Professional Documents
Culture Documents
A. Mở bài:
Kể cả trước đây và mãi sau này, những người nghệ sĩ cứ hát mãi khúc ca về
những dòng sông. Hoàng Cầm hát về sông Đuống “ nghiêng nghiêng trong kháng
chiến trường kỳ”, Văn Cao hát về sông Lô với điệu hồn hùng tráng, Hoàng Phủ
Ngọc Tường lại đưa sông Hương vào những điệu hồn êm dịu. Một nhà văn độc đáo
như Nguyễn Tuân cũng hát – hát về Sông Đà – bằng tất cả sự hiểu biết, tình cảm,
tâm tư. Tùy bút Sông Đà là kết quả chuyến đi thực tế năm 1958 của nhà văn
Nguyễn Tuân, gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ phác thảo. Nội dung chủ yếu là ca
ngợi cảnh vật và con người Tây Bắc, đặc biệt nhà văn đã khám phá “chất vàng
mười” đã qua thử lửa của vùng đất này. Tùy bút Sông Đà tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám: uyên bác, tài hoa,
tìm cái đẹp từ cuộc sống hiện tại của nhân dân lao động. Sự gặp gỡ kì thú giữa một dòng sông
độc nhất vô nhị và 1 phong cách nghệ thuật có 1 k 2 trong nền vh VN hiện đại đã làm sống dậy
con Sông Đà bạo liệt, trữ tình và NLDSD vừa anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ
B. Thân bài
I. Lời đề từ
1. Đề từ 1
“ đẹp vậy thay tiếng hát trên dông sông”
- Câu thơ đã cho thấy nguồn cảm hứng thôi thúc Nguyễn Tuân viết thiên tùy bút này là cảm
hứng về cái đẹp- cái đẹp thiên nhiên và c/s con ng
- Hình ảnh dòng sông gắn liền với chủ nghĩa xê dịch
- tiếng hát trên dòng sông là âm thanh cất lên từ c/s lao động của con ng trên sông nước. Điều
này cho thấy bước chuyển trong phong cách NGHỆ THUẬT của Nguyễn Tuân sau CM: tìm
cái đẹp trong c/s lao động đời thường ở những con ng bth, giản dị
Đề từ vừa cho thấy nét độc đáo trong phong cách NGHỆ THUẬT của Nguyễn Tuân sau CM vừa
cho thấy vẻ đẹp đầy chất thơ của Sông Đà
2. Đề từ 2
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
- Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông
Chỉ có Sông Đà chảy ngược lên hướng bắc
- Lời thơ nói về hướng chảy độc đáo khác thường của Sông Đà cho thấy một dòng sông ương
ngạch, bướng bỉnh khác thường
- Lời đề từ cho thấy:
+ sự dữ dội hung bạo của Sông Đà
+ nét đặc trưng trong phong cách NGHỆ THUẬT Nguyễn Tuân: hướng tới những gì lớn lao
kì vĩ, vẻ đẹp vừa dị biệt, vừa phi thường
+ nhà văn liên tưởng: “đứng bên này bờ có thể nhẹ tay ném hòn đá sang bên kia vách. Nó
hẹp đến nỗi con nai, con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bên kia” . lối văn gây ấn tượng
mạnh mẽ về thị giác , lại có chút hóm hỉnh đến mức 1 nhà nghiên cứu cho rằng: tưởng như
lòng sông chỉ còn là 1 giải yếm trong ca dao
+ nhà văn tiếp tục tấn công vào những cảm giác khác của người đọc: lạnh trong mùa hè, mỏi
cổ và dợn ngợp khi phải chiếm lĩnh độ cao ở 1 kgian hẹp: “ ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh , cảm thấy mình như đang đứng ở hè 1 cái ngõ
mà ngông vọng lên 1 khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt dèn
điện”
Tiểu kết: miêu tả những bờ đá vách đá Sông Đà , Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình ảnh của 1
dòng sông heo hút đến rợn ngợp
b. Ghềnh với thác
- Đặc tả ghềnh thác loong
+dài hàng cây số( nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) tạo thanh âm hưởng đăc biệt, biến
Sông Đà thành 1 bản hợp xướng âm thanh của nước, đá, sóng, gió trong trạng thái ầm ầm đổ
sập lao tới. câu chữ của Nguyễn Tuân cũng như xô đuổi liên tiếp trong cái âm hưởng cuồn
cuộn gìn ghè của gió Sông Đà.
+ con sông lúc nào cũng như đòi nợ suýt, hình ảnh NGHỆ THUẬT nhân hóa làm sống dậy
dòng Sông Đà như 1 tên lưu manh, kẻ cướp.
+ lại gần nó bỗng “ rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu, rừng trẻ lứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng”
+ một loạt những đt mạnh : rống, gầm thét, đổ lửa, pha luông , cháy bùng bùng,….khiến
câu văn trở nên rộn ràng, đập mạnh vào giác quan ng đọc. với cách sử dụng từ ngữ chọn lọc,
tính cách hung bạo của con sông như hằn lên, nổ lên thành hình khối, gào thét trong muôn
vàn âm thanh. Cảnh vật không hề yên tĩnh, trái lại tất cả sự lởm chởm kia đều náo động,
chuyển động qua hàng loạt từ nhân hóa
+ nhà văn đã dùng hình ảnh nhân hóa để làm sống dậy 1 cách dữ dội những hình thù đá vô
tri: “một hòn trông nghiêng thì y như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trc
khi giao chiến. 1 hòn khác lùi lại 1 chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”
và khi thua trận thì “tiu nghỉu cái mặt xanh lè”
- Sự kết hợp giữa đá và sóng nước Sông Đà với những trùng vi thạch trận tạo nên chân dung
loài thủy quái khổng lồ hung hãn, bạo ngược, nham hiểm và vô cùng xảo quyệt. trong cuộc
chiến với ng lái đò Sông Đà nó đã giở những mưu ma chước quỷ để lừa ngta vào những thế
trận đã bày sẵn, hướng ng lái đò vào cửa tử
+ chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích
+ khi dụ vào sâu thì bất ngờ đánh “khúp quật vu hồi”
+ giáp lá cà thì giở đủ ngón đời hiểm ác, đòn âm đòn trả, đá trái, thúc gối vào bụng, vào
hông thuyền, bật ngửa thuyền bóp chặt hạ bộ ng lái đò ……vừa đánh vừa hò la vang trời để
áp đảo tinh thần đối phương
Tiểu kết 3: với những câu văn giàu góc cạnh, lối ví von với những hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa,
Nguyễn Tuân đã làm sống dậy 1 Sông Đà mưu trí hung ác nham hiểm. Nó thực sự là hung thần
trong cuộc đấu trí đấu lực với con ng
d. Dữ dội nhất là những cái hút nước
- ấn tượng về sự sợ hãi chết ng được tạo ra rất rõ trong đoạn này
- âm thanh: + nước liên tục thở và kêu như cửa cống cái bị sặc
- dấu hiệu quạ đàn chết chóc “trên mặt các hút xoay tít đáy, lừ lừ những cánh quạ đàn”.
Thuyền bè đều khiếp sợ cái giếng hút bởi chỉ cần sơ ý là nó sẵn sàng hút con thuyền xuống r
thả tan tác từng mảnh ở khuỷu sông đá
- thay vì kể về nỗi sợ hãi Nguyễn Tuân bắt ng đọc p tự mình chiêm nghiệm, tự mình trải qua
nỗi sợ hãi, khi nhà văn nhấn mạnh sự dữ dội ấy từ góc nhìn rất điện ảnh. Ông hình dung 1
máy quay theo đà xoay của giếng hút, xuống tận đáy của hút nước, r từ đáy quay ngược nhìn
thành vách mà phi ảnh. Các thước phim màu đó đã truyền cảm giác tới ng xem, như đang ghì
chặt mép ghế, mép 1 chiếc lá rừng bị ném vào cốc nước pha lê k lò mò ngta vừa rút lên cây
gậy đánh phèn, để cảm nhận sự hung dữ của Sông Đà làm thót tim lại
e. Sữ dữ dội của gió và cát
- Gió gìn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ng lái đò nào qua đây
- Cát k bình thường , chúng đục thủng mạn thuyền gỗ, đục thủng gan bàn chân con ng
Tiểu kết: Sông Đà thực sự là 1 loài thủy quai nham hiểm độc ác, đúng là chỉ có Sông Đà chảy về
bắc và chỉ có Nguyễn Tuân mới thể hiện được Sông Đà dữ dội đến nghệ thuật
2. Sông Đà với vẻ đẹp trữ tình thơ mộng
a. Sông Đà rất mực nên thơ gợi cảm
a.1. Dòng sông thơ mộng trữ tình trong vẻ đẹp yêu kiều duyên dáng của thiếu nữ Tây Bắc
- Qua cái nhìn từ liên tưởng Nguyễn Tuân cảm nhận Sông Đà “tuôn dài như 1 áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây bắc, bung nở như hoa ban hoa gạo
tháng 2 và cuồn cuộn mùi khói núi mèo đốt mường xuân
+ NGHỆ THUẬT so sánh, liên tưởng mở rộng khiến Sông Đà hiện lên trong vẻ đẹp vừa mềm
mại, vừa duyên dáng đầy trẻ trung của ng thiếu nữ đang tuổi xuân thì, vừa lộng lẫy sắc màu
và huyền ảo khói sương. Trong cách liên tưởng phóng túng của Nguyễn Tuân Sông Đà thực
sự trở thanh tác phẩm tuyệt mĩ mà tạo hóa đã ban tặng cho thiên nhiên và con ng Tây Bắc
+ ở đây dường như có sự tiếp nối của truyền thống và ca dao trong văn học
*ca dao: “dòng sông như dải lụa đào”
*hay đó là:
Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ
Vừa có sự tiếp nối, bổ sung sáng tạo “ đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng 2” và của “mùi khói núi mèo đốt mường xuân” tạo nên 1
hình ảnh so sánh rất thực , rất đặc trưng Tây Bắc và con sông bỗng đẹp một cách lạ lẫm
Câu văn co duỗi nhịp nhàng, âm điệu uyển chuyển, hình ảnh thơ mộng mơ màng gợi liên tưởng
về vẻ đẹp của những thiếu nữ Thái xuất hiện rất nhiều trong những trang tùy bút của Nguyễn
Tuân
a.2. Sông Đà còn rất đẹp trong sắc màu của mọi mùa
- Mùa xuân
+ “dòng xanh ngọc bích”- màu xanh trong vắt tỏa sáng trong kgian
+ Nguyễn Tuân đã so sánh với màu nước sông ngâm , sông lô “màu xanh canh hến” để làm
nổi bật vẻ đẹp đặc trưng của dòng nước Sông Đà
- Mùa thu:
+ “nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một ng bầm đi vì rượu bữa”. dường như vẻ đẹp
của con sông đều đến mức tuyệt đỉnh. Cho nên mỗi độ thu về màu sắc của nó cũng phải là
màu đỏ như khuân mặt con ng đầy tâm trạng
+ “đàn cá đầm xanh quẫy vọt lên mặt sông, bụng trắng như bạc rơi thoi”. Tiếng cá đập
nước làm cho đàn hươu vụt biến. Đủ thấy sự yên ắng lặng tờ dường như đã biến mất tuyệt
đối. cảnh sống động hư ảo sẽ có sự hòa quyện của nhiều cảm giác
- Phía hạ lưu, Sông Đà êm đềm lững lờ trôi. Điều này các nhà tự nhiên học rất dễ giải
thích. Còn Nguyễn Tuân lại cảm nhận bằng trái tim của một ng nghệ sĩ. Ô cho rằng Sông
Đà lững lờ trôi như thế là bởi vì
+ nó quá thương nhớ thác đá phía thượng nguồn
+hay như lắng lại để nghe những giọng nói êm ái của người dưới xuôi
+ ng lái đò đơn phương độc mã với con thuyền đuôi én ,cánh mỏng, lại bị thương “ mặt méo
xệch”. Chữ dùng thể hiện cái đau đớn do sự tàn bạo của dòng nước đến mức làm “biến dạng
bợt bạt cả sắc mặt con ng”. tuy vậy ông đò vẫn cố nén nỗi đau, 2 chân kẹp chặt bánh lái.
Cách nói của Nguyễn Tuân làm ng đọc liên tưởng đến cái lá cây nhỏ bé yếu ớt đã lìa cành,
vừa điều khiển vừa chỉ huy con đò
- Quy luật đà giang hết sức khắc nghiệt, ng lái đò phải vượt qua 4,5 của tử mới có 1 cửa
sinh, hi vọng vào sự sống là hết sức mong manh. Chỉ 1 chút thiếu chính xác, chỉ 1 tích tắc
lỡ tay, lóa mắt là phải trả giá = cả sinh mạng của mình . Tuy nhiên dù thiên nhiên giăng
mắc cạm bẫy đến đâu, hiểm nguy đến mức nào thì = thông minh tài trí, con ng vẫn tìm
được 1 đường sinh, vẫn tìm được 1 lối thoát hiểm nguy giữa cả bát trận đồ
- Để làm nổi bật tài nghệ của nhà đò Nguyễn Tuân đã stao ra 1 cuộc vượt thác leo ghềnh
của ông đò như 1 viên tướng ngày xưa lao vào trận đò bát quái. Ng lái đò vừa có tư thế
của 1 ng anh hùng lại vừa mang phong thái của 1 ng nghệ sĩ tài hoa tài tử. ông đò đối mặt
+ ở trận chiến t2, ng lái đò không chỉ dũng mãnh, không chỉ phải dùng đến cơ bắp mà phải
thay đổi chiến thuật. ông phải kiên cường nén nỗi đau thể xác do cuộc vật lộn với thác dữ gây
nên = những động tác táo bạo mà vô cùng chính xác, đứa thì ông tránh, giảo chèo bơi lên, đứa
thì ông chặt đôi họ mở đường tiến, ông điều khiển con thuyền như điều khiển 1 con ngựa bất
kham, khi thì nắm chặt lấy cái bờm sóng, khi thì ghì cương lại, bám chắc luồng nước đúng
mà phóng nhanh về phía cửa sinh ở phía bờ hữu ngạn
+ ở trận chiến t3 ng lái đò tài hoa điều khiển con thuyền vượt qua 1 khe cửa hẹp. con thuyền
lao vun vút như 1 mũi tên lao nhanh qua cổng đá, cánh mở, cánh khép. Ông đã điều khiển
mũi tên thuyền ấy vừa tự lái, tự xuyên, tự lượn được
Đoạn văn dựng cảnh giàu gía trị tạo hình, giống như 1 cuốn phim quay cận cảnh, bút pháp đặc tả,
lối kể hồi hộp, căng thẳng đầy kích thích, đã làm sống dậy 3 trận đánh vượt qua 3 trùng vi thạch
trận của ng lái đò Sông Đà, làm hiện lên rạng rỡ vẻ đẹp trí dũng tài hoa của ng lái đò
- Diễn tả cuộc giao tranh giữa con ng với sông nước, Nguyễn Tuân đã sử dụng tới hơn 300
động từ mạnh để ganh đua với cơn thịnh nộ của Sông Đà và trí lực của ô lão lái đò phi
thường
+ người đọc như nghẹt thở trc cơn cuồng phong xô lên cùng cơn thịnh nộ của Sông Đà:
“dống lên, nhổm dậy, vồ lấy, đanh khuýp, gieo hò, thúc dội, túm lật ngửa, bóp chặt
+ phía ông đò cũng hợp sức chống trả: nắm chặt, bám chặt, ghì cương, phóng nhanh lái
miết, đè sấm, chặt đốc chọc thủng
Trong phấn khích ngôn từ cực điểm, Nguyễn Tuân hả hê ca ngợi ng lái đò là tay lái ra hoa. Dưới
ngòi bút của nhà văn, cuộc đối đầu quyết liệt giữa ng lái đò và con Sông Đà quả là 1 bức tranh
chiến trận hào hùng. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân như ngân thành khúc tráng ca, để xưng tụng
con ng lao động trong cuộc quyết đấu với TN
- Nguyễn Tuân đã nhìn ng lái đò trong miêu tả từ góc nhìn gía trị mà con ng đem đến cho
tổ quốc mình . Ông đò đó là “thứ vàng 10” của tổ quốc. và để hãm con thuyền lại ông đò
phải từ đầu sào vào ngực mình . Vết thương ấy để lại trên lồng ngực ng lái đò 1 đòng tiền
tụ máu. Nguyễn Tuân gọi đó là tấm huân chương siêu hạng, gắn trên ngực ng lái đò vừa
anh hùng vừa nghệ sĩ. Chỉ 1 vết thương nghề nghiệp của đầu con sào để lại trên ngực ng
lái đò nhưng Nguyễn Tuân đã nâng lên tầm vóc anh hùng ca. Một liên tưởng thú vị, sâu
sắc thể hiện sự thấu hiểu, cảm thông ngưỡng vọng, trân trọng đối với nghề lái đò âm
thầm mà cực kì gian truân của những nhà đò trên dòng Sông Đà
Tiểu kết: bằng ngòi bút tài hoa phóng túng uyên bác, Nguyễn Tuân đã thể hiện sống động 1 chân
dung vô danh lẫn vào đám đông nhưng chính con người bình dị ẩn khúc giữa núi rừng ấy lại
chứa đựng chất “vàng 10” đích thực của tâm hồn và tài năng. Từ hình tượng người lái đò Nguyễn
Tuân khẳng định phẩm chất anh hùng của con người hoàn toàn có thể được tìm thấy ở những
điều bình dị trong cuộc sống hàng ngày của con người với thiên nhiên
2. Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ
- Chở đò là một công việc khó nhọc và là một nghệ thuật cao cường. Người lái đò vượt
thác điệu nghệ như một nghệ sĩ tài năng đến nỗi Nguyễn Tuân phải ngợi ca là “tay lái ra
hoa”