(trích trường ca “Mặt đường khát svọng”– Nguyễn Khoa Điềm
1.Kiến thức chung về tác giả, tác phẩm:
1.1.Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Lê Anh Xuân, Lâm Thị Mĩ Dạ,... Đây là lớp nhà thơ trẻ trưởng thành từ ghế nhà trường, không chỉ có trình độ văn hóa, niềm say mê lí tưởng mà còn trực tiếp có mặt trong cuộc kháng chiến anh hùng của dân tộc. Họ tự ý thức cao về trách nhiệm của tuổi trẻ với đất nước. Những trang thơ của họ nóng bỏng nhiệt tình yêu nước và hiện thực kháng chiến của nhân dân. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc. 1.2.Tác phẩm 1.2.1.Đề tài Đất nước là một đề tài phong phú của thơ ca Việt Nam. Trước Nguyễn Khoa Điềm có nhiều bài thơ hay, nhiều nhà thơ thành công khi viết về đề tài này: + Đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. + Đất nước cổ kính, mang hồn dân gian Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm. + Đất nước hóa thân trong dòng sông xanh đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh. + Đất nước hài hòa trong dáng hình quê hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam. + Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được một cách nói riêng để chương thơ Đất Nước của ông đem đến cho bạn đọc những rung cảm mới về quê hương đất nước: ĐẤT NƯỚC CỦA NHÂN DÂN. 1.2.2. Xuất xứ Đoạn trích”Đất Nước” thuộc phần đầu chương V, trường ca "Mặt đường khát vọng". Trường ca gồm 9 chương: Lời chào, Báo động, Giặc Mĩ, Tuổi trẻ không yên, Đất Nước, Áo trắng, Xuống đường, Khoảng lớn âm vang, Báo bão. 1.2.3.Hoàn cảnh sáng tác Trường ca được viết tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt mà bản thân nhà thơ trực tiếp có mặt. Lúc này, Mĩ chuẩn bị leo thang chiến tranh ra miền Bắc. Ở miền Nam, chúng tuyên truyền cho thanh niên lối sống ích kỉ, phản động: "Nơi nào sung sướng, nơi ấy là Tổ quốc tôi" và "Biên giới Hoa Kì kéo dài đến tận miền Nam Việt Nam". => Nguyễn Khoa Điềm viết trường ca để kêu gọi sự thức tỉnh của thanh niên, tuổi trẻ các vùng địch tạm chiếm ở miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, xuống đường, hòa nhịp vào cuộc kháng chiến của dân tộc. 1.2.4.Bố cục: "Đất Nước" gồm hai phần: - Phần đầu: Những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ của nhà thơ về Đất Nước (Đất Nước có từ bao giờ? Đất Nước là gì?) - Phần hai: Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân (Ai đã làm ra Đất Nước? )
2. Phân tích tác phẩm:
2.1. Những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước 2.1.1. Đất Nước có từ bao giờ?(9 dòng thơ đầu) - Nói về sự ra đời của đất nước, nhà thơ không điểm lại các vương triều lừng lẫy trong lịch sử, không kể về những người anh hùng với chiến công chói lọi được ghi trong sử sách , cũng không sử dụng những hình ảnh mang tính trang trọng, thiêng liêng như "thiên thư" hoặc "một mối xa thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa",... Nguyễn Khoa Điềm nói về sự ra đời của đất nước một cách thật giản dị: "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa… mẹ thường hay kể". Câu thơ như một lời khẳng định ngắn gọn, giản dị mà gợi lên biết bao xúc động thiêng liêng. + Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi: "Ta" vừa là nhân vật trữ tình vừa là mỗi chúng ta, những người dân đất Việt. Khi ta lớn lên, trưởng thành trong sự che chở, nuôi dưỡng của cha mẹ, quê hương thì Đất Nước đã có rồi. + Đã có rồi: gợi ra chiều dài lịch sử của đất nước. Đất Nước có từ ngàn xưa, từ thời khai thiên lập địa, từ thời huyền thoại cổ tích, khi Lạc Long Quân và Âu cơ, đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng, các vua Hùng góp phần dựng nên đất tổ Hùng Vương... + Dù chưa hiểu Đất Nước với khái niệm trừu tượng như cương vực lãnh thổ, chủ quyền, nhưng mỗi chúng ta cũng đã cảm nhận được Đất Nước rất gần gũi qua những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích mẹ thường kể từ thuở nằm nôi. "Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể". Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" mang điệu hồn của những câu chuyện huyền thoại, đưa ta về một thuở rất xa khi đất nước phôi thai. + Chỉ một ý thơ, một nhịp kể đầm ấm “ngày xửa ngày xưa...”của mẹ, đất nước đã hiện lên trong không khí huyền thoại, cổ tích. Với không khí cổ tích đó, đất nước trở nên thiêng liêng, kì diệu, thanh bình, xa xăm. Thế giới cổ tích với ông bụt, bà tiên, phép nhiệm màu, giấc mơ hạnh phúc, công lý đã làm nên sự trường tồn xa xăm của ĐN: "Nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện/ Sẽ được nhìn thấy các bà tiên/ Thấy chú bé đi hài bảy dặm/ Quả thị thơm cô Tấm rất hiền" . + Những từ "bắt đầu", "lớn lên" tuy không xác định thời gian cụ thể, nhưng lại khẳng định quá trình hình thành lâu đời của đất nước. - Đất nước tươi đẹp, thanh bình như huyền thoại của chúng ta đã có từ lâu đời. Vậy, đất nước được hình thành từ đâu? Đất nước được hình thành từ phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống, lối sống cao đẹp của dân tộc: + Trước hết, sự hình thành Đất Nước gắn liền với thuần phong mĩ tục: Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Tóc mẹ thì bới sau đầu Hình ảnh miếng trầu bà ăn gợi nhắc truyền thống phong tục tốt đẹp của người Việt . Bởi “miếng trầu bay giờ bà ăn” là sự hóa thân của tình nghĩa anh em yêu thương gắn bó, tình cảm vợ chồng son sắt chung thủy.Không có sự hóa thân kì diệu của tình nghĩa sẽ không có sắc thắm của miếng trầu, không có vẻ đẹp thuần phong mĩ tục ngàn đời của đất nước. Hình ảnh “tóc mẹ thì bới sau đầu” đơn sơ, bình dị , vừa gợi tả được vẻ đẹp giản dị, duyên dáng của người phụ nữ VN vừa khẳng định phẩm chất chịu thương chịu khó, đức tính cần cù của những người mẹ vất vả một nắng hai sương nuôi con khôn lớn. Ca dao xưa đã từng ngợi ca vẻ đẹp nên thơ của người phụ nữ Việt qua hình ảnh "bới tóc" thân thương: "Tóc ngang lưng vừa chừng em bới Để chi dài bối rối dạ anh" =>Những thứ nhỏ bé thân thương ấy đã làm nên phong tục, làm nên Đất Nước của mỗi chúng ta. +Sự hình thành Đất Nước còn gắn với truyền thống nghĩa tình chung thủy: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”: Câu thơ được nhào nặn bởi chất liệu văn hóa dân gian. Từ thành ngữ quen thuộc "muối mặn gừng cay” đến ca dao “Tay nâng đĩa muối chén gừng / gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” đã có sự hòa trộn kì diệu để làm nên ý thơ giản dị mà sâu xa. Hình ảnh “muối mặn, gừng cay” gợi nhắc tới nghĩa tình vợ chồng chung thủy, đồng cam cộng khổ. Dẫu cuộc đời trăm đắng ngàn cay, nhưng nghĩa tình chồng vợ vẫn vẹn nguyên mặc cho vật đổi, sao rời: “Muối đã mặn nghìn năm vẫn mặn / Gừng đã cay muôn thuở vẫn còn cay/ Đôi ta nghĩa nặng tình dày/ Dẫu xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa". Tình nghĩa yêu thương, chung thủy của mẹ cha là một yếu tố làm nên diện mạo tinh thần của Đất Nước. +Đất nước còn hiện lên thật bình dị, thân thương qua những cái thuần Việt: “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi tả một nét đẹp trong đời sống văn hóa dân tộc. Người Việt Nam đặt tên con không cầu kì, xa lạ, kiểu cách. Họ lấy ngay những bộ phận của ngôi nhà đặt tên cho con cái. Những cái kèo, cái cột vô tri, bỗng trở thành tên gọi của những đứa con. Những cái tên nôm na, dân dã (kèo, cột) gợi nhắc một yếu tố văn hóa của người Việt (người Việt có truyền thống dựng tre làm nhà để ở) đồng thời cho thấy sự gắn bó tha thiết của họ với ngôi nhà thân thuộc cũng như cũng như cuộc sống nghèo khó, sự mộc mạc, chân chất của người dân Việt Nam. => Như vậy, truyền thống văn hóa lâu đời của nhân dân: miếng trầu dung dị của bà, mái tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên cái kèo, cái cột dân dã, đến tình yêu thủy chung qua gừng cay muối mặn của cha mẹ. Tất cả những điều tưởng bình dị ấy đã trở thành nếp sống, phẩm chất tốt đẹp, thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam. +Sự hình thành Đất Nước gắn liền với truyền thống lao động vất vả, cần cù và truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm: Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Lời thơ gợi nhớ truyền thuyết thánh Gióng nhổ tre làng đánh giặc Ân thuở xa xưa và hình ảnh cây tre Việt Nam trong các cuộc chiến tranh vệ quốc. Cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam, một dân tộc trải qua nhiều đau thương, máu lửa, luôn phải đương đầu với kẻ thù tàn bạo nhất, nhưng luôn kiên cường, bất khuất, anh dũng bảo vệ quê hương, xứ sở. Có thể nói, trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc, cây tre đã góp phần làm nên chiến thắng: "Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre! Anh hùng lao động. Tre! Anh hùng chiến đấu" (Thép Mới). Với truyền thống quý báu đó, Đất Nước ngày càng lớn lên, trưởng thành vững mạnh. Hai từ "lớn lên" được dùng thật đơn sơ, giản dị nhưng đã thổi vào đất nước của chúng ta một linh hồn, một trái tim, một hơi ấm nồng nàn, chứa chan sự sống. Có thể nói, truyền thống yêu nước bền bỉ, kiên cường giữ nước luôn được khơi dậy qua những lời kể êm ấm, huyền diệu của mẹ trở thành hồn thiêng dân tộc. + Ngoài truyền thống yêu nước, truyền thống lao động cũng tạo nên sự hình thành đất nước. "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần sàng" Một nắng hai sương là thành ngữ chỉ sự gian nan, vất vả cực khổ, nhọc nhằn lam lũ. Xay, giã, giần, sàng,... diễn tả những công việc nhọc nhằn mà người nông dân đã trải qua để làm ra hạt gạo. Ông bà, cha mẹ chúng ta đã phải trải qua bao gian nan "một nắng hai sương", đã đổ bao mồ hôi với bao công việc của nhà nông nhọc nhằn "xay, giã, giần, sàng,..." mới làm ra hạt gạo dẻo thơm. Hạt gạo là vật chất cũng là sự sống, là cội nguồn văn hóa dân tộc. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê kết hợp việc sử dụng thành ngữ dân gian "một nắng hai sương" gợi ra cuộc sống vất vả, nhọc nhằn và phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó của người Việt. Truyền thống lao động tốt đẹp của nhân dân cũng là một phần của hồn nước. * Tóm lại, chín dòng thơ đầu là cảm nhận về sự hình thành và phát triển lâu đời của đất nước. Nhà thơ không điểm lại các vương triều nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, không nói về những người anh hùng với chiến công chói lọi; cũng không định nghĩa về Đất Nước bằng những khái niệm trừu tượng, kì vĩ, cao siêu như "thiên thư", "nhật nguyệt", "một mối xa thư đồ sộ" như các nhà văn, nhà thơ trước đó mà Đất Nước được cảm nhận rất cụ thể trong những cái gần gũi hàng ngày: miếng trầu, hạt gạo,... trong những gương mặt dung dị đời thường của nhân dân, trong mối quan hệ ruột thịt thân thương: ông bà, cha mẹ , ngay trong mái nhà của mỗi chúng ta cũng hiện diện Đất Nước, ẩn trong đó là tình yêu nước thiết tha, niềm tự hào về Đất Nước thân thương, gần gũi. Cách cảm nhận ấy đã đem đến cho ta những nhận thức sâu sắc, mới mẻ về đất nước: Đất Nước không trừu tượng, không xa xôi, đất nước kết tinh trong cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta; đất nước hiện diện trong cuộc sống muôn màu của nhân dân lao động, thật gần gũi, thiêng liêng mà bình dị biết bao! * Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu văn hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc. Những chất liệu văn hóa dân gian ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa kì diệu, đủ sức gợi lên được hồn thiêng sông núi. Điều đó, không chỉ đơn thuần là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là tiếp thu có sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân, tư tưởng chủ đạo của chương thơ đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. 2.1.2. Đất Nước là gì? - Mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với một người con gái yêu thương, nhà thơ định nghĩa Đất Nước theo cách riêng của mình. Vận dụng tính đơn lập của âm tiết tiếng Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã tách Đất Nước thành hai thành tố Đất và Nước để có thể đi sâu vào khái niệm, biến khái niệm Đất Nước trừu tượng thành cụ thể, sinh động, gợi cảm. "Đất là nơi anh đến trường .....................nhớ thầm" + Nếu ở 9 câu thơ mở đầu chương ĐN, NKĐ có công đưa đất nước từ trời cao thượng đế, từ ngai vàng vua chúa xuống miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ, xuống hạt gạo một nắng hai sương, xuống cái cột, cái kèo trong nhà ta ở... thì trong những câu thơ trên, NKĐ đã cụ thể hóa Đất Nước để thấy nó rất gần gũi, thân quen, gắn bó với mỗi con người. ĐN không trừu tượng, xa xôi, Đất Nước là không gian bình dị, thân thuộc, gắn bó với cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta: Mái trường quê hương, nơi gắn bó với con người suốt một thời thơ ấu, nơi có bao gương mặt thầy cô dịu dàng nhân hậu, nơi có bạn bè vô tư, hồn nhiên, trong sáng tuổi thần tiên, nơi dạy ta biết yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ. Nơi anh đến trường, nơi ấy là Đất. Còn nơi em tắm,nơi có dòng sông xanh thăm thẳm, hiền hòa, nơi có nước gương trong soi tóc những hàng tre với cây đa, bến nước, con thuyền nhỏ nhoi đang lững lờ xuôi mái, nơi ấy là Nước. ĐN hiện hình cụ thể, riêng biệt mà rất đỗi quen thuộc: mái trường tuổi ấu thơ, con đường hàng ngày đi học, cây đa, bến nước, dòng sông tươi mát, hiền hòa đều là hình ảnh của Đất Nước chúng ta. + Đất Nước là không gian thiêng liêng, gắn liền với tình yêu đôi lứa: Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. Nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm, đó là không gian riêng tư, không gian gắn liền với tình yêu đôi lứa. Ở không gian đó, anh và em đã lần đầu hò hẹn, đã trao cho nhau những rung động thầm kín của mối tình đầu, để từ ngày đó, em biết thương, biết nhớ, biết gửi vào chiếc khăn tay kỉ niệm bao rung động thổn thức của trái tim yêu buổi ban đầu.Như vậy, ĐN là một phần tinh thần không thể thiếu, không thể tách rời với mỗi con người. Nó không chỉ là mảnh đất sinh ra ta, nuôi ta khôn lớn hàng ngày mà còn là quê hương của tinh thần, của tình yêu. Không gian ấy trở nên thật thiêng liêng, kì diệu, chỉ hai người biết, chỉ hai người hay, chỉ thuộc về trái tim của hai con người đã từng yêu và nhớ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm có sự gặp gỡ với những cảm nhận đầy sâu sắc của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn: "Nếu anh đi với người yêu Chỉ xin anh nhớ một điều nhỏ thôi Con đường ta đã dạo chơi Xin đừng đi với một người khác em Hàng cây nay đã lớn lên Vươn cành để lá êm đềm chạm nhau Hai ta ai biết vì đâu Hai con đường sẽ xa nhau xa hoài Nếu cùng người khác dạo chơi Xin anh hãy tránh nẻo vui ban đầu" . (Con đường) Có thể nói,trong phần sâu thẳm trái tim mỗi con người, Đất Nước đã trở thành kỉ niệm,là kho báu đầy ắp kí ức thân thương. Câu thơ: Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm được Nguyễn Khoa Điềm sáng tạo từ bài ca dao ngọt ngào, đằm thắm: "Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai Khăn chùi nước mắt". Cách vận dụng sáng tạo chất liệu dân ca làm cho ý thơ đạt đến độ liên tưởng lắng đọng bất ngờ, hàm súc, sâu xa. Từ thuở xa xưa nào, những cô gái Việt dịu dàng, kín đáo, sâu sắc đã gửi trọn niềm thương, nỗi nhớ người yêu vào chiếc khăn tay. Nỗi nhớ tha thiết, bâng khuâng ấy làm nên một phần diện mạo tinh thần đất nước. Ngày nay, chiếc khăn tay vẫn là nơi em gửi trọn nỗi nhớ anh. Và thật kì diệu, không gian em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm đã trở thành Đất Nước_ Đất Nước tình yêu. Một không gian rất thầm kín, rất riêng tư, chỉ hai người biết, chỉ hai người hay, thật thiêng liêng, xúc động. Trên hành trình tìm lời định nghĩa về ĐN, tác giả đã mượn phép biến ảo của thơ ca để chơi trò tách chữ Đất là… Nước là.., rồi ghép nhập Đất Nước là… Trò chơi ngôn từ thông minh ấy đã tạo ra những kiểu câu định nghĩa bất ngờ: Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm. Những câu thơ định nghĩa về Đất Nước mà cứ rưng rưng những kỉ niệm, hồi hộp những tâm tình. Sự vỡ tách và ghép nhập 2 âm tiết Đất và Nước gợi lên một chiều sâu suy tưởng : ĐN là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân, to lớn và nhỏ bé, hiện thực và huyền thoại ..... ĐN nằm trong sự sống, tình yêu, trái tim mỗi con người. + Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lí giải: "Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi" Lấy ý từ câu hát dân gian Bình Trị Thiên ngọt ngào sâu lắng: "Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc - Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi - Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời - Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh", câu thơ đưa người đọc về với những không gian đất nước thân thương. Những từ "núi bạc", "biển khơi",...mang âm hưởng dân gian gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Đất nước không chỉ được đo bằng chiều dài cương vực lãnh thổ mà được đo bằng cả khúc ca ngọt ngào, bằng sự ngân vang của câu hát. Đất nước ta là đất của rừng vàng, là nước của biển bạc. Thật trù phú, tươi đẹp, yên ả, thanh bình. Sự mênh mông giàu đẹp đó không phải tự nhiên mà có. Nó gắn liền với thời gian đẵng đẵng, dài lâu, liên tục, bền bỉ, mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, xương máu để xây dựng, bảo vệ bờ cõi đất nước thành dải đất chữ S cho dân mình đoàn tụ trong yêu thương, tự hào. Từ "đằng đẵng" gợi ra chiều dài, chiều sâu trong lịch sử dân tộc. Trong suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước ấy, đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng biết bao thế hệ người dân Việt: "Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng". Ở đoạn thơ này, những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết như Chim, Rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng cùng tụ về trong trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên - trai tài, gái sắc. Đất Nước ta là nơi đất lành Chim về, là đất thiêng nơi Rồng ở. Dân tộc Việt là anh em một nhà cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. => Một dân tộc có cội nguồn văn hóa, có truyền thống lâu đời, rất đỗi thân thương như thế chính là Đất Nước của Nhân Dân. + Đất nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan mà tươi rói cảm xúc. Bởi đất nước không chỉ là sự thống nhất của các yếu tố lịch sử, địa lí, văn hóa, phong tục,...mà đất nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện, là sự tiếp nối của các thế hệ từ quá khứ "những ai đã khuất" đến hiện tại "những ai bây giờ" và tương lai "yêu nhau và sinh con đẻ cái". Vì thế, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân đều phải gắn bó với đất nước. Đặc biệt, trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề mà cha ông giao lại, vừa phải dặn dò con cháu chuyện mai sau một cách ân cần, chu đáo để các thế hệ sau sẽ tiếp tục đưa đất nước đi xa đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh: Hàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Vì sự mưu sinh, mỗi người có thể làm ăn, lập nghiệp ở bất cứ nơi đâu. Nhưng trong thẳm sâu tâm hồn mỗi chúng ta đều mang trong hồn dòng máu Việt. Trong những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó với quê hương đất nước lại trỗi dậy nồng nàn. Vì thế, dù ăn đâu làm đâu, cũng không bao giờ được quên ngày giỗ Tổ. Hai chữ "cúi đầu" trong câu thơ đong đầy thành kính, thiêng liêng, đem đến cảm nhận: dường như mọi thế hệ người dân Việt, từ những ai đã khuất đến những ai bây giờ đều im lặng cúi đầu hướng về nguồn cội, tổ tiên; đúng như ông bà ta từng căn dặn con cháu: "Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba". - Từ sự gắn bó sâu sắc của nhân dân với đất nước, nhà thơ phát hiện một chân lí giản dị mà sâu sắc: Đất Nước là sự thống nhất của nhiều yếu tố, cái riêng và cái chung, cá nhân và cộng đồng, cái hàng ngày và cái vĩnh hằng: "Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước" Anh và em là những cá nhân trong cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Đời sống tâm hồn, tình cảm, nhân cách, trí tuệ của mỗi cá nhân đều có một phần đất nước ở trong mình. Điều đó có nghĩa, đất nước không xa lạ, trừu tượng mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi người. Bởi mỗi người đều mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương, được thừa hưởng di sản văn hóa vật chất, tinh thần của nhân dân; từ phong tục, tập quán, truyền thống, lối sống đến ngọn lửa, hạt gạo, ngôn ngữ, tiếng nói thân thương và mang trong mình tính cách, phẩm chất tiêu biểu của dân tộc: Cần cù, chăm chỉ, chịu thương chịu khó, giàu lòng yêu nước, sống ân nghĩa, thủy chung. Với giọng thơ tâm tình, lối xưng hô anh em tha thiết, nhà thơ như nhắn nhủ: Đất Nước không chỉ tồn tại khách thể mà đã hóa thân trong mỗi người, trở thành một phần tâm hồn, trí tuệ mỗi người, của anh và em. Sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh cộng đồng là tư tưởng chung của thời đại: "Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn to lớn". Tình yêu lứa đôi riêng tư đã mang trong nó vẻ đẹp hài hòa, nồng thắm của tâm hồn dân tộc. Khi chúng ta cầm tay nhau, cái riêng tư của tình yêu đôi lứa gắn bó với cái chung của tình yêu đất nước, đất nước trong chúng ta trở nên "hài hòa nồng thắm", bền chặt và đầy sức sống. Khi chúng ta cầm tay mọi người, liên kết gắn bó với cộng đồng tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc, đất nước vẹn tròn to lớn, có sức mạnh, tầm vóc, trường tồn và phát triển. Anh và em là thế hệ hôm nay, con ta là thế hệ mai sau. Con sẽ mang Đất Nước đi xa "đến những tháng ngày mơ mộng". Đất nước sẽ tươi đẹp hơn, hạnh phúc hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại này sẽ trở thành hiện thực ngày mai. - Từ sự cảm nhận sâu sắc, mới mẻ về đất nước, kết thúc phần một, tác giả bày tỏ thái độ đầy trách nhiệm của mỗi cá nhân, cộng đồng trong việc giữ gìn, bồi đắp cho đất nước bền vững muôn đời: "Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời"… "Em ơi em" là lời nhắn nhủ tâm tình ngọt ngào, tha thiết như được cất lên từ trái tim. Tình yêu đôi lứa đã hòa quyện với tình yêu đất nước đầy nhiệt tình, cháy bỏng. "Đất Nước là máu xương của mình" nghĩa là đất nước được xây dựng, bảo vệ bằng máu xương của nhân dân qua trường kì lịch sử. Đất nước là sinh mệnh, là sự sống của mình, phải biết quý trọng, gìn giữ, gắn bó, yêu thương. Câu thơ như một định nghĩa ngắn gọn, được chia thành hai vế song đọc lên ta thấy rưng rưng một niềm xúc động tưởng như trong con tim, khối óc, trong từng tế bào cơ thể của sự sống chúng ta đang có dòng máu nóng của trái tim đất nước đầy nhiệt huyết, sôi trào. Vì thế, trách nhiệm với đất nước cũng là trách nhiệm với chính bản thân mình. Mỗi chúng ta phải tự nhiên gắn bó với đất nước bằng tình cảm thiết tha, dù đi đâu, làm gì, "ăn đâu làm đâu cũng phải hướng về đất nước. Không những thế, mỗi chúng ta phải san sẻ với cộng đồng bằng ý thức trách nhiệm, gánh vác một phần trách nhiệm với đất nước "khi Tổ quốc cần", đồng thời, còn phải biết hóa thân bằng hành động hi sinh cho đất nước. Chữ "hóa thân" được nhà thơ dùng không chỉ phù hợp với màu sắc dân gian lấp lánh sắc màu huyền thoại của chương thơ mà còn diễn tả sâu sắc sự tự nguyện dâng hiến trọn vẹn, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bất tử hóa cùng non sông đất nước của mỗi người dân. Điệp ngữ "phải biết" vừa như một mệnh lệnh, lại vừa như tiếng nói thúc giục của con tim tạo thành chất chính luận trữ tình sâu lắng của lời thơ. * Tóm lại, được bao bọc trong không khí của văn học dân gian, hình tượng Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hiện lên thật thơ mộng, trữ tình như từ xa xưa vọng về, bình dị mà thân thương, gắn bó tha thiết với mỗi con người . Nhà thơ định nghĩa về Đất Nước bằng thơ- Lời thơ vừa lấp lánh sắc màu huyền thoại dân gian, vừa lung linh vẻ đẹp của trí tuệ, vừa thiết tha cảm xúc, tạo nhiều âm vang trong lòng người đọc. Nếu Đất nước - Nguyễn Đình Thi mang đậm sắc thái hiện đại, gắn liền với chiều dài của cuộc kháng chiến chống Pháp đau thương, anh dũng và chiến thắng, thì Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm đậm đà phong vị dân gian, gắn với cội nguồn văn hóa dân tộc. Cùng tỏa sáng tình yêu và niềm tự hào với đất nước, nhưng mỗi bài thơ có vẻ đẹp riêng khiến cho cảm hứng về quê hương, đất nước trở nên đa dạng, hấp dẫn. 2.2. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân Nếu ở phần đầu tác giả nói về lịch sử đất nước cùng lối định nghĩa đất nước bằng thơ theo cách riêng của mình thì 47 dòng thơ tiếp theo, nhà thơ đi sâu vào tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân trên tất cả các bình diện: không gian địa lí, thời gian lịch sử và văn hóa phong tục của nhân dân. 2.2.1. Nhìn ở phương diện địa lí - Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân dẫn nhà thơ đến một cách nhìn mới mẻ có chiều sâu về địa lí. Người đọc được tiếp nhận một phát hiện mới mẻ rất thú vị về những danh lam thắng cảnh trên đất nước ta như Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như hòn Vọng Phu, núi Bút, non Nghiên; những di tích lịch sử như làng Gióng, đất Tổ. Trải dài trên đất nước ta không chỉ là địa hình sông núi thuần túy mà tạo hóa ban tặng mà còn được cảm nhận như là sự đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những cảnh ngộ, số phận nhân dân và thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn nhân dân: thủy chung, yêu nước, hiếu học. -Những người vợ nhớ chồng ..... . Câu thơ gợi ta liên tưởng đến hòn Vọng Phu và câu chuyện cảm động về lòng chung thủy, tình yêu của người vợ với chồng. Trên nhiều vùng của đất nước ta có những tảng đá lớn hay núi đá trông giống như hình người đàn bà bồng con. Nhân dân ta đã thổi vào những hòn đá vô tri ấy một sức sống, một linh hồn qua trí tượng bay bổng, diệu kì trong truyện kể dân gian.Vì thế, những hòn đá vô tri mang linh hồn dân tộc, mang vẻ đẹp đời sống tinh thần của nhân dân, đời sống tinh thần của những người đàn bà thương con, yêu chồng, nguyện hóa đá đợi chồng. Chắc chắn, nếu không có những mối tình đắm say, chung thủy, không có những người vợ đợi chồng trong các cuộc chiến tranh li tán thì không có cảm nhận kì thú, sâu sắc như thế về núi Vọng Phu. Lối sống thủy chung, tình nghĩa của nhân dân ta đã kết tinh, hóa thân thành huyền thoại về núi Vọng Phu, thành hòn Trống Mái: Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái. Hòn Trống Mái là một cảnh đẹp gần bãi biển Sầm Sơn gắn với một sự tích về tình yêu được lưu truyền ở địa phương , trở thành biểu tượng cho tình yêu đôi lứa thủy chung, son sắt, sống chết bên nhau và mãi mãi không bao giờ chia lìa. Phải thế chăng mà từ những người vợ nhớ chồng nhà thơ đã chuyển thành cặp vợ chồng yêu nhau. Cặp cũng là đôi, nhưng còn chỉ sự gắn bó khăng khít, không bao giờ có thể chia lìa. - Trên hành trình khám phá vai trò, công lao của nhân dân qua hàng ngàn năm lịch sử và sự hóa thân của nhân dân vào hình sông, thế núi, Nguyễn Khoa Điềm còn phát hiện ra: nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước ta còn là sự hóa thân của truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm: Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Ý thơ được xây dựng sáng tạo dựa trên truyền thuyết Thánh Gióng – một truyền thuyết tiêu biểu cho truyền thống yêu nước của người Việt. Nếu nhân dân ta không có tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm qua hàng ngàn năm lịch sử thì không bao giờ có sự cảm nhận kì diệu đến như vậy về những ao, đầm mộc mạc, bình dị, gần gũi và đơn sơ. Lòng yêu nước của người dân Việt đã thổi hồn vào những hình ảnh bình dị thân thương đó một sức sống, một linh hồn dân tộc, để rồi "Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất" ta lại nghe thấy "những buổi ngày xưa vọng nói về". - Không chỉ có những người anh hùng lớn lên từ nhân dân đã hóa thân mình làm thành lịch sử, mà còn có cả người học trò nghèo cũng hóa thân làm nên núi Bút, non Nghiên. Đặt tên núi như vậy, nhân dân ta ca ngợi truyền thống hiếu học của dân tộc bằng hình tượng người học trò nghèo hóa thân vào thế núi, hình sông. Cùng từ đó, hình ảnh núi Bút, non Nghiên trở thành biểu tượng cho truyền thống hiếu học của người Việt. -Với cảm hứng tự hào, say sưa, nhà thơ nhìn thấy tất cả mọi danh lam thắng cảnh trên đất nước này đều là sự hóa thân của nhân dân, đều trở nên có ý nghĩa khi được cảm nhận qua tâm hồn của nhân dân. Sự quan sát tinh tế, sắc sảo, khả năng liên tưởng, sáng tạo tài hoa đã giúp nhà thơ phát hiện ra cả những sự vật thiêng liêng hay gần gũi, bình thường thân thuộc trong cuộc sống nhân dân đều hóa thân vào đất nước: Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương. Ý thơ được xây dựng dựa trên truyền thuyết về đất tổ Vua Hùng. Chín mươi chín con voi thực chất là chín mươi chín ngọn núi bao quanh núi Hi Cương, nơi có đền thờ các Vua Hùng. Nhân dân ta đã hình dung hình chín mươi chín ngọn núi ấy giống như hình chín mươi chín con voi quây quần, thuần phục đất tổ. Chỉ có một con không quy thuận, nên bị chặt đầu. Từ truyền thuyết ấy, nhà thơ ca ngợi lịch sử dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước, ca ngợi tinh thần đoàn kết, truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Vì thế, mỗi người dân Việt Nam: Hàng năm ăn đâu, làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ “ Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”: Câu thơ thể hiện sự liên tưởng, sáng tạo tài hoa của NKĐ: Nhà thơ hình dung những dòng sông hiền hòa, xanh thẳm, chảy qua các làng mạc, xứ sở như Cửu Long Giang là sự hóa thân của những con rồng im lặng, thân thương. + Ngay cả những con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh. Ai đã đến Hạ Long nếu quan sát, để ý kĩ sẽ thấy có nhiều đảo đá có hình thù trông xa như con cóc, con gà. Nhà thơ đã liên tưởng đó là sự hóa thân của tất cả những gì gần gũi, giản dị, thân thuộc nhất trong đời sống nhân dân vào ĐN. + Cuộc sống bình dị và những đóng góp thầm lặng của nhân dân đã đặt tên cho sông núi: ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, bà Điểm,... Cảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những vần thơ đẹp, soi bóng tâm hồn nhân dân và những cuộc đời vô danh, càng thấm thía một điều bình dị: Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước mang màu sắc dân gian, dân dã. =>Như vậy, tất cả mọi danh lam, thắng cảnh trên đất nước ta đều do sự hóa thân của nhân dân mà thành. Có thể đó là những người anh hùng dân tộc, những người dân có tên, nhưng cũng có thể là những người dân không tên: Những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau ... họ đã sống một cuộc đời đẹp như huyền thoại, họ đã hóa thân vào dáng hình xứ sở làm nên Đất Nước muôn đời .... Vì thế, mọi danh lam thắng cảnh chỉ có ý nghĩa thực sự khi được cảm nhận qua đời sống tâm hồn của nhân dân. - Từ những hình ảnh cụ thể, tác giả đã khái quát, kết đọng sự hóa thân của nhân dân vào Đất Nước. Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha Ôi đất nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta + Thán từ "ôi" diễn tả sự xúc động sâu sắc, chân thành của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử 4000 năm dựng nước của dân tộc. Trong suốt 4000 năm ấy, nhân dân thầm lặng, vô danh đã hóa cuộc đời mình làm nên núi sông, đất nước chúng ta. Câu thơ "những cuộc đời đã hóa núi sông ta" vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Như vậy: Đoạn thơ thể hiện những cảm nhận sâu sắc của NKĐ về ĐN: ĐN không trừu tượng, không xa xôi. ĐN có trong đời sống, tinh thần nhân dân và nhân dân hóa thân làm nên sự trường tồn của ĐN. Từ sự hóa thân của nhân dân vàonhững danh lam, thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước, NKĐ đã thể hiện những suy tưởng mang tầm triết lí về vai trò của nhân dân trong lịch sử, từ đó bày tỏ tình cảm yêu mến, lòng tự hào về ĐN – ND. -Nghệ thuật: +Thể thơ tự do đã thể hiện những cảm xúc của tác giả về đất nước thật sâu rộng, chân thành. +Giọng điệu tâm tình, sâu lắng, trang nghiêm đã góp phần thể hiện chủ đề ĐN trong bút pháp chính luận, trữ tình. +Vận dụng sáng tạo những chất liệu văn hóa dân gian từ đó tạo nên một không gian nghệ thuật vừa bay bổng, vừa mĩ lệ, diệu kì lại vừa gần gũi, thiêng liêng. Điều này đã góp phần thể hiện tư tưởng ĐN của nhân dân một cách sâu sắc. +Các hình ảnh thơ giàu chất suy tưởng có khả năng gợi tả vẻ đẹp trong đời sống tinh thần của nhân dân. +Đoạn thơ có cấu trúc câu trùng điệp.Vế đầu của câu thơ là hình ảnh của nhân dân, những sự vật gắn bó gần gũi, thân thiết với nhân dân (Những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, gót ngựa Thánh Gióng, những con voi, con rồng...), vế sau của câu là các danh lam thắng cảnh (hòn Trống Mái, núi Vọng Phu, đất tổ Hùng Vương, núi Bút, non Nghiên...) vừa lặp lại cấu trúc câu theo thủ pháp nghệ thuật trùng điệp, kết hợp với thủ pháp nghệ thuật liệt kê đã khẳng định vai trò của nhân dân trong việc xây dựng, phát triển đất nước 2.2.2. Nhìn ở phương diện thời gian lịch sử, nhà thơ cũng khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Tư tưởng này chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử 4000 năm đất nước: "Em ơi em hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm Đất Nước Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ Nhưng em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước" - Đoạn thơ được mở đầu bằng một lời gọi, lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết của chàng trai với cô gái người mình yêu: Em ơi em hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm Đất Nước. + Nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước không phải là cái nhìn của cá nhân mỗi con người, mà là cái nhìn mang tầm vóc lịch sử, nhân loại và thời đại. Đó là cái nhìn bốn hướng, trông lại nghìn xưa trông tới mai sau, cái nhìn của con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa, cái nhìn mang tính sử thi hoành tráng. Phải bằng con mắt ấy, mỗi chúng ta mới có cái nhìn đầy đủ, khái quát và sâu sắc nhất về vai trò của nhân dân trong lịch sử: Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái con trai bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng + Khi nói về lịch sử đất nước, tác giả không nhắc đến các triều đại tên tuổi như Đinh, Lí, Trần, Lê; cũng không nhắc đến các anh hùng được ghi tên trong sử sách. Nhà thơ tập trung nói về những con người vô danh, bình dị. Họ là lớp lớp những người con gái con trai bằng tuổi chúng ta. Trong suốt bốn nghìn năm ấy họ đã xây dựng, bảo vệ giữ gìn đất nước này. + Cụm từ chỉ thời gian không xác định "năm tháng nào" kết hợp với từ "lớp lớp" chỉ số nhiều, các danh từ chung "con gái, con trai" tạo nên những vần thơ bình dị nhưng giàu sức gợi cảm. Nhân dân các thế hệ từ lớp này đến lớp khác đã nối tiếp nhau đứng lên giữ gìn quê hương, xứ sở bằng mồ hôi, công sức và xương máu của mình: Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Bằng cái nhìn mang tầm vóc lịch sử, trong mấy câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát vai trò của nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước: + Nhân dân là những người "cần cù làm lụng". Sự vất vả dãi dầu một nắng hai sương của những người lao động chân lấm tay bùn đâu chỉ làm ra hạt gạo bé nhỏ, tinh khôi như kết tinh cả mưa giông, nắng lửa; đâu chỉ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng, chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi. Phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân còn làm nên văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống, lối sống cao đẹp của dân tộc. Hơn thế, chính cuộc đời lao động nhọc nhằn vất vả một nắng hai sương của nhân dân, lối sống bình dị thanh cao của nhân dân đã hóa thân vào đất nước.. => Sự cần cù trong lao động của nhân dân đã làm nên những giá trị văn minh vật chất, tinh thần và làm sáng lên phẩm chất tâm hồn dân tộc: nhẫn nại, cần cù, chịu thương chịu khó. Đúng là đất nước này là đất nước nhân dân. + Không chỉ xây dựng, nhân dân còn bảo vệ đất nước: “Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh". Bằng cách viết giản dị nhưng giàu chất trữ tình, Nguyễn Khoa Điềm đã dựng lại lịch sử dân tộc trong suốt hàng nghìn năm. Việt Nam là một dân tộc bé nhỏ nhưng phải liên tiếp đối mặt với các cuộc chiến tranh xâm lược. Trong những giây phút lâm nguy, đầy thử thách ấy của lịch sử; người con trai sẵn sàng ra trận, người con gái trở về nuôi cái cùng con. Tiền tuyến chắc tay súng, hậu phương vững tay cày. Lớp lớp những người con gái con trai ấy đã sẵn sàng sống xa nhau, hi sinh hạnh phúc riêng tư để bảo vệ Tổ quốc. Yêu nước, thương nòi, đó là phẩm chất, truyền thống của dân tộc Việt. Vì thế, trách nhiệm chiến đấu bảo vệ đất nước không của riêng ai: "Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh" Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm gợi lên trong lòng mỗi chúng ta một niềm tự hào khôn tả về chiến công lừng lẫy của Bà Trưng, Bà Triệu, của những đội quân tóc dài, những người con gái Việt Nam đã không quản ngại gian khổ hi sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Đất nước của chúng ta là "Đất nước của những người con gái con trai/Đẹp hơn hoa hồng cứng hơn sắt thép/Xa nhau không hề rơi nước mắt/ Nước mắt dành cho ngày gặp mặt". Thật thân thương, gần gũi và bình dị biết bao. - Trong những cuộc kháng chiến trường chinh ấy, có những người đã trở thành anh hùng được lưu danh trong sử sách nhưng với tư tưởng đất nước của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm đặc biệt nhấn mạnh đến những người lao động bình thường, thầm lặng, vô danh: "Nhưng em biết không Có biết bao người con gái con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước" 2.2.3. Nhìn ở phương diện văn hóa, nhà thơ khẳng định vai trò của nhân dân. - Đất Nước của Nhân Dân không chỉ hiện diện ở bề rộng không gian địa lí, ở chiều dài của thời gian lịch sử mà còn ở tầng sâu của tâm hồn, bề dày của văn hóa dân tộc. Nhân dân không chỉ là người chiến đấu mà còn là người giữ gìn văn hóa dân tộc. Những hạt lúa, hòn than, tiếng nói,...đều giản dị nhưng là sự sống của cả dân tộc, là văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà chính nhân dân là người đã giữ gìn, truyền lại cho muôn đời, tạo thành chiều sâu văn hóa dân tộc: "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái" . + Trước hết, nhân dân là người tạo nên những giá trị văn minh vật chất cho đất nước : "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng" Trong hạt lúa bé nhỏ ấy có mồ hôi công sức lao động của những người nông dân vất vả dãi dầu một nắng hai sương, có sự kết tinh của Đất và Nước, của bão giông, nắng lửa. Trên hết, đó còn là sự lắng kết của phẩm chất, tinh thần lao động cần cù, chịu thương chịu khó của nhân dân. Không có hạt lúa nhân dân giữ và truyền cho ta, không thể có một đất nước VN tươi đẹp :"Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn/Cánh cò bay lả dập dờn/ Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều", không thể có "những hội hè đình đám/ trên núi Thiên Thai/ trong chùa Bút Tháp"; không thể có "đường trong làng hoa dại với mùi rơm/ Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm". Nhân dân đã giữ và truyền cho ta sự sống, văn hóa, tinh thần dân tộc như thế . + Không chỉ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng, nhân dân còn là người "chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi" Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đâu chỉ là sự suy ngẫm, trải nghiệm đầy sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, ẩn sâu trong từng câu chữ, nhà thơ còn gợi lại cả một truyền thống, phong tục tốt đẹp ngàn đời của nhân dân ta là truyền thống hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau được hình thành trong đời sống nghĩa tình của dân tộc Việt. - Nhân dân còn là người "truyền giọng điệu mình cho con tập nói". Câu thơ gợi ta liên tưởng đến truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Từ khi năm mươi con theo mẹ lên rừng, năm mươi con theo cha xuống biển, mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân đã truyền cho con tiếng nói của dân tộc. Để rồi từ đó, theo dòng chảy không ngừng nghỉ của thời gian, ông bà, cha mẹ lại truyền cho con tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý giá của mỗi quốc gia .Đó là kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước: Trong một nghìn năm nhân dân ta sống dưới thời Bắc thuộc, Trung Quốc luôn tìm cách đồng hóa dân tộc ta. Nhưng với ý thức và lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nhân dân ta vẫn giữ được ngôn ngữ, tiếng nói của dân tộc mình. Có thể nói, tiếng nói là tấm lụa bạch hứng vong hồn của biết bao thế hệ đã qua, là tiếng nói tinh thần, tâm hồn của ông cha ta từ ngàn đời truyền lại cho con cháu. Tiếng Việt của ta rất giàu và đẹp "tiếng tha thiết nói thường nghe như hát/ Kể mọi điều ríu rít bằng âm thanh". Những người mẹ truyền giọng điệu mình cho con tập nói cũng là truyền cho con tình yêu với ngôn ngữ, văn hóa, bản sắc dân tộc .Từng ngôn từ, câu chữTiếng Việt đã tạo nên sự gắn kết của cả một cộng đồng quốc gia, dân tộc: "Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời”. Không có nhân dân, đất nước ta không thể có kho tàng ngôn ngữ diệu kì đến thế. - Nhân dân còn là người "gánh tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân" Câu thơ gợi nhắc lại những năm tháng gian lao của cộng đồng người dân Việt trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Vì lũ lụt, hỏa hoạn, thiên tai, chiến tranh giặc dã, người dân đã phải di cư đến những nơi ở mới, tìm những vùng đất mới. Trong những chuyến di dân để tìm sự sống ấy, họ đã gánh theo những tên xã, tên làng, nơi kí thác niềm ước mong của người dân Việt trên mọi miền đất dải chữ S thân thương. Họ đã phát bờ, mở cõi, khai hoang, lấn biển để dựng xây phát triển đất nước như ngày hôm nay. => Vì thế, mỗi tên xã tên làng đều gắn liền với những chặng hành trình nhọc nhằn gian khổ mà không ít vinh quang của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. - Không chỉ mở mang bờ cõi, đem lại cho đất nước một dáng hình tươi đẹp, nhân dân còn là người “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái” . - Nhân dân còn là người chống ngoại xâm và diệt nội thù: "Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại" Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh đầy đau thương và anh dũng “ Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Đến thời điểm Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước, đế quốc Mĩ vẫn đang tiếp tục leo thang chiến tranh ra miền Bắc, nhân dân ta lại anh dũng đoàn kết một lòng đứng lên giết giặc "Một dây ná một dây chông cũng tấn công giặc Mĩ". Điệp từ "có"..."thì" cho thấy tinh thần tự nguyện, hăng hái, sẵn sàng chiến đấu hi sinh để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc một cách tự nhiên như lẽ sống ngàn đời của người dân Việt Từ "họ" được lặp lại nhiều lần, đứng ở đầu mỗi dòng thơ không chỉ có tác dụng khẳng định vai trò của nhân dân trong lịch sử mà còn có giá trị gợi hình, nhân dân hết lớp này đến lớp khác đã nối tiếp nhau lao động, xây dựng, bảo vệ đất nước - Mạch cảm xúc dâng lên thành cao trào để nhà thơ khẳng định một chân lí: "Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại". Hai câu thơ là định nghĩa về đất nước giản dị mà sâu sắc. + "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân" vì nhân dân là người chiến đấu, xây dựng, bảo vệ đất nước này bằng mồ hôi, xương máu của mình. Không có nhân dân sẽ không có phong tục, tập quán, truyền thống, lối sống nghĩa tình, thủy chung, cao đẹp + Đất Nước của Nhân dân vì đất nước được hình thành từ những bản sắc văn hóa dân tộc thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn nhân dân: Yêu nước, cần cù lao động, hiếu học, chung thủy trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, bền bỉ kiên cường trong chiến đấu, lạc quan, yêu đời trong gian khó. + Đất Nước của Nhân dân cũng chính là Đất Nước của ca dao thần thoại. Vì: Ca dao, thần thoại chính là sáng tác của nhân dân, phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm của nhân dân và lưu giữ tâm hồn nhân dân qua bao biến động thăng trầm của lịch sử. Nếu Lí Thường Kiệt phải dùng đến đế cư, thiên thư để trang trọng hóa đất nước. Nguyễn Đình Chiểu phải dùng đến "một mối xa thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa" để thiêng liêng hóa đất nước, thì với hệ thống từ ngữ giản dị, mang đậm màu sắc dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã bình dị hóa đất nước, làm cho đất nước thật sự hóa thân trong tâm hồn và cuộc sống của mỗi người dân trên đất này. - Tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú , đẹp đẽ của văn hóa ,văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao- diện mạo tinh thần , nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. NKĐ đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt ,của bản sắc văn hóa đất nước :thật say đắm trong tình yêu , quý trọng tình nghĩa và kiên trì bền bỉ trong đấu tranh cho đến ngày toàn thắng: "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu"...
Ca dao có câu:
"Yêu em từ thuở trong nôi Em nằm em khóc anh ngồi anh ru". Nguyễn Khoa Điềm đã viết thật dung dị : "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi" để ca ngợi tinh thần say đắm trong tình yêu của người dân Việt. Người Việt "Đã yêu, yêu đến tận cùng/ Đã thương thương đến nát lòng vì nhau". Không chỉ say đắm trong tình yêu, người Việt còn rất quý trọng tình nghĩa. "Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội". Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm được xây dựng từ chất liệu ca dao: "Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng" "Vàng" biểu tượng cho những giá trị cao quý; "công cầm vàng" là những gian nan, vất vả, cực khổ mà con người phải trải qua. Đối với người dân Việt, công sức, tình nghĩa mà con người dành cho nhau còn quý giá hơn vàng. Đó cũng là một nét đẹp trong tinh thần dân tộc. Say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa, người Việt còn rất quyết liệt trong trả thù, chiến đấu: "Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu" Câu thơ được sáng tạo từ câu ca dao :"Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què" để nói về tinh thần quyết liệt trong chiến đấu của người dân Việt. - Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông và câu hát, đem lại cảm nhậnvề một đất nước đẹp hiền hòa, vĩnh cửu như một dòng sông vô tận chảy từ quá khứ đến hiện tại, tương lai. Trên dòng sông âm vang những sắc màu văn hóa Việt Nam, phẩm chất tâm hồn Việt Nam, vô cùng tự hào và yêu quý. 3.Tổng kết 3.1. Nghệ thuật - Đoạn thơ trích trong chương V giàu chất trữ tình chính luận, vừa được viết bằng chiều sâu trí tuệ, văn hóa vừa được viết bằng những rung động mãnh liệt của cảm xúc nên rất dễ đi vào lòng người. -Các chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhị , sáng tạo đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích góp phần thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân. - Hình tượng thơ có sức mạnh gợi cảm. Mỗi câu chữ đều gợi liên tưởng đến chiều sâu của không gian và thời gian, của lịch sử và văn hóa với biết bao thăng trầm đổi thay của đất nước và những con người đã làm nên đất nước này. - Từ Đất Nước được lặp lại nhiều lần và viết hoa ,giọng thơ tâm tình, tha thiết trầm lắng góp phần thể hiện chủ đề đất nước trong bút pháp chính luận trữ tình. 3.2. Nội dung Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới có. Tư tưởng ấy có một quá trình dài được khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc. + Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo" Và: "Nhân dân bốn cõi một nhà Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới" => Đó chính là sự đề cao vai trò của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. + Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người anh hùng giữ nước là người nông dân yêu nước mến nghĩa làm quân chiêu mộ: "Nhớ linh xưa cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung....". Đó là hình ảnh người nông dân lam lũ bước vào cuộc chiến đấu vì chính nghĩa. Họ đã hi sinh vì quê hương, đất nước. + Đến thơ văn hiện đại, với “ Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, “Tre Việt Nam” - Nguyễn Duy, “ Lửa đèn” - Phạm Tiến Duật,... vai trò của nhân dân với đất nước cũng tiếp tục được đề cao. Nguyễn Đình Thi viết: "Ôm đất nước những người áo vải/ Đã đứng lên thành những anh hùng". Nguyễn Duy mượn hình ảnh cây tre để nói lên phẩm chất bình dị của nhân dân trong lao động và chiến đấu, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. => Như vậy, đề cao vai trò của nhân dân với đất nước là cả một truyền thống trong lịch sử văn học dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của mình về Đất Nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử , địa lý , văn hóa ...