You are on page 1of 18

Cuộc kháng chiến chống Pháp là mảnh đất màu mỡ sản sinh ra nhiều thế hệ

người cầm bút trong đó có Quang Dũng. Chất hào sảng, chinh chiến phong trần
trong thơ – nhạc đã nói trên và cả con người Quang Dũng - chiến sĩ không chỉ có
tài thơ mà còn là họa sĩ, nhạc sĩ - đã đánh trúng vào sợi dây cảm xúc của bao
chàng trai đang gian nan đời trận mạc, vào tâm hồn lớp thanh niên thời tao loạn.
Và cũng chính chất lãng mạn tài hoa của chàng sinh viên hà Thành đã tạo nên “
một trong những đóa hoa nghệ thuật đầu mùa của rừng thi ca cách mạng kháng
chiến chống Pháp”- Tây tiến.

Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu. Nhớ
của Hồng Nguyên… Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc nhất.
Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ
khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu
tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc.
Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc là chiến đấu với
mục đích “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tinh thần ấy là hào khí của một
thế hệ con người đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:

Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi

Nào có sá chi đâu ngày trở về

Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị
này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang
Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đấu gian nan
nhưng hào hùng, nhớ từng đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông
cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn trong Quang Dũng trở thành nguồn
cảm hứng bất tận để ông viết lên bài thơ này.

Bốn câu thơ đầu bài thơ như 1 khúc dạo định hướng mạch cảm xúc chung của
toàn bài: đó là nỗi nhớ. . Nỗi nhớ xoáy vào hai hình ảnh: thiên nhiên Tây Bắc
hoang sơ hùng vĩ và chặng đường hành quân gian khổ vất vả của người lính Tây
Tiến.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Câu thơ bảy chữ, thì đã có tới bố n chữ là điạ danh, và đã có hình ảnh trực tiế p nào
đâu, thế mà nó cư vo ̣ng xa vào khô ̣ng gian, dô ̣i sâu vào tâm tưởng. Nó là tiế ng
vo ̣ng của mô ̣t quá khứ thăm thẳ m không ciụ nguôi yên trong tâm can người thi si.̃
Chừng như, kể từ giây phút ấ y, chúng không còn là những điạ danh vô cảm, vô can
trên bản đồ nữa. Từ khoảnh khắ c ấ y những chữ kia đã cấ t giữ cho Quang Dũng cả
mô ̣t quañ g đời. Chẳng phải tình cờ mà niềm thương nỗi nhớ ấy lại khởi nguồn từ
sông Mã- con sông đã từng gắn bó mật thiết với đoàn quân Tây Tiến. Nó như
chứng nhân lịch sử thầm lặng chứng kiến mọi gian khổ, mọi kỉ niệm buồn vui của
họ. Giờ đây, Sông Mã đã trở thành dòng sông cảm xúc chở nặng nỗi niềm đầy vơi
của người lính Tây Tiến.Chỉ 1 câu thơ mở đầu mà hai hình tượng song song đã kết
đọng nỗi nhớ về miền Tây Bắc Bộ và người linh Tây Tiến. Hai tiếng xa rồi cất lên
như 1 tiếng thở dài đầy thương nhớ. Sông Mã xa rồi cất lên như 1 tiếng thở dài đầy
thương nhớ. Sông Mã xa rồi, núi non trùng điệp ngày nào xa rồi những tấm lòng
của Quang Dũng thì không xa, nhà thơ đang ngược dòng để trở lại cuộc hành trình
xưa.” Tây tiến ơi” ba tiếng tác giả gọi tây tiến như gọi người thân yêu của mình và
nó cũng ẩn chứa niềm bang khuâng tiếc nuối khi nhà thơ rời xa Tây Tiến.

Cảnh sắ c nằ m im lìm trong kí ức vố n chỉ như những tiñ h vâ ̣t trong bảo tàng, dù
là kí ức của mô ̣t thời chưa xa. Nỗi nhớ dâ ̣y lên làm mô ̣t luồ ng sinh khí, nó soi tràn
đế n đâu, cũng tưới tắ m đế n đấ y, muôn vàn hình sắ c trong kí ức bấ y giờ mới bừng
tin̉ h để số ng đời hiǹ h tươ ̣ng của chúng với tấ t cả vẻ tươi tắ n sơ nguyên. Trong
miề n kí ức Tây Tiế n, cả những chi tiế t nhỏ nhấ t cũng đươ ̣c thấ m đươ ̣m, bao bo ̣c,
chan hòa bởi mô ̣t nỗi nhớ châ ̣p chùng da diế t.Sau tiếng gọi đó là nỗi nhớ chồng
chất, nỗi nhớ được nhân lên với lối sử dụng điệp ngữ ‘ nhớ về’, ‘ nhớ chơi vơi’.
‘Nhớ về’ là nỗi nhớ gợi lien tưởng đến thời gian đã xa, chỉ còn là kỉ niệm, là kí ức.
‘ Rừng núi’ là biểu tượng của không gian còn ‘ chơi vơi’ là nỗi nhớ khó định hình,
nó bồng bềnh trong không gian. Nỗi nhớ vừa đầy ắp,vừa mờ ảo, lơ lửng, chập chờn
đứt nối nhưng day dứt khôn nguôi . Có lúc nó còn gợi tả cảm giác trống vắng hẫng
hụt trong lòng Quang Dũng khi phải rời xa đơn vị cũ. Nhớ đồng đội nên thi sĩ thả
hồn lên chơi vơi để về với núi rừng miền Tây.

Nỗi nhớ của Quang Dũng quá mãnh liệt đã tái hiện lại bức tranh thiên nhiên
núi rừng miền tây hung vĩ dữ dội nhưng thơ mộng; tái hiện lại những cuộc hành
quân gian khố của đoàn quân Tây tiến.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Núi rừng Tây Bắc bắt đầu hiện ra với ngày sương đêm hơi.Ở Sài Khao, sương dày
đặc như biển sương mù che lấp đoàn quân dãi dầu mệt mỏi. Hình ảnh ‘ đoàn quân
mỏi’ là nét hiện thực cực tả sự gian nan, trắc trở của địa hình chốn biên cương
khiến bước chân đoàn quân mệt mỏi rã rời. Nhưng rồi vẻ đẹp của ‘hoa’ của ‘đêm
hơi’ ở Mường Lát đã làm tiêu tan cái gian khổ, mệt mỏi của người lính. Cả ‘ sương
hoa, đêm hơi’ đều là những vđ đầy lãng mạn của xứ lạ mà Quang Dũng không thể
nào quên. Câu thơ thứ 2 có đến 6 thanh bằng tạo âm hưởng nhẹ nhàng êm ái làm
cho nỗi nhớ càng them lãng mạn.

Núi rừng Tây Bắc không chỉ đẹp thơ mộng mà còn rất hung vĩ dữ dội trong kí ức
của Quang Dũng

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây sung ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Quả là trong thơ có họa. Chỉ bằng 4 câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra 1 bức tranh
hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở cà dữ dội của núi rừng miền Tây. Câu thơ tả
dốc thật tài hoa độc đáo.Độ dốc, độ cao rồi độ sâu được đặc tả qua nét bút gân
guốc, khỏe khoắn của Quang Dũng. Các thanh trắc, điệp từ, từ láy gợi hình gợi
thanh vài nghệ thuật tương phản đã diễn tả cái cheo leo, gập ghềnh, quanh co, hun
hút của đèo dốc. Đèo dốc dường như vô tận để thử thách người đi. Dốc lên thì
khúc khuỷu, dốc xuống thì thăm thẳm rồi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Người đọc như cảm nhận được độ cao gập ghềnh quanh co hiểm trở của dốc khi
lên cao và độ sâu như thể con dốc đang lao thẳng xuống miệng vực. Sự ngắt nhịp
giữa câu thơ’ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống’ và nghệ thuật tương phản
khiến câu thơ như bị bẻ đôi đã diễn tả thế núi vừa vút lên dựng đứng lại đổ xuống
bất ngờ đầy nguy hiểm. Nhìn lên thì cao thẳm thẳm nhìn xuống lại sâu hun hút..
Bức tranh núi rừng Tây Bắc không chỉ thể hiện bằng hình ảnh mà còn có sự cộng
hưởng của âm thanh. Hình ảnh ‘ Heo hút cồn mây sung ngửi trời’ đã diễn tả độ cao
ngất trời của núi. Những đỉnh núi, khối núi cao lởm chởm tưởng chừng chạm mây,
mây nổi thành cồn heo hút. Người lính trèo lên những ngọn núi cao có cảm giác
như đang đi trong mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Hình ảnh’ sung ngửi trời’
được nhân hóa đã bộc lộ sự tinh nghịch, hồn nhiên tếu táo của người lính Tây Tiến
vụt lớn lên trên cái nền của núi rừng hung vĩ Tây Bắc.

Không chỉ khắc họa không gian đèo cao , vực sâu hùng vĩ, hiểm trở, Quang
Dũng còn nhớ đến những giây phút dừng chân nghỉ lại lưng đèo của người lính,.
Họ phóng tầm mắt ra xa, qua một không gian mịt mùng sương rừng mưa núi, thấy
thấp thoáng những ngôi nhà đã làm cháy lên niềm mơ ước của người lính. Câu thơ
mien man trải dài qua những thanh bằng độc đáo đã mở ra không gian 1 miền sơn
cước xa mờ trong mưa. Các anh sẽ được tạm dừng chân trú mưa, tạm nghỉ ngơi
chút ít trong nững ngôi nhà đó. Câu thơ dung toàn thanh bằng đã diễn tả sự lâng
lâng, niềm vui trong tâm hồn Quang Dũng và đồng đội của ông sau những ngày
hành quân gian khổ, họ đã thấy bóng dáng của sự sống con người. bốn câu thơ tạo
nên một bức tranh với những nét chạm khắc vừa gân guốc rắn rỏi vừa thơ mộng trữ
tình.Chất nhạc đc tạo nên bởi những thanh trắc đậm đặc : dốc, khúc khuỷu, thước,
heo hút,… khiến tiết tấu câu thơ đọc lên nghe trucs trắc như thấy đc những khó
khăn hiểm trở của chặng đường hành quân gian nan.Chất nhạc còn đc tạo nên bởi
những câu thơ toàn thanh bằng gợi nhịp điệu nhẹ nhàng, êm ái như tâm hồn thư
thái của người chiến sĩ sau nhg phút giây mệt mỏi căng thẳng khi đã chiếm lĩnh đc
đỉnh cao.

Không chỉ hùng vĩ dữ dội đẹp thơ mộng mà thiên nhiên Tây Bắc còn đượm vẻ
hoang vu bí hiểm. Những bí mật ghê gớm của rừng thiêng nước độc đầy thú dữ
luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với người lính:

“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch, cọp trêu người”

Những thác nước đổ từ núi cao xuống đang gầm thét được cảm nhận trong cảnh
núi rừng âm thầm lúc chiều tối càng làm cho thác nước như có sức mạnh thiêng
liêng huyền bí. Sự bí hiểm đc tạo dựng bằng âm thanh ghê gớm dữ dội, thác nước
thì “gầm thét” để chứng tỏ “oai linh” tuyệt đối của rừng thiêng man dại, thú dữ lại
thường xuyên đe dọa. Có người cho rằng Quang Dũng đã thật tài tình khi đưa địa
danh vào trong thơ. Hai chữ “ Mường Hịch’’ vang lên đầy ám ảnh. Sự kết hợp
thanh trắc cùng dấu nặng gợi âm điệu nặng nề, chỉ cần đọc lên đã thấy lởn vởn
bước chân cọp dữ vừa lướt qua trong những đêm khuya thanh vắng. Vẻ hoang sơ
của TNTB đâu chỉ ngập tràn trong không gian mà còn đc trải rộng qua thời gian.
Những từ láy ‘ chiều chiều’ ‘ đêm đêm’ cùng âm thanh tiếng thác đổ ào ạt, tiếng
cọp gầm bí hiểm giữa rừng khuya tạo thành tiếng vọng dữ dội trong không gian núi
rừng bạt ngàn sâu thẳm. Ánh chiều đổ xuống huyền bí rồi bóng đêm trùm lên càng
làm tăng vẻ hoang vu đáng sợ của núi rừng Người lính phải thường trực chiến đấu,
thường trực đối diện với nhg nguy hiểm rập rình không chỉ là đói rét, bệnh tật, kẻ
thù mà còn là sự rùng rợn ghê gớm của chốn sơn lâm. Quang Dũng miêu tả núi
rừng miền tây hiểm trở, hoang dại, dữ dội, là để tô đậm sự gian khổ trên đường
hành quân rồi qua đó mà biểu dương tinh thần ung dung can trường của người lính
tây tiến. Vượt lên trên tất cả, người lình Tây Tiến k hề sợ hãi mà vẫn lạc quan yêu
đời .Có thể nói, bức tranh thiên nhiên miền tây hung vĩ dữ dội thơ mộng là những
kỉ niệm một thời để nhớ, một thời không quên của Quang Dũng với núi rừng miền
tây tổ quốc.

Không chỉ nhớ thiên nhiên miền Tây, Quang Dũng còn nhớ đồng đội của ông:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Nhà thơ không hề né tránh, ông tả rất thực về những mất mát hi sinh của đoàn binh
Tây tiến. Từ dãi dầu đã lột tả cụ thể sự khắc nghiệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu
gian khổ hiểm nguy phủ lên đầu người lính làm cho họ mệt mỏi rã rời đến không
bước được nữa, không đủ sức tiếp tục cuộc hành trình. Hai tiếng ‘ anh bạn’ từ
trong tâm khảm nhà thơ cất lên như 1 tiếng khóc thầm. Nỗi đau xót, niềm cảm
thương đồng đội đã làm cho âm điệu câu thơ dù có ngang tàn nhưng vẫn nặng trĩu
nỗi đau. Trong những ngày “dãi dầu”, trong những đêm dài hành quân nung nấu,
có bao đồng đội than yêu đã “không bước nữa”, “bỏ quên đời” , bỏ bạn bè đồng chí
nằm vĩnh viễn nơi chân đèo góc núi Những đồng đội của Quang Dũng không hi
sinh trong cuộc đấu sung đọ gươm với kẻ thù mà họ chết vì kiệt sức trên đường
hành quân. Người lính Tây tiến anh hùng ngay trong sự hi sinh thầm lặng ấy. Nhà
thơ không thể quên tư thế hi sinh đậm chất bi tráng hào hung của đồng đội. Bốn
chữ “ Gục lên súng mũ” thể hiện dù có ngã xuống cx rời quân ngũ, dù ngã xuống
thì sũng vẫn cầm trên tay, mũ vẫn đội trên đầu.Họ chết trong tư thế vẫn còn như
tiếp tục cuộc hành trình. Nhớ thương đồng đội , Quang Dũng đã dùng cách nói
giảm nói tránh, thay từ ‘ chết’ bằng ‘ ko bước nữa’ bỏ quên đời nhưng âm hưởng
lời thơ vẫn trào nên nỗi xót xa thương tiếc. Nhà thơ tiếc thương những chàng trai
Hà thành tuồi mới 18, đôi mươi những vì tổ quốc, họ đã chẳng tiếc đời xanh.
Quang Dũng cảm phục sự hi sinh cao đẹp của họ. Ông nói sự thật của chiến tranh
là để nâng hình tượng đồng đội của ông lên cái bi hung bi tráng. Họ đã vượt lên
gian khổ để chiến đấu và chiến thắng trong đó có nhà thơ. Vì độc lập tự do mà họ
sẵn sàng:

“Sống vì Cách Mạng, an hem ta

Chết vì Cách Mạng, chẳng phiền hà”

Tố Hữu

Con đường hành quân của người lính Tây Tiến k chỉ có gian truân vất vả mà
còn có cả nhg kỉ niệm ngọt ngào. Miến Tây k chỉ có núi cao rừng sâu, mà còn có
cả những bản làng nên thơ với khỏi lam chiều ấm áp quyện bên sườn núi, có hương
thơm quyến rũ của xôi nếp hương và nhất là nhg thiếu nữ xinh đẹp, duyên dáng.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Đoạn thơ mở đầu bằng nỗi nhớ và kết lại bằng nỗi nhớ. Trong chuỗi hoài
niệm về những tháng ngày hành quân gian khổ có 1 dòng kỉ niệm thật ngọt ngào về
Mai Châu. Sau những chặng đường hành quân gian khổ, Quang Dũng và đồng đội
đã tạm nghỉ chân ở 1 bản làng của đất Mai Châu.Ở đây, các anh được đồng bào,
đặc biệt là các cô gái dân tộc xinh đẹp như những bông hoa rừng đón tiếp niềm nở
bằng những bữa cơm nếp xôi.Những người lính ngồi quây quần bên những nồi
cơm đang bốc khói. Hương thơm lúa nếp đầu mùa đã xua tan vẻ mỏi mệt trên
gương mặt người lính khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Nhà thơ nhớ cả hình ảnh làn khói
bốc lên tỏa quanh những mái đầu dãi dầu gian lao. Ông như còn nghe thấy cả tiếng
xuýt xoa cảm động của các đồng đội trước tình quân dân cảm động của các đồng
đội trước tình quân dân thắm thiết. Có lẽ trong tâm trí nhà thơ đến lúc ngồi nhớ lại,
mùi cơm nếp thơm vẫn còn nồng nàn. Mùi cơm nếp thơm gợi người lính nhớ tới sự
ấm cúng của cuộc sống thanh bình hạnh phúc, tâm hồn họ như ấm lại sau những
ngày chịu đựng gian khổ hi sinh. Thật không gì ngọt ngào thơ mộng bằng hình ảnh
‘ cơm lên khói’ và ‘mùa em thơm nếp xôi’. Từ biểu cảm ‘ ôi’ đã diễn tả sự sung
sướng của người lính khi được ăn những bữa cơm nếp xôi mà hương thơm của nó
cứ vấn vương mãi theo bước quân hành. Quả là chỉ có Quang Dũng và những
người lính Tây tiến mới cảm nhân được hết hương vị ngọt ngào thơm ngon của xôi
nếp Mai Châu trong những ngày hành quân chiến đấu khốc liệt.

Nếu ở đoạn 1, khi miêu tả bức tranh thiên nhiên núi rừng T.Bắc và con đường
hành quân của người lính T.T, QD dùng những từ mạnh mẽ gân guốc thì ở đoạn
thơ này, ngôn ngữ nhà thơ dùng thật tinh tế, mềm mại đã làm diu hẳn không khí dữ
dội của núi rừng hiểm trở. Âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ vẫn là nỗi nhớ. Trước
hết, QD nhớ những kỉ niệm về đêm liên hoan văn nghệ giữa bộ đội T.T và người
dân nước bạn Lào:

Doanh trại bùng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Đoạn thơ mở ra một thế giới khác hẳn, không còn núi rừng hoang vu hiểm trở
dữ dội,tất cả đã lùi xa.Tham gia vào đoàn quân T.T có nhiều chsi là h/s, sinh viên,
thanh niên trí thức HN.QD cũng là 1 học sinh vừa rời ghế nhà trường.Đây chính là
lí do làm cho người lính T.T có vẻ đẹp hào hoa thanh lịch, lãng mạn mộng
mơ.Những tâm hồn như thế dễ bị cuốn hút bởi cái đẹp, cái tình tứ của cảnh, của
người, đặc biệt là cái đẹp có màu sắc xứ lạ.Vẫn có tâm hồn lãng mạn nên đây là
dịp để hồn thơ phóng khoáng của QD dc thỏa sức tung hoành trong cảm nhận vẻ
đẹp của cảnh và người chốn biên cương. Trong cái nhìn lãng mạn, của chàng trai
Hà Thành,đêm liên hoan lửa trại nơi núi rừng đã trở thành đêm hội đuốc hoa tưng
bừng rộn rang tiếng hát, tiếng khèn, tiếng sáo, đã biến những cô sơn nữ như những
vũ nữ lộng lẫy trong y phục, xiên áo của người Thái, người Lào.Chỉ 1 chữ “ bừng”
trong câu thơ “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” đã làm bật lên dc cảm xúc dạt
dào phấn chấn. Đây đâu chỉ là sự rực rỡ ánh sáng của những ngọn lửa hồng mà nó
còn là sự bừng sáng trong tâm hồn những người lính T.T. Đó là niềm vui rạng rỡ
của họ trong đêm hội đuốc hoa.Đêm hội “ đuốc hoa” có nghĩa là đêm động phòng
hoa chúc lộng lẫy một đời người. Quang Dũng dùng hình ảnh “ đuốc hoa” ẩn dụ
cho đêm lửa trại dể bộc lộ cảm xúc và tâm trạng của các chiến sĩ T.T. Họ vui
sướng, bất ngờ và ngạc nhiên trước vẻ đẹp của các cô gái Lào. Như vậy, với tâm
hồn lãng mạn qua cách nói “hội đuốc hoa”. Quang Dũng đã làm đẹp thêm,thi vị
thêm những đêm dốt lửa rừng liên hoan văn nghệ của đoàn quân Tây Tiến. Từ “
bừng và từ “ đuốc hoa” đã làm cho doanh trại của những người lính dãi dầu như
được 1 sức sống kì diệu thổi vào đã bừng lên, rộn rang thêm lên. Cuộc sống gian
truân vất vả được tạm quên đi để những người lính trẻ nhập vào đêm hội đắm say.
Những ngọn đuốc đã soi tỏ vẻ đẹp của các cô gái vùng cao, đã làm cho cảnh vật
thêm rực rỡ lung linh, Các cô gái trong bộ xiêm y truyền thống của dân tộc mình
vẫn giữ được dáng điệu e ấp là vẻ đẹp riêng của người thiếu nữ rẻo cao. Điều đó
khiến những người lính trẻ ngạc nhiên. Họ thốt lên đầy thú vị, ngỡ ngàng thích thú:
‘ Kìa em xiêm áo tự bao giờ’. Nghệ thuật múa độc đáo cùng dáng điệu uyển
chuyển tình tứ của các thiếu nữ đã làm các chàng trai Tây Tiến ngưỡng mộ say mê.
Họ như bị hút cả hồn vía trước vẻ đẹp đầy quyến rũ đó. Người đọc nhwu hình dung
thấy các anh bộ đội tây tiến nắm tay các cô gái thướt tha trong vũ điệu lăm vông rộ
rang trong tiếng nhạc réo rắt nên tâm hồn bốc men say. Người chiến sĩ tây tiến đã
ra đi chiến đâu với 1 tâm hồn nghệ sĩ. Họ cầm sung trỏ thành chiến sĩ là do hoàn
cảnh không thể khác được bởi đất nước có chiến tranh, còn về bản chất, họ thật sự
là những nghệ sĩ, gian khổ mà vẫn hào hoa. Đón là nét cơ bản trong tính cách con
người Việt Nam mà những chàng trai Hà Nội là tiêu biểu nhất. Trong phút chốc,
bao nhiêu gian khổ trên đường hành quân được rũ sạch để chỉ còn niềm vui và
những rung động nên thơ trong tâm hồn người lính tây tiến. Nhìn vào đêm hội
đuốc hoa, ta có cảm giác ở đây ko có chiến tranh chỉ có cuộc sống thanh bình bởi
người lính đang say sưa múa hát đùa vui, tâm hồn họ trẻ trung tươi mát,lạc quan
yêu đời. Trong cảm xúc đắm đuối ấy, từ bao giờ ‘ em ‘ đã chuyển thành ‘ nàng’
thật tinh tế. Không gian và thời gian cũng xa xôi hơn, mơ hồ hơn, tạo đã cho sóng
nhạc cứ lan mãi tận miền viên chăn xa xôi. Người lính Tây Tiến say sưa ngây ngất
như lạc vào cõi thần tiên, đắm chìm trong những màu sắc, âm thanh, ánh sáng
huyền ảo. Tâm hồn các anh bay bổng mộng mơ “ xây hồn thơ. Những người lính
tây tiến ấy đang làm 1 nhiệm vụ hết sức vẻ vang bởi họ là những chiến sĩ quốc tế
đầu tiên của quân đội nhân dân việt nam giúp đỡ nước bạn lào”. Người lình mơ
đến ngày chiến thắngĐó cũng là niềm tin tưởng mãnh liệt vào cuộc kháng chiến
thắng lợi.Bằng hính ảnh giàu giá trị tạo hình và biểu cảm, Quang Dũng khắc học
đời sống tinh thần phong phú của người lính Tây Tiến.
Cái đẹp của vũ hội bập bùng, dập dìu tưởng như vẫn còn làm tâm hồn người
lính ngất ngây. Trong 4 câu thơ tiếp theo, ta bắt gặp 1 khung cảnh mênh mang mờ
ảo của buổi chiều sương phủ trên sông nước

. Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ

Có thấy dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Cách dùng đại từ phiếm chỉ ‘ người đi’ ‘ ấy’ cùng các câu hỏi ‘ Có thấy’ ‘ có
nhớ’ đã diễn tả cái mênh mang của sự vật và nhà thơ tự hỏi lòng mình đầy bang
khuâng lưu luyến. Hỏi để nhớ, để lưu lại 1 vẻ đẹp duyên dáng đến lạ kì của 1 hồn
lau , 1 dáng người miền Tây Bắc tổ quốc. Cảnh vật, con người trong kí ức Quang
Dũng thật đẹp, thật huyền ảo và nghĩa tình.

Cao nguyên Mộc Châu không có được cái hùng vĩ cảu núi nnon, không có cái
đẹp rạng rỡ và cuồng nhiệt mà Quang Dũng từng đắm say như trong đêm hội đuốc
hoa nhưng nó đã gieo vào lòng người đọc ấn tượng về 1 vẻ đẹp man mác xa xăm.
Đó là bức tranh thiên nhiên miền tây thơ mộng với chiều sương Châu Mộc, dòng
sông, hồn lau, dáng người chèo thuyền và hoa đong đưa. Có thể thấy, cảnh vật
trong chiến trường thật thơ mộng, đẹp, tĩnh lặng đẹp như cảnh thần tiên trong cổ
tích. Không gian dòng sông trong 1 chiều sương mờ ảo đẹp đến nao lòng. Quang
Dũng như muốn gọi ai đó cùng ông chia sẻ nỗi niềm đắm say. Qua tâm hồn người
lính Tây tiến, những sự vật vốn rất bình thường bỗng trở nên có hồn, có thần..
Ngàn lau man mác bên bờ sông, triền núi hòa vào màn sương lãng đãng như có
linh hồn. Đó là cái hồn của cỏ cây sông nước, cái linh hồn của tạo vật. Cái tài của
nhà thơ là không dùng ‘ ngàn lau’ mà lại dùng ‘ hồn lau’. Chỉ thay đổi 1 chữ nhưng
Quang Dũng đã làm thay đổi cả hồn thơ. Nổi bật giữa thiên nhiên miền Tây đầy
thơ mộng ấy là 1 ‘ dáng người trên độc mộc’. ‘ Dáng người’ ở đây có thể hiểu là
người dân địa phương chèo thuyền đưa các anh bộ đội tây tiến qua sông; có thể là
cái dáng thon thả mềm mại uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc
mộc; hoặc đó là dáng đẹp của cô gái giao liên dẫn đường. và đây phải là cáu dáng
tạo hình rất đẹp đã khắc sâu vào trí nhớ nhà thơ nên ông mới gợi nhắc bằng 1 câu
hỏi ‘ có nhớ’ đầy day dứt.Còn ‘ hoa đong đưa’ có thể hiểu ‘hoa’ là những bông hoa
lau trắng, hoa rừng dập dềnh, hoặc ‘ hoa’ là nụ cười tươi rói, là đôi mắt lung liếng
của người con gái chèo thuyền. Nghệ thuật nhân hóa đã làm cho những bông hoa
rừng cũng biết làm duyên trên dòng nước thật đẹp. Ba thanh không ‘ hoa đong
đưa’ thật nhẹ nhàng như níu bước chân thi sĩ ngắm nhìn 1 Châu Mộc đẹp đến mơ
mộng ngất ngây

Quả là thi trung hữu hạn’ ngòi bút của Quang Dũng thật tinh tế, chỉ loáng
thoáng vài nét đã ghi lại cái chập chờn lay động của hòn lau, cái vẻ đong đưa tình
tứ của những bông hoa rừng trên dòng nước lũ cũng như cái dáng rất đẹp của
những cô gái Châu Mộc cheof thuyền. Cảnh và người miền Tây được nhắc đến với
cả nỗi nhớ nhung sâu lắng thiết tha qua những câu thơ man mác đầy chất thơ, họa
nhạc. tám câu thơ, hai khung cảnh nhưng cùng 1 cảm xúc say đắm mộng mơ. Hồi
ức và kỉ niệm hiện về thấp thoáng, hư ảo , thiết tha, mộng mơ mà chân thực trên
cái nền của không gian Tây Bắc khắc nghiệt nhưng đầy sương khói , sông nước và
nỗi nhớ. Đặt trong cả bài thơ, btranh Tây Bắc ở đây có nét lạ:không nghe thấy âm
thanh của đại ngàn dữ dội,không nhìn thấy nhg dãy núi hiểm trở như thách thức
con người. Ở đây chỉ có sự thơ mộng và bình yên với cảm hứng lãng mạn thuần
khiết. Chiến tranh dường như đã tạm thời vắng lặng trong nhg khoảnh khắc yên
tĩnh hiếm có này.

Ở 2 đoạn thơ trước, hình ảnh người lính Tây tiến đã hiên ra trên bối cảnh là
không gian núi rừng tây bắc nhưng phải đến đoạn thơ này, chân dung ấy mới được
khắc họa 1 cách chân thực hoàn tất với những đường nét đặc tả bất ngờ, khó quên.
Trước hết người lính hiện lên với nét trần trụi mà rất đỗi oai hùng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Hiện thực cuộc sống kháng chiến gian khổ thiếu thốn trên địa bàn núi rùng tây
bắc khắc nghiệt khiến cho các chiến sĩ trẻ của trung đoàn tây tiến mắc phải căn
bệnh sốt rét quái ác đến nỗi rụng cả tóc, mắt trắng , môi thâm, da xanh bủng như
tàu lá. Đay là chất liệu hiện thực của bức chân dung đầy ấn tượng về người lính tây
tiến chứ không phải Quang Dũng đã thi vị hóa thực tế kháng chiến gian khổ như có
người từng nghĩ. Nhưng điều đáng khâm phục là các anh tiếp nhận hiện thực khốc
liệt 1 cách bình thản đến lạ kì. Họ biết biến gian khổ thành niềm kiêu hãnh của
mình. Người lính tây tiến tự hào về đoàn binh của họ. Hai tiếng ‘ đoàn binh’ tạo ra
âm vang mạnh mẽ. Các anh tự gọi tên đoàn binh của mình bằng cái tên ngộ nghĩnh
hóm hỉnh là ‘ đoàn binh không mọc tóc’. Chi tiết ‘ không mọc tóc’ của cả đoàn
binh đã tạo ấn tượng kì dị lạ thường về những anh vệ trọc của thời kì khacnsg
chiến chống Pháp. Sốt rét là căn bệnh hiểm nghèo ở nơi núi rừng đã được nhiều
nhà văn nhà thơ đề cập đến trong tác phẩm của mình. : Làm sao có thể quên đc nhg
vần thơ mộc mạc, giản dị của Chính Hữu khi viết về ng lính nông dân dân những
năm đầu kháng chiến:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run ng vầng trán ướt mồ hôi”

Làm sao có thể không ám ảnh bởi những :

“Gương mặt đã lên màu bệnh tật

Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”

--------Tố Hữu---------

Còn Quang Dũng đã diễn tả căn bệnh sốt rét ấy với 1 phong cách riêng độc
nhất vô nhị là những cái đầu rụng hết tóc. Tóc người lính không phải là không
được mọc mà là không thèm mọc tóc đẻ khi đánh giáp lá cà với giặc được thuận
tiện. Cách nói tếu nghịch đó đã cho thấy sự thực gian khổ khốc liệt của chiến
trường. Người lính tử vong vì đánh trận thì ít mà vì sốt rét thì nhiều . Bệnh sốt rét
rừng cùng với thời tiết khí hậu nơi núi rừng đã cướp đi mái tóc tuổi xanh và vẻ đẹp
ngoại hình của những người lính. Chỉ cần đảo cụm từ “k mọc tóc”, câu thơ từ th lá
thế bị động đã chuyển thành thế chủ động. Cách nói ấy làm nổi bật nét ngang tang
của ng lính.“ quân xanh màu lá” cũng là 1 thực tế hiển nhiên bổ sung cho hình ảnh
trên. Câu thơ có thể hiểu theo 2 nét nghĩa: “xanh màu lá” là sắc lá ngụy trang hay
là nước da xanh xao vàng vọt trên gương mặt ng lính khi phải chịu cơn sốt rét rừng
hành hạ. Song dù hình thù có kì dị nhưng chân dung tinh thần của các anh thật
hiên ngang, dữ dội, lẫm liệt ngang tàn như những con hổ nơi rùng thiêng. Thủ pháp
đối lập, cùng cách nói quá đã phát huy tối đa nét đẹp tinh thần của các anh vệ quốc
quân. Cụm từ ‘ dữ oai hùng’ khi đứng riêng, tự bản thân mỗi từ đã tạo nên sức
mạnh, lúc gộp chung càng khắc sâu vẻ dữ dằn lẫm liệt của cả đoàn quân khiến
quân thù khiếp đảm. Người đọc không thấy 1 lời kêu than, 1 sự mệt mỏi mà như
chỉ thấy nụ cười vẫn lấp lánh trên mỗi đoàn binh có cái tên lạ lung ấy. Ẩn sau
ngoại hình có phần tiều tụy, ốm yếu là sức mạnh nội tâm, là khí thế hiên ngang
dũng mãnh như chúa tể ngự trị rừng xanh của ng lính Tây Tiến.Thấp thoáng đâu
đây là khẩu khí của Nhớ rừng hay xa hơn là âm hưởng hào khí Đông A hừng hực
ngút trời: “ Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu”- Ba quân như hổ báo, khí thế át sao
ngưu

Tuy nhiên cuộc đời chiến đấu gian khổ không làm mất đi nét lãng mạn vốn có
trong tâm hồn người linh Tây tiến:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Phối hợp với dáng vẻ ‘ dữ oai hùm’ là ánh ‘ mắt trừng’. Hình ảnh ‘ mắt trừng’
gợi lên 1 cái nhìn dữ dội nẩy lửa. Đây là ánh mắt cảnh giác, ánh mắt đó như sẵn
sang thiêu đốt quân thù. Đây còn là quyết tâm chiến đấu vì tổ quốc của những
người chiến sĩ tây tiến. Trong gian khổ họ phải cứng rắn để đứng vững trên chiến
trường. Vượt lên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn rất mộng mơ. Cái
nhìn nhiều chiều Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấu cái vẻ oai hùng dữ dằn bề
ngoài của người lính là những tâm hồn, những trái tim rạo rực khát khoa yêu
thương. Dẫu có ở lúc tân Thượng Lào xa xôi và phải luôn đối mặt với cái chết
nhưng bằng trái tim khoa khát yêu thương và tâm hồn lãng mạn, hằng đêm họ vẫn
gửi mộng qua biên gới để mơ về 1 dáng ‘ kiều thơm’ của Hà Thành hoa lệ. Mộng
và mơ của người chiến sĩ Tây Tiến đã hướng về Hà Nội với bao ước vọng cháy
bỏng. Họ nhớ Hà Nội vô cùng nhưng nhớ thương nhất vẫn là ‘ dáng kiều thơm’ .
‘Dáng kiều thơm’ là dáng vẻ xinh đẹp đáng yêu của người con gái. Cụm từ này chỉ
có trong ngôn ngữ của người chiến sĩ tây tiến dành cho những bóng hồng ngày
xưa. Cái đáng quí của thơ Quang Dũng đã tạo nên dảng vẻ riêng của mỗi người
lính thủ đô. Cùng viết về nỗi nhớ của ng lính nhưng nếu ng lính nông dân trong
“Đồng chí” của Chính Hữu nhớ về “ Quê hương anh nước mặn đồng chua”, gian
nhà ruộng nương giếng nước gốc đa, ng lính trong Nhớ của Hồng Nguyên mơ về
Luống cày đất đỏ, tiếng mõ đêm trg,…. Thì ng lính Tây Tiến lại mơ về “ dáng kiều
thơm”. Phải chăng trong những giây phút bình yên giữa cuộc chiến, ng lính đã
hướng tâm hồn mình về những gì gần gũi, thân thương nhất. Từ ruộng nương phố
phường ra đi ai chẳng cất giấu trong tim 1 bóng hình nào đó. Và giữa cái khắc
nghiệt của thiên nhiên của cuộc chiến, hình bóng ấy trở về với tất cả nét kiều diễm
thơm mát trong tâm hồn người lính Tây tiến. Nhũng chàng trai Hà Thành không
dấu nổi nét đa tình của mình. Thế giới tâm hồn người lính thật lãng mạn, thi vị và
mộng mơ. Đó là thoáng ủy mị rất đời rất người, rất thị thành của người lính vốn là
học sinh sinh viên Hà Nội. ‘ Dáng kiều thơm’ là vầng sáng lung linh trong kí ức
người lính nó tạo ra sự cân bằng trong tâm hồn người lính xa nhà. Chỉ cần 1 chút
lãng mạn như vậy cũng đủ nuôi dưỡng tinh thần người lính Tây tiến trong hoàn
cảnh chiến đấu gian khổ để không gục ngã. Có thể nói, ngòi bút tài hoa của Quang
Dũng đã tô đậm vẻ đẹp tâm hồn của người lính tây tiến trong cuộc kháng chiến
thần thành của dân tộc.

Vẻ đẹp của ng lính còn đc thể hiện ở tinh thần sẵn sàng xả thân. Vì lí tưởng, ng
lính ra đi trong tư thế”coi cái chết nhẹ như lông hồng”

“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trg đi chẳng tiếc đời xanh”

Lại 1 lần nữa, Quang Dũng k né tránh cái bi thương mà nhìn thẳng vào sự thực
khốc liệt, nghiệt ngã của chiến tranh.Những nấm mồ nằm rải rác ở dọc biên giới
hai nước Việt Lào cho thấy sự hi sinh thầm lặng to lớn của các chiến sĩ tây tiến.
Điều đó chứng tỏ Quang Dũng không hề né tránh sự thật. Bút pháp hiện thực đã
ghi lại nét đau đớn dữ dội của chiến trường. Nơi biên cương xa xôi, cái chết hiện
diện trong những nấm mồ của những con người mới hôm nào còn đắm say tình tứ
trong đêm lửa trạ. Đứng trước cảnh tượng đó, ai mà chẳng ngậm ngùi. - Nhg
mỗi khi chìm trong đau thương, hồn thơ Quang Dũng lại đc nâng lên bằng đôi cánh
lãng mạn. Cái bi thương như vội đi khi trong câu thơ 7 tiếng mà có đến 5 tiếng là
từ Hán Việt. Những từ “ biên cương”, “ mồ viễn xứ” mang sắc thái trang trọng
khiến nhg nấm mồ sĩ tử như bao bọc trong 1 lớp khí thiêng đượm vẻ ngậm ngùi
thành kính Nếu câu thơ đầu từng nét chữ như nốt nhạc trầm thì câu sau lại vút lên
tiết tấu hùng tráng:Cái bi thg đã bị xóa nhòa bởi quyết tâm chiến đấu, bởi lí tưởng
cao đẹp.Hai chữ “ chẳng tiếc” thể hiện thái độ tự nguyện, dứt khoát. Từ “ chiến
trg” đc đảo trc động từ” đi” khiến câu thơ mang âm hưởng mạnh mẽ, quyết liệt như
1 lời tuyên thệ, làm ta nhớ đến khẩu khí của trang nam nhi lên đg vì nghĩa lớn
trong bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm:
“ Lí khách! Lí khách! Con đg nhỏ

Chí lớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại

Ba năm mẹ già cx đừng mong”

“đời xanh” là để chỉ tuổi trẻ, tuổi thanh xuân mơn mởn đầy sức sống.Cuộc đời
thanh xuân đầy ước vọng ai chẳng yêu quí trân trọng nhưng có 1 lí tưởng còn đáng
trân trọng hơn đó là sự sống còn của Tổ quốc. Đó cx chính là phương châm sống
giản dị mà cao đẹp của thanh niên Hà Nội một thời:

“ Chúng tôi đi k tiếc đời mình

Nhg tuổi 20 lsao k tiếc

Nhg nếu ai cx tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ Quốc”

Thanh Thảo.

Cho nên kẻ làm trai thời loạn đã sẵn sang hiến đang tuổi thanh xuân của
mình cho đất nước :

“ Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bao yêu mến tiếc thương của Quang Dũng gửi cả trong câu thơ này. Quang Dũng
nói ‘ Áo bào thay chiếu’ là cách nói của người lính lúc đó để an ủi những đồng đội
của mình đã ngã xuống, còn sự thật khi người lính hi sinh, 1 manh chiếu bó lấy thi
thể cũng không có, hình hài được liệm bằng ngay tấm áo của mình. Cái nhìn lãng
mạn của Quang Dũng đã biến những tấm áo bình thường thành áo bào sang trọng
của các danh tướng ngày xưa ra trận. Cách nói trang trọng ấy đã làm cho sự hi sinh
của những người lính tây tiến thật sang trọng hào hùng chói ngời vẻ đẹp lí tưởng
mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở xưa, làm cho cái chết được tang thêm phần
thiếng liêng cao cả. Nhờ vẻ đẹp của hành động hi sinh cho Tổ quốc mà manh chiếu
ấy ánh lên sắc đỏ thắm của chiếc áo baog. Nếu ở đoạn đầu viết về sự hi sinh của
người lính nhà thơ dùng cách nói giảm nói tránh ‘ gục lên sung mũ bỏ quên đời’ thì
ở đây ông vẫn dùng cách nói tránh ‘ anh về đất’ để làm vơi đi sự bi thương. Anh về
đất là trở về nằm trong lòng đất mẹ tổ quốc thân yêu, là trở về với hồn thiêng sông
núi. Ng lính Tây Tiến đã hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc, họ thanh
thản trở về. Đất như ng mẹ hiền dang rộng vòng tay bao bọc chở che cho đứa con
yêu. Các anh đã trở thành một phần của Đất Nước, trở thành hồn thiêng sông núi
như nhà thơ Ng Khoa Điềm đã viết:

“ Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Với sự hi sinh cao cả như vậy, Quang Dũng kết thúc đoạn thơ bằng 1 câu thơ
đậm chất bi tráng: ‘ Sông Mã gầm lên khúc độc hành’. Con sông Mã xuất hiện 1
lần nữa, nó đã có mặt cùng với người chiến sĩ từ đầu cho đến cuối cuộc hành trình.
‘ Sông Mã’ gầm lên vì lòng quặn đau. Tiếng gầm của sông mã như khúc nhạc của
non sông đang tấu lên để tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an giấc ngàn thu. Không
giọt lệ rơi, không lời điếu văn, không loạt đạn tiễn đưa mà chỉ 1 tiếng gầm đã diễ tả
đầy đủ nỗi đau dữ dẵn thấm thía. Cái chết của người lính đã động cả đất trời, sông
núi. Và đất trời đã thu nhân thể xác linh hồn các anh vào lòng, vào cõi bất tử. Đặt
cái chết của người chiến sĩ trong bối cảnh thiên nhiên rộng lớn thì nỗi đau mất mát
càng thêm mênh mang đồng thời sự hi sinh càng có ý nghĩa lớn lao. Họ chết đấy
nhưng họ luôn sống mãi trong lòng chúng ta. Trong âm hưởng vừa dữ dội của
thiên nhiên, sự hi sinh của người lính thấm đẫm tinh thần bi tráng.

Có thể nói, khúc độc hành dữ dội bi tráng đã hoàn tất bức chân dung- tượng
đài bất tử về người lính tây tiến anh hùng. Lớp từ hán việt được dùng nhiều trong
đoạn thơ đã tạo nên sự tôn kính trang trọng hào sảng cho bức tượng đài và nó còn
thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự kính cẩn của Quang Dũng trước sự hi
sinh của đồng đội.

Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ về đồn quân Tây Tiến, ta thấy hiện lên hình ảnh
người chiến sĩ: gan dạ, dũng cảm, không sờn lòng trước những khó khăn gian khổ;
chiến đấu kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng và lúc nào cũng phơi
phới lạc quan.Bốn câu kết bài thơ (ghi bốn câu thơ) được viết theo những dòng chữ
ghi vào mộ chí. Đó cũng là lời thề quyết tâm của các chiến sĩ Tây Tiến “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”.
Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa, chẳng về xuôi.

Hai câu thơ đầu thể hiện nỗi lòng của nhà thơ đối với đồng đội, những người còn
sống và những người đã ngã xuống:

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Những người lính cùng là những người tri thức nhưng trước khi gia nhập đoàn
binh Tây Tiến họ không hề biết nhau. Họ đều là những người xa lạ, họ không hẹn
nhau tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn nhau đi lính là sẽ có ngày trở về. Đoàn
quân Tây Tiến chính là nơi gắn kết họ lại thành một gia đình, thành những anh em
gắn bó khăng khít. Quay trở về thực tại, Quang Dũng một mình đối mặt với nỗi
nhớ thương đồng đội, đối mặt với những sự hi sinh của đồng đội mình nơi biên
cương cửa ải. Nhà thơ càng cảm thấy nhớ, càng cảm thấy yêu quý đơn vị cũ của
mình. Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng có một nỗi
niềm như người lính Tây Tiến, từ những người xa lạ người lính Việt Nam gắn kết
với nhau như anh em:

Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”


Đường đi của Tây Tiến càng đi là càng chia phôi, giữa cái ác liệt của chiến tranh,
giữa sự tàn ác của lũ giặc khốn nạn họ không xác định sự chia phôi vừa lớn, vừa
thăm thẳm như ngàn thước của núi cao kia. Những người đồng đội của Quang
Dũng đã đi và không hẹn ngày trở lại.

Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo
sơn, từ những kỉ niệm và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của
mình luôn gắn bó với Sầm Nứa:

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Có thể thấy “mùa xuân” có nhiều nghĩa. Đó là mùa đẹp nhất trong năm. Đây cũng
là thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến. Mùa xuân còn là mùa của đất nước. Nó
cũng ẩn dụ cho tuổi trẻ của người chiến sĩ đã một đi không trở lại. Họ mang theo
sức trẻ nhiệt huyết cháy bỏng của mình lên đường hành quân chiến đấu. Tuy nhiên,
họ đã hi sinh nhưng hồn của họ không về quê hương vội mà vẫn còn lượn lờ sang
nước bạn hợp lực tác chiến với quân dân Lào chống Pháp. Họ quyết tâm thực hiện
lí tưởng đến cùng nên kể cả khi họ đã ngã xuống nhưng hồn của họ vẫn chiến đấu
tới cùng, vẫn đi cùng đồng đội, sống trong lòng họ mãi mãi. Đó cũng mang tính sử
thi cao. Cả tuổi trẻ của họ chỉ với mục tiêu chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Họ vẫn rong
ruổi chiến đấu trên suốt cuộc hành trình khó khăn ấy của mình. Phải chăng tình yêu
quê hương đất nước của họ sâu đậm thấm nhuần vào máu thịt đến nhường nào mới
có thể bất diệt như vậy? Bốn câu thơ kết thúc đ¬ược viết như¬ những dòng chữ ghi
vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc
quân.

You might also like