You are on page 1of 7

VIỆT BẮC

1) Tố Hữu một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt nam. Có thể nói những tác phẩm của ông không chỉ thể
hiện tư tưởng,lẽ sống của bản thân mình mà qua đó ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà. Tháng
10- 1954 sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ bộ đội ta phải chuyển lực lượng thủ đô và chia tay với chiến khu Việt bắc. Kẻ ở người đi
lòng không khỏi nhớ thương nuối tiếc tình quân dân trong mười lăm năm khánh chiến. nhân sự kiện trọng đại cùng với tâm trạng
nỗi niềm ấy Tố Hữu đã viết bài thơ Việt bắc.

Mở đầu bài thơ Việt bắc là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân nơi đây:“Mình …hôm nay. . . ”

Tám câu thơ đầu là khung cảnh cũng như tâm trạng của cuộc chia tay. Bao giờ cũng vậy “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất
bỗng hóa tâm hồn”.

Sau bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt bắc, sống trong tình quân dân chan hòa nồng thắm ấy thế mà nay những người
chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn bó như thế bây giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô mình ta thể hiện sự gần gũi
thân thiết của cản bộ và người dân. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy. Bốn câu thơ đầu là lời của
người ở, những người dân Việt bắc hỏi đầy lưu luyến rằng người chiến sĩ có còn nhớ mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không
biết rằng những người chiến sĩ về có còn nhớ không, nhớ con người, nhớ núi rừng nơi đây. Những người chiến sĩ cách mạng cũng
như đáp lại những ân tình ấy. Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ niệm nơi đây không khác gì so với người dân.
Các chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của những người dân ấy. Lòng các chiến sĩ bâng khuâng, bồn chồn không
muốn bước. Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện phần nào cảm xúc trong lòng người chiến sĩ. Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo
chàm” chính là để chỉ người dân Viêt Bắc bịn rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô. Kẻ ở người đi mà cầm tay nhau
nhưng lại không biết nói lên điều gì. Có lẽ không cần nói mà cả hai đều biết được những ý nghĩa trong lòng nhau.

Thế rồi trong hoàn cảnh ấy toàn thể những con người ở lại cất lên lời nói để nhắc lại những kỉ niệm trong mười lăm năm thiết
tha mặn nồng ấy:“Mình đi, ….cây đa?”

Vẫn tiếng gọi mình thiết tha những người dân Việt bắc nhắc lại những ngày mưa nguồn suối lũ về, cả trời đất mây mù che kín.
Khoảng khắc khó khăn ấy người dân luôn có những chiến sĩ kề bên. Hay người chiến sĩ kia về thì có nhớ đến chiến khu hay không,
chiến khu ấy nghèo chỉ có cơm chấm muối thế nhưng nó tràn đầy những niềm yêu thương cưu mang đùm bọc của nhân dân nơi
đây. Và trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối kia là đã quá đầy đủ rồi. Mối thù nặng vai người
chiến sĩ, người dân như san sẻ gánh nặng ấy cho người chiến sĩ. Những người chiến sĩ về Hà Nội có còn nhớ đến rừng núi đất trời
nơi đây. Và bây giờ trám bùi thì để rụng còn măng mai để già. Những gì của thiên nhiên Việt bắc vốn là để cho những chiến sĩ cách
mạng thì giờ đây người đi những thứ ấy lại để rụng để già. Những từ nhớ như điệp đi điệp lại nhiều lần như vang vào trong lòng
người những nhớ thương không muốn rời. Cặp xưng hô mình ta như biến hóa thành nhiều nghĩa, cứ lúc thì chỉ người ở lại nhưng
lúc lại chỉ người ra đi. Điều đó thể hiện sự yêu thương gắn bó của những con người nơi đây với các anh chiến sĩ. Kẻ ở như thâu tóm
cả thiên nhiên và con người Việt Bắc với những tình cảm của một tấm lòng son sắc không phai. Những địa danh được nhắc đến như
chứng minh cho những trận chiến thắng mà các anh chiến sĩ đã lập nên tại đây.

Trước những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải lòng mình nói lên những tâm tư tình
cảm gắn bó:“Ta với ….suối xa. . . ”

Tố Hữu cũng học cách nói dân dã như chính những người nhân dân nơi đây vậy. Dù người chiến sĩ cách mạng ra đi thế nhưng
trong lòng vẫn không thể nào quên được những kỉ niệm tình cảm ấy. Nghĩa tình giữa kẻ ở và người đi tựa như nước trong con suối
kia vậy. Nó dào dạt ào ạt mãi mãi. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son với người dân Việt Bắc. Từng kỉ
niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi. Từ kỉ niệm về bát cơm thì sẻ nữa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả
những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Không
những thế cả những giây phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả mọi người. Và những
giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như mãi khắc sâu vào trong tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến
thủ đô gió ngàn vẫn không sao quên tiếng mõ rừng chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy được những tấm lòng của cả hai
bên dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha thiết.

Các anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua những lời kể ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ
như vẽ lên một bức tranh tứ quý nơi đây, bốn mùa thiên nhiên hiện lên vô cùng đẹp:“Ta về, …..thủy chung. ”

Có thể nói rằng xưng hô mình ta lại một lần nữa được thay đổi, Ta ở đây chính là những người chiến sĩ cách mạng. Còn mình
chính là những người dân ở lại. Những người chiến sĩ ấy cũng đã hỏi những người ở lại rằng có nhớ họ không. Hỏi như thế nhằm
thể hiện sự lưu luyến yêu thương với mảnh đất và con người ở đây. Không biết rằng họ có nhớ không còn những người chiến sĩ lại
nhớ cả hoa cùng người. Hoa kia chính là để chỉ cho thiên nhiên Việt bắc. Sau câu hỏi và sự bày ỏ tình cảm của mình ấy những người
chiến sĩ nhắc đến những cảnh vật và hoạt động của con người Việt Bắc gắn liền với bốn màu xuân hạ, thu, đông. Thế nhưng nhà thơ
lại chọn miêu tả thiên nhiên và con người nơi đây vào mùa đông trước bởi vì họ đến đây vào mùa đông và ra đi cũng vào mùa đông.
Mùa đông hiện lên với hình ảnh của những hình ảnh của rừng xanh và màu đỏ tươi của ho chuối. Con người hiện lên với vẻ đẹp
kiên cường chinh phục tự nhiên. Đến mùa xuân thì cảnh Việt bắc hiện lên với hình ảnh hoa mơ trắng tinh khiết khắp rừng, con
người thì hiện lên với vẻ đẹp của sự cần mẫn trong lao động. Mùa xuân qua đi mùa hè lại đến thiên nhiên được thay từ màu trắng
hoa mơ thành màu vàng của rừng phách. Người con gái hái măng một mình. Đến mùa thu thiên nhiên lại ngập tràn trong ánh trăng
rằm soi sáng. Người chiến sĩ nhớ đến những người nhân dân việt bắc với khúc hát ân tình thủy chung. Như vậy qua từng ấy câu thơ
thiên nhiên và con người Việt bắc hiện lên thật đẹp như đang níu giữ bước chân người ra đi.

Thế rồi hàng loạt những địa danh gắn liền với những hoạt động cách mạng của những người chiến sĩ được nhà thơ liệt kê ra như
để khắc sâu vào trong tâm thảm mỗi người chiến sĩ về tình quân dân đã làm nên chiến thắng vang dội:“Nhớ khi ….Nhị Hà. . . ”

Chính thiên nhiên cũng như đang che chở cho những người con Việt nam. Những núi đá dựng thành chiến hào thành quách để
che chở cho người chiến sĩ và nhân dân nơi đây khỏi những bom đạn của quân thù. Và khi ấy cả bộ đội cả dân quân đều cùng nhau
làm nên lịch sử. Trên dưới một lòng quyết tâm đánh địch. Người về nhưng trong vẫn nhớ đến những khoảng khắc đánh trận và
những địa danh kia.

Và thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn bị hành quân cho cuộc chiến đấu chống lại
chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ nhất:“Những đường ….núi Hồng. ”

Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng lòng như một, Ánh sao để chỉ người chiến sĩ
còn mũ nan chính là những người dân quân Việt bắc. Cả hai cùng đồng lòng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Những đoàn dân quân
với những ngọn đuốc trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt bắc. Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm chiến đấu để bảo vệ đất
nước đánh đuổi kẻ thù. Khí thế của tất thẩy với sức mạnh giống như là nát đá. Bằng biện pháp nghệ thuật phóng đại sức mạnh của
nhân dân ta như được thể hiện rõ hơn. Nghìn đêm nhân dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả, cuộc sống khó khăn như đêm
tối vậy. Thế rồi hình ảnh “đèn pha” bật sáng như lên thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của những nhân dân ta. Họ đã
sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn đứng dậy đấu tranh vì một niềm tin vào tự do hạnh phúc. Bọn giặc kia sẽ phải cút ra khỏi
đất nước ta trả lại cho nhân dân ta một cuộc sống tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Vậy là sau bao nhiêu khổ cực khó khăn nhân dân ta
đã dành được chiến thắng. Tin vui ấy vui trăm mình. Từ Hòa Bình, đến Tây Bắc và Điện Biên cũng như chung vui với niềm chiến
thắng ấy. Tất cả những địa danh ấy đều như thể hiện niềm vui của cả nước.

Để kết cho niềm vui lẫn niềm nhớ thương lưu luyến không muốn rời ấy nhà thơ cất lên những niềm tự hào về dân tộc. Đồng thời
đó cũng là những giây phút nhớ về cảnh sinh hoạt đảng, biết bao nhiêu việc bàn luận ở hang động núi rừng: Ai về ….Tân Trào. ”

Ngày những người chiến sĩ trở về với miền xuôi nghe trong lòng vẫn bâng khuâng nhớ đến những ngày tháng cùng nhau kháng
chiến. Những cuộc họp những niềm vui đều được thể hiện trong những câu thơ cuối này. Lá cờ đỏ sao vàng như chứng minh cho
thắng lợi của nhân dân ta. Ở đâu còn rợp bóng quân thù thì ở đó có Đảng và Bác Hồ. Chính vì thế mà tất cả hãy trông về miền Bắc
mà nuôi chí bền. Vì chỉ khi có chí mới làm nên được mọi việc, thắng trận ngay cả khi quân thù có đủ điều kiện hơn ta về mọi mặt.
Mười lăm năm kháng chiến sẽ còn mãi trong lòng những người chiến đấu và cả nhân dân ở đây nữa. Bao nhiêu gian khổ là bấy
nhiêu tình cảm.

Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những chiến sĩ và nhân dân Việt bắc nói
chung. Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ niệm và giờ đây khi phải xa nhau thấy lòng mình thật muốn vỡ òa trong nức
nở. Chân không muốn rời xa. Qua đây ta thấy được tình nghĩa đoàn kết keo sơn của con người Việt Nam mà cụ thể đó là tình quân
dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì không thể nào quên ơn những người nhân dân Việt Bắc được.

2) Tố Hữu được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng. Thơ ông là vũ khí để tuyên truyền, cổ động tinh thần
chiến đấu cũng như nêu cao tình yêu và tinh thần yêu nước mãnh liệt. Mặc dù thơ ông viết về chính trị nhưng không hề khô khan,
ngược lại rất tình cảm. Bài thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, tác giả muốn gợi lại tình quân dân thắm thiết,
ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến. Bài thơ được viết theo thể đối đáp càng gợi lên sự bình dị, ấm áp và than quen đến lạ
lùng.

Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể lục bát tạo nên âm hưởng nhẹ nhàng, trầm bổng mà lắng sâu trong lòng người đọc. Đây
chính là một sự khéo léo tạo nên thành công của bài thơ chính trị mà trữ tình, dạt dào cảm xúc này. Tác giả mở đầu bằng sự nuối
tiếc, quyến luyến, bịn rịn của người ở lại và kẻ ra đi trong một khung cảnh tràn đầy nhớ thương: Mình về …nhớ nguồn

Những câu thơ chính là tâm trạng của người ở lại trong sự níu kéo và tiếc nuối khi phải chia xa những người chiến sỹ cách mạng
đã bao nhiêu năm gắn bó. Tác giả đặt đại từ “ta” và “mình” thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy. Tác giả đã đứa ra
quãng thời gian cụ thể là “mười lăm năm ấy” – quãng thời gian rất dài gắn liền với cuộc chiến tranh ác liệt của nhân dân ta với thực
dân Pháp. Đó cũng chính là quãng thời gian tình quân và dân thiết tha, nặng tình nặng nghĩa. Lòng người ra đi và người ở lại tràn
ngập nỗi nhớ thương, nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng của những điêu xưa cũ, còn vẹn nguyên và tinh khôi ở trong lòng. Tố Hữu
dường như đã gieo vào lòng người đọc cái cảm giác vấn vương một cách lạ lùng. Tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại
khiến cho người ra đi không khỏi bồn chồn không muốn rời chân bước đi: Tiếng ai …hôm nay

Tâm sự của người ở lại khiến cho người ra đi không đành lòng bước đi. Tiếng nói đó lại làm chực trào nhớ thương và những kỉ
niệm khó quên. Tâm trạng ấy được gói gọn trong từ “bang khuâng” như dung dằng, níu kéo chẳng muốn bước đi. Thật khó để có
thể hiểu được cảm xúc của người trong cuộc lúc này. Lúc này đây chính tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều không thể lý
giải được là tại sao lại như vậy. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỉ niệm đã quá đầy để có thể quay mặt bước đi. Suốt 15 năm sống
và gắn bó với mảnh đất nơi đây, đồng đội và đồng bào đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, san sẻ cho nhau từng bữa cơm
giấc ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy đâu chỉ kể với nhau trong vài câu chữ như thế này, nhưng chính câu chữ đã khiến cho cảm
xúc tràn ra, không thể thôi nhớ và thôi mong. Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại: Ta với mình, mình với ta/Lòng ta sau
trước mặn mà đinh ninh

« Ta » và « mình dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tác rời nhau. Người ra đi một mực khẳng định
rằng « mặn mà đinh ninh ». Hai từ « đinh ninh » như ghim chặt vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như
một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả.

Khi nhớ về núi rừng việt bắc tác giả nhớ tất thảy thiên nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ hiện lên đều rất sống động, đậm
nghĩa, vẹn tình. Chỉ với vài bước phác họa bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách vẹn tròn, ý
nghĩa, tươi đẹp nhất : Ta về …một mình

Một bức tranh tứ bình tuyêt đẹp, sống động và tinh khôi và núi rừng Việt Bắc. Trong bức tranh ấy không chỉ có hình ảnh thiên
nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn xuất hiện thêm hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý nghĩa biết bao.Có lẽ
đây là đoan thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ tràn đầy tình yêu
thương và tinh thần lạc quan nhất.

Điệp từ nhớ được lặp đi lặp lại rất nhiều lần khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ dường như tràn ra lênh láng, cảm xúc của tác giả
cũng như vỡ òa, dội lên mãnh liệt. Tác giả không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc, quan trọng hơn nữa là ông nhớ những
cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra : Nhớ khi ….quân thù

Với giọng điệu không còn dìu dặt, tha thiết đặc trưng của thể lục bát nữa mà đã chuyển sang sự hào hùng, vang dội khi kể về
những trận chiến giữa núi rừng Việt Bắc. Đọc những vần thơ này, chúng ta nhận ra được hài khí Đông A thật mãnh mẽ và quyết liệt,
dữ dội trong lòng của tác giả. Những năm tháng đó, những cuộc chiến đó vẫn chưa hề xóa nhòa trong lòng quân và dân.

Thực vậy, bài thơ « Việt Bắc » của Tố Hữu với giọng điệu thiết tha, da diết và hào hùng, đanh thép đã gợi mở về tình quân dân
đậm đà thắm thiết và tinh thần yêu nước mãnh liệt của nhân dân ta. Đọc bài thơ chúng ta thêm ngưỡng mộ và khâm phục sự tài
tình của Tố Hữu

3) Tháng 10 năm 1954, sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trung ương Đảng và chính phủ rời Việt Bắc
để trở về Hà Nội tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng . Trước sự kiện đó Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc . Đây là bài thơ ân tình
cách mạng, gọi lại những kỉ niệm thân thiết và vẻ đẹp của Việt Bắc từ ngày đầu gian khổ chắt chiu xây dựng căn cứ địa cách mạng
cho đến khi kháng chiến thắng lợi . Bài thơ kết cấu theo lối hát giao duyên đối đáp nam nữ nhưng lại thể hiện những ân tình cách
mạng , và vì thế bài thơ như một chất men say ngấm sâu vào lòng người , trở nên gần gũi , đằm thắm hơn với những cung bậc lan
toả của nó .

Mở đầu bài thơ là những lời phảng phất phong vị ca dao, tái hiện cảnh tiễn đưa đầy quyến luyến .Mình về …nhớ nguồn .

Con người đang đứng trước một cuộc biệt li nên câu thơ cũng nhuốm màu li biệt . Tác giả đặt đại từ “mình” và “ta” ở hai đầu câu
thơ tạo cảm giác xa xôi, cách biệt, ở giữa là tâm trạng băn khoăn của người ở lại : không biết bạn có còn thuỷ chung trước bao đổi
thay và cám dỗ của cuộc sống mới . Lòng ngập tràn nhớ thương, người ở lại không nén được lòng mình đã đưa ra những câu hỏi
dồn dập : mình có nhớ ta, mình có nhớ không ? ...càng làm cho người ra đi thêm lưu luyến , cứ vang lên như một niềm khắc khoải
khôn nguôi . Không chỉ đưa ra những câu hỏi, người Việt Bắc còn nhắc lại khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha . Mới
đọc ta bắt gặp tứ thơ quen thuộc từ ca dao tình yêu nam nữ kiểu như : Mình về có nhớ ta chăng , Ta về ta nhớhàm răng mình
cười ... trong đó người tình chỉ nhắc đến kỉ niệm mười lăm năm ấy . Nhưng đến cặp lục bát tiếp theo thì nó không còn là tình yêu
nữa mà được thay thế bằng tình yêu thương gắn bó với với mảnh đất quê hương Vịêt Bắc . Nhớ núi, nhớ rừng thực chất là nhớ
ngọn nguồn của cách mạng .
Bốn câu thơ đầu tạo thành hai câu hỏi rất khéo mà mỗi câu hỏi về một khía cạnh khác nhau : thời gian và không gian gói gọn một
thời cách mạng, một vùng cách mạng . Trước tâm trạng, nỗi niềm bộc bạch của kẻ ở, người đi im lặng lắng nghe :Tiếng ai …bước đi

Người ra đi im lặng là để tri âm, để tiếng ai từ từ ngân vang lắng sâu vào hồn mình cho thật vẹn tròn, đầy đủ . Lặng im nhưng vẫn
không kém phần mãnh liệt . Người ở lại nói thiết tha, người đi nghe thiết tha, sự hô ứng ngôn từ này tạo sự đồng vọng trong lòng
người . Nhịp thơ lục bát đang đều đặn, nhịp nhàng đến đây như cũng vì chút bối rối ấy trong lòng người mà thay đổi : Áo chàm …
hôm nay .

Trong thời khắc chia tay sau một khoảng thời gian dài gắn bó, có biết bao nhiêu kỉ niệm ngọt bùi, sâu nặng, có nhiều điều để nói
nhưng khong thể nói đủ, nói trọn vẹn cùng nhau . Vì thế lòng người cũng bâng khuâng, bước chân cũng bồn chồn, và mặc dù người
đi không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại nhưng hình ảnh áo chàm và hành động cầm tay nhau im lặng đó trả lời thay tất cả,
nó chất chứa cả bề sâu cảm xúc của cả người đi và kẻ ở .

Bao trùm lên tất cả trong tâm trạng của kẻ ở và người đi là nỗi nhớ da diết mêng mang với nhiều sắc thái khác nhau . Người ở lại
băn khoăn tự hỏi về lòng thuỷ chung son sắt của người ra đi thì ngược lại người ra đi khẳng định nghĩa tình mãi không phai nhòa
trong kí ức . Và cứ thế Việt Bắc hiện lên trong hoài niệm thật sinh động và cụ thể .

Nhớ đến Việt Bắc là nhớ đến những tháng ngày gian khổ hi sinh : Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù, khó khăn nhiều, gian
khổ cũng lắm nhưng cán bộ và đồng bào đồng cam cộng khổ, cùng có mối thù sâu nặng với quân xâm lược : Miếng cơm chấm muối
mối thù nặng vai . Đồng thời nhớ đến Việt Bắc cũng là nhớ đến những nghĩa tình đồng bào sâu nặng . Người về khiến núi rừng cũng
trở nên trống vắng, ngẩn ngơ, các điệp từ mình về, mình đi được nhắc đi nhắc lại một cách tha thiết khiến cho không gian, thời gian
Việt Bắc hiện ra từ trong khói sương của hoài niệm , của tâm trạng chất chứa nhớ nhung trở nên rõ nét và rõ tình hơn .Đại từ “ai”
phiếm chỉ được sử dụng để như hỏi vào sự trống vắng nay mai của lòng mình . Với thủ pháp đối lập giữa một bên là lau xám với
lòng son, giữa hắt hiu và đậm đà , người ở nhấn mạnh sắc độ của nỗi nhớ . Người ở lại còn bày tở nõi lo âu, dự cảm :Mình về mình
lại nhớ mình . Ba chữ mình được dùng liên tiếp trong một dòng thơ làm cho ý thơ trở nên đa nghĩa một cách thú vị . Mình ở đây là
tôi, là chủ thể của nỗi nhớ, và mình cũng có thể là khách thể của nỗi nhớ . Và biết đâu đó đây lại là lới nhắc nhở người đi liệu rồi có
còn nhớ chính bản thân mình . Cả người đi và kẻ ở đều được gói gọn trong một chữ mình tha thiết . Và nói gì đi nữa cả ta và mình
đều là những người kháng chiến, đều là cách mạng nên khong tách rời nhau là lẽ dĩ nhiên, là điều dễ hiểu .

Đáp lại những băn khoăn của người ở lại , người ra đi khẳng định một điều đinh ninh tình nghĩa của mình vẫn còn sâu nặng , dẫu
có thế nào thì sự keo sơn, gắn bó bền chặt vẫn không phai nhạt theo thời gian :Ta với ….đinh ninh .Và cụ thể hơn nữa, người ra đi
khặng định : Mình đi mình lại nhớ mình và nghĩa tình mãi dạt dào không bao giờ khô cạn : Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy
nhiêu .

Sự gắn bó sâu nặng với Việt Bắc đã làm cho cảnh Việt Bắc tái hiện trong nỗi nhớ của người về xuôi đã đẹp lại càng trở nên đẹp
hơn, càng trở nên lung linh huyền ảo . Nỗi nhớ trong lòng người đi day dứt, thiết tha đến độ cồn cào, ám ảnh như nhớ người yêu .
Lấy nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi để đo nỗi nhớ về ngọn nguồn kháng chiến, về nghĩa tình cách mạng, đó là một sáng tạo của hồn
thơ Tố Hữu . Và cũng chính từ sự gắn bó và nỗi nhớ thương da diết đó, thiên nhiên Việt Bắc mới hiện lên đẹp lộng lẫy như một bức
tranh tứ bình về bốn mùa với những nét đặc trưng của Việt Bắc :Ta về …thuỷ chung .

Trong bề bộn của kí ức và hoài niệm , bức tranh sáng đẹp về Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son
tươi nguyên những kỉ niệm .

Và trong bức tranh thiên nhiên sống động, bừng sáng đó có sự xuất hiện của con người đang cần mẫn lao động: chuốt từng sợ
giang, hái măng một mình giữa rừng vàng . Nhưng có lẽ để lại ấn tượng nhất là tiếng hát ân tình thuỷ chung của con người Việt
Bắc . Nó vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vướng vít bước chân người ra đi . Điệp từ
nhớ được lặp lại nhiều lần như khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương tha thiết .

Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh nhớ người, nhưng quan trọng hơn là nhớ về cuộc kháng chiến, một Việt Bắc trong kháng chiến thật
hào hùng .Nhớ khi ….mai lên

Tiết tấu ngân nga, dìu dặt như lời ru đến đây được tác giả phá vỡ để tạo ra một kết cấu khác phi đối xứng làm giọng thơ trở nên
gắt, mạnh, dồn dập như âm hưởng bước hành quân vũ bão . Hệ thống từ vựng mở căng cường độ diễn tả , hình ảnh kì vĩ , ý thơ
phóng xa vào viễn cảnh ... tất cả tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân
dân anh hùng . Miêu tả cảnh hành quân, nhà thơ sử dụng cụm từ “điệp điệp, trùng trùng” thật chính xác . Còn từ ngữ nào để diễn
đạt sức mạnh của đoàn binh tràn đầy nhiệt huyết hơn những từ ấy ? Nó vừa diễn tả vẻ đẹp hùng dũng bên ngoài lại vừa miêu tả
sức mạnh quật cường bên trong . Trong những con người hiên ngang ấy, họ không chỉ biết làm bạn với khói lửa đạn bom mà họ còn
đôi lúc thả hồn theo trăng sao . Sự hài hoà giữa sự dữ dội và vẻ đẹp lãng mạn đã làm nên sự chói sáng trong tâm hồn người lính .
Hình ảnh ánh sao đầu núi mặc dù không mới (Đầu súng trăng treo - Đồng chí – Chính Hữu) nhưng vẫn có sức lay động kì lạ cái phần
hồn dân tộc trong mỗi con người Việt Nam .

Và bài thơ khép lại bằng lời khẳng định Việt Bắc mãi là cái nôi, là quê hương của phong trào cách mạng, nơi đặt niềm tin tưởng và
hi vọng của người Việt Nam trên khắp mọi miền của Tổ quốc, đặc biệt là những nơi còn u ám quân thù .

Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ Tố Hữu viết về nghĩa tình cách mạng . Bài thơ không chỉ là lời chia tay dạt dào xúc
cảm mà còn là lời khẳng định đinh ninh sự thuỷ chung son sắt của những người cách mạng , là khúc ca bất tận của tình nghĩa được
viết với giọng điệu vừa trữ tình ngọt ngào , vừa sôi nổi thiết tha, trong sáng

4) Bức tranh tứ bình

Tố Hữu được xem là “lá cờ đầu” trong phong trào thơ Cách mạng Việt Nam với những tác phẩm lưu mãi với thời gian. Thơ ông
viết về chính trị nhưng không khô khan, mà ngược lại, dễ đi sâu vào lòng người bởi tình cảm và giọng văn trữ tình truyền cảm. “Việt
Bắc” được sáng tác trong hoàn cảnh chia ly tiễn biệt giữa quân và dân tại căn cứ địa Việt Bắc sau kháng chiến chống Pháp. Bài thơ
được xem như lời tâm tình chan chứa nỗi niềm của Tố Hữu đối với mảnh đất anh hùng này. Đặc biệt người đọc chắc hẳn sẽ không
quên bức tranh tứ bình bằng thơ tuyệt đẹp trong “Việt Bắc”.

Xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố Hữu dành cho quân và dân từng tham gia
trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con người
chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là người “nặng” tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu
đối đáp bằng thơ lục bát nhuần nhuyễn như vậy.

Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc qua giọng thơ dìu dặt, trầm
bổng của Tố Hữu. Người đọc sẽ được chìm đắm trong khung cảnh hữu tình, nên thơ của “xứ Tiên” này.

Khổ thơ được mào đầu bằng câu đối đáp nhẹ nhàng giữa “ta” – “mình”: Ta về mình …..cùng người

Thật khéo léo và tinh tế khi Tố Hữu truyền đạt tình cảm một cách kín đáo như thế này. Ngôn ngữ gần gũi, cách diễn tả nhẹ nhàng
cũng đã khiến người đọc thấy rất thấm. Tố Hữu hỏi “người” nhưng thực ra là hỏi “mình” và câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi. Lời
mào đầu sâu sắc này sẽ dẫn người đọc lần lượt khám phá nét đặc trưng của núi rừng Việt Bắc trải dọc theo 4 mùa.

Dẫn dắt người đọc cùng tham quan cảnh tiên nơi Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh mùa đông ấm áp, tràn đầy tin yêu:

Rừng xanh …thắt lưng

Người đọc ngẩn ngơ trước mùa đông nơi vùng cao Tây Bắc với vẻ đẹp đặc trưng của nó. Phải nói rằng tuy là mùa đông nhưng qua
thơ Tố Hữu, cảnh sắc không buồn, không trầm lắng, mà người lại rất sáng, rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”. Màu đỏ của
hoa chuối chính là nét điểm xuyết, là ánh sáng làm bừng lên khung cảnh rừng núi mùa đông Việt Bắc. Đây được xem là nghệ thuật
chấm phá rất đắc điệu của Tố Hữu giúp người đọc thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Ánh nắng hiếm hoi của mùa đông hắt vào con
dao mang theo bên người của người dân nơi đây bất chợt giúp người đọc thấu được đời sống sinh hoạt và lao động của họ. Màu đỏ
của hoa chuối quyện với màu vàng của nắng trên đèo cảo đã tạo thành một bức trang mùa đông rạng rớ, đầy hi vọng.

Bức tranh mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên thật trữ tinh, thơ mộng như tiên cảnh: Ngày xuân ….sợi giang

Đọc hai câu thơ này, người đọc dường như mường tượng ra khung cảnh mùa xuân nơi núi rừng thật hiền hòa, dịu êm, ấm áp.
Màu trắng của mơ gợi lên một bức tranh nên thơ trên cái nền dịu nhẹ của màu sắc. Hoa mơ được xem là loài hoa báo hiệu mùa
xuân ở Tây bắc, cứ vào độ xuân thì, chúng ta sẽ bắt gặp treenn những con đường màu sắc ấy. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến
hình ảnh “người đan nón” với động tác “chuốt từng sợi giang” thật gần gũi. Động từ “chuốt” được dùng rất khéo và tinh tế khi diễn
tả về hành động chuốt giang mềm mại, tỉ mỉ của người đan nón. Phải thật sâu sắc và am hiểu thì Tố Hữu mới nhận ra được điều
này. Chữ “chuốt” như thổi hồn vào bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên sự hòa hợp thiên nhiên và con người.

Bức tranh mùa hè sôi động dưới ngòi bút của Tố Hữu: Ve kêu …một mình

Tiếng ve kêu vàng giữa “rừng phách” đã làm nên cái động giữa muôn vàn cái tĩnh. Màu vàng của rừng phách là đặc trưng báo
hiệu mùa hè về trên xử sở vùng cao. Tiếng ve như xé tan sự yên tĩnh của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. Từ “đổ” dùng rất
đắc điệu, là động từ mạnh, diễn tả sự chuyển biến quyết liệt, lôi cuốn của màu sắc. Bức trang mùa hè chợt bừng sáng, đầy sức sống
với màu vàng rực của rừng phách. Ở mỗi bức trang thiên nhiên, người đọc đều thấy thấp thoáng bóng dáng con người. Có thể nói
đây chính là sự tài tình của Tố Hữu khi gắn kết mối tâm giao giữa thiên nhiên và con người. Giữa rúi bao la, thấp thoáng bóng dáng
“cô gái hái măng” tuyệt đẹp đã khiến cho thiên nhiên có sức sống hơn.

Và cuối cùng chính là bức tranh mùa thu nhẹ nhàng: Rừng thu …thủy chung

Mùa thu về trên Tây Bắc với hình ảnh ánh trăng dịu, mát lành. Thiên nhiên dường như rất ưu ái cho mùa thu xứ bắc với sự tròn
đầy, viên mãn của ánh trăng. Không phải là ánh trăng bình thường, mà trăng nơi đây là trăng của hòa bình, ánh trăng tri kỉ rọi chiếu
những năm tháng chiến tranh gian khổ. Chính ánh trăng ấy đã mang đến vẻ đẹp riêng của mùa thu Việt bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ
người, nhớ tiếng hát gợi nhắc ân tình và thủy chung.

Thật vậy với 4 cặp thơ lục bát ngắn gọn, 4 mùa của thiên nhiên Việt Bắc được gợi tả sắc nét, tràn đầy sức sống. Tác giả thật tài
tình, khéo léo, vốn hiểu biết rộng cũng như tình cảm sâu nặng đối với mảnh đất này mới có thể thổi hồn vào thơ. Bức tranh tứ bình
này sẽ khiến cho người đọc thêm yêu, thêm hiểu hơn cảnh vật và con người nơi đây.

5) I/Mở bài: - Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê
hương của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

- Ở đó, bên cạnh cách những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi
thiên nhiên vô cùng tươi đẹp: Ta về, …thuỷ chung.

II/Thân bài :* Nhận xét chung : - Đây là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật toàn bích, có sự hoà quyện giữa cảnh và
người, giữa cuộc đời thực với tấm lòng của nhà thơ cách mạng. Mười câu thơ trên nằm trong trường đoạn gồm 62 câu thơ diễn tả
tâm tình của người cán bộ sắp sửa rời Việt Bắc, nơi mình đã 15 năm gắn bó với bao tình cảm máu thịt.

1/Hai câu đầu : Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi: Ta về, mình có nhớ ta. Nhưng thực ra, hỏi chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm cái
cớ để giải bày nỗi lòng của mình: Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Câu thơ có nhịp điệu êm ái nhờ những điệp từ tạo và các thanh bằng (6/8) như một lời ru, một câu hát không chỉ diễn tả tâm trạng
tha thiết của nhân vật trữ tình. Đây còn là lời ngợi ca về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa
biểu trưng về thiên nhiên, về những gì tươi đẹp. Đặt hoa bên cạnh người là sự tôn vinh về thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Vả lại, hoa và người hoà quyện, gắn bó với nhau. Nói tới thiên nhiên không thể nói đến con người và ngược lại, những con người
ấy đã ở trong một thiên nhiên đẹp, gần gũi.

2/ Tám câu thơ sau :- Nhận xét : Bốn câu thơ lục bát còn lại là một bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Nhiều
người gọi đây là bộ tứ bình (xuân, hạ, thu, đông). Nhà thơ kế thừa nghệ thuật hội hoạ cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả thiên
nhiên. Mỗi một câu thơ khắc hoạ một bức tranh cụ thể nhưng cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn:

- Bức tranh thứ nhất: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn. Trên cái nền xanh bạt ngàn của rừng, nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi.
Nghệ thuật điểm xuyết trong thơ cổ ( Cỏ non xanh rợn chân trời – cành lê trắng điểm một vài bông hoa; Nguyễn Du ) tỏ ra rất hữu
hiệu. Giữa bạt ngàn xanh của núi rừng Việt Bắc, màu đỏ của hoa chuối bỗng gợi lên sự ấm áp, có sức lan toả. Vì thế, thiên nhiên
hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người: Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh. Hơn nữa, cách điểm xuyết ấy rất độc đáo: càng chọn điểm nhỏ
nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy (nắng ánh) của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch
mịch, bỗng có sức sống, sự chuyển động.

Thơ ca là một nghê thuật của thời gian. Với những nghệ sĩ tài hoa đó, việc tạo dựng nên những lớp thời gian chồng lấp và không
gian không bất động, bất biến mà ngang sức sống nhờ sự tái sinh của những lớp ngôn từ. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Đèo cao
nắng ánh dao gài thắt lưng là một câu thơ như thế.

- Bức tranh thứ hai: Ngày xuân mơ nở trắng rừng/Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Khác bức tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng
đã mở ra không gian: Ngày xuân mở nở trắng rừng

Cách điệp âm (mơ/nở; trắng/rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn
ràng, náo nức của thiên nhiên. Nếu ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc
màu sáng (hoa đỏ, nắng ánh) để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp
trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên. Trên cái nền không gian rộng lớn và náo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một
hoạt độnh có vẻ tỉ mỉ: …Người đan nón chuốt từng sợi giang.

Nhiều người nói câu thơ ca ngợi “dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc (1). Có
người nói “dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh co gái Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng” (2). Câu thơ có hình ảnh
ấy. Con người Việt Bắc trong hoài niệm của Tố Hữu là như thế. Nhưng đó là hình ảnh thực. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình
ảnh kia chỉ là một điểm gợi nhớ. Câu thơ gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực. Đó là hình ảnh đặc trưng của sinh
hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhặt, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là
hình ảnh khắc ghi trong tâm khảm.

- Bức tranh thứ ba: Ve kêu rừng phách đổ vàng/Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Câu thơ mở đầu bằng âm thanh ( ve kêu ), nhưng cũng là cách định vị bằng thời gian (mùa hè). Dòng thơ vừa có âm thanh rộn
ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên. Nếu nói thiên
nhiên cũng có đời sống riêng của nó thi đây quả thực là ngày hội của cảnh vật. Vì vậy, trong “ngày hội” ấy hình ảnh cô em gái hái
măng một mình không lẻ loi mà góp phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh

Như đã nói, hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hoà quỵên, cùng tôn vinh lẫn nhau. Trong hoài niệm này, tác giả dùng bút lực
của mình để ca ngợi, tôn vinh sự hài hoà đó. Và chính sự hài hoà đó đã tạo nên chất thơ. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất
tượng trưng với những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực.

- Bức tranh thứ tư: Rừng thu trăng rọi hoà bình/Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian (rừng thu). Đến đây, ta chú ý các kiểu định vị ở những câu thơ
trên: Rừng xanh => không gian/ Ngày xuân => thời gian/ Ve kêu => âm thanh ( thời gian )

Ứng với mỗi câu thơ và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Câu thơ này cũng là bức
tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ vì đó là bức tranh cuối của bộ tứ bình và là tiếng hát cuối của một trường
đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:

Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông nhưng không lạnh lẽo. “Trăng rọi hoà bình” vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc
đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có sự soi rọi ấm áp của niềm tin, tự do. Và, trong cuộc sống ấm áp ấy, có biết bao
nhiêu nghĩa tình sâu nặng.

Thơ Tố Hữu là khúc hát của tự do, của ân tình cách mạng. Bản thân cuộc đời ân tình ấy, đối với nhà thơ, luôn là bài ca sâu nặng. Vì
thế, nhà thơ không chỉ cảm, nghĩ về cuộc đời mà cất tiếng ca ngợi. Tiếng hát ân tình thuỷ chung trong bài thơ Việt Bắc là tiếng hát
như thế.

- Đánh giá : Bộ tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được dệt dưới ánh sáng của hoài niệm da diết. Thông thường, nguời ta
chỉ nhớ những gì mang ấn tượng nhất của quá khứ và thời gian càng lùi xa thì ấn tượng ấy càng trở nên tươi đẹp, huyền ảo hơn.
Hàng loạt điệp từ nhớ ( 5 từ ) trong một khổ thơ như là sự nối dài của lòng hoài niệm không dứt.

III/ Kết bài: - Việt Bắc là bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật
sáng tạo thi ca. Sự tài hoa ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy tình nghĩa của nhà thơ.

- Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc bởi kết tinh một nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân
tộc, vừa mang tính hiện đại trong một điệu tâm hồn say đắm.

You might also like