You are on page 1of 22

CHUYÊN ĐỀ NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN

Cảnh vật và cuộc sống của bất cứ vùng đất nào khi được chọn lựa để trở thành đối tượng tùy bút của
Nguyễn Tuân thì nó y hệt một hạt ngọc. Hạt ngọc này được một người nặng hồn với sông núi, nước non,
cộng với sự tài hoa, được mệnh danh là nhà kĩ thuật ngôn từ, những nhận xét tình tế mài dũa, tỉa tót.
Chúng trở thành những địa danh, những nơi chốn đáng tự hào của Tổ quốc, đất nước Việt Nam. Tùy bút
"Sông Đà" với "Người lái đò sông Đà" chính là một trong những hạt ngọc đó, một hạt ngọc Tây Bắc
giàu có về tài nguyên với sự bài trí tuyệt vời: núi sông diễm lệ, hoa trời, đá, thác. Đặc biệt với dòng Đà
giang: Tuôn dài như một áng tóc trữ tình... ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo với
chất vàng mười của nó là vẻ đẹp của con người Tây Bắc, đã thực sự gây những ấn tượng vừa thật thiết
tha với thật nhiều cảm xúc thấm mĩ.
Rõ ràng, với Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự hội nhập của một nhà văn đã từng "Vang bóng
một thời" với cách mạng, với thời đại. Ở đó, vẫn là một Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác có thiên hướng
thể hiện những ấn tượng đậm nét mãnh liệt, tô đậm cái phi thường nơi những cái bình thường, những
con người bình dị. Ở đó, vẫn là dáng vẻ của một nét bút cẩn thận đến chính xác từng từ, từng chữ, từng
câu. Ở đó, vẫn là một Nguyễn Tuân với sức liên tưởng đa dạng đến phong phú, sắc sảo.
Mở đầu tùy bút là hình ảnh Đà giang với những biến đổi, những tiết tấu có khi trái ngược. Địa hình,
sự bày biện của tạo hóa làm nên một sông Đà kì vĩ, đẹp với sự hung bạo mãnh liệt. Và một sông Đà lặng
lờ, hoang vắng, đẹp như một áng tóc trữ tỉnh, hồn nhiên, mơ mộng, cổ kính như một bài Đường thi. một
nỗi niềm cổ tích. Với Nguyền Tuân, khúc hát sông Đà là khúc hát dịu của bản tinh ca Tây Bắc đắm say
lòng người, vừa là khúc quân hành, điệu trầm hùng, sôi nổi của một nhịp hành quân, ở cả hai góc độ, vẻ
đẹp sông Đà đều được đôi mắt tinh tế, bàn tay điệu nghệ của Nguyễn Tuân tái hiện một cách sáng tạo,
đầy ngẫu hứng.
Khi nhìn sông Đà ở chặng dữ dội, hung bạo nhất của nó, ông khái quát một liên tưởng đầy hình ảnh,
bất ngờ gợi ấn tượng. Đó là một sông Đà có tâm địa của một bà mẹ kế. Để làm rõ tính chất này, ông đã
tập trung bút lực với rất nhiều những cách thức, những biện pháp liên tưởng nghệ thuật từ nhân hóa đến
ẩn dụ, từ cường điệu đến so ánh, ví von, lối mô tả gây ấn tượng để đặc tả thác, đá sông Đà. Thác, đá
sông Đà nhờ vậy hóa thân thành những chứng nhân sinh động nhất về một sông Đà hung bạo. Đầu tiên
là âm thanh của thác nước với thật nhiều những cung bậc. Khi thì có giọng oán trách, khi van xin, khi
khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi, khi bị chặn bởi những thác đá, thác nước rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuôn rừng lửa
cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng. Rõ ràng việc cá nhân như vậy không thể là việc nhận của một
người chỉ một sớm một chiều ở với sông Đà. Cảm nhận đầy màu sắc, âm điệu đó chỉ xuất phát, từ trái
tim yêu sông Đà tha thiết, đầy quý trọng của Nguyễn Tuân. Sinh thời, ông vốn thích ngao du tới sơn
cùng thủy tận. Sông Đà với đá thác của nó đã thực sự hấp dẫn ông. Ta hãy nghe ông tả núi sông Đà. Đó
quả là một bức tranh hoành tráng, đầy cung bậc: Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng
sông... Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó. Đá như bày thạch trận trên sông. Có
thể nói đây là đoạn thể hiện rõ nhất phong cách miêu tả của Nguyễn Tuân. Ông vận dụng tổng hợp các
tri thức từ quân sự đến võ thuật, từ cách nhìn của điện ảnh đến mĩ thuật, vẽ ra trước mắt ta một trận thủy
chiến giữa đá và thuyền đầy ấn tượng dữ dội và bội phần sinh động, lột tả được đỉnh điểm chất hung bạo
sông Đà. Chẳng hạn thạch trận dày bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo
hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ phong lẫm liệt... Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như
một cửa bể đem rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Đoạn văn thể hiện một trí tưởng tượng với
sức liên tưởng thật phong phú. Ở đây, tâm hồn ông như bay lượn bằng đôi cánh mênh mông của tưởng
tượng. Thế nhưng, dù vậy, nó không tùy tiện. Nó được bắt nguồn từ sự quan sát sự vật một cách chính
xác, tỉ mỉ, tường tận đến từng chi tiết. Sóng nước được liên tưởng thật phóng khoáng, thật sáng tạo bằng
hình ảnh: như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng, vào hông thuyền. Nước
xô thuyền thì giống như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thạch
la nạo bạt… Lối liên tưởng, so sánh, tưởng tượng đó mang dấu ấn Nguyễn Tuân đến không thể lẫn lộn.
Đó là cái rất Nguyễn Tuân thể hiện đến mức đậm trong hình ảnh một dòng sông Đà hung bạo.
Ở góc độ thứ hai, tác giả hình dung nó tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Giọng văn ở đoạn này êm
đềm, mượt mà như một bài Đường thi cổ điển. Tác giả gọi đó là sự gợi cảm cổ nhân. Lần lượt, từ nhiều
góc độ, ẩn hiện một dòng Đà giang đẹp đến mức hoang tưởng. Một sông Đà của mùa xuân cuồn cuộn
mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Lúc đó, sông có màu xanh ngọc bích (chứ không phải màu xanh canh
hến của sông Gâm, sông Lô). Sang thu, sông Đà lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội
(...) bầm đi vì rượu bữa.
Đặc biệt, trong cảm nhận thẩm mĩ của ông, sông Đà bộc lộ nét trữ tình sâu lắng nhất là vẻ yên lặng
đến hoang sơ của dòng sông, vẻ đẹp hoang dại, cổ tích đó được nhân lên bằng chất thơ, trí tưởng tượng
của Nguyễn Tuân. Bằng niềm thương vô hạn của một trái tim nghệ sĩ và trí tuệ của một nhà khảo cổ
học, Nguyễn Tuân nửa như muốn lưu giữ lại tất cả những gì gọi là nguyên thủy của dòng sông lại nửa
muốn có một đổi thay văn minh nào đó cho vùng đồi núi hoang sơ này.
Ta hãy nghe đoạn văn có thể nói là hay nhất, mẫu mực của một người suốt đời tìm kiếm cái đẹp.
Đoạn văn như ngọt mềm, tan trong đầu lưỡi của những người cảm nhận. Nếu để ý kĩ sẽ thấy dù là văn
xuôi, Nguyễn Tuân cũng rất chú ý đến cấu trúc bằng - trắc để tăng nhạc điệu, tạo cảm giác mềm mại để
bộc lộ chất thơ, chất trữ tình của sông Đà: Thuyền trôi trên sông Đà, sáu thanh bằng cộng tới từ "trôi"
khiến cho sông như tăng thêm vẻ hoang dại, êm đềm đến sương khói. Thuyền tôi trôi trên sông Đà.
Cảnh ven sông ở đây lặng lờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế
mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô. Mới nhú nên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một
bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những non búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày
xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúplê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt
Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn
tôi lừ lừ trôi trên mũi đò. Hươu vểnh tai nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bàng cái tiếng nói
riêng của lành: Hỡi ông khách sông Đà, co phải ông vừa nghe thấy một tiếng còi sương. Ví bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một niềm cổ tích ngày xưa… là những cách ví đầy sáng
tạo của một bậc kĩ thuật ngôn từ đầy dụng công trong bút pháp. Cảm nhận như vậy, trước kia cũng là
cảm nhận của người thơ một lần đến với sông Đà. Vâng! Đó là Tản Đà. Và trong cái dòng biệt li tuôn
dòng lệ kia ở "Thề non nước" có nét nào của sông Đà một lần hội ngộ không?
“Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình”
Trong bối cảnh ấy, với tấm lòng biệt nhỡn liên tài, Nguyễn Tuân đã dựng lên trên sông Đà một tượng
đài kì vĩ đến thách thức hóa công. Với bút pháp của mình, trên dòng sông có khi dữ dội đến tàn bạo,
khốc liệt, hiện lên sừng sững dáng vẻ của người lái đò Lai Châu. Bằng chính bàn tay khối óc và trái tim,
những vết sẹo được Nguyễn Tuân liên tưởng là những tấm huy chương chiến công, người lái đò đã trở
thành những người nghệ sĩ tài hoa. Người nghệ sĩ ấy đã chấm những nét lỗi lạc nhất của mình trên bức
tranh hoành tráng sông Đà và dưới con mắt của người luôn muốn phát hiện vẻ đẹp, chất tài nghệ thuật
nơi những cuộc đời đôi khi bình dị đến bình thường. Nguyễn Tuân đã mô tả cuộc vượt thác của người
lái đò như một là một viên dũng tướng trận tiền, lao vào sinh tử bát quái của trận đồ đá thác, dữ dội,
khốc liệt. Ở đây, ta gặp lại Nguyễn Tuân ở "Vang bóng một thời", "Chùa Đàn", ... Rõ ràng, chủ nghĩa
duy mĩ của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một kiểu duy mĩ không biên giới, không giai
cấp. Nguyễn Tuân nhận ra ở người đao phủ nghệ thuật chém treo ngành trác việt. Lại nhận ra bút lực,
thiên lương nơi tù tội. Chiêu tuyết lãng mạn cho một người phải hành khất vì thú uống trà. Cái ngón bút
chì ma quái của một gã cướp ngang tàng... và với cảm hứng ngợi ca người lái đò Lai Châu, đây cũng là
dịp để tài hoa của Nguyễn Tuân trổ những đường khắc chạm. Dù vậy, điểm đáng quý ở đây, Nguyễn
Tuân không rơi vào kiểu duy mĩ có khi hơi cực đoan, chói tai trước Cách mạng. Hành trình ấy đã có một
lối rẽ để hòa nhập với thời đại. Qua cuộc đời của người lái đò vô danh nhưng nghệ sĩ, tài hoa trên thác
đá sông Đà, Nguyễn Tuân muốn khẳng định rằng: chủ nghĩa anh hùng không chỉ có ở chiến trường. Nó
ẩn hiện trong mỗi người, ở cuộc sống đời thường mà vì mưu sinh họ phải đối mặt đàm tâm với thiên
nhiên. Chủ nghĩa duy mĩ đó của Nguyễn Tuân sau Cách mạng chính là một cách nói khác, cách nói của
Nguyễn Tuân về một thứ chủ nghĩa anh hùng cách mạng đang nở rộ từng ngày, từng giờ trên từng thớ
đất Việt Nam. Đó là chất vàng mười nuôi dưỡng và sản sinh ra không biết bao người đổ mồ hôi, nước
mắt vì Tố quốc này.
Tônxtôi có nói rằng: Khi một nhà văn mới xuất hiện, câu đầu tiên mà tôi hỏi anh ta là, anh đã mang
được gì mới cho văn học. Nguyễn Tuân không phải là một nhà văn mới, nhưng những đóng góp của ông
cho nền văn học cách mạng còn non trẻ là những đóng góp của kẻ mở đường. Ông đã đặt niềm sáng cho
một dòng tùy bút mà sau nay sẽ tuôn chảy bất tận - dòng tùy bút mà cảm hứng trữ tình chủ yếu là ngợi
ca đất nước, con người Việt Nam. Và chính ông với Sông Đà, đã chứng minh rằng, có một vẻ đẹp chính
ở những nơi những con người giản dị, bình tâm. Có một thứ chủ nghĩa anh hùng nơi những cuộc sống
đời thường. Họ góp phần tạo nên vẻ hoành tráng, sự đa dạng của nghĩa anh hùng Việt Nam thời đại mới,
nói như Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca "Mặt đường khát vọng":
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
PHẦN THAM KHẢO
1. Sinh thời, nhà văn Nga Anton Pavlovich Chekhov đã từng nói rằng: “Nếu tác giả không có lối nói
riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả. Nếu anh ta không có giọng riêng, anh ta khó
trở thành nhà văn thực thụ”. Bởi cũng như chẳng có dấu vân tay ai là giống nhau ở trên đời, người nghệ
sĩ văn chương phải khắc được cho chính mình một dấu ấn riêng trong từng câu chữ [...].
2. Bằng con mắt tinh đời cùng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Tuân đã nhìn thấy ở thiên nhiên Tây Bắc một
vẻ đẹp nguyên sơ tràn đầy nhựa sống cũng như nhìn thấy vẻ đẹp lao động của ông lái đò với một đôi
“tay lái ra hoa”. Mười năm xuôi ngược Đà Giang, ông lái đò đã ghi nhớ chuẩn xác vị trí từng dòng nước,
luồng lạch, từng cửa tử, cửa sinh: “Ông đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc
quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Từng chi tiết dù cho là nhỏ nhất cũng đều được
ông “nhớ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, thậm chí nếu
như ví sông Đà “như một thiên anh hùng ca” thì bản hùng ca ấy ông đò đã “thuộc đến cả những cái dấu
chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Dưới ngòi bút đậm đà tinh túy của Nguyễn Tuân,
ông lái đò không chỉ hiện lên với vẻ ngoài vững chãi, phong sương mà còn là bức chân dung đáng quý
của một người lao động cần mẫn. Bởi ông đã dành cuộc đời mình gắn liền với Đà Giang, ông hiểu sông
Đà và sông Đà như in tạc vào tâm hồn lẫn ngoại hình ông. Hai hình tượng ấy song hành với nhau, đan
xen nhau trong lối miêu tả đặc sắc và ngôn từ sáng tạo đầy chất duy mỹ của Nguyễn Tuân. Để rồi từ đó
sông Đà nâng đỡ và làm nổi bật lên hình tượng ông lái đò - người chế ngự thiên nhiên hung bạo, cũng là
hình tượng con người của một đất nước đang hướng về phía ánh sáng, phồn vinh.
[...]
Và ông lái đò đã đi vào trang giấy như thế, như một huyền thoại về “chất vàng mười đã qua thử lửa”
không chỉ đẹp bởi tài năng, bản lĩnh mà còn đẹp bởi một tâm hồn trong lành, giản dị, để lại cho thế hệ
mai sau một bức chân dung chân thực nhất về hành trình đi lên xã hội chủ nghĩa dẫu dài rộng nhưng
vững chắc nhờ có những người công dân thầm lặng tận tâm, hết lòng. Dù cho thời gian có phủ thêm lên
tác phẩm lớp bụi tháng năm, những trang hoa, tờ hoa ấy sẽ vẫn còn mãi, trường tồn, bất diệt cùng với
non sông Việt Nam.
3. Giữa những ngày đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Tuân đã “góp một giai điệu ấm áp và
hào sảng vào một thời khó quên trong lịch sử văn học thế kỷ XX”. Với hình tượng Sông Đà hung bạo và
trữ tình kiêu hãnh in hằn vào trang văn, người ta như được thấy một công trình kì vĩ bằng chất liệu ngôn
từ. Từ con hút nước hiểm nguy muôn trùng trong thiên nhiên Tây Bắc, đến “cái hút nước” của tập đoàn
động từ lũ lượt ùn ứ kéo vào thiên tùy bút như xoáy mạnh vào tâm can độc giả. Từ sự mềm mại dịu dàng
của dòng sông xuôi về hạ lưu với sự đổi thay tính cách đến ngỡ ngàng, đến những lắng đọng của thanh
âm “lặng tờ” trong trẻo và hoang vu, con hươu thơ ngộ, áng cỏ sương, những tiếng còi tàu trong tưởng
tượng, người trên sông thả chiếc thuyền lướt nhẹ như êm nhìn ngắm lại một đất nước sau bao thăng
trầm, tất cả “làm nên một nốt nhấn đặc sắc trên cả hai chiều hiện tại và quá khứ của một dân tộc đang
hào hứng đi vào một sự nghiệp dựng xây, sau một lịch sử có quá nhiều hy sinh, nhọc nhằn, gian khổ…”.
Và, có thể nói: “Trên hành trình ngược Tây Bắc lần này, Nguyễn Tuân không còn là một lữ khách ham
vui, mà tự nhận mình là một người đi tìm vàng, tìm “cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả
những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa,
tươi vui và vững bền”
4. Dẫu Sông Đà có làm khó lòng người mới mẻ, nhưng kì thực, nó lại đượm sâu đến vô cùng, tựa như
câu hát “Tiếng gọi sông Đà” tha thiết bâng khuâng: “Anh lên đây tới quê em/ Thấy hồ men triền núi/
Gặp em đâu con sông xưa/ Hình em soi bóng hồ/ Khoang cá long lanh, thuyền vui cập bến…”, Sông Đà
đã đi vào lòng cố nhân như thế.
5. Ông lái đò trên sông Đà - người chế ngự thiên nhiên hung bạo, cũng là hình tượng con người của
một đất nước đang hướng về phía ánh sáng, phồn vinh.
MỞ BÀI THAM KHẢO
DÒNG SÔNG TRỮ TÌNH
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà … trên dòng trên”.
Hình ảnh những dòng sông chảy trôi, tuôn dài trong mạch nguồn văn chương dường như đã trở thành
biểu tượng thiên nhiên vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa thân thương, quen thuộc trong nhiều thể loại văn học
nghệ thuật xưa và nay. Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ, mỗi dòng sông lại gắn liền với những vẻ đẹp
khác nhau. Đôi lúc dòng sông tựa như dòng chảy của cuộc đời, có khi là tính nữ dịu dàng, uyển chuyển
hay cũng có thể chứa đựng một thứ sức mạnh tiềm ẩn, vô tận nào đó. Ta từng bắt gặp con sông Vàm Cỏ
ngọt ngào như dòng sữa mẹ trong thơ Hoài Vũ, con sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng trong kháng
chiến trường kì” trong thơ Hoàng Cầm, hay con sông Hương man dại, phóng khoáng như những cô gái
Di-gan trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhưng trong số đó không thể không nhắc tới Đà giang
nơi núi rừng Tây Bắc của Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà”. Hòa mình vào tác phẩm, ta cùng
tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi thả hồn thuyền trôi xuôi trong một đoạn tả sông Đà trữ tình:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên”.
Nếu ví bút kí “Người lái đò sông Đà” như một bản trường ca với chi chít những phím ngân mãnh liệt,
réo rắt thì đoạn văn trên là khúc ca êm ái nhất. Không chỉ vậy, đoạn trích còn như một bài thơ, với
những giọng điệu nhịp nhàng, mềm mại. Ở những giai đoạn trên, ta bắt gặp một con thuyền chiến của
người lái đò, còn đây là một con thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ. Nhưng phải chăng vì cả ông
lái đò và tác giả đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình nên cả hai con thuyền đều là thuyền
thơ, chỉ khác là một tứ thơ dữ dội, khốc liệt và một tứ thơ êm đềm, dịu dàng. Hòa vào tứ thơ ấy, không
gian liên tưởng của người đọc cứ mở ra mãi nhờ những cách so sánh.
Các nhà văn khác thường so sánh cụ thể hóa sự vật còn Nguyễn Tuân, ông so sánh để làm vạn vật trở
nên kích thích, mở rộng trí tưởng tượng. Hãy nghe cách so sánh của ông: “Bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “bờ
sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “bờ sông” gợi đến
bao cái vô hình “bờ tiền sử”, “nổi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu trên nghe hoang vắng, xa xăm. Câu dưới
òa ập, xôn xao cảm xúc.
Tác giả nhắc nhở tuổi thơ, ý văn tiếp nối với đoạn văn trên khi tả Sông Đà “loang loáng như trẻ con
nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi thơ như khoảng thời gian thần tiên trong hồn
người. Và đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng
nhận của việc an cư lạc nghiệp, của biết bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Ở trên, Nguyễn Tuân đã
nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử, trong ý thức hướng về truyền thống khi nói cái “lặng tờ” của cảnh
sông. Dường như dòng sông lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử của mấy trăm năm cộng lại.
Tiếp nối sức mạnh quá khứ là hình ảnh bờ sông – bờ tiền sử. Và khi nhà văn “thèm được giật mình vì
tiếng còn xe lửa” thì tương lai đã náo nức reo vui. Cứ thế văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới
này đến thế giới khác một cách uyển chuyển khéo léo. Và phải chăng, Nguyễn Tuân đã viết văn đúng
như quan niệm về thơ của ông “từ một cái hữu hình nó thức dậy được những cái vô hình bao la, từ một
cái điểm nhất định mà nó mở ra được một cái diện không gian thời gian”, khi so sánh bờ sông như vậy?
Ngoài ra, ông còn đem vật thể so sánh với tình cảm, cảm xúc trong hình ảnh” một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa hay như “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương… Con sông như đang lắng nghe…”
Nguyễn Tuân đã nhập thân vào dòng sông để lắng nghe và xúc động, lòng dâng đầy chất thơ. Mơ mộng
thay khi nối tiếp những vần thơ bập bềnh sông nước của Tản Đà là những cảm xúc rất thơ như thế! Thế
giới vật chất, thế giới tinh thần xa xăm cứ thế mà nối qua những liên tưởng của nhà văn. Con sông đang
“nhớ thương”, đang “lắng nghe” hay chính nhà văn đang thương nhớ, lắng nghe những tâm tình của
cuộc sống?
Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện ở cách viết văn như thơ của Nguyễn Tuân. Câu mở đoạn
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà” êm êm những thanh bằng như một câu lục trong thơ lục bát. Vần lưng
“tôi trôi” và điệp âm “t” gợi hình ảnh con thuyền nổi bênh trên mặt sông. Những thanh ngang nằm giữa
hai thanh bằng hai đầu câu văn như tạo một khoảng ngưng đọng cho cảm xúc. Thuyền trôi mà như
không trôi, như tình cảm cứ đọng mãi, chất chứa trong thuyền. Và cụm từ “thuyền tôi trôi” ấy cứ như
một điệp khúc bằng lặng trong suốt cả đoạn văn. Đây là một kiểu trùng rất đặc trưng của thơ hay cũng là
sự điệp trùng của cảm xúc.
“Thuyền tôi trôi qua một nương ngô…”, “thuyền tôi trôi trên dải sông Đà…” tưởng như thuyền hồn
người đọc cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư khởi toàn thanh bằng nhẹ bỗng như thế. Hồn người như tan
ra hòa cùng cảnh sắc. Con thuyền cũng trôi trên một dòng sông cũng lững lờ trôi theo những câu văn
ngắn, chảy dài, chảy dài theo những câu văn dài. Có phải câu văn cứ khi dài, khi ngắn linh hoạt như
dòng chảy lúc nhanh lúc chậm của con sông?
Câu “Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” xao động với những thanh trắc nhỏ nhẹ
cố như khép lại nén lại cảm xúc đang dân trào. Ngoài câu văn mở đầu với sáu thanh bằng còn có vế câu
nhiều thanh bằng nữa như “chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên…”. Những thanh bằng ấy như cố lắng
xuống để ghi nhận trong khoảnh khắc ánh nhìn của chú nai tơ. Và hai từ láy “chăm chăm”, “lừ lừ” chỉ
trong một vế câu ngắn như đong đầy cảm xúc. Ngoài ra còn có những từ láy khác như “lững lờ”, xa xôi,
êm êm” đều gợi cảm, tạo nhạc. Bên cạnh một thứ nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn là một điệu nhạc tâm hồn
cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ trở đầy tâm trạng.
Chất thơ mơ mộng còn bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất: “lá ngô non
đầu mùa”, nõn búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ ngộ, đàn cá dâm xanh. Cảnh
sắc thơ như từ một thế giới cổ tích nào đấy hiện về, vừa chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa xăm, bảng
lảng một lớp sương huyền hồ của “cỏ gianh đẫm sương đêm”, “áng cỏ sương” và cả “tiếng còi sương”.
Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống.
Những câu văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một ý thơ của Xuân
Diệu “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”. Có thể hình dung đây là một buổi sớm mùa xuân tinh khôi,
mùa xuân của cuộc sống và mùa xuân của lòng người. Mỗi câu văn “đẫm sương” ấy là một nét vẽ,
tưởng như hòa vào nhau song tách bạch rất rõ rang. Một màn sương cứ rải nhẹ trong tâm trí độc giả, như
nhắc nhở bao huyền thoại xa xưa, bao không gian cổ tích diễm ảo. Ta như cùng Nguyễn Tuân ngây ngất
đắm say những nét diệu kỳ nhất của tạo hóa. Có một sự sống của mình trong ba thanh trắc “nhú”,
“mấy”, “lá”, có một cái gì mềm mại trong “đầu nhung”. Và ấn tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe “ngọn cỏ”,
“sóng cỏ” nhưng “búp cỏ”, “áng cỏ sương” thì có lẽ chưa bao giờ.
Nếu thi hào dân tộc Nguyễn Du tả ngọn cỏ như một minh chứng cho sự đồng điệu đến kỳ lạ của thiên
nhiên đối với con người thì Nguyễn Tuân nay đã đưa ngọn cỏ lên khía cạnh thơ nhất, đẹp nhất. Màu
xanh của bờ đồng cỏ mênh mông đã nhuộm non cả đoạn văn - bài thơ của Nguyễn Tuân.
Bài thơ cuối ấy còn đạt đến chất thơ tuyệt vời bằng nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh. Khung cảnh
lặng tờ đến nỗi tác giả cảm nhận được cả tiếng cá quẫy. “Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt
biến”. Phải chăng đó cũng là khoảng lặng trong tâm hồn của Nguyễn Tuân để hứng lấy những âm thanh
nên thơ của sự sống, một sự sống trỗi mình trong lá ngô non, búp cỏ non mạnh mẽ trong tiếng đập nước
của cá?
Đàn hươu hiện ra chạy mất, phải chăng trong đoạn văn mơ mộng của Nguyễn Tuân, mọi vật đều trở
nên hiền lành đến mức thơ ngây nhất? Từ một cái diện mênh mang một điệp khúc xanh của ngô non,
áng cỏ, nhà văn điểm vào sắc trắng của bụng cá. Nghệ thuật hội họa cổ điển đã được vận dụng, khám
phá mọi vẻ thơ ngây của cuộc sống.
Trong không gian u huyền ấy bỗng tác giả “thèm được giật mình vì một tiếng còi sương”. Đặt vào
hoàn cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu, câu văn như một tiếng reo náo nức
của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc (1958 – 1960). Khi ấy, Tố Hữu đã cho ra đời những vần
thơ đẹp.
“Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy những con đường ca hát
Qua công trường mới dựng mái nhà son.”
Tiếng còi sương là ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất thực tế của
nhà văn. Thèm được nghe một tiếng còi xa lửa đã quý, như Chế Lan Viên.
Mắt ta them mái ngói đỏ trăm ga.
(“Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên).
Nhưng “thèm giật mình” thì lại càng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khao khát cái cảm giác khi được
nghe tiếng còi Tây Bắc mở mang. Ta đã từng trân trọng cái giật mình vì phẩm giá “thương mình xót xa”
của Kiều, cảm thông cái giật mình hoài nhớ của Tú Xương khi “vẳng nghe tiếng ếch” thì nay ta lại nâng
niu thêm một cái giật mình ước tương lai của tác giả sông Đà. Và như thế đoạn văn của sông Đà của
Nguyễn Tuân đã là văn chương mới của một thời đại mới.
Trước Cách mạng, ông đã từng “xê dịch” để tìm những cảm giác mới lạ, để trốn tránh trách nhiệm thì
sau ngày đổi đời của dân tộc, ông lại đi để tìm hình ảnh quê hương và nhận chân trách nhiệm của mình.
Thưởng ngoạn nhưng không quên vì người, vì cuộc sống mới, quả thật văn Nguyễn Tuân đã “hợp lưu”
với lòng người đọc dễ dàng nhờ những suy nghĩ như thế. Hòa cùng tiếng hát của con tàu thơ Chế Lan
Viên, một tiếng còi sương của Nguyễn Tuân, mái nhà sơn của Tố Hữu, “Ngói mới” của Xuân Diệu… đã
góp thành sắc mới của thơ văn phản ánh màu mới của quê hương đất nước. Cuộc sống mới đã ngấm vào
cảnh vật, và con hươu thơ như cũng lắng nghe tiếng còi sương. Cảnh vật có màu sắc, âm thanh dù là
trong tâm tưởng.
Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất thơ: “Dải sông Đà bọt nước lên đênh.
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê hương
sông Đà, sống hết lòng với sông Đà. Câu thơ ấy hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân
đã “đề thơ” vào sóng nước Đà giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thế có hồi, coi sông Đà như
một bạn đồng hành? Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn, bỗng dậy lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt
của tình người, tình yêu. Tình đã nồng cho nên những câu văn tiếp theo chất chứa cảm xúc “nhớ
thương”, lắng nghe những giọng nói êm êm”.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của sông núi, và có
một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương đã làm cho thiên nhiên đẹp lên
bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân
sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc đi tới trong cuộc sống hôm nay.

MÀU XANH NON CỦA SỰ SỐNG TRONG TÙY BÚT NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
“Một điệu nhạc tâm hồn cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ chở đầy tâm trạng”.
Chất thơ mơ mộng bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất: “lá ngô non đầu
mùa”, nõn búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ ngộ, đàn cá dâm xanh. Cảnh sắc
thơ như từ một thế giới cổ tích nào đấy hiện về, vừa chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa xăm, bảng lảng
một lớp sương huyền hồ của “cỏ gianh đẫm sương đêm”, “áng cỏ sương” và cả “tiếng còi sương”.
Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống.
Những câu văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một ý thơ của Xuân
Diệu “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”. Có thể hình dung đây là một buổi sớm mùa xuân tinh khôi,
mùa xuân của cuộc sống và mùa xuân của lòng người. Mỗi câu văn “đẫm sương” ấy là một nét vẽ,
tưởng như hòa vào nhau song tách bạch rất rõ rang. Một màn sương cứ rải nhẹ trong tâm trí độc giả, như
nhắc nhở bao huyền thoại xa xưa, bao không gian cổ tích diễm ảo. Ta như cùng Nguyễn Tuân ngây ngất
đắm say những nét diệu kỳ nhất của tạo hóa. Có một sự sống cựa mình trong ba thanh trắc “nhú”,
“mấy”, “ lá”, có một cái gì mềm mại trong “đầu nhung”. Và ấn tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe “ngọn cỏ”,
“sóng cỏ” nhưng “búp cỏ”, “áng cỏ sương” thì có lẽ chưa bao giờ.
Nếu thi hào dân tộc Nguyễn Du tả ngọn cỏ như một minh chứng cho sự đồng điệu đến kỳ lạ của thiên
nhiên đối với con người thì Nguyễn Tuân nay đã đưa ngọn cỏ lên khía cạnh thơ nhất, đẹp nhất. Màu
xanh của bờ đồng cỏ mênh mông đã nhuộm non cả đoạn văn - một “bài thơ” của Nguyễn Tuân - một
“bài thơ” của cuộc đời.

MỘT THIÊN TUỲ BÚT CÓ THẦN


Sông Đà - một trận đồ tự nhiên hùng vĩ, được xây dựng bằng hai chất liệu nước và đá, lỏng và cứng,
cuồn cuộn tuôn dài, nhấp nhô ngang dọc mà tạo hoá đã ban cho vùng Tây Bắc nước Nam ta. Công trình
tự nhiên ấy đã và đang biến đổi theo thời gian. Còn một công trình Sông Đà nghệ thuật được xây dựng
bằng ngôn ngữ mà Nguyễn Tuân đã để lại cho lịch sử văn học Việt Nam, để lại cho đời trên trang tuỳ
bút thì mãi mãi vẫn còn nguyên vẹn, vẹn nguyên.
Đọc Người lái đò Sông Đà, ta như gặp được một cây đại bút "thông tạo hoá" và một ông đò cũng
"thấu càn khôn". Cả hai đều thấu hiểu sự ảo diệu của tự nhiên, đều nắm vững quy luật xung - hợp, sinh -
khắc chế hoá lẫn nhau của vũ trụ. Trên trang tuỳ bút, Sông Đà vừa cất giấu, vừa phô bày vẻ đẹp tuyệt
mỹ của tạo hoá - một vẻ đẹp vừa hung hãn, như hoang dại lại như tình tứ mộng mơ. Ông đò Lai Châu
vừa là người lao động lực lưỡng, gân guốc, vừa là nghệ sĩ tài ba. Nhiều lúc ta như thấy Nguyễn Tuân
hoá thân vào ông đò Lai Châu. Tay lái của ông đò cảm đâu là ứng đó, ứng đâu là hành đó không sớm
cũng không muộn, qua bao thác ghềnh vẫn cứ bình an. Phải chăng trời đã cho ông tuệ nhãn? Thân hình
ông khoẻ mạnh "gọn quánh như chất sừng, chất mun". Ông còn là nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt
thác qua ghềnh. Chất nghệ sĩ trong ông là ở cánh tay chèo lái là ở đôi chân giữ thế tạo đà cứ như là vũ
điệu vừa nhịp nhàng vừa ăn ý với bản nhạc giao hưởng của nước sông, của đá núi, của gió ngàn. Nhưng
cái chính của chất nghệ sĩ trong ông là lòng yêu đời, yêu nghề, say mê khám phá sự huyền diệu cứ bay
lên với đôi cánh lãng mạn.
Miêu tả ông lái đò Lai Châu, Nguyễn Tuân muốn gửi đến người đọc những thông điệp gì? Cuộc sống
không phải lúc nào cũng như khúc sông phẳng lặng mà có lúc, nhiều lúc thác ghềnh. Sống là phải biết
chấp nhận, phải bơi lội, chèo lái để vượt qua thác, băng qua ghềnh chứ không phải là kéo thuyền lên bờ
để ngắm nhìn để chờ đợi? Những đoạn văn Nguyễn Tuân miêu tả ghềnh thác ở Sông Đà làm cho người
đọc vừa sợ lại vừa yêu, vừa muốn lánh xa lại vừa muốn lăn vào. Đây là ghềnh Hát Loóng dài hàng cây
số: "Nước xô đá đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ xuýt". Và đây nữa: ".... còn xa lắm mới đến cái thác dưới nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lên,
réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu
khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa." "Sóng thác đã đánh đến đòn độc hiểm
nhất.... Mặt sông trong tích tắc loé sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào
đầu sóng... Ông đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của
lũ đá nơi ải nước hiểm trở này". Nguyễn Tuân vừa biết dùng người, viết câu hay, tả cảnh hợp, tả tình sâu
nên cuốn hút người đọc và tôn vinh vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên. Văn của Nguyễn Tuân đúng
là như thế vừa "chân nhân" vừa "chân trí" - một thứ văn ngang dọc. Tai nghe tiếng nước, mắt ngắm xoáy
sâu, câu văn đã dứt mà âm thanh vẫn còn vang vọng, khí văn vẫn còn phảng phất như khói mây. Vượt
qua 73 thác ghềnh, ông đò Lai Châu vẫn đĩnh ngộ thông tuệ, không để luỵ tâm, không làm tổn trí. Đi
thuyền không sợ thác ghềnh vừa là dũng lược vừa là mưu lược của Nguyễn Tuân và ông đò Lai Châu.
Nguyễn Tuân quan sát ông đò chèo lái con thuyền then vuốt đuôi én, giống như thầy trò Khổng Tử xem
người đàn ông bơi ở Lã Lương.
Nguyễn Tuân cùng với người lái đò Sông Đà vừa tìm kiếm vừa khám phá, vừa chinh phục lại vừa tôn
vinh. "Thạch trận" trên Sông Đà. Cách xa Nguyễn Tuân, cách xa chúng ta mấy trăm năm về trước, Nhà
Bác học, Nhà Danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn cũng đã viết về sông Đà. Bên cạnh những ghềnh thác
hiểm trở, Lê Quý Đôn còn cho ta biết nhiều tư liệu kỳ thú: "Hạ lưu Vạn bờ... có núi Ngải trước mặt
trông ra sông Đà, đối ngạn là xứ Ngòi Lạt, trên núi có cây Ngải Tiên. Mùa xuân hoa rụng xuống nước,
cá uống nước này liền vượt được Long Môn hoá rồng... sông Đà nước sông trong suốt, chảy xuống các
động Phà Tây, Hảo Tề thuộc châu Quỳnh Nha... Đường sông thác ghềnh hiểm trở, gồm 83 thác có tiếng
mà Vạn bờ là thác nguy hiểm thứ nhất" (Kiến văn tiểu lục - trang 345)
Nguyễn Tuân đã không còn để pha màu, chế bản, tạo hình tôn vinh những mẫu đẹp cho đời đã bao
nhiêu năm nay nhưng trên những trang viết chứa học thuật, tụ tinh hoa, phong độ Nguyễn Tuân vẫn như
núi đứng, tinh thần Nguyễn Tuân vẫn như mây bay. Những bản nhạc của nước của đá, của thác của
ghềnh, người đọc, người học lắng nghe để mà nghĩ tới cái âm vang sâu thẳm nơi cõi lòng tác giả? Ghềnh
sông dài, thác sông lớn, xoáy nước sâu đã khơi dậy những gì tiềm ẩn nơi sâu kín nhất, u linh nhất của tác
giả và ông đò Lai Châu. Ghềnh và thác trong tự nhiên cũng là ghềnh và thác trong cuộc sống đã bung nở
trong nhãn tuệ của Nguyễn Tuân để Nguyễn Tuân gửi tới người đọc, người học qua thiên tuỳ bút có
thần.

You might also like