Tiến là bài thơ xuất sắc, đưa “tầm vóc của nhà thơ sánh ngang tầm chiến lũy”, cho
thấy dấu ấn riêng của Quang Dũng quả thật vô cùng đắt giá. Cuộc đời Quang Dũng bình
dị như màn sương nhưng cốt cách và tinh thần ông lại như ngọn đuốc cháy trong đêm
sương ấy vậy. Hiếm có một bài thơ nào vừa bi tráng vừa lãng mạn đến như thế. Hãy bắt
đầu từ nỗi nhớ, cả đời người nghệ sĩ ấy đều dành cho hồi ức, hồi ức về những năm
tháng chẳng màng bão đạn, mưa giông. Cả đời là một khúc ca bi tráng, kiêu hùng…

You might also like