thái thất thường tương phản, vừa dữ dội đã lại dịu êm vừa ồn ào đã lại lặng lẽ, một ẩn dụ cho người phụ nữ đang yêu : Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể Ở hai câu thơ đầu tiên, nhà thơ ngắt nhịp rất rõ, rất đậm, nhịp 2/3 phân đôi mỗi câu thành hai vế: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Hai câu thơ này còn có sự thay đổi luân phiên bằng trắc ở tiếng thứ 2 và thứ 5 trong mỗi câu và giữa câu trên với câu dưới. Các căp từ: dữ dội – dịu êm, ồn ào- lặng lẽ đều là tính từ ở hai sắc thái đối nghịch. Thông thường để nối những từ tương phản người ta thường dùng những từ gợi sự tương phản đối lập như từ nhưng, từ mà. Xuân Quỳnh rất tinh tế, đã không dùng từ nhưng mà dùng từ và để kết nối sự tương phản. Với cách ngắt nhịp, dùng từ, phối thanh đó nhà thơ đem đến cho ta cảm nhận những sự tương phản hàm chứa trong nhau, song hành đồng thời cùng lúc. Những nét tương phản thuộc về bản chất của sóng. Trên thực tế mặt biển có lúc lặng lẽ êm đềm, có lúc ồn ào cồn cào bão tố. Và đã là sóng, bao giờ cũng có những trạng thái đối cực, luôn chuyển động chuyển hóa. Những con sóng từ ngoài khơi xa tìm về vỗ vào bờ cát, tiếng sóng vỗ ồn ào dữ dội nhưng rồi tan ra lan tỏa dịu êm lặng lẽ trên cát. Đó là sắc thái muôn đời của sóng qua cảm nhận của nhà thơ. Với cách dùng những tính từ chỉ các cung bậc, trạng thái cảm xúc, nhà thơ đã nhân cách hóa sóng . Con sóng trong thơ Xuân Quỳnh là một hình tượng nghệ thuật được miêu tả sinh động có hồn, có tính cách, tâm trạng. Hai câu thơ sau, nhà thơ còn có phát hiện khác về sóng trong chiều không gian. Sóng có nỗi niềm khát khao, hướng ra không gian biển cả.
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể Có hai cách hiểu với hai dòng thơ trên. Nếu đó là câu ghép thì sông là chủ ngữ, chủ thể , nghĩa của nó là: sông không hiểu sóng thì sóng sẽ tìm ra tận bể, để tìm sự đồng điệu, sự tri âm thật lớn lao nơi biển lớn, cho dù biển có sóng gió bão tố. Hiểu câu thơ theo nghĩa này, sóng mang một niềm khao khát giao cảm, khao khát sự tri âm tri kỉ. Tuy nhiên nếu coi sông là trạng ngữ chỉ địa điểm, ta có thể hiểu hai câu thơ theo nghĩa khác. Ở sông, sóng không thể hiểu nổi mình, sóng tìm ra tận bể, ra không gian mênh mông, để vẫy vùng. Sông và bể, hai hình ảnh của không gian có sức gợi riêng. Hình ảnh sông gợi không gian nhỏ hẹp. Dẫu là con sông sâu nhất cũng không thể sâu bằng lòng biển. Hình ảnh bể(biển) gợi không gian lớn lao bát ngát thẳm sâu, cuộc đời rộng lớn. Trong sông chật hẹp, sóng không thật là mình. Sóng phải tìm đến không gian mênh mông hơn, mạnh mẽ phóng khoáng hơn, để thử sức, để trải nghiệm, kiểm nghiệm về bản thân, để được sống thực với trái tim mình. Những con sóng theo sông đổ ra biển được nhìn nhận như là một hành trình của sóng , khao khát những khoảng không gian rộng lớn . Ở đó sóng ó thể tìm thấy những sự cảm thông chia sẻ, , sóng có thể được sống thực với trái tim mình, để hiểu mình hơn. Sóng hiện lên thật là cứng cỏi đầy bản lĩnh, không bằng lòng với những gì đã có, đã biết về bản thân về cuộc đời, dám dấn thân. Những trạng thái thất thường của sóng như thế, sự hàm chứa trong sóng những trạng thái tương phản đối lập như thế khiến cho nhà thơ liên tưởng tới những trạng thái tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Giống như sóng, tình yêu cũng luôn thất thường. Trái tim người phụ nữ khi yêu hàm chứa nhiều sắc thái cung bậc, có vui có buồn, có yêu thương có hờn giận, vừa vui đấy đã lại buồn… Tất cả đều có thể tồn tại trong trái tim yêu. Tại sao lại như vây? Vì trái tim người phụ nữ rất nhạy cảm, đòi hỏi sự tinh tế của người yêu . Trái tim người phụ nữ khao khát yêu và được yêu thương. Cho nên chỉ một chút hững hờ, vô tâm thoáng qua cũng có thể làm cho trái tim đang vui bỗng buồn, đang gần gũi thành xa xôi. Nhưng chính những sắc thái phong phú, thất thường của trái tim người phụ nữ trong sự liên tưởng với hình tượng sóng, chính nó lại làm nên vẻ đẹp có sức hấp dẫn của người phụ nữ trong tình yêu. Nếu như có một sự cần bằng về cảm xúc trong trái tim thì khi đó ở người phụ nữ dần đến lãnh cảm, không còn tình yêu. Trong một bài thơ khác, Xuân Quỳnh có nói: tình yêu muôn thuở - có bao giờ đứng yên. Qua hai câu thơ đầu, nhà thơ đã thể hiện nhận thức một điều tình yêu ở người con gái phong phú như sóng, thất thường như sóng. Tình yêu là sự thống nhất của những trạng thái đối lập. Người phụ nữ cũng như sóng bao giờ cũng khao khát một bến bờ bình yên nhưng cũng rất cứng cỏi, đầy bản lĩnh. Họ có thể bất chấp tất cả, thậm chí có thể phá vỡ những bến bờ quen thuộc nhưng không có sự đồng cảm, thiếu vắng sự tri âm để tìm đến sự tri âm đồng điệu lớn lao nơi biển cả, nơi cuộc đời rộng lớn cho dù biển đầy sóng gió thậm chí là bão tố, cuộc đời rộng lớn không ít những trở ngại. Như vậy ta thấy một vẻ đẹp khác của sóng, của người phụ nữ trong tình yêu đó là sự chủ động, đầy kiêu hãnh đầy bản lĩnh mà cội nguồn là niềm khát khao mãnh liệt về một sự tri âm tri kỉ trong tình yêu, dám sống với niềm khát khao nồng nàn nóng bỏng của mình trong tình yêu. Người phụ nữ cũng như sóng, không chấp nhận những không gian chật hẹp tù túng, những giới hạn luật lệ ràng buộc trong tình yêu . Họ muốn được là mình với tất cả những khát khao trong tình yêu. Dù hiểu theo cách nào thì ta vẫn thấy một nét đẹp của người phụ nữ luôn khao khát hướng tới sự lớn lao cao cả phóng khoáng trong tình yêu. Khổ thứ hai là khám phá phát hiện về sóng trong chiều thời gian. Khổ thơ đầy cảm xúc bởi được mở đầu bằng từ “ ôi”. Nó biểu đạt trực tiếp tâm tư của nhân vật trữ tình khi nhìn sóng và nhận ra: Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ. Hai khái niệm thời gian: ngày xưa, ngày sau mang ý nghĩa tiếp nối nhưng đối lập: Ngày xưa chỉ quá khứ, ngày sau chỉ tương lai. Nếu gắn hai chũ “ vẫn thế”mang nghĩa khẳng định với khổ thơ nó đem lại cho chúng ta ý niệm về sự vĩnh hằng của sóng, Những con sóng cứ mãi cồn cào dào dạt trong lòng biển, vẫn cứ đầy biến động, không ở yên một chỗ bao giờ.Nếu gắn hai chữ “ vẫn thế với hai câu thơ cuối , nó đem đến cho ta cảm nhận sóng mang trong mình khát vọng về tình yêu. Ngày xưa sóng khao khát yêu và được yêu, ngày sau vẫn mang niềm khát khao ấy. Khát vọng tình yêu làm cho trái tim đập những nhịp đập bất thường, “ bồi hồi” trong lồng ngực. Từ láy bồi hồi diễn tả trạng thái xao xuyến, rạo rực, bồn chồn nỗi nhớ mong tình yêu được đáp lại. Trạng thái đó luôn có ở những người khao khát yêu và được yêu. Lời thơ giản dị nhưng có màu sắc triết lí, tình yêu là khát vọng muôn đời của tuổi trẻ, những trạng thái của con người tuổi trẻ khi yêu muôn đời vẫn thế, và khát vọng tình yêu làm cho tâm hồn con người trẻ trung. Đem khát vọng tình yêu của mình soi vào sóng, người phụ nữ nhận ra sự tương đồng đó là chưa bao giờ thôi khao khát yêu và được yêu. Khát vọng yêu sẽ đi cùng năm tháng, cả khi “ cuộc đời không còn nữa”. Xuân Diệu đã từng nói: Làm sao sống được mà không yêu- không nhớ không thương một kẻ nào” . Tình yêu là muôn đời giống như những con sóng vĩnh hằng trong lòng biển : Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ. Tình yêu là nguồn gốc của mọi khát vọng. Chính Xuân Quỳnh đã nghĩ như vậy. Còn Xuân Diệu thì coi tình yêu là biểu hiện mãnh liệt nhất, tuyệt vời nhất của niềm giao cảm. Khát vọng tình yêu luôn gắn với tuổi trẻ như là quy luật. Tình yêu làm cho con người luôn tươi trẻ. Đây quả là một nhận thức có tính triết lí về một trong những điều lạ lùng kì diệu của tình yêu. Hai khổ thơ đầu nói về sóng, sóng được nhân cách hóa để trở thành một hình ảnh ẩn dụ cho người phụ nữ khao khát yêu và được yêu. Sóng là hóa thân của của tôi trữ tình Xuân Quỳnh trong tình yêu. Thông qua hình tượng sóng, nhà thơ đã diễn tả sâu sắc những cung bậc sắc thái cảm xúc của người phụ nữ đang yêu cũng là của chính mình, đồng thời cũng gợi đến chiều sâu triết lí rất nhân bản.