You are on page 1of 5

Đề bài: Phân tích mười bốn câu thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng,

từ đó hãy nhận xét


chất họa chất nhạc có trong đoạn thơ.
Bài viết
Ký ức về binh đoàn Tây Tiến một thủa đã từng được ghi lại thật đẹp trong những vần thơ của
Duy Liên:
"Chiều nay Tây Tiến sương bàng bạc
Gió vút ngàn hương khói biếc mờ
Chiều ấy họ ra đi
Qua miền quê bát ngát
Qua đồng lúa xanh rì
Đồi núi trập trùng xa chờ đón"
Hình ảnh Tây Tiến trong thơ ca luôn là vậy, luôn sáng người trong những khung cảnh thiên nhiên
và trong hình ảnh con người. Ngoài “Tây Tiến” của Duy Liên, ta còn bắt gặp một Tây Tiến khác,
“Tây Tiến” của Quang Dũng. Bằng tình cảm và sự gắn bó thiết tha của mình, Quang Dũng đã góp
thêm một tiếng thơ hay viết về những ngày tháng gian lao, khó nhọc của dân tộc. Trong trang thơ
của mình, Quang Dũng đã để lại ấn tượng cho bạn đọc ngay từ 14 câu thơ đầu:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
...
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Từ đó, ta thấy được giọng thơ đậm chất nhạc, chất họa của người nghệ sĩ đa tài này.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: viết thơ, làm văn, vẽ tranh, soạn nhạc, nhưng ông được biết
đến trước hết với tư cách của một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài
hoa. Ông xuất thân là một người lính của binh đoàn Tây Tiến, một đơn vị quân đội thành lập đầu
năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao sinh
lực địch ở vùng thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Các chiến binh Tây Tiến phần đông
là thanh niên Hà Nội trong đó có nhiều học sinh, sinh viên như Quang Dũng. Đoàn quân Tây
Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948,
Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh – một
làng ven bờ sông Đáy, Quang Dũng viết bài “Nhớ Tây Tiến” sau đổi tên thành “Tây Tiến” in
trong tập “Mây đầu ô” (1986). “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện
sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
Khi được hỏi về lý do đổi tên tác phẩm, nhà thơ Quang Dũng từng chia sẻ chân thành rằng: Toàn
bộ bài thơ, từng câu, từng chữ đều chứa đựng nỗi nhớ vì thế chỉ với 2 từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi
lên nỗi nhớ – cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ bài thơ. Điều đó được thể hiện rõ nét trong hai câu
thơ mở đầu tác phẩm:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng
cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông
Mã” không đơn thuần là một con sông – nơi đã từng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến
– mà nó đã trở thành một hình ảnh hiện hữu, một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người
lính Tây Tiến với bao nỗi vui, buồn, được, mất. “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên một đơn vị bộ
đội mà nó đã trở thành một người bạn “tri âm tri kỷ” để nhà thơ giãi bày tâm sự. Câu thơ thứ 2
với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí
Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” – biểu cảm một nỗi nhớ nhẹ và rất sâu – kết hợp với từ “nhớ” đã
khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như một cơn thác lũ tràn
vào tâm trí đẩy ông tới trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt
nỗi nhớ trong ca dao:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi,
Nhớ chiếu bạn trải, nhớ nơi bạn ngồi”
Trong văn học, nỗi nhớ luôn là mảnh đất trù phú để các tác giả khai thác. Quang Dũng cũng từ
nỗi nhớ làm nên một thi phẩm để đời. Nhớ là một cung bậc cảm xúc đầu tiên thể hiện cho những
niềm thương. Trong ca dao cũng đã từng cất lời:
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống rơm”
Viết về nỗi nhớ, lý trí dường như không có khả năng chỉ đạo, mà tuôn theo dòng tình cảm, bởi thế
nó có sự tự nhiên như nhiên, không gò gẫm, không lệ thuộc vào sự chi phối bên ngoài, không cả
hướng theo “mục đích” của tác giả. Chỉ là sự tự thể hiện.”. Khi kể cho nhà nghiên cứu Vũ Văn Sỹ
(Viện Văn học) nghe về cuộc đời sáng tác văn nghệ, nhà thơ Quang Dũng đã chia sẻ: “Tôi làm
thơ rất nhanh, làm xong đọc trước đại hội, được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt”. Có lẽ vì
mang nỗi nhớ trào dâng nên tác giải mới sáng tác nhanh như thế.
Nhớ về Tây Tiến, Quang Dũng nhớ về thiên nhiên núi rừng và con người trong chiến đấu. Thiên
nhiên được nhà thơ khắc hoạ mang vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm khơi”
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát,… địa bàn hoạt động
của binh đoàn Tây Tiến – những cái tên mang âm hưởng của rừng núi hoang vu và man dại.
Những địa danh ấy vốn là không gian địa lý đáng nhớ trên những chặng đường hành quân, nay
trở thành mốc thời gian lịch sử in đẫm kỷ niệm của một thời chiến binh. Núi rừng Tây Bắc đẹp
hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước
độc. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc họa rõ hơn sự khắc
nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo.
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng,
không nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần không “mỏi” bởi ý chí quyết tâm ra đi
vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn.Chân
thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh
đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, hoa về, đêm hơi khiến cho toàn bộ cảnh
thực chợt nhòa đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trung, tâm trí người đọc. Hình ảnh “hoa về
trong đêm hơi” nhanh chóng kéo bạn đọc trở về với sự cân bằng. Không gian được liên tưởng tới
là địa danh Mường Lát trong những cuộc hành quân đẫm sương đêm, hoa nở giữa rừng thơm
ngát, khiến những bước chân giữa đêm khuya tưởng nặng nề những nay lại được tiếp thêm sức
mạnh. Quang Dũng quả thực dùng từ rất tinh tế. Là hoa về chứ không phải hoa nở, là đêm hơi
chứ không phải đêm sương, cách dùng từ này khiến người đọc cảm thấy được sự nhẹ nhõm của
không gian. Bao nhiêu mỏi mệt từ đó mà tan biến. Cũng với hình ảnh đoàn quân cách mạng trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:
“Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Con người và thiên nhiên được Quang dũng thể hiện đan cài, xen kẽ hoà quyện và gắn bó. Mảnh
đất Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của ông được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa thơ
mộng, hoang sơ, ấm áp, vừa độc đáo, hùng vĩ, tráng lệ:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Mỗi câu thơ mà theo Quang Dũng là “viết rất nhanh” đều như có dụng ý nghệ thuật. Tác giả khéo
léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà không dùng từ “chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta còn có thể
cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó
sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”,
nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Có
những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Hình ảnh nhân
hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có
chất tinh nghịch của người lính. Cùng viết về người lính, trong bài “Đồng chí” của Chính Hữu,
những anh bộ đội cụ Hồ thể hiện sự hóm hỉnh của mình qua hình ảnh: “Đầu súng trăng treo”. Đó
đều là hình ảnh của những người lính vượt qua mọi khó khăn của thiên nhiên, làm chủ thiên
nhiên với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã
tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo
leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa vượt qua và
con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút.
Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gập lại: “Ngàn thước lên cao,
ngàn thước xuống”. Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra một không gian nhìn từ trên xuống cũng như
từ dưới lên thật hùng vĩ. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi
núi rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng
mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại
bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn,
trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”.
Nó gợi lên một cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ tám với bảy thanh
bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra một bức tranh thiên nhiên nơi núi
rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ
trong “Chinh phụ ngâm khúc”:
“Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”
Những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành một kí ức xa xôi trong tâm
trí nhà thơ. Đó là một nỗi nhớ mãnh liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người
lính nói chung. Nhớ về thiên nhiên, nhà thơ nhớ cả những người đồng chí đồng đội. Hình ảnh
người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang, khí phách anh hùng và có
cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưng thơ Quang Dũng còn ta rất thực về những
mất mát, hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ Quang Dũng
dám nhìn thẳng vào những tổn thất tất yếu của con người trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Hình
ảnh người lính Tây Tiến có những phút giây mệt mỏi:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy,
gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. Người
lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần,
đầy ngạo nghễ của người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa
trên con đường hành quân đầy gian khổ. Có những người bạn của Quang Dũng gục lên súng ngủ.
“Gục” là một động từ miêu tả động thái rất nhanh, biểu thị không còn sức chịu đựng được nữa.
Các anh cố gượng dậy bước tiếp nhưng không còn sức. Câu thơ: “gục lên súng mũ bỏ quên đời”
tả một giấc ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và hy sinh. Cũng có người hiểu câu thơ này tả
một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy sức tiếp tục đường hành quân. Những câu thơ dẫu
viết theo nghĩa nào cũng đều nói về sự gian khổ tột cùng. Nhưng nhiều người hiểu theo cách ở
trên bởi nó phù hợp với chất bi tráng của cuộc đời chiến binh Tây Tiến: chết rồi mà vẫn ngang
tàng, khí phách. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước cái
chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường đến với núi rừng
miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai trở về).
Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông qua không gian hùng
vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng với độ cao chạm đến cả mây trời của đỉnh núi Tây Bắc.
Thì đến với hai câu thơ sau đây thiên nhiên lại được khám phá theo chiều thời gian với hai từ láy
“chiều chiều” và “đêm đêm”:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi
buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng
cọp gầm. m thanh nào cũng ghê rợn. Thiên nhiên nguy hiểm là thế nhưng không thể làm chùn
bước người lính. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa
những nhận xét của người đời. Chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng
tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và
huyền bí của miền rừng núi Tây Bắc. Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội
quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua. Thế nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước
độc, qua con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn nhìn thấy
được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về Mai Châu xinh đẹp:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và
sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt
đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm,
thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn
binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một
bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói cơm bay lên hòa quyện vào
khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi
lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui. Trong những vần thơ
này, Quang Dũng đã lựa chọn 1 địa danh có tên nghe thật mềm mại, êm ái, gợi ra sự bình yên
“Mai Châu” nếu như không lựa chọn địa danh này mà thay nó bằng “Lai Châu” có lẽ sự duyên
dáng của câu thơ sẽ vơi đi vài phần. Đặc biệt lưu ý, ở trong câu thơ cuối có 1 danh từ nghe rất lạ,
đó là “mùa em”. Đất trời có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông nhưng trong những vần thơ của nhà thơ
Quang Dũng lại có 1 mùa thật lạ đó là mùa em. Mùa em là mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi
xuống sông uống nước, mùa em đi phát rẫy là nương, mùa ta gặp nhau mùa trao yêu thương mùa
vương luyến nhớ để xa rồi sẽ mãi mãi không quên. Mùa em ở đây cũng chính là mùa của sự đủ
đầy.
Như vậy chỉ qua mười bốn câu thơ đầu, Quang Dũng đã khắc họa bức tranh thiên nhiên núi rừng
vừa hùng vĩ, tráng lệ, vừa thơ mộng trữ tình, đồng thời thể hiện hình ảnh những người lính bất
khuất, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Người xưa thường nhận định một bài thơ có hay hay
không dựa vào cách viết của tác giả. Thơ là phải, “thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Thơ
của Quang Dũng xét ra đủ cả những tính chất đó. Chất liệu của hội họa là màu sắc, đường nét.
Chúng thể hiện sự cảm nhận trực tiếp thế giới và con người của nhà văn. Còn chất liệu của âm
nhạc là âm thanh, nhịp điệu, tiết tấu. Nhà văn, nhà thơ dùng âm thanh làm phương tiện diễn đạt tư
tưởng, tình cảm. Khi khám phá tính nhạc trong thơ nghĩa là xem việc tác giả đã sử dụng, kết hợp
từ ngữ như thế nào để tạo ra hài hòa, luyến láy về âm thanh, sự nhịp nhàng cho thơ. Với Tây
Tiến, mạch cảm xúc bao trùm của bài thơ chính là sự hồi tưởng, kỉ niệm này gọi là kỉ niệm kia
như những đợt sóng tuôn trào. Tất cả hiện lên thật sống động qua sự kết hợp nhuần nhuyễn của
yếu tố họa và yếu tố nhạc.
Khúc dạo đầu là nỗi nhớ “chơi vơi”, vừa xa xăm, sâu lắng, vừa thiết tha, quyến luyến: “Sông Mã
xa rồi Tây Tiến ơi!”. Từ biểu cảm “ơi” kết hợp với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng thiết tha
ngân mãi trong lòng người, vọng mãi vào thời gian, năm tháng. Kí ức này chi phối việc lựa chọn
phối thanh, phối màu trong bức tranh Tây Tiến. Sau khúc dạo đầu bâng khuâng là những nhịp thơ
khoẻ khoản trầm bổng với những câu thơ bằng trắc đan xem. Khi miêu tả thiên nhiên dữ dội, nhịp
thơ trúc trắc, khi miêu tả vẻ đẹp trữ tình, Nhịp thơ trầm xuống, khi miêu tả sự hi sinh của người
lính, câu thơ cũng như thế lên “khúc độc hành” tiễn đưa. Cách phối thanh đã đem đến hiệu quả rõ
rệt cho lời thơ. Nhạc thơ du dương vốn có sẵn vì nhà thơ sử dụng thể thơ mới bảy chữ đã có tính
nhạc truyền thống theo âm bình trắc. Trừ một đôi chỗ phá cách để bất ngờ tạo cảm giác mơ hồ,
chơi vơi và mênh mang cho người đọc: “Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi” nhà thơ chỉ sử dụng
toàn thanh bằng – một biện pháp nghệ thuật cũng được sử dụng ở các nhà thơ nổi tiếng:
“Giang hồ mê chơi quên quê hương”
(Thăm mả cũ bên đường – Tản Đà)
Hay
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
(Nhị hồ -Xuân Diệu).
Đọc mười bốn câu thơ đầu của “Tây Tiến”, ta chợt nhớ tới lời nhận định quả đúng đắn của Xuân
Diệu: “Đọc Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”.
Nói về chất họa, Quang Dũng vẽ lên bức tranh “Tây Tiến” bằng đường nét, bằng màu sắc và
bằng hình ảnh. Những lời thơ như những nét bút khi đậm khi nhạt, khi nông khi sâu khắc họa
thiên nhiên và con người. Màu sắc có sự xuất hiện những gam màu lạnh của màu khói cơm nhàn
nhạt, màu sương mờ ảo. Hình ảnh và khung cảnh rộng mở khi là đồi núi trập trùng, khi là trời, khi
là mặt đất. Giữa khung cảnh ấy là con người tuy nhỏ bé nhưng hiên ngang làm chủ thiên nhiên.
Con người điểm xuyết làm bức tranh có hồn và thêm ý nghĩa. Chất nhạc, chất họa thể hiện trong
những câu thơ chính là điểm kết tinh của tài năng Quang Dũng.
Bằng cách sử dụng hàng loạt các biện pháp điệp, đối,… kết hợp cùng ngôn từ bằng trắc, Quang
Dũng qua mười bốn câu thơ đầu đã thể hiện nỗi nhớ da diết hướng về thiên nhiên hùng vĩ, thơ
mộng vùng Tây Bắc Bộ và những con người Tây Tiến. Nhận xét về bài thơ, nhà phê bình văn học
Phạm Xuân Nguyên đã gọi “Tây Tiến” là một tượng đài thi ca, là “đột khởi một đỉnh núi Tây
Tiến trong thơ hiện đại Việt Nam mà mỗi câu chữ, mỗi dòng thơ vừa hằn vết chân hành quân vừa
vút tiếng ca quân hành”. Chất nhạc họa đã làm nên tính độc đáo cho đoạn thơ nói chung, bài thơ
nói riêng.
Quá khứ và chiến tranh đã lùi xa, chỉ còn tình yêu và nỗi nhớ thương ở lại. Bài thơ “Tây Tiến"
của nhà thơ Quang Dũng đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh của mình, để lại biết bao những xúc
cảm bâng khuâng trong lòng đọc giả. Thời gian vẫn cũ mòn cùng với cái việc trôi chảy lở bồi của
nó, và dẫu cho qua bao nhiêu năm tháng nữa qua đi làm cũ rách những trang thơ, thì giá trị của
“Tây Tiến” vẫn sẽ tiếp tục lớn lên cùng với sự nuôi nấng màu mỡ của bao lớp tầng vỉa phù sa văn
hóa mà người xưa gửi lại. Xin được mượn lời thơ của nhà thơ Giang Nam để thay lời kết cho bài
viết. Có phải chính những vần thơ đã thêm một lần nữa giúp khẳng định ý nghĩa của “Tây Tiến"’
trong lòng đọc giả:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”.
Bài viết thuộc về team chuyên môn của Học văn chị Hiên. Để tham khảo thêm nhiều bài viết
hay, nhiều bài giảng bổ ích, hãy cùng đồng hành với chị giáo Minh Hiên và team chuyên môn
ngay trong khoá học cuối cùng: 10 NGÀY "CHẠY" VĂN - NHỮNG CHIẾN BINH các em nhé!
Link đăng kí khoá học: http://bit.ly/Khoahoc10ngayHVCH

You might also like