You are on page 1of 19

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

1/ Hình tượng hung bạo của sông Đà:


Nhắc đến Nguyễn Tuân là nhắc đến một nhà văn dành cả cuộc đời để sáng tạo ra
những tác phẩm mang tính duy mỹ và hoàn thiện. Điều đó được thể hiện rõ nhất ở phong
cách nghệ thuật độc đáo của ông. Nguyễn Tuân là một cây bút có sức viết dồi dào. Trước
và sau Cách mạng, ông đều có những tác phẩm giá trị để lại dấu ấn sâu đậm , bởi nó mang
được kết tinh từ sự tài hoa, uyên bác, cá tính của người sinh thành ra nó. Ông sáng tác rất
nhiều thể loại. Nhưng thành công nhất là ở thể tùy bút và "Người lái đò sông Đà” là một
thành công lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tùy bút đã khắc họa thành công vẻ đẹp
của con sông Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, trữ tình. Ngòi bút của ông đã tập trung tất
cả tài năng, sự am hiểu để làm nổi bật lên hình tượng hung bạo của con sông ấy.
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15
bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng
CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong
kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với
nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn
xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét
thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà
hung bạo và trữ tình. Dòng sông Đà hiện lên trong trong văn Nguyễn Tuân trước hết mang
dáng vẻ của sự hung bạo, dữ dội, nó dường như chính là kẻ thù số một của con người.

"Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái
đẹp", và ngay từ những trang văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã dẫn chúng ta đến với xứ sở
mới với hình ảnh sông Đà hung bạo. Nguồn gốc hung bạo của sông Đà được Nguyễn Tuân
công phu khảo cứu lịch sử, địa lý, văn hóa, từ đó đem đến cho người đọc tầm tri thức sâu
rộng. Sông Đà bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một vùng núi ác hiểm, đến nửa
đường, tại biên giới Việt Trung, xin nhập quốc tịch Việt Nam. Tính từ biên giới Việt Trung
đến ngã ba Trung Hà, sông Đà dài 500km, lượn qua nhiều núi non hiểm trở, qua miền Tây
Bắc, Việt Nam. Sông Đà xưa có tên Ly Tiên. Những chi tiết này cho thấy Nguyễn Tuân tựa
như một người cho đẻ đang làm khai sinh cho đứa con tinh thần của mình. Có thể nói, ông
đã khai sinh ra dòng sông Đà một lần nữa - một dòng sông độc đáo cho văn chương Việt
Nam. Từ khi sinh ra, sông Đà "làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc", trở thành ‘’kẻ thù
số một của con người nơi đây’’.
Sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo, tính cách ấy trước hết được miêu tả ở
những khối đá dựng vách thành, “đá chợt lòng sông như một cái yết hầu” làm cho "mặt
sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời ”. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua
bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. “Ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng
ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào
vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự
nguy hiểm, bí ẩn của dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với
những vách đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng
tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong, chỉ
chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.

Chưa dừng ở lại đó, nhà văn còn khiến người đọc bất ngờ hơn khi miêu tả tính cách
hung bạo của con sông ở khía cạnh “nước – đá – sóng và gió"; "hàng cây số nước xô đá,
đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Động từ “xô” được ngăn cách bởi
nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự trùng điệp, làm cho dòng sông đã hung bạo lại càng dữ
tợn hơn. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” như mô
phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên
cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, cuồn cuộn ghê rợn trên mặt ghềnh.
" Dòng sông như một kẻ bất chấp tất cả để lấy đi tính mạng của những ai đi qua đây,
bởi “ quãng này nếu khinh suất không thận trọng tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra’’
. Không giống như dòng sông hiền hòa trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
“ Ôi những dòng sông bắt nước từ đầu
Mà khi về đến đất nước mình thì bắt đầu lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò , kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi ”
Đến quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La , người đọc còn bị choáng ngợp trước
sự hung bạo của những cái hút nước và thác đá . Những cái hút nước " giống như cái giếng
bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu " xoáy tít tận đáy , “ nước thở và kêu
như của cống bị sặc ” có lúc lại nghe rừng rọn như tiếng " rót dầu sôi " . Con sông Đà lúc
này không khác gì một con thủy quái gieo rắc những nguy hiểm cho những ai đi qua nơi đây
. Cho nên “ không một chiếc thuyền nào dám men gần ” , bởi nếu thuyền bị hút là trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi , bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau là tan
xác ở khuỷu sông dưới ” . Nhà thơ Quần Phương cũng từng viết về những thác đá sông
Đà :
“ Tôi đi với sông Đà Bao lần rồi vẫn lạ Tôi thuộc ngầm , thuộc đá Tôi thuộc lũ , thuộc
dòng ” Nếu chỉ dừng lại ở đó thì sông Đà sẽ không bộc lộ hết được tính cách hung bạo của
mình . Tính cách của con thủy quái ấy còn khiến người đi qua đây sợ sệt bởi những thử
thách ở trùng vi thạch trận . Bởi những đá mai phục hết trong lòng sông “ mặt hòn nào trông
cũng ngỗ ngược , nhăn nhúm ” . Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn , để chúng phối hợp lại
thành ba trùng vi nguy hiểm . ở trùng vi thứ nhất , sông Đà bày ra năm của trận , có bốn cửa
tử , một cửa sinh , của sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông . Hàng tiền vệ , có hai hòn canh
một cửa đã trông như là sơ hở , thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến
giữa .
Ở trùng vì thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền . Vừa
vào trận địa , chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp : " Mặt nước hồ la vang dậy quanh mình ,
ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình . Sóng nước như thế quân liều mạng
vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền . Có lúc chúng đội cả thuyền
lên . Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la bão nạt . Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất , cả cái
luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò.
Ở trùng vây thứ hai : dòng sông tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền ,
cửa sinh lúc này nằm lệch ở phía bờ hữu ngạn . " Dòng thác hùm beo đang hồng hộc lao
mạnh trên sông đá " như khiêu khích ngay giữa cửa vào , dựng đứng thành cửa ải " nhằm
níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử " .
Đến trùng vi thứ ba , có vẻ ít cửa hơn nhưng lại nguy hiểm hơn , bên phải bên trái
đều là luồng chết cả . Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con
thác . Tại đây những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở đâu chân thác phải đánh tan cái
thuyền . Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt . Chiếc thuyền như một cầu thủ
phải phóng thẳng , chọc thủng của giữa , vút , vút , cửa ngoài , cửa trong lại cửa trong
cùng , và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước , vừa xuyên được vừa tự động lái
được lượn được tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác . Trận bóng đã thắng lợi
về phe người lái đò tài ba với " tay lái ra hoa " .
Bằng phong cách đậm chất tài hoa uyên bác , tác phẩm giàu chất thông tin , thời sự .
Tác giả đã huy động vốn tri thức chuyên môn của nhiều ngành văn hóa , nghệ thuật khác nhau ,
lối so sánh liên tưởng độc đáo , ngôn ngữ giàu có , tinh tế hiện đại , giàu cảm xúc , đậm chất tạo
hình , rất sắc sảo tác phẩm thể hiện được một số đặc trưng cơ bản của phong cách Nguyễn
Tuân đó là cảm hứng đặc biệt với những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ , tiếp cận
con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ , sử dụng tùy bút pha bút kí rất phóng túng . Vẻ đẹp
của con sông Đà cũng được nhắc đến trong nhiều trang thơ nhưng có lẽ hình ảnh sông Đà trong
tùy bút của Nguyễn Tuân là độc đáo nhất . Một nhà thơ khi lên sông Đà đã viết :
‘’Trên mặt Đà giang dưới bóng chiều
Trông qua Non Nước cảnh đìu hiu
Trời giăng hắc ám luồng mây kéo
Chuông giục hoàng hôn tiếng sóng reo
Theo nước vỏn vơ tăm cá lội
Gọi bầy inh ỏi tiếng chim kêu
Thuyền ai thơ thẩn dòng sông đó ?
Tìm bến cùng ta gấp mái chèo ! ‘’
Qua hình tượng con sông Đà hung bạo , hùng vĩ ta thấy được phần nào nét tài hoa ,
uyên bác trong nghệ thuật sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân . Ông quả là bậc thầy về
ngôn từ , " chuyên viên cao cấp Tiếng Việt " . Tác phẩm đã thể hiện vẻ đẹp của con sông
Tây Bắc với nét cá tính riêng không thể nhầm lẫn đi đâu được . Quả đúng như nhà thơ
Nguyễn Đình Thi đã nhận xét về Nguyễn Tuân : “ Đây là một nhà văn " suốt đời đi tìm cái
Đẹp , cái Thật’’.

2/ Hình tượng ng lái đò:


Một tác phẩm văn học lớn, có giá trị sống mãi trong lòng người đọc thì tác phẩm đó
phải xây dựng được những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, hội tụ đầy đủ tài
năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Nhân vật ông lái đò trong tùy bút "Người lái đò sông
Đà" của Nguyễn Tuân là một nhân vật như thế.
Dưới ngòi bút thần kỳ của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà hiện lên vô
cùng hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng làm nên một tấm phông rất phù hợp để hình
tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là chất anh
hùng và chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần hai mươi năm
chiến đấu với thác đá trong nước sông Đà để tồn tại. Tay lái của ông được miêu tả là "tay lái
ra hoa". Ông lái đò hiện lên trong những trang văn của Nguyễn Tuân đầy ấn tượng với
những nét về ngoại hình đúng là một con người của sông nước: Ông gần bảy mươi tuổi
nhưng rất chắc khỏe "thân hình gọn quánh như chất sừng, chất mùn", "tiếng nói ào ào như
sông nước". "hai tay dài lêu nghêu như cái sào lái đò", "hai chân khuỳnh khuỳnh như đang
kẹp chặt cái cuống lái trong tưởng tượng"... Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn như
chạm khắc hình tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại
vào trái tim bạn đọc để dự báo về nhân vật cả cuộc đời gắn với nghề lái đò và mức độ tay
nghề đã đạt đến mức nghệ sĩ.
Có lẽ bao tình cảm đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào
nhân vật ông lái đò, nên nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sông Đà đến mức
máu thịt, hiểu và yêu dòng sông đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh hơn một nghìn
tên dù dễ hay khó đều hội tụ lắng đọng thành một dòng chảy trong trái tim của ông lái đò
hay chính là trái tim của Nguyễn Tuân. Ông thuộc dòng sông như thuộc một "bản trường ca,
thuộc đến từng dấu chấm dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống dòng". "Ông lái đò
đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá
nơi ải nước". Chính vì thế mà ông lái đò đã khuất phục, chế ngự được sự hung bạo của
dòng sông Đà. Ông không phải thần thánh mà chỉ là một người lao động bình thường bằng
xương bằng thịt nhưng với trí dũng song toàn nên ông vẫn chiến thắng thiên nhiên nghiệt
ngã để tồn tại lao động sáng tạo trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Tính cách của
ông lái đò được cụ thể qua những cuộc giao tranh dữ dội với nước, sóng, gió và đá qua ba
thạch trận.
Trước hết là trùng vi thạch trận thứ nhất, người đọc đặc biệt ấn tượng với những
câu văn tả đá được nhân hóa như một đội quân: "đá tảng, đá hòn".., "đá tiền vệ" đã bày ra
thạch trận với năm cửa, có bốn cửa tử và một cửa sinh. Bên cạnh đó, nhà văn sử dụng một
loạt động từ trùng điệp để tô đậm sức mạnh của đội quân đá: "mai phục", "nhổm cả dậy",
"đứng ngồi nằm tùy theo sở thích". "ăn chết", 'canh cửa", "hất hàm'... Cộng hưởng với
những động từ là những tính từ làm nổi bật tính hung bạo: "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo
mó"...Tất cả làm nổi bật thế và lực của đá sông vừa đông vừa mạnh hùng tợn, ghê sợ tạo
thành thế không cân sức với ông lái đò chỉ có một mình đơn phương độc mã để gieo vào
lòng người đọc bao phấp phỏng, hồi hộp. Bên cạnh đá là nước, "phối hợp với đá, nước thác
reo hò làm thanh viện cho đá", tạo nên âm thanh dữ dội tăng thêm không khí chiến đấu ác
liệt. Sóng nước biết tung ra các đòn đánh nguy hiểm như đánh giáp lá cà, đánh khuýp quật
vô hồi, đá trái, thúc gối...Có thể nói Nguyễn Tuân đã rộng mở sự uyên bác tài hoa của mình
để kho ngôn từ phong phú sinh động đầy ắp trong mọi lĩnh vực của sự sống, tuôn chảy
không ngừng cả các ngôn ngữ quân sự thể thao, quân sự cũng được huy động với tần số
đậm đặc để cực tả đá nước sông Đà. Đây chính là nghệ thuật vẽ mây đẩy trăng để gián tiếp
ca ngợi chí dũng song toàn của ông lái đò. Ở chặng này, nhà văn ca ngợi ông lái đò có sức
chịu đựng phi thường "ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái"...chỉ huy
ngắn gọn kín đáo và ông đã chiến thắng "phá song trùng vi thạch trận thứ nhất".
Ở trùng vi thạch trận thứ hai, đá nước sóng tăng thêm nhiều cửa tử "dòng thác hùm
beo đang hồng hộc tế mạnh", "bốn năm thủy quân không ngớt khiêu khích"...Những động từ
mạnh vẫn tiếp tục tuôn chảy không ngớt trên những trang văn cộng hưởng với phép tu từ so
sánh nhân hóa rất độc đáo giúp nhà văn biến sóng nước thành hùm thiêng, sông nước tăng
thêm sức mạnh đến đỉnh điểm của Đà giang để tiếp tục tôn lên tư thế hào hùng của ông lái
đò.
Ông lái đò "không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn
chiến thuật", "ông đò nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, ông đã thuộc hết quy luật
phục kích của lũ đá" nên ông chủ động tự tin nhanh nhẹn làm chủ tình thế "cưỡi lên thác
sông Đà như cưỡi hổ, nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh, chặt đôi thác để
mở đường tiến". Những động từ mạnh liên tiếp lại như đưa người đọc vào cuộc chiến của
sóng nước tạo ra trạng thái say như say sóng, để từ đó tôn vinh lên những nét đẹp của ông
lái đò đó là mưu trí, dũng cảm, kiên cường. Nếu ở cuộc giao tranh thứ nhất và thứ hai
Nguyễn Tuân cực tả vẻ đẹp trí dũng song toàn và phẩm chất anh hùng của ông lái đò thì ở
chặng thứ ba này Nguyễn Tuân muốn cho người đọc thấy tay lái ra hoa của ông lái đò.
Nguyễn Tuân miêu tả "bên phải, bên trái đều là luồng chết" khiến ông lái đò phải vận dụng
tài năng nghề nghiệp của mình, nâng thuyền của mình lên mặt nước như nghệ sĩ lái mô tô
bay trong không trung để "xuyên qua mặt nước"...những động từ mạnh "vút" hay "xuyên"
lặp đi lặp lại nhấn mạnh tốc độ lái thuyền nhanh mạnh, cộng với nhiều phép so sánh liên
tiếp khiến người đọc vừa cảm nhận được độ nhanh mạnh vừa cảm nhận được độ khéo léo
của con thuyền trong hướng đi luồn lách tránh đội quân đá đông đúc. Nghệ thuật lái thuyền
đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến
mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng
ông lái đò trong tùy bút "Người lái đò sông Đà" với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong
nghề.
3/ Vẻ đẹp trữ tình sông đà:
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của dân tộc, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm, và
tôn vinh cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học hiện đại:
thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú thêm
ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách nổi bật, tài
hoa và độc đáo. Ông sáng tác rất nhiều thể loại, nhưng thành công nhất là ở thể loại tùy bút
và “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông. Với
chất tài hoa nghệ sĩ của mình, ông đã khắc họa thành công hình tượng con sông Tây Bắc
mang vẻ đẹp vừa hung bạo nhưng đậm chất trữ tình.
Với thiên tùy bút nổi tiếng “Người lái đò Sông Đà” – rút từ tập “tùy bút sông Đà” xuất
bản năm 1960, Nguyễn Tuân muốn xưng tụng ông lái đò tài hoa trì dựng trên sông thiên
nhiên bạo liệt, và ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như một
ông tài bậc thầy lèo lái con thuyền chữ trên dòng sông Thi không kém thác ghềnh. Chính từ
áng kỳ này, người nghệ sĩ vốn nổi tiếng tài hoa uyên bác từ trước cách mạng tháng 8 nay
lại có dịp trổ ra một phong cách nghệ thuật đầy góc cạnh thú vị trước 1 cuộc sống đã đổi
thay. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và
ca ngợi người lái đò giản dị mà kỳ vĩ trên dòng sông. Ngòi bút lãng mạn của ông cũng đã
hướng tới vẻ đẹp trữ tình của con sông sau khi tập trung hết bút lực của mình miêu tả sự
hung bạo của con sông ấy.
Nếu như ở đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà nhà văn đã sử dụng rất
nhiều những kiến thức về quân sự hay võ thuật, nhiều động từ mạnh thì ở đoạn văn miêu tả
vẻ đẹp trữ tình của con sông, ông hoàn toàn sử dụng con mắt tinh tế quan sát và ngòi bút
lãng mạn của mình để vẽ lại con sông Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà ở
nhiều góc độ khác nhau để có một cái nhìn toàn diện. Từ trên tàu bay nhìn xuống sông Đà
như “cái dây thừng ngoằn ngoèo” uốn quanh núi rừng Tây Bắc. Ở những quãng yên, dòng
sông lại giống như một người thiếu nữ kiều diễm: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Điệp ngữ “
tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt người đọc sự vô tận của dòng sông. Phép so sánh
như “một áng tóc trữ tình” tạo nên vẻ đẹp kiêu sa của sông Đà, nó như một kiệt tác của đất
trời dành riêng cho vùng đất thiêng liêng này. Hai chữ “ẩn hiện” càng làm cho con sông trở
nên bí hiểm. Đọc đoạn văn ta như đi vào chốn bồng lai vừa thực vừa mộng. Không chỉ vậy,
Nguyễn Tuân còn tha thiết gọi dòng sông là “cố nhân” xa thì nhớ gặp lại thì mừng vui khôn
xiết. Sự nhân hóa đó làm cho con sông gần gũi hơn. Tản Đà cũng đã từng viết:
“ Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
Và những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên
sông Đà” hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”, ông
thấy dòng sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao màu sắc biến đổi
diệu kì: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt
một người bầm đi vì rượu bữa”. Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao chứ không phải là
con sông đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng
một cái tên Tây láo lếu”. Ở mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một
dáng vẻ, màu sắc khác nhau. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh
màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh
sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh bởi đó gợi
lên sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da
mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội
độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu
bữa” chắc chỉ có ở một mình Nguyễn Tuân. Ông đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo,
tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc dễ dàng tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ
mộng chân thực của dòng sông.
Vẻ đẹp ấy còn được thể hiện ở đôi bờ sông: “cảnh ven sông này cũng lặng tờ đến
thế mà thôi”, “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà”, đẹp thơ
mộng “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng”. Tác giả hướng đến lịch sử những buổi đầu dựng nước và giữ nước
để làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ của dòng sông. Một lần nữa khi thuyền trôi ven bờ, tác giả
đã phát hiện được thêm bao nhiêu vẻ đẹp gợi cảm của con sông. Gây ấn tượng đầu tiên với
người nghệ sĩ là sự tĩnh lặng nhẹ nhàng: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông
này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, nó trôi
ngược về quá khứ xa xưa với sự so sánh, liên tưởng đầy bất ngờ của tác giả: “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Thiên nhiên nơi đây như một bức họa thủy mặc khiến ta liên
tưởng đến câu thơ của Lý Bạch “ Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” (Xuôi thuyền về
Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói).
Càng đọc, ta càng có cảm giác như tác giả đã nhập thân làm một với cỏ cây sông
nước, như say sưa mê đắm với không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ống kính bao
vẻ đẹp sinh động: đó là “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, là “cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp”, là “một đàn hươu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Đằng sau những dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức sống
ngồn ngộn, tươi mới, trẻ trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuyển động. Kì ảo hơn
nữa là khí nhà văn như đã nghe được tiếng nói của chú hươu: “thơ ngộ ngẩng đầu nhung
khỏi áng cỏ sương” cũng như dòng sông “đang lắng nghe những giọng nói êm êm của
người xuôi”. Và từ hiện tại, ông mơ ước đến tương lai nghe một “tiếng còi sương” hoặc
“thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên” hòa nhập
cùng dòng sông “lững lờ như nhớ thương”. Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá
quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt
nước lênh đênh…bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết”
càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Bằng việc sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên
tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến thức hội
hoạ, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của
mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình. Một nhà thơ khác cũng từng viết về vẻ đẹp của con
sông đầy lãng mạn:
Trên mặt Đà giang dưới bóng chiều
Trông qua Non Nước cảnh đìu hiu
Trời giăng hắc ám luồng mây kéo
Chuông giục hoàng hôn tiếng sóng reo
Theo nước vẩn vơ tăm cá lội
Gọi bầy inh ỏi tiếng chim kêu
Thuyền ai thơ thẩn dòng sông đó?
Tìm bến cùng ta gấp mái chèo!
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét: “… Nguyễn Tuân đã
sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có
hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính
cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói - “hung bạo và trữ tình…” .Qua đoạn văn miêu tả
vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà ta càng khâm phục tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân,
ông quả là một người suốt đời đi tìm cái đẹp, một cây bút độc đáo, đầy sáng tạo trong nền
văn học Việt Nam.
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
‘’Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đổ ”
Đã ai tới Huế mà chưa một lần thử nghe hát trên dòng sông Hương chưa ? Sông
Hương chính là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ , dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc
Tường , sông Hương lại mang một vẻ đẹp nữ tính , dịu dàng . Nhà văn đã dựng lên một bức
tranh thiên nhiên với phong cảnh hữu tình đó là dòng sông quê hương qua bài kí “ Ai đã đặt
tên cho dòng sông ? ” Hoàng Phủ Ngọc Tưởng là một nhà văn , nhà khảo cứu văn học , văn
hóa . Ông là một nhà văn chiến sĩ , có phong cách nghệ thuật độc đáo và có sở trường về
thể kí đồng thời là người đã có công đưa thể kí Việt Nam phát triển lên đến đỉnh cao của
văn học . “ Ai đã đặt tên cho dòng sông ? ” là một trong tám bài kí được xuất bản lần đầu
năm 1986 .
Trước khi vào đến miền đất của kinh thành Huế , sông Hương “ trở thành người tình dịu
dàng và chung thủy với cố đô " . Sông Hương là người con gái đẹp “ nằm ngủ mơ màng giữa
cánh đồng Châu Hóa đầy hoa đại " . Sông đã thay đổi hình hải , làm mềm đi nét nữ tính của
mình . Sông Hương đã bộc lộ được nét lịch lãm và tài hoa , đã thay đổi hình dáng “ mềm như
tấm lụa ” , màu sắc “ sớm xanh , trưa vàng , chiều tím " để dòng chảy trôi đi thật chậm . Sông
Hương mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lí , như cổ thi được đặt trong mối quan hệ với vẻ đẹp
của người con gái Di gan . Khi ra khỏi vùng núi , sông Hương như một nàng tiên được đánh
thức bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân để chuyển dòng liên tục .
Dòng sông có ý thức kiếm tìm về thành phố , “ vui tươi hẳn lên " khi tìm đúng đường về , sông
Hương còn là “ người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya ” ru mọi người vào giấc ngủ yên bình .
Khi chảy vào thành phố Huế , sông Hương như đã tìm thấy mình khi gặp thành phố
thân yêu, sông Hương đã vui tươi hẳn lên giữa những bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim
Long . “ Dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Bắc Đông Nam , tự
uốn một cánh cũng rất nhẹ nhàng sang Cồn Hến ” , dòng sông mềm mại hẳn đi như tiếng “
vâng ” không nói ra của tình yêu . Sông Hương duy nhất thuộc về một thành phố , là niềm tự
hào của xứ Huế , của con người Huế . Sông Hương đã đánh thức được linh hồn của dân
tộc , khác hẳn với các dòng sông khác ở cảnh “ lập lòe trong sương đêm những ánh lửa
thuyền chài của một linh hồn Mô tê xưa cũ ” .
Sông Hương được cảm nhận rất riêng trong sự tìm tòi thú vị của các nhà văn , nó có
chút lẳng lơ , kín đáo của tình yêu . Nhìn bằng con mắt hội họa , sông Hương và những chỉ
lưu của nó tạo nên những nét cổ kính của cố đô . Qua cách cảm nhận âm nhạc , sông
Hương như một điệu “ slow ” tình cảm dành riêng cho Huế , sâu lắng , trữ tình . Với cái nhìn
đắm say của trái tim đa tình , sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy được nhìn
nhận ở nhiều phương diện dưới các góc độ khác nhau .
Sông Hương là dòng sông lịch sử . Dòng sông được khơi gợi trong sách “ Dư địa chỉ
của Nguyễn Trãi nó mang tên là Linh Giang . Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để
bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc qua những thế kỉ trung đại . Dòng sông ấy còn vẻ vang
soi bóng kinh thành Huế cùng người anh hùng Nguyễn Huệ . Nó đã chứng kiến Cách mạng
tháng Tám , mùa xuân Mậu Thân 1986 bằng những chiến công rung chuyển . Sông Hương
đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử , mang đậm dấu ấn thời gian . Không chỉ được nhìn
ở dưới góc độ địa lí , lịch sử , sông Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa và thơ ca.
Từ góc độ văn hóa , trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông Hương với một nền
âm nhạc cổ điển Huế : “ Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya " . Từ
đó , Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương .
Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng : “ Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được
sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng
nước rơi bán âm của những mái chèo khuya " . Từ góc nhìn văn hóa , người nghệ sĩ đã
tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du , về Kiểu : “ Trong như tiếng hạc bay qua Đục như
tiếng suối mới sa nửa vời " . Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ với
tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận . - Tử âm thanh của cuộc sống , tác
giả đã nói đến tiếng nước vỗ vào mạn thuyền hình thành lên những điệu hò dân gian . Nhiều
lần , nhà văn đã liên tưởng đến truyện Kiều của Nguyễn Du đại thi hảo đã từng có thời gian
sống ở Huế , truyện Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình để hình
thành nên cái nôi của văn chương , văn hóa .
Từ góc độ thơ ca , sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của
những người nghệ sĩ . Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó . Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã làm dậy lên những vấn thơ biếc xanh của Tản Đà : “ Dòng sông trắng Lá cây
xanh " . Hình ảnh này với câu chữ của tác giả cho thấy sự đồng cảm của Hoàng Phủ Ngọc
Tưởng về một sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc . Đây là minh chứng thời gian của những
tâm hồn nhạy cảm của các thi nhân . Nhà văn cũng làm sống dậy , sông Hương hủng tráng
như “ kiếm dựng trời xanh ” trong khí phách của Cao Bá Quát . Sông Hương quan hoài
trong nỗi sầu vạn cổ của thơ Bà Huyện Thanh Quan , có sức mạnh phục sinh của tâm hồn
trong thơ Tố Hữu .
Điều kì diệu là nhà văn đã nhìn thấy sông Hương trong mối quan hệ với Kiểu . Cách
so sánh , liên tưởng của tác giả trong mối liên hệ giữa các mạch nguồn thơ ca chảy tha thiết
trong văn chương muôn thuở đã tạo nên một dấu ấn riêng về phong cách nghệ thuật của
nhà văn giàu chất thơ . “ Ai đã đặt tên cho dòng sông ? ” là bài lá đặc sắc về con sông
Hương của xứ Huế qua đó đã thể hiện cái “ tôi ” cá nhân của Hoàng Phủ Ngọc Tường . Đó
là một cái “ tôi ” tài hoa , uyên bác . Sông Hương được miêu tả dưới nhiều góc độ khác
nhau , sông Hương là dòng sông của âm nhạc , của thơ ca , của lịch sử gắn liền với những
nét đặc sắc về văn hóa , về vẻ đẹp của con người xứ Huế . Cái tôi uyên bác được thể hiện
ở sự vận dụng cái nhìn đa ngành , vận dụng kiến thức của nhiều lĩnh vực nghệ thuật để
khắc họa vẻ đẹp của dòng sông .
Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình , thơ mộng . Sông Hương được miêu tả
qua chiều sâu văn hóa xứ Huế , nó như “ người mẹ phù sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyển
thống văn hóa từ bao đời nay . Sông Hương còn được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu
. Thủy trinh của sông Hương là thủy trinh có ý thức đi tìm người tình mong đợi , khi chảy
giữa thành phố Huế , sông Hương mềm mại hẳn đi như một tiếng “ vâng ” không nói ra của
tình yêu . Trước khi đổ ra cửa biển , sông Hương như “ người con gái dùng dẳng chia tay
người yêu " , thể hiện một nỗi niềm vương vấn một chút lắng lo kín đảo . Cái “ tôi ” của tác
giả là một cái “ tôi ” nặng lòng với quê hương , xứ sở . Chắc hẳn , nhà văn phải yêu quê
hương lắm thì mới có thể lột tả dòng sông quê hương một cách xuất sắc như vậy . Nhà thơ
đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để theo dõi toàn bộ thủy trình của dòng sông với vốn
hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên quan .
Nhà văn đã quan sát tỉ mỉ dòng sông từ trước khi vào thành phố rồi đến khi đổ ra bể
dòng sông đã có những thay đổi ra sao . Cái “ tôi ” của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật là một
cái “ tôi ” đa phong cách , mang dấu ấn riêng biệt và giàu chất thơ . Nhà văn đã phát hiện và
trân trọng vẻ đẹp của dòng sông và có những so sánh táo bạo với hình ảnh cô gái Di gan ,
người mẹ phù sa , người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya . Nhà văn đã liên tưởng tới những
nhà thơ khác cùng viết về sông Hương như Nguyễn Du , Tố Hữu , nhà văn nhớ đến Kiểu và
muốn được đắm chìm trong những giai điệu ca Huế trên sông Hương . Tất cả những điều
đó đã tạo nên một cái “ tôi ” riêng biệt mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ
Ngọc Tường .
Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương . Dưới cái nhìn
tải hoa , uyên bác của tác giả , sông Hương được khám phá ở nhiều góc độ khác nhau , từ
địa lí lịch sử đến văn hóa , thơ ca. Nhà văn đã kết hợp linh hoạt giữa kể và tà sử dụng tài
hoa các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa , so sánh , ẩn dụ khiến cho con sông từ
vật vô tri vô giác này bỗng trở nên có hồn , có tính cách , có tâm trạng khi thi dịu dàng , đắm
đuối khi lại mạnh mẽ , quyết liệt . Ngôn từ phong phú , đa dạng , giọng văn đầy biến hóa đã
tạo nên tuyệt bút “ Ai đã đặt tên cho dòng sông ? ” mang nét riêng biệt trong văn phong của
tác giả .
Tùy bút “ Ai đã đặt tên cho dòng sông ? ” đã thể hiện được tấm lòng yêu quê
hương , yêu con người xứ Huế của nhà van Qua đó , cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng và
phong phú của nhà văn về các kiến thức văn hóa , nghệ thuật . Bài kí trên đã khẳng định
được thành công của tác giả trên con đường văn học ở thể bút kí đồng thời cũng thể hiện
cái “ tôi ” cá nhân riêng biệt , trữ tình . Nhà văn đã đem đến cho chúng ta một bài học về tình
yêu thiên nhiên , quê hương đất nước . Bởi nếu có quê hương thì mới có chúng ta ngày
hôm nay . Phải chăng vì thế mà trong thơ của Đỗ Trung Quân đã viết :
“ Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều ”
“ Ai đã đặt tên cho dòng sông ? ” là một tìm tòi và thể hiện sự mới mẻ của Hoàng
Phủ Ngọc Tường đối với thể loại bút kí . Qua đó , tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên
xứ Huế và khẳng định được tài năng uyên bác của mình . Chính vì thế mà sông Hương đã
trở thành một dòng sông bất tử , luôn chảy trôi mãi cùng thời gian và trong tâm trí độc giả .

VIỆT BẮC
Nhà thơ Tố Hữu đã từng bộc bạch : “Tôi phải lòng đất nước, nhân dân tôi nên nói về
đất nước, nhân dân như nói về người con gái tôi yêu”, chính những niềm thương vô bờ bến
và những nỗi nhớ trào dâng không ngừng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong
cảm xúc để rồi thơ ca đã trào dâng trong lòng tác giả và Việt Bắc chính xác là những rung
động mãnh liệt của nhà thơ Tố Hữu. Bài thơ cũng là kết tinh, là di sản của “mười lăm năm
ấy thiết tha mặn nồng” giữa những cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc xuyên suốt
cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Tác phẩm đích đáng là một khúc ca hào hùng
về cuộc kháng chiến và con người trong kháng chiến. Bài thơ Việt Bắc được viết ra như là
những lời hát tâm tình của một mối tình thiết tha đầy lưu luyến giữa những con người kháng
chiến đối với đồng bào Việt Bắc được thể hiện qua lăng kính trữ tình kết hợp chính trị, mang
đậm tính tình dân tộc và ngòi bút đầy cảm xúc của tác giả, bài thơ “là khúc hát ân tình thủy
chung với Việt Bắc, với nhân dân, với chặng đường kháng chiến chống Pháp gian khổ và
hào hùng”.

Bài thơ sáng tác vào tháng 10/1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-
ne-vơ về Đông Dương đã được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng. Trung Ương Đảng và chính phủ chia tay chiến khu Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội.
Phải chia tay mảnh đất Việt Bắc - quê hương của cách mạng, căn cứ địa vững chắc của
cuộc kháng chiến, nơi che chở, đùm bọc cho Đảng, chính phủ suốt những năm kháng chiến
gian khổ, Tố Hữu không khỏi lưu luyến, bịn rịn ,trăn trở, và cũng chính những cảm xúc dạt
dào ấy đã khơi nguồn cảm hứng cho bài thơ được ra đời. Bài thơ là bức tranh sinh động,
tổng kết về 1 giai đoạn lịch sử 15 năm từ thời điểm khởi nghĩa 1941 đến ngày miền Bắc giải
phóng và đồng thời, nó cũng thể hiện những dự cảm, mong ước về tương lai.Bao trùm toàn
bộ bài thơ là những tình cảm đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến: tình nghĩa
quê hương cách mạng, tình quân dân, tình đồng bào, đồng chí, tình yêu nước, tinh thần lạc
quan cách mạng,… Bài thơ gồm 152 câu thơ lục bát, là khúc hát trữ tình hay nhất trong tập
thơ cùng tên của nhà thơ. Đoan trích gồm 90 câu là phần mở đầu, gợi lại những kỉ niệm với
cách mạng và kháng chiến, phần còn lại mở ra viễn cảnh tươi sáng cho đất nước, ngợi ca
những công ơn của Đảng, của Bác Hồ đối với cách mạng. Đoạn trích trên gồm 90 câu đầu
của bài thơ, có thể được chia làm 4 phần.

Việt Bắc có kết cấu đối đáp quen thuộc của ca dao giao duyên, trong những lời trò
chuyện ướm hỏi của đôi bạn tình: “Mình nói với ta mình hãy còn son/Ta đi qua ngõ thấy con
mình bò”, “bây giờ mận mới hỏi đào/ Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?” , “Mình về có nhớ
ta chăng/ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Cách xưng hô mình- ta và hình thức đối đáp
khiến cuộc chia ta giữa đồng bào với cán bộ cách mạng trở thành cuộc chia tay đôi lứa, tạo
màu sắc trữ tình, ngọt ngào tha thiết. Thực chất đây chỉ là sự phân thân của chủ thể, đối
thoại nhưng chính là độc thoại của tâm trạng chìm đắm trong nghĩa tình và kỉ niệm.

Ngay khi bắt đầu bài thơ, Tố Hữu đã để người ở lại mở lời trước, đó là sự sắp xếp
hết sức tế nhị bởi trong bất cứ cuộc chia tay nào thì người ở lại cũng thường nhạy cảm, cả
nghĩ hơn trước những thay đổi của cuộc sống, sợ “xa mặt cách lòng”, sợ người ra đi không
giữ được sự thủy chung trước những cám dỗ mới.

‘’Mình về mình có nhớ ta


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?’’

Giống như trong khúc hát giã bạn trong những đêm hội: người ơi người ở đừng về,
ngay từ câu đầu bài thơ ta đã bắt gặp một giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, trìu mến. Điểm
sáng tạo ở đây là tác giả đã khéo léo sử dụng đại từ mình- ta đặt vào hai đầu câu thơ tạo
khoảng cách khiến cho hai nhân vật trữ tình bị đẩy về hai phía, gợi cảm giác xa xôi, cách
trở. Trong cuộc chia tay này, dù người ra đi vẫn chưa rời xa nhưng người ở lại đã có cảm
giác xa xôi lắm rồi, đã thấy thương, thấy nhớ da diết. Cấu trúc này đã được bắt gặp nhiều
lần trong câu ca dao quen thuộc: ‘’Mình về có nhớ ta chăng?’’ Hay trong Thề non nước (Tản
Đà): ‘’Nước đi đi mãi không về cùng non’’ hay ‘’Thôn Đoàn ngồi nhớ thôn Đông’’ trong
Tương tư (Nguyễn Bính).
Điệp từ “nhớ” được lặp lại 3 lần tạo âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ, âm hưởng
quyến luyến, nhớ thương, ân tình, ân nghĩa. Điệp cấu trúc câu: mình…có nhớ…có nhớ
khiến lời thơ như gõ mạnh vào trí nhớ của người ở, kẻ đi, như một niềm day dứt khôn
nguôi. Hai câu hỏi tu từ được gợi ra khéo léo, một câu hỏi về quá khứ, một câu hỏi về tương
lai. Câu hỏi thứ nhất gợi nhắc đến thời gian 15 năm “ thiết tha mặn nồng”, một khoảng thời
gian tương đối dài khiến người đọc nhớ đến cuộc chia tay đầy lưu luyến của nàng Kiều và
chàng Kim, nhưng khoảng thời gian 15 năm ở đây cũng là 15 năm cách mạng được đánh
dấu bằng mốc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 và cho đến kháng chiến chống Pháp kết thúc,
hòa bình lập lại. 15 năm ấy, có biết bao nhiêu là nước mắt, mồ hôi, xương máu đã đổ
xuống. 15 năm ấy, Việt Bắc đã làm tròn sứ mệnh của một căn cứ địa cách mạng vững chắc.
Chuyện tình nghĩa cách mạng lớn lao đầy màu sắc chính trị ấy đã hóa thân hết sức tự nhiên
vào câu chuyện tình cảm nam nữ. Tác giả cũng khéo léo sử dụng liên tiếp hai tính từ ‘thiết
tha- mặn nồng” trong cùng một câu thơ nhằm tô đậm tình cảm người ở kẻ đi sâu nặng, thiết
tha đến mức khó có thể nói hết bằng lời. Và một cách kín đáo tác giả cũng làm rõ dụng ý
của câu thơ rằng đây không phải một cuộc chia thay của kẻ ở người đi đơn thuần mà chính
là một cuộc chia tay lịch sử thiêng liêng.

Câu hỏi tu từ thứ hai gợi nhắc đến không gian. Các hình ảnh “sông-núi- cây- nguồn”
đều là những hình ảnh quen thuộc với căn cứ địa Việt Bắc. Mỗi hình ảnh đều chứa đựng
trong nó biết bao nhiêu tình cảm, in dấu biết bao nhiêu kỉ niệm của 15 năm ấy. Nhưng đây
cũng là cách sử dụng sáng tạo từ câu tục ngữ: uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng
cây. Người ở lại đã khéo léo nhắc nhở người ra đi về tình cảm nguồn cội, thủy chung, đồng
thời cũng khẳng định sự thủy chung son sắt trong tình cảm của mình. Với lời thơ tha thiết,
quyến luyến, dường như Tố Hữu đã hóa thân vào người Việt Bắc để nói lên tình cảm cách
mạng sâu sắc, thiêng liêng của họ, bởi lẽ ông hiểu hơn ai hết, trong cuộc chia tay này, mỗi
người dân Việt Bắc đều cảm nhận thấy nỗi nhớ, niềm thương, sự hụt hẫng, trống trải trong
trong lòng …

Sau những lời bộc bạch đầy chân thành và bịn rịn lưu luyến của người ở lại, trong 4
câu thơ tiếp theo, Tố Hữu đã để người ra đi bộc lộ những cảm xúc trong buổi chia ly và trả
lời những tâm tư cho người ở lại:

Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Trước những câu hỏi chân thành, tha thiết của người Việt Bắc, người về xuôi không
trả lời trực tiếp mà cũng đáp lại bằng câu hỏi: Tiếng ai tha thiết….bởi theo logic tình cảm
thông thường, nếu người ra đi nói nhớ lắm, nhớ nhiều lại khiến người ở lại nghi ngờ, lo
lắng, bất an. Vì thế thay vì trả lời lại là một câu hỏi để giải bày những cảm xúc của lòng
mình trong buổi chia li. “Tiếng ai” là đại từ phiếm chỉ , thể hiện cảm xúc vừa như băn khoăn,
vừa như kiếm tìm những kí ức sâu đậm nhất. Từ thiết tha trong lời của người ở lại trong 4
câu thơ trên đã được khéo léo đồng vọng bằng hai chữ tha thiết ở câu thơ này. Tiếng nói lời
ca vốn là biểu hiện của tính cách, tâm hồn, văn hóa mỗi vùng miền ‘người thanh tiếng nói
cũng thanh” vì thế nhớ Việt Bắc , người ra đi nhớ ấn tượng về tiếng hát của người ở lại nơi
đây. Tiếng hát dìu dặt, quyến luyến ấy khiến người ra đi “bâng khuâng- bồn chồn” không nỡ
bước đi. Hai từ láy “bâng khuâng- bồn chồn” kết hợp với phép tiểu đối trong câu thơ vừa
diễn tả được cảm xúc tha thiết, vấn vương, bùi ngùi, lưu luyến vừa gợi ra sự lo âu, thấp
thỏm, đứng ngồi không yên, chân bước đi mà lòng muốn ở lại.Tố Hữu đã diễn tả thật hay,
thật sinh động cảm xúc trong buổi chia tay ấy. Cảm xúc ấy khiến ta nhớ đến cuộc chia tay
trong Chinh phụ ngâm khúc: ‘’Nhủ rồi ta lại cầm tay/ Bước đi một bước dây dây lại dừng”

Trong nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi, không chỉ có tiếng hát mà còn có bóng áo
chàm thân thuộc. Sắc áo chàm quen thuộc là biểu tượng cho vẻ đẹp bền bỉ, chất phác, giản
dị của con người Việt Bắc giờ đây đã trở thành một điểm nhấn nhớ thương trong lòng người
ra đi đồng thời cũng gợi cho người đọc đến cảm hứng rất đỗi trữ tình trong bài ca dao khi
chiếc áo trở thành tín vật giao duyên:
“Gửi khăn, gửi áo, gửi lời/
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa/
Hôm qua tát nước đầu đình;
bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen”…

Bao nhiêu sự lưu luyến, bịn rịn đọng lại trong ý thơ: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm
nay”….không biết nói gì bởi còn quá nhiều điều muốn nói, quá bộn bề cảm xúc, biết nói bao
nhiêu cho đủ, cho thỏa bấy nhiêu thiết tha mặn nồng. Đôi bàn tay đã nói hộ tất cả. Dường
như đó chính là khoảng lặng của cuộc chia tay để người người ở kẻ đi hồi tưởng lại tất cả,
là khúc nhạc dạo đầu cho cảm xúc tuôn trào mãnh mẽ ở phần sau. Điều đó cũng lí giải vì
sao trong tương quan ý thơ, lời của người ra đi lại nhiều hơn cả. Đặc biệt trong câu thơ này,
nhịp 2/2 quen thuộc đều đặn, xuôi chiều của thể thơ lục bát được ngắt thành 3/3/2 tô đậm
sự xáo trộn, bối rối trong tâm trạng kẻ ở, người đi…dấu bỏ lửng ở cuối câu mở ra cả một
bầu trời thương nhớ. Khép lại 8 câu thơ đầu, ta như được nghe một khúc nhạc dạo đầu dìu
dặt để sau khúc nhạc ấy, cả một cung đàn nhớ thương, lưu luyến cùng những kỉ niệm đẹp
đẽ về 15 năm thiết tha mặn nồng sẽ tuôn trào mạnh mẽ.

Trong cuộc chia tay ấy,người đọc không chỉ cảm nhận được nỗi nhớ, niềm thương,
những suy tư, trăn trở mà còn cảm nhận thấy bức tranh chân thực về một chiến khu gian
khổ mà thủy chung. Tất cả điều đó được khắc họa qua 12 câu thơ tiếp theo, cũng chính là
một trong những phần đặc sắc nhất tạo dấu ấn nhất trong lòng người đọc:

“Mình đi, có nhớ những ngày


Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Đây là lần thứ hai người ở lại lên tiếng, lời ướm hỏi lần này kéo dài hơn, dồn dập
hơn, dường như đã nóng lòng, sốt ruột vì người ra đi vẫn ngập ngừng “cầm tay nhau…”. 12
câu thơ tạo thành 6 cặp lục bát gợi ra những hình ảnh quen thuộc của Việt Bắc đồng thời
khơi dậy những kỉ niệm về tình đồng bào, đồng chí trong kháng chiến. Cặp lục bát thứ nhất:
Mình đi có nhớ những ngày/ Mưa nguồn suối lũ những mây cũng mù” gợi ra sự khắc nghiệt
của thiên nhiên Việt Bắc cảnh mưa trắng nguồn, lũ ngập suối, mây mù bao phủ núi rừng, đó
cũng là những thử thách, gian khổ mà quân dân Việt Bắc phải trải qua trong suốt chặng
đường dài kháng chiến. Tiếp đến, Tố Hữu đã tô đậm những thiếu thốn, khó khăn nơi chiến
trường qua cặp hình ảnh ”Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, chữ “muối” trong ý thơ
còn khéo léo gợi nhắc đến hình ảnh “muối mặn-gừng cay” trong ca dao là biểu tượng cho
tình nghĩa thủy chung, đậm đà, bền chặt. Nghệ thuật tiểu đối còn trong ý thơ làm nổi bật tinh
thần đồng cam cộng khổ, lòng căm thù giặc sâu sắc của quân dân Việt Bắc. Từ “miếng cơm
chấm muối” ta với minh nung nấu tâm can “mối thù nặng vai”. Muối thù quân xâm lược đè
nặng lên đôi vai, nhắc nhở, nuôi dưỡng ý chí chiến đấu giải phóng đất nước, giải phóng dân
tộc.

Nếu những cặp lục bát khác đều hướng tới người về xuôi thì riêng cặp lục bát:
“Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình về rừng núi nhớ ai”
tác giả lại dùng đại từ phiếm chỉ “ai” khiến lời thơ hỏi người về mà như hỏi chính sự trống
vắng nay mai của lòng mình, hỏi rừng núi, hỏi chính người ở lại.” Trám bùi, măng mai “ nhắc
đến những món ăn quen thuộc của Việt Bắc để nuôi bộ đội, những món ăn đơn sơ mà thấm
đượm tình người. Ý thơ mộc mạc mà gợi cảm sâu sắc, thể hiện nỗi buồn, trống vắng khi
chia tay. Trám bùi, măng mai để rụng, để già vì không ai thu hái mang theo cảm xúc bùi
ngùi, thương nhớ. Nỗi buồn của con người trong cuộc chia tay ấy đã nhuốm sang cảnh vật
hay Việt Bắc nhớ thương người ra đi đến bần thần quên cả việc hái trám, hái măng thường
ngày. Mỗi vế của câu thơ xuất hiện một thanh trắc “để” như một điểm nhấn cho nỗi nhớ
thương da diết, sâu nặng. Chưa dừng lại ở đó, tác giả tiếp tục sửa dụng cặp hình ảnh “Hắt
hiu lau xám, đậm đà lòng son” tô đậm cảnh sắc hoang vu, vắng lặng, nghèo khổ , thiếu thốn
vật chất của Việt Bắc. Song, sự đối lập giữa “hắt hiu” và “đậm đà” cùng hình ảnh “lòng son”
lại làm nổi bật tình nghĩa sâu đậm với cách mạng, dẫu thiếu thốn về vật chất song vẫn sáng
ngời tình nghĩa thủy chung. Hai câu thơ sử dụng nghệ thuật tiểu đối cả về thanh, về ý , đã
thành công ngợi ca tình cảm của đồng bào Việt Bắc dù khó khăn, thiếu thốn nhưng luôn gắn
bó thủy chung với cách mạng.
Hai cặp lục bát còn lại gợi nhắc đến những kỉ niệm kháng chiến, nhớ núi non- nơi che giấu
cán bộ cách mạng những ngày còn trứng nước (thuở còn Việt Minh); nhớ những ngày
kháng Nhật cứu nước với những địa danh đã đi vào lịch sử. Đây là mái đình Hồng Thái, đây
là cây đa Tân Trào nơi đội Việt Na tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của quân đội
nhân dân Việt Nam được thành lập, nơi Quốc dân Đảng phát động tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong cả nước, khai sinh ra nuước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nơi lịch sử của
buổi bình minh mở nước rất đỗi thiêng liêng. Những hình ảnh được gợi nhắc chưa phải là
toàn bộ quãng thời gian 15 năm những đều là những kỉ niệm rất đỗi thiêng liêng: chung gian
lao, chung ngọt bùi, chung mối thù…chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ ‘thiết tha, mặn nồng” không thể
nhạt phai. Tất cả những thăng trầm buồn vui dệt nên tình nghĩa đó được xâu chuỗi bởi điệp
từ ‘có nhớ không” “mình đi- mình về” vang lên như một điệp khúc, một mặt làm cho lời thơ
dìu dặt, tha thiết, chảy trôi theo thời gian của kỉ niệm. Nó tạo thành một điểm nhấn cho mỗi
câu thơ, ý thơ, nó biến hóa linh động trong các hình thức khác nhau nhưng thống nhất ở
một dấu hỏi lớn. Bảo nó là một tín hiệu tu từ gợi nhớ cũng đúng, bảo nó là lời dò đón, nhắn
gửi, bộc lộ mối quan tâm đau đáu, róng riết đang chờ đợi câu trả lời cũng đúng bởi thói
thường gian khổ thì bền chặt, sung sướng dễ làm người ta quên di những ngọt bùi cay đắng
đã nến trải.

Câu hỏi day dứt nhất của đoạn thơ là câu hỏi: “Mình đi mình có nhớ mình”. Điểm
nhấn của câu thơ nằm ở 3 chữ mình. Trong bài thơ, ở phần tiếp theo ta lại bắt gặp một cấu
trúc tương tự: Mình đi mình lại nhớ mình. Từ “mình” ở vị trí 1, 2 thì chỉ người về còn “mình”
ở vị trí số 3 là ai? Trong ca dao không gặp kiểu đổi ngôi như vậy. Cách đổi ngôi này đem
đến cách hiểu đa nghĩa và thú vị cho câu thơ. Nếu “mình” là ngôi thứ nhất thì thì đó là cách
xưng hô nũng nịu, thân thiết, mình với ta tuy hai mà một, đó là cách xưng hô của của người
yêu, của vợ, của chồng. Còn nếu từ “mình” vẫn là ngôi thứ hai thì đó là lòng tự dặn lòng,
không được quên chính mình , như phần sau của bài thơ tác giả viết:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao có thấy núi nữa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng”.
Ý nghĩa này làm cho lời thơ dung dị mà hết sức sâu sắc. Như vậy đối thoại chỉ là cấu
tứ bên ngoài, sự phân thân là cấu tứ bên trong. Khi thì đó là cuộc trò chuyện giữa hai người
từng gắn bó tình nghĩa bao nhiêu năm, khi thì là sự xúc động, băn khoăn, dằn vặt giữa phần
đi, phần ở trong một con người, giữa cái đã qua và cái sắp tới. Cả đoạn thơ ngập tràn kỉ
niệm song nếu chỉ có kỉ niệm không thôi thì rõ ràng không tạo thành ma lực tha thiết, quyến
luyến tạo thành chất thơ ở từng câu. Cái làm nên chất thơ ở đây chính là nhạc điệu. Chính
nhạc điệu đã làm cho kỉ niệm ngân nga, réo rắt, thấm sâu vào tâm hồn. Nhìn kĩ các câu lục
bát đối nhau rất chuẩn về thanh luật, ngắt nhịp đều đặn, tự nó đã thành âm điệu trầm bổng
ngân nga. Mặt khác các câu 8 tiếng, câu nào cũng sử dụng tiểu đối khá cân xứng với nhau :
mưa nguồn suối lũ…; miếng cơm chấm muối…, trám bùi để rụng…; hắt hiu lau xám…..
thậm chí còn hoán đổi vị trí từ ngữ một cách sáng tạo: Tân Trào, Hồng Thái…. chẳng những
nhấn mạnh ý mà còn tạo vẻ đẹp hài hòa, nhịp nhàng, nó khiến lời thơ không chỉ mang màu
sắc ca dao mộc mạc mà còn mang hơi thở của những câu Kiều đầy chất bác học.

Tiếp nối chiều dài của bài thơ, đoạn thơ tiếp theo đã diễn tả lại những lời hứa, lời thề
son sắt thuỷ chung trước phút chia ly:
“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa..”
Trước những câu hỏi dồn dập, liên tiếp, trước những băn khoăn day dứt của người
ở lại về người ra đi liệu có còn nhớ Việt Bắc hay không, còn nhớ những ân tình chia ngọt sẻ
bùi hay không, liệu người về có thay lòng đổi dạ hay không. Người về đã trả lời tất cả những
câu hỏi ấy, giải tỏa những băn khoăn ấy bằng một lời thề thủy chung son sắt:

“Ta với mình, mình với ta


Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

Phép điệp ‘’mình- ta’’ đã phát huy hiệu quả tối đa trong một đoạn thơ ngắn tạo điệp
khúc mình-ta quấn quýt hòa quyện trong tình cảm nhớ nhung, gắn bó sâu nặng, bền chặt
khiến ta với mình như gắn bó làm một: dẫu có đi đâu thì ta cũng sẽ gặp mình, mình đi đây
rồi cũng về với ta. Hai từ láy liên tiếp: mặn mà, đinh ninh đặt cạnh nhau khiến câu thơ như
một lời khẳng định chắc chắn, một lời thề, một lời hứa trước sau như một, mãi mãi gắn bó
bó mặn mà với Việt Bắc. Điệp từ mình lại một lần nữa được lặp lại tới ba lần trong một câu
thơ. Nếu từ “mình” trong lời hỏi của người ở lại: mình đi mình có nhớ mình được dùng ở
ngôi thứ hai thì từ mình được dùng trong câu thơ: mình đi mình lại nhớ mình được chuyển
đổi linh hoạt sang ngôi thứ nhất. Ba từ “mình” là tiếng gọi thân thiết khiến lời thơ hòa quyện,
ấm áp. Từ “mình” ở vị trí thứ ba nếu để chỉ người Việt Bắc thì đó là tiếng nói với người yêu,
tiếng nói với người bạn đời yêu dấu, với vợ, với chồng. Nếu từ “mình” để chỉ người ra đi thì
đó là lời hứa, lời lòng tự dặn lòng rằng không chỉ “mặn mà đinh ninh” với Việt Bắc mà còn là
với chính mình, phần con người mình đã gắn bó với Việt Bắc. Sự phân thân của nhân vật
trữ tình khiến lời thơ xoáy sâu vào lòng người đọc, tìm được sự đồng vọng với người đọc,
người nghe. Ân tình sâu nặng với Việt Bắc được tác giả so sánh với một hình ảnh: Nguồn
bao nhiêu nước…. Hình ảnh “nguồn” là hình ảnh lớn lao biểu tượng cho tình nghĩa sâu
nặng, không bao giờ vơi cạn, những từ“bao nhiêu, bấy nhiêu” mang hàm ý so sánh, ước
lượng nhưng thực chất để khẳng định sự lớn lao, cao cả không thể đo đếm, định lượng
được của người ra đi với người ở lại. Hơn nữa hình ảnh này còn gợi nhắc đến đạo lí biết ơn
“uống nước nhớ nguồn” của người Việt, gợi nhớ đến câu ca dao quen thuộc: Công cha như
núi Thái Sơn, khiến người đọc cảm nhận được tình nghĩa với Việt Bắc còn mang ý nghĩa
thiêng liêng như tình nghĩa dành cho đấng sinh thành, nuôi dưỡng. Hình ảnh này cũng hô
ứng, đồng vọng với hình ảnh “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” ở trong lời thơ trên.

Sau khúc dạo đầu bằng một lời thề thủy chung son sắt để trấn an, củng cố niềm tin
trong long. người ở lại, những kỉ niệm ồ ạt hiện về như một thước phim quay chậm:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương”.

Nghệ thuật đối lập đã vẽ lên thiên nhiên Việt Bắc ở hai thời điểm khác nhau: chiều-
đêm, hai không gian khác nhau: đỉnh núi- lưng nương, ở không gian, thời gian nào cảnh vật
hiện lên hết sức hữu tình: một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh chiều lấp ló ở
lưng nương. Nghĩa tình sâu đậm và khả năng quan sát tinh tế đã giúp nhà thơ khắc họa nên
một Việt Bắc lãng mạn, mơ màng, hiền hòa khác hẳn với một Việt Bắc khắc nghiệt được
nhắc đến một cách khiêm tốn ở lời của người ở lại. “Nhớ từng bản khói cùng
sương…….suối Lê vơi đầy”. Nhớ Việt Bắc còn là nhớ những bản làng bồng bềnh trong
sương khói, nhớ những bếp lửa nhà sàn rực hồng trong đêm lạnh để sớm khuya chờ đợi
người thương đi về, là nhớ rừng nứa, bờ tre, những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…
những cảnh vật bình dị, thân thuộc, vơi đầy nỗi nhớ. Ý thơ đầy chất lãng mạn: Sớm khuya
bếp lửa…khiến người đọc nhớ đến những vần thơ trữ tình ngọt ngào trong Tiễn dặn người
yêu- truyện thơ của dân tộc Thái: “Lửa sàn hoa để bạn trai xa hơ áo/Em chẻ đóm ngồi chờ
mồi thuốc anh yêu”. Ngọn lửa của tình yêu thương, của hoài niệm theo trùng trùng điệp điệp
liên tưởng luôn cháy bỏng trong lòng người ra đi. “Ta đi ta nhớ những ngày……chăn sui
đắp cùng”, nhớ Việt Bắc không chỉ là nhớ thiên nhiên thơ mộng, hữu tình mà còn là nhớ
những năm tháng kháng chiến gian khổ, chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ. Cuộc kháng
chiến gian khổ và thiếu thốn trăm bề, chiến trường vô cùng khắc nghiệt: mưa rừng, lũ suối
dữ dội khiến gạo trôi, sắn trôi, địch phục sau lưng, những cơn sốt rét rừng hành hạ… nhưng
chính trong khó khăn, thiếu thốn lại ngời lên vẻ đẹp thủy chung: mình đây-ta đó. Những từ
ngữ “chia- sẻ - cùng” cùng những hình ảnh vật chất bình dị: bát cơm, củ sắn, chăn sui…đã
nói lên được sự đồng lòng, chung sức, sát cánh bên nhau của đồng bào Việt Bắc và những
đồng chí bộ đội. Sự đùm bọc, sẻ chia, tinh thần đoàn kết, hi sinh tất cả vì kháng chiến ấy là
một nét đẹp quý giá của người dân Việt Bắc. Khai thác và đi sâu vào những nét đẹp truyền
thống của dân tộc chính là một trong những nét đẹp của thơ Tố Hữu. Đã trải qua chặng
đường kháng chiến gian khổ, đã sống những năm tháng nơi chiến trường Việt Bắc như vậy
nên Tố Hữu nhắc đến những kỉ niệm với tất cả niềm biết ơn, xúc động, chân thành tự đáy
lòng.

Nhớ Việt Bắc là nhớ đến những người mẹ cơ cực, vất vả, lam lũ:
“nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô” .
Dường như hình ảnh người mẹ Việt Bắc đã để lại trong lòng người chiến sĩ cách
mạng những ấn tượng sâu sắc. Ta nhớ đến hình ảnh người mẹ tóc bạc bên bếp lửa hồng
trong thơ Chế Lan Viên: Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc/ Năm con đau mế thức một mùa
dài hay bà mẹ Vân Kiều địu con giã gạo, địu con lên nương bẻ bắp trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm sau này: “Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ/ Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”. Và đến
đây hai câu thơ của Tố Hữu góp thêm 1 bức họa nữa về hình ảnh người mẹ Việt Bắc. Biết
bao gian khó, cơ cực, biết bao xót xa, yêu thương vô hạn, biết bao trân trọng, biết ơn của
người cán bộ cách mạng dành cho những hi sinh của người mẹ Việt Bắc trong lao động góp
phần nuôi giấu cán bộ, góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của dân tộc. “Nhớ sao lớp
học i tờ….núi đèo”, nhớ về Việt Bắc, những cán bộ cách mạng còn nhớ tới những sinh hoạt
văn nghệ ấm áp tình quân dân. Âm thanh i tờ ngượng nghịu của những “bình dân học vụ”,
tiếng ca hát tràn đầy tinh thần lạc quan, yêu đời vang khắp núi đèo cùng ánh sáng của
những bó đuốc tạo nên một bức tranh rực rỡ, vui tươi, át cả những bom đạn, át cả những
gian khổ hi sinh và để lại trong lòng người chiến sĩ những kỉ niệm không thể nào quên.
Không khí ấm áp tình quân dân ấy khiến ta nhớ đến 1 Tây Tiến trong những đêm liên hoan
mừng công , những đêm hội đuốc hoa rực rỡ giữa chiến trường Tây Bắc: Doanh trại bừng
lên hội đuối hoa, kìa em xiêm áo tự bao giờ…..

Có lẽ ấn tượng sâu đậm nhất đọng lại trong lòng người ra đi là hình ảnh một Việt
Bắc thanh bình, yên ả: “Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều/ Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.
Hình ảnh gợi ra là từ thời điểm hoàng hôn buông xuống cho đến lúc bản làng chìm vào
trong bóng đêm, sự hòa quyện nhịp nhàng của tiếng mõ lốc cốc quen thuộc khi đàn trâu về
nhà cùng với tiếng chày nện cối giã gạo đều đều tạo thành một bản nhạc thanh bình, yên ả.
Âm thanh của thiên nhiên hòa vào âm thanh nhịp sống của con người “gian nan đời vẫn ca
vang núi đèo” thổi hồn vào bức tranh thiên nhiên, thổi hồn vào không gian, thời gin lung linh
kỉ niệm. Tất cả kỉ niệm như một cuốn phim quay chậm, in dấu đậm nét những gì đáng nhớ
nhất. Biết bao hình ảnh, địa danh, kỉ niệm, con người được nhắc đến trong dòng hồi tưởng.
Nhưng dù kỉ niệm có dài rộng bao nhiêu cũng quy tụ trong một mạch cảm xúc chung của
chủ thể trữ tình chính là nỗi nhớ da diết, sâu nặng. Điệp từ nhớ trở đi trở lại đã diễn tả, tô
đậm điều đó. Điệp từ “nhớ” được sử dụng linh hoạt ở các đầu câu: ‘’Nhớ gì, nhớ từng, nhớ
những, nhớ sao’’ liên tiếp, hô ứng với điệp từ “có nhớ” trong lời hỏi của người ở lại. Và mỗi
câu trả lời ứng với mỗi câu hỏi. Và như thế kỉ niệm lại được nhắc lại được nhắc lại lần thứ
hai trong một chủ thể khác vừa lặp lại vừa biến đổi linh hoạt thú vị hơn. Nỗi nhớ ấy được tác
giả khái quát, so sánh bằng một câu thơ: Nhớ gì như nhớ người yêu. Nỗi nhớ trong lòng
lòng ra đi cồn cào, da diết, ám ảnh được so sánh với tình cảm thiêng liêng, thường trực của
con người là tình yêu.Và dưới con mắt của người tình nhân nên Việt Bắc hiện lên càng lung
linh, sinh động hơn. Cái hay là ở chỗ “như nhớ người yêu” chứ không phải là nhớ người
yêu. Đó là nỗi nhớ trăng, nhớ nắng, nhớ gió, nhớ bản làng, rừng núi, nhớ bếp lửa…nhưng
tất cả được phản chiếu qua độ mãnh liệt của cảm xúc và một giọng điệu dìu dặt, tha thiết,
xốn xang khiến đọc lên vẫn cảm nhận thấy đó là nỗi nhớ của tình nhân, của những đôi lứa
đang yêu. Bên cạnh điệp từ “nhớ”, giọng điệu mượt mà, tha thiết thì việc sử dụng những
hình ảnh thơ gần gũi, gợi cảm, mang đậm sắc thái thiên nhiên Việt Bắc, cách diễn tả đậm
màu sắc trữ tình phù hợp với cấu tứ của cuộc chia tay …góp phần khắc họa một không gian
Việt Bắc sinh động và đầy cảm xúc. Việt Bắc là khúc hùng ca, tình ca cách mạng, về cuộc
kháng chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc
thái dân gian….tất cả nhằm khắc sâu lời nhắn nhủ của tác giả: hãy nhớ và phát huy những
truyền thống quý báu, giàu ân nghĩa thủy chung với cách mạng.

Khi nhớ đến Việt Bắc, người ta thường nhớ đến không gian rừng núi thâm u, dữ dội,
hiểm trở, như Quang Dũng đã từng viết trong Tây Tiến: “Chiều chiều oai linh thác gầm
thét/Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” nhưng với tình yêu và sức sáng tạo mãnh liệt,
Tố Hữu đã đưa người đọc đến với một Việt Bắc hoàn toàn khác, một Việt Bắc trữ tình và
thơ mộng, một Việt Bắc say đắm lòng người:

“Ta về, mình có nhớ ta


Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Mỗi cặp lục bát là một góc nhìn, một phát hiện tinh tế của Tố Hữu về vẻ đẹp trữ tình
của Việt Bắc trong kháng chiến. Đoạn thơ hoàn chỉnh cả về nội dung và hình thức có thể
tách riêng thành một bài thơ xinh xắn hoàn chỉnh một bức tranh tươi sáng về cảnh và người
Việt Bắc. Nỗi nhớ về cảnh và người Việt Bắc nằm suốt chiều dài bài thơ nhưng được thể
hiện tập trung nhất, hàm súc nhất trong đoạn thơ này. Đoạn thơ là một bức tranh tứ bình về
Việt Bắc đẹp như cảnh thần tiên mà ai đã đọc Việt Bắc đều không thể nào quên. Trong hội
họa, ta thường bắt gặp những bức tranh tứ bình như: tùng- trúc-cúc-mai, long-li-quy-
phượng, xuân-hạ-thu-đông, ngư-tiều-canh-mục,cầm-kì-thi-họa….và trong thơ ca, ta cũng dễ
dàng bắt gặp những bức tranh tứ bình ở những nhà thơ tài hoa như trong đoạn trích “Trông
bốn bề”- Chinh phụ ngâm khúc, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”-Truyện Kiều, “Nhớ rừng” - Thế
Lữ,..những bức tranh tứ bình thường giúp nhà thơ mô tả một cách toàn diện và thâu tóm
được những gì là đặc trưng nhất. Tố Hữu vốn am hiểu rất sâu rộng về thơ ca cổ nên đã sử
dụng lối vẽ tứ bình nhuần nhuyễn trong khá nhiều bài thơ và đoạn thơ là một minh chứng.
Đoạn thơ chỉ gồm 10 câu cùng tập trung thể hiện một chủ đè, nhưng tự nó đã đạt đến sự
toàn bích cả về nội dung và hình thức. Đoạn thơ chia làm hai phần: phần 1: 2 câu như lời
mở đầu đưa đẩy trong khúc hát giao duyên, phần 2: 8 câu chia làm 4 cặp lục bát tả lại một
mùa trong năm mà một câu tả cảnh thì 1 câu tả hoạt động của con người tương ứng với
mùa đó. Khác với những đoạn thơ trước: Việt Bắc hỏi, người ra đi trả lời, đoạn thơ này chủ
thể của lời ướm hỏi lại là người ra đi: Ta về mình có nhớ ta. Vẫn là hình thức quen thuộc
trong lối nói đưa đẩy của ca dao tạo màu sắc trữ tình cho đoạn thơ, vẫn sử dụng cặp đại từ
mình-ta, vẫn giọng ướm hỏi vừa xa vừa gần vừa tình tứ. Hỏi nhưng thực chất là để khẳng
định tình cảm: Ta chẳng biết ta về rồi mình có nhớ ta không nhưng ta vẫn cứ nhớ mình.
Điệp từ “nhớ” xuất hiện hai lần nhấn mạnh tình cảm hết sức sâu nặng trong lòng kẻ ở-
người đi, tạo nhịp điệu tha thiết, êm ái phù hợp với tình cảm nhớ thương tha thiết. Mà nỗi
nhớ mới tế nhị, duyên dáng làm sao: “ Ta về ta nhớ những hoa cùng người”.
Tố Hữu đã lựa chọn rất đắt hai hình ảnh đối xứng:hoa-người. Hoa là vẻ đẹp tinh túy
của thiên nhiên Việt Bắc, kết tinh hương sắc của đất trời, tương xứng với con người- là hoa
của đất. Phải chăng “hoa” ở đây cũng là cách nói hoán dụ cho vẻ đẹp thiên nhiên và con
người Việt Bắc.

Mở đầu bức tranh tứ bình ấy là bức tranh mùa đông. Tại sao tác giả không bắt đầu
bằng bức tranh mùa xuân như trình tự vốn có? Bởi có lẽ tác giả muốn gợi đến thời điểm
sáng tác bài thơ, thời điểm chia tay Việt Bắc tháng 10/1954- mùa đông, thiên nhiên và con
người Việt Bắc lúc chia tay đã để lại ấn tượng sâu sắc với nhà thơ. Hình ảnh “Rừng xanh
hoa chuối đỏ tươi “đã mở ra hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc vào mùa đông với không gian
rộng lớn của rừng già với màu xanh trầm tĩnh, mênh mang mang đến cảm giác êm đềm,
tĩnh lặng. Trên nền rừng già trầm tĩnh ấy, bất chợt bắt gặp những bông hoa chuối rừng đỏ
tươi như những bó đuốc bập bùng cháy. Dường như chỉ hai chữ “đỏ tươi” thôi đã đủ làm
sáng rực cả bức tranh mang đến sự ấm nóng, sức sống cho bức tranh. Đặc biệt màu đỏ
tươi củ những bông hoa chuối lại được tô điểm thêm bởi những tia nắng ở câu hai làm cho
thiên nhiên vốn trầm mặc nơi đây trở nên tươi sáng, linh động Hai chữ “đỏ tươi” không chỉ
là từ ngữ chỉ màu sắc mà còn chứa đựng sự bừng tỉnh, thức tỉnh, ngỡ ngàng của thi nhân.
Màu “đỏ tươi” ấy cũng lấp lánh một niềm tin rất thật, rất đẹp. Trên phông nền hùng vĩ, tươi
tắn ấy là sự xuất hiện của con người với một nét vẽ giàu chất tạo hình: “Đèo cao nắng ánh
dao gài thắt lưng”. Tư thế con người đứng trên đỉnh núi cao, lưỡi dao- dụng cụ quen thuộc
của người đi rừng gài ở thắt lưng được ánh nắng chiếu vào lóe sáng. Tố Hữu đã sử dụng
rất đắt từ “nắng ánh” chứ không phải ánh nắng. Ánh nắng ấy đã được khúc xạ qua lưỡi dao
trở nên lấp lánh. Câu thơ tạc vào không gian núi rừng Việt Bắc tư thế hào hùng, khỏe khắn
như đang vươn tới, tư thế vững chãi, tự tin, đầy chủ động của con người trong lao động.
Thực chất đây là một hình ảnh rất quen thuộc, bình dị nhưng bằng tình yêu sâu sắc dành
cho thiên nhiên, con người Việt Bắc, tác giả đã sáng tạo nên một ý thơ khỏe đẹp một cách
diệu kì. Tư thế con người làm chủ thiên nhiên ấy sau này ta còn bắt gặp trong một ý thơ
khác của nhà thơ Tố Hữu:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh thác cheo leo
Núi không đè nổi vao vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”.
Cũng vẫn ý thơ đó nhưng nếu ở đây Tố Hữu phải dùng tới 28 chữ để diễn tả thì ở
Việt Bắc chỉ cần 8 chữ đã phác họa rõ nét, sinh động hình tượng đó. Ý thơ ấy sau này ta
cũng bắt gặp trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi: “Tôi đứng vui nghe giữa núi
đồi….”. Trước thiên nhiên con người không hề nhỏ bé, cô đơn mà hiện lên đầy chủ động,
mạnh mẽ. Chính tư thế ấy đã làm cho bức tranh mùa đông trở nên sinh động, khỏe khoắn,
ấm áp hơn. Nó phù hợp với không khí chiến thắng, diễn biến hòa bình trên chiến khu Việt
Bắc. Vậy nên nói thơ Tố Hữu mang không khí thời đại là như vậy.

“ Ngày xuân mơ nở trắng rừng”: cùng với sự chuyển đổi từ mùa đông sang mùa
xuân là sự chuyển đổi màu sắc của bức tranh: từ màu xanh trầm tĩnh của rừng già sang
màu trắng tinh khôi, trong trẻo của hoa mơ vào mùa xuân. Hai chữ “trắng rừng” tách riêng
thành một nhịp tạo cho người đọc cảm giác bung nở mãnh liệt của hoa mơ như đánh thức
cả rừng già. Cả một cánh rừng bừng sáng trong tiếng gọi của mùa xuân biểu hiện một sức
sống mãnh liệt. Trắng cả không gian “rừng” và cả thời gian “ngày xuân”. Hình ảnh này khá
quen thuộc trong thơ Tố Hữu. Trong trường ca Theo chân Bác sau này, hình ảnh rừng mơ
bừng sang cũng được tác giả sử dụng gợi tả mùa xuân đặc trưng của Việt Bắc: “Trắng rừng
biên giới nở hoa mơ”. Sắc trắng ấy gợi nhớ đến câu thơ tả mùa xuân nổi tiếng trong truyện
Kiều- Nguyễn Du: “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Đó là nét tinh tế trong tả cảnh của
Nguyễn Du. Cụm từ đảo ngữ “trắng điểm” đặc sắc nhưng vẫn mang tính chất ước lệ, tượng
trưng còn cảnh “mơ nở…” giàu chất sông, chất hiện thực hơn. Đó là sự kế thừa và sáng tạo
tinh hoa văn hóa dân tộc trong thơ Nguyễn Du. Cái sắc trắng, gam màu lạnh tinh khôi ấy có
sức ám ảnh lớn làm ngẫn ngơ người về. Vì thế người ra đi không thể không nhớ mùa xuân
Tây Bắc và càng không thể không nhớ con người Việt Bắc cần cù, uyển chuyển trong công
việc lao động, thầm lặng mà cần mẫn, tài hoa: Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
“Chuốt” là hoạt động thủ công làm bóng những sợi giang mỏng manh để đan thành những
chiếc nón tặng bộ đội để che mư nắng trên chặng đường hành quân: Ánh sao đầu súng bạn
cùng mũ nan. Chỉ một hành động nhỏ nhưng đã toát lên sự kiên nhẫn, khéo léo của con
người Việt Bắc, cảm nhận được cả những đóng góp thầm lặng của Việt Bắc cho kháng
chiến. Phải gắn bó, am hiểu sâu sắc về Việt Bắc tác giả mới có nét vẽ đó. Nỗi nhớ cảnh,
nhớ người vì thế càng nồng đượm, da diết. Hai câu thơ lưu giữ được cả sắc xuân, tình
xuân là vì thế.

“Ve kêu rừng phách đổ vàng”: Nếu thiên nhiên mùa xuân gọi dậy những ấn tượng về
thị giác thì bức tranh mùa hè ở Việt Bắc lại gọi dậy những ấn tượng về thính giác. Âm thanh
tiếng ve kêu đánh thức cả không gian núi rừng, báo hiệu mùa hè đã tới. Điểm đặc sắc ở đây
là sự chuyển đổi cảm giác thật thú vị: âm thanh về thính giác “ve kêu” lại đem đến những ấn
tượng về thị giác “rừng phách đổ vàng”. Ý thơ đem đến cho người đọc sự liên tưởng thú vị:
những ngày cuối mùa xuân, cả rừng phách còn đắm chìm trong màu xanh, những nụ hoa
còn náu trong những kẽ lá. Vậy mà khi tiếng ve ngân vang gọi mùa hè tới thì như một chiếc
đũa thần chạm vào những nụ hoa nhỏ bé khiến đồn loạt cả cánh rừng phách trổ hoa, tung
phấn lai láng, sóng sánh ánh vàng. Màu sắc tươi đẹp gọi dậy một sức sống tràn trề. Từ “đổ”
được dùng ở đây hết sức chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự chuyển biến mau lẹ của màu
sắc vừa diễn tả tài tình những đợt mưa hoa rừng phách mỗi khi có ngọn gió thoảng qua.
Trong Thơ Duyên, Xuân Diệu đã từng sử dụng chữ “đổ” tài tình: Đổ trời xanh ngọc qua
muôn lá. Nếu Xuân Diệu dùng từ “đổ” để miêu tả sự hòa hợp sắc xanh giữa lá cây và bầu
trời thì Tố Hữu lại dùng chữ này để miêu tả sự hòa hợp, tương giao giữa âm thanh và ánh
sáng. …đó chính là sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Tố Hữu. Trên nền cảnh vật rực rỡ ấy,
cô gái xuất hiện với hình ảnh: hái măng một mình. Câu thơ gieo vần lưng:gái-hái, điệp âm
“m”: măng-một-mình, đọc lên giàu chất nhạc, gợi cảm giác tươi vui, rộn ràng, ngọt ngào, trìu
mến. Nhớ về em- người con gái Việt Bắc là nhớ đến hoạt động thường ngày giản dị: hái
măng. Tuy xuất hiện một mình nhưng không hề lạc lõng, cô đơn, mà trái lại rất thơ mộng,
khỏe khoắn trẻ trung, yêu đời bởi cô đang đi giữa bản nhạc ve ngân vang giữa đại ngàn, đi
giữa sắc màu ngập tràn của rừng phạc và đang lao động vì mục đích cao đẹp: hái măng
nuôi quân. Hai chữ “một mình” vì thế không bùi ngùi, lạc lõng mà đọc lên cảm nhận thấy cái
xao xuyến, bâng khuân, trìu mến, thân thương.

“Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu
phản ánh hiện thực ấy là một bức tranh rất đỗi trữ tình” (Xuân Diệu). Bằng tài năng nghệ
thuật cùng trái tim chân thành, nhà thơ Tố Hữu đã gọi lại những nét đẹp của núi rừng và con
người Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã gọi lại những nét đẹp, tình cảm chia li của núi rừng và
con người Việt Bắc, giữa người đi và người về một cách vô cùng đặc sắc.

You might also like