You are on page 1of 31

VỢ CHỒNG A PHỦ

Tô Hoài
I. Thông tin tác giả:
 Tô Hoài sinh ra trong một gia đình thợ thủ công. Bước vào tuổi thanh niên,
ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế
toán hiệu buôn,...vì vậy vốn sống cũng như sự từng trải của ông in sâu
vào trong sáng tác…
 Đến với văn chương, ông gây được tiếng vang lớn qua tác phẩm truyện
“Dế Mèn phiêu lưu ký”.
 Trong chiến tranh Đông Dương,ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo
chí, nhưng vẫn có những thành tựu quan trong về văn học như tác phẩm
“Truyện Tây Bắc”
 số lượng tác phẩm đồ sộ: 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau
 lối kể chuyện có duyên, tự nhiên, vốn am hiểu rộng, khéo léo đưa hiểu
biết của mình vào trong tác phẩm.

II. Thông tin tác phẩm


 Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" in trong tập “Truyện Tây Bắc” – Tập truyện
được trao giải nhất về truyện, kí - giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam
1954-1955. "Truyện Tây Bắc" là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế
của Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952). Trong chuyến đi
này, Tô Hoài đã sống và gắn bó nghĩa tình với đồng bào các dân tộc
Thái, Mường, Mông,.. cũng như học hỏi và biết thêm nhiều điều về phong
tục tập quán nơi đây. Nguồn cảm hứng mới lạ dưới cái nhìn của một nhà văn
nhân đạo đã giúp ông viết nên các tác phẩm: "Cứu đất cứu mường", "Mường
Giơn" và "Vợ chồng A Phủ".
III. Nội dung tác phẩm
1. Nhân vật Mị và sức sống tiềm tàng của Mị

a. Ấn tượng ban đầu về hình ảnh nhân vật Mị


 Tô Hoài đã mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy
nghịch lý và cuốn hút độc giả với một đoạn văn trữ tình ngoại đề: “Ai ở xa
về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay
sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng
cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
 Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm
thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con
dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”.
 Mị xuất hiện bên cạnh những vật vô tri, có cảm giác như người con gái ấy
cũng không hề có một chút cảm xúc nào.
 Trước cửa có một tảng đá đặt cạnh chuồng ngựa, hình ảnh của tảng đá ấy
phải chẳng là tảng đá của số phận đang đè nặng lên Mị.
 Khuôn mặt “buồn rười rượi” gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh, khiến
cho người đọc vô cùng tò mò về số phận của người con gái này.

b. Nguồn gốc, lai lịch, cuộc sống của Mị trước khi bị làm dâu gạt nợ
 Mị vốn là một người con gái đẹp . Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc,
cô giỏi sáo và giỏi: “thổi lá cũng hay như thổi sáo” .
 Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương.
Quả thế, Mị đã nhận được tình yêu và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao
nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh hò hẹn của người yêu .
 Cuộc sống tuổi thanh xuân, tương lai của Mị hứa hẹn biết bao điều tốt lành,
tươi sáng. Khi mùa xuân về, Mị đã sống những giây phút tươi đẹp của tuổi
thiếu nữ.

c. Bi kịch thân phận làm dâu gạt nợ


 Nguyên nhân: vì một món nợ truyền kiếp từ khi cha mẹ mới cưới nhau mà
Mị bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí - một tên quan lại, địa chủ tham
lam, xảo quyệt và tàn nhẫn ở Hồng Ngài.
 Kể từ khi về làm con dâu nhà thống lí, Mị phải sống những ngày tháng đau
thương, tủi nhục, tăm tối. Danh nghĩa là con dâu nhà quan nhưng thực chất
Mị là bề tôi tớ không công. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị
đày đọa về tinh thần.
 Dưới mấy tầng áp bức, Mị phải sống kiếp sống như con vật, thậm chí không
bằng con vật “bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con
ngựa”, “lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc làm giống nhau, tiếp
nhau vẽ ra mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại.”
 Bị giam hãm, đày đọa trong cái địa ngục khủng khiếp của nhà thống lí, Mị
đang chết dần, chết mòn theo năm tháng, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị
bị tê liệt cả lòng yêu đời, sức sống lẫn tinh thần phản kháng, mất hết ý thức
về thời gian, không gian: “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, “mỗi ngày
Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
 Hình ảnh căn buồng của Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay,
Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là
sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể
xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của
cô.
=> Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh
quyền sống. Chế độ ấy thực sự đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm
tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.
d. Sức sống tiềm tàng của Mị khi dám chết, dám sống dù cảm thấy cuộc đời
không còn bất cứ ý nghĩa nào nữa
 Khi mới bị bắt về làm dâu gạt nợ, Mị có phản ứng quyết liệt “đến hàng mấy
tháng, đêm nào Mị cũng khóc.”
 Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của
người cha. Đây là một trong những biểu hiện đầu tiên của lòng ham sống –
dám chết khi nghĩ rằng cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa.
Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi,
kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Đây cũng chính là một trong những hành động
thể hiện sự khát sống của Mị, dám sống ngay cả khi trên cuộc đời này không
còn bất kỳ ý nghĩa gì nữa.
=> Đây là hai trong số những tín hiệu đầu tiên chứng tỏ rằng trong trái tim của cô
gái này, nhất định vẫn ẩn chứa một lòng ham sống rất lớn.

e. Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân
 Sức sống tiềm tàng là khả năng sống từ sâu thẳm bên trong của con người
được bộc lộ trong những hoàn cảnh khắc nghiệt. Nó được ví như hạt mầm bị
vùi trong cát bỏng, chỉ đợi một cơn mưa là nảy mầm thành cây đời xanh
tươi.
 Ngoại cảnh: Mùa xuân về trên vùng cao Tây Bắc có ý nghĩa như “một hoàn
cảnh  điển hình” làm khơi dậy ở thiên nhiên và con người sức sống tiềm
tàng.
 Khung cảnh mùa xuân tươi vui tràn đầy sức sống và màu sắc: cỏ gianh vàng
ửng, những chiếc váy hoa xòe như con bướm sặc sỡ, đám trẻ đợi Tết chơi
quay, cười ầm lên trên sân trước nhà...
 Tiếng sáo rủ bạn đi chơi vọng vào tâm hồn Mị “thiết tha, bổi hổi” từng lời
hát giản dị, mộc mạc nhưng có sức mời gọi lớn lao đối với Mị: “Ta không có
con trai con gái...”
 Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã, chiêng đánh ầm ĩ và bữa rượu
tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa.
=> Những yếu tố ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị,đặc biệt là tiếng
sáo. Tiếng sáo gọi bạn tình chính là âm thanh của hạnh phúc, là biểu tượng của tình
yêu đôi lứa, nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu
thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức sức sống vẫn còn tiềm ẩn trong cõi lòng người
thiếu nữ Tây Bắc này.
 Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị
 “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi… Tai Mị văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng...Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay
ngoài đường” Tiếng sáo được lặp lại nhiều lần, để rồi sau bao tháng ngày
câm lặng, Mị cất tiếng nói đầu tiên, là một bản tình ca yêu đương đầy xao
xuyến:“Mày có con trai con gái rồi / Mày đi làm nương / Tao chưa có con
trai, con gái / Tao đi tìm người yêu”
 Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực”
rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về
nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng,người hát mà
không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay)
 Mị lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi...), và quan
trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của
một con người : “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có
chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với
nhau mà vẫn phải ở với nhau” .
 Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên
trong thời khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị đầy rẫy những mâu thuẫn.
Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống
giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi
dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi: “Nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không còn buồn nhớ lại nữa.”
 Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho
tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị
hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi
chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: Mị
xắn miếng mỡ, thắp sáng căn phòng u tối; quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa,
rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ
 A Sử biết Mị muốn đi chơi và chuẩn bị đi chơi, hắn tức lắm,đánh rồi trói
đứng Mị vào cột, tắt đèn đóng sập cửa lại. Những hành động nhẫn tâm của A
Sử dường như muốn đẩy Mị vào bóng tối, dìm Mị chết trong sự bế tắc và
tuyệt vọng thế nhưng Mị thực tâm chẳng hề để ý tới những gì đang diễn ra
với mình. Mị đang ở trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những
giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Bây
giờ, tiếng sáng vẫn đang rập rờn trong đầu của Mị, “Tiếng sáo đưa Mị đi
theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị đang còn sống trong
thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức
giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy
khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được.
 Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một
giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau
nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây
giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng
hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà thậm chí
còn câm lặng hơn trước

       g.   Sự phản kháng táo bạo trong đêm đông cởi trói cho A Phủ
 Mùa đông trên núi cao dài và lạnh lắm, Mị có một thói quen không thể bỏ đó
là sưởi lửa mỗi buổi đêm. Với Mị, bếp lửa là người bạn, là tri âm, là tri kỷ,
là thứ hiếm hoi mang tới cho Mị một nguồn sáng ấm áp, giúp Mị vượt qua
sự lạnh giá, cô đơn trên dẻo cao này. Dù đã có nhiều lần, A Sử về và nhìn
thấy Mị sưởi lửa, hắn đạp Mị ngã lăn nhưng Mị vẫn nhất quyết không bỏ
thói quen này.
 Khi chứng kiến tình cảnh của A Phủ, mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với
hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn
như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bởi trong hoàn cảnh của
Mị, cô gái này thực sự đã quá khổ để có thể đồng cảm với nỗi khổ của người
khác, thậm chí, trái tim của Mị bây giờ còn mất hết những cảm xúc, chỉ còn
một trái tim đóng băng, lạnh giá vô cùng.
 Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt: “Đêm ấy A Phủ khóc. Một
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”. Và giọt nước
mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở
về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị
cũng đã từng khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi
được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra
hoàn cảnh của mình, xót thương cho chính mình. Và Mị đã nhớ lại mọi
chuyện, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có
người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình
thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó
còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà ... chỉ còn biết đợi ngày
rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết”. Mị không cảm thấy
sợ hãi, chỉ cảm thấy một điều duy nhất bây giờ: “Cha con chúng nó thật độc
ác”. Nghĩ thế, Mị cầm dao cắt dây trói cho A Phủ để rồi có khựng lại vài
giây rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như
được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị
như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát
vọng thay đổi số phận. Đến bây giờ, tất cả những nỗi sợ hãi như cường
quyền, bạo quyền hay thần quyền đều tan biến, chỉ còn lại trong Mị là một
lòng ham sống vô cùng mãnh liệt, trào sôi.
 Hai người dắt tay nhau đi, chạy trong đêm tối, mặc kệ tất cả những khổ ải
nơi Hồng Ngài này đề tới Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu, hai người được
giác ngộ cách mạng và kết hôn với nhau, trở thành những chiến sĩ kiên trung
trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.

2. Nhân vật A Phủ


     A Phủ là một đứa trẻ mồ côi cha mẹ từ nhỏ do trong một trận đại dịch cả gia
đình A Phủ đều chết chỉ một mình A Phủ sống sót vậy nên ngay từ nhỏ A Phủ đã
bơ vơ không nơi nương tựa. Đó là sự mất mát đầu tiên nhưng lại vô cùng to lớn và
quá sức chịu đựng đối với một đứa trẻ. Sự bất hạnh không dừng lại ở đó, A Phủ
lớn lên còn trở thành một món hàng để người làng đem đổi lấy thóc khi người ta
đói bụng( trái ngược với Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành dù
cũng mồ côi nhưng lại được lớn lên trong vòng tay yêu thương, che chở của buôn
làng). 
     Tuổi thơ bất hạnh, cơ cực là vậy nhưng khi trưởng thành A Phủ vẫn là một
chàng trai khỏe mạnh, lao động giỏi, là niềm ao ước của biết bao cô gái trong làng
“đứa nào được A Phủ cũng bằng được một con trâu tốt trong nhà”. Hoàn cảnh xuất
thân đặc biệt nên A Phủ không có bố mẹ, không có nhà, không có ruộng vì vậy nên
A Phủ không lấy được vợ. Cuộc sống A Phủ là tiếp nối bất hạnh của những con số
không. Đó là cuộc sống triền miên trong nghèo khổ không có tương lai.
      A Phủ xuất hiện bất ngờ trong đám đánh nhau của trai làng bên với A Sử. A Sử
vào làng tìm đám chơi có tiếng sáo, tiếng khèn nhưng vì đến muộn nên phải đứng 
ngoài. A Sử và đám bạn đã tìm cách gây sự và bị A Phủ đánh cho một trận nên
thân.Nhà văn đã miêu tả sức mạnh của A Phủ ngay từ lần xuất hiện này: “Một
người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử” rồi “xộc tới
ném cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Nhưng trong cuộc
chiến chống cường quyền hùng dũng mà đơn độc này, A Phủ đã thua cuộc. Anh bị
bắt sống, trói chân tay và xọc gậy mang về nhà thống lí Pá Tra.
      A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra bắt trói, đánh đập vô nhân đạo, phạt vạ dã
man, vô lí và trở thành người ở trừ nợ cho nhà thống lí. A Phủ chịu trói quỳ giữa
nhà cho bọn tay sai đánh tới tấp hết trận này đến trận khác, đến nỗi thân tàn ma
dại: “mắt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”, “đầu gối sưng bạnh lên
như mặt hổ phù”. Cứ xong một lượt đánh các quan lại chửi, lại hút, khói thuốc
phiện tuôn ngập các cửa sổ, cứ như thế “suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh,
càng đánh, càng chửi, càng hút”. Qua bữa tiệc phạt vạ, nhà văn đã vạch trần bản
chất bất công, thối nát của bọn thống trị phong kiến và số phận thảm thương của
người dân miền núi trước Cách mạng.Sau khi bị đánh đập tàn bạo, A Phủ bị bọn
thống lí, chức việc trói chặt vào kiếp đời nô lệ. Đầu tiên chúng buộc tội cho A Phủ
vì đánh con quan nhưng làng tha cho tội chết, chỉ bắt nộp vạ. Sau đó thống lí vừa
gán nợ cho A Phủ một cách trắng trợn, vừa bày cách để A Phủ trả nợ, cái cách vô lí
và vô nhân đạo: “Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao
giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền thì tao bắt mày làm con trâu con
ngựa nhà tao. Đời mày, đời con đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao
mới thôi”. Như vậy dưới hình thức cho vay này, A Phủ chính thức trở thành tôi đòi
cho nhà chúa đất phong kiến.
       Từ sau đám xử kiện, A Phủ chấp nhận làm con ở gạt nợ cho nhà thống lí,
không còn nhớ đến những tháng ngày theo bạn đi chơi hội các làng, suốt năm, suốt
tháng vùi đầu vào công việc, bị bóc lột tàn tệ
        Khi bị trói đứng vào cột, đứng trước cái chết đang cận kề, A Phủ ban đầu
không chấp nhận, đến đêm anh “cúi xuống, nhay đứt hai vòng mây” nhưng đó chỉ
là sự cố gắng vô ích, vì sáng mai ra cổ anh lại thêm thòng lọng, dường càng chặt
hơn, càng tàn bạo hơn. Bị trói, bị bỏ đói, gắng gượng trong vô vọng suốt mấy ngày
đêm, chàng thanh niên khỏe mạnh ngày nào nay đã không còn chút sức lực, chỉ
biết trút dòng nước mắt tuyệt vọng. Đến khi được Mị cắt dây trói, A Phủ như một
cái xác trực “ngã khuỵu xuống, không bước nổi”.Nhưng khi khát vọng sống một
lần nữa được đánh thức mãnh liệt, A Phủ đã quật sức chạy, quyết tâm vùng chạy
để thoát khỏi gông cùm, xiềng xích và đến Phiềng Sa, chàng trai gan góc, táo bạo
ấy đã trở thành tiểu đội trưởng du kích.

IV. Kết bài


       Qua việc khắc họa cuộc sống và số phận cùng khổ của Mị và A Phủ, nhà văn
Tô Hoài đã mở ra bức tranh hiện thực tăm tối, ngột ngạt của người dân miền núi
Tây Bắc dưới chế độ phong kiến đen tối, nơi giai cấp thống trị có thể tự do áp bức,
tước đoạt đi tự do, hạnh phúc và cả quyền sống của những người dân nghèo vô tội.
Quá trình vượt qua nghịch cảnh, giải phóng bản thân, đi theo cách mạng của Mị và
A Phủ cũng chính là quá trình giác ngộ Cách mạng của đồng bào dân tộc miền núi.
Truyện ngắn không chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo của Tô Hoài khi bênh vực,
đồng cảm với số phận con người mà còn thể hiện niềm tin của tác giả vào Cách
mạng, khẳng định chỉ có đi theo Cách mạng con người mới có thể thực sự tìm thấy
tự do, phá bỏ xiềng xích áp bức để hướng đến cuộc sống hạnh phúc. Tô Hoài đã
làm đúng thiên chức của một nhà văn như Nguyễn Minh Châu từng nói: “Nhà văn
tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.”
VỢ NHẶT
Kim Lân
 Vợ theo không, không cưới xin, là nhan đề gây tò mò
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nguyễn Minh Châu

You might also like