You are on page 1of 9

Tràng giang

Bài 1 Huy Cận là một nhà thơ tên tuổi trong nền thi ca nước nhà với nhiều tác phẩm tiêu biểu, có đóng góp rất nhiều trong phong
trào thơ mới. “Tràng Giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất của ông. “Tràng Giang” trích trong tập “Lửa
Thiêng” được viết trước cách mạng tháng Tám. Với bút pháp nghệ thuật đặc sắc, bài thơ là một bức tranh đẹp được hòa quyện
giữa nét cổ điển và hiện đại.
Nét đẹp cổ điển và hiện đại được thể hiện ngay từ thi đề của bài thơ “Tràng Giang”. Hai chữ “tràng giang” mang tính cổ điển
mà trang nhã, là từ Hán Việt, gợi cho ta đên những bài thơ Đường thi có màu sắc xưa cũ, cổ kính. Nhưng nếu các thi nhân xưa
đến với thiên nhiên để tìm sự giao cảm thì nhà thơ hiện đại Huy Cận lại đứng trước “Tràng Giang” để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã
trước kiếp người nhỏ bé cô đơn. Đó là một tâm hồn rất hiện đại mà qua đó ta có thể thấy được nét quyến rũ của bài thơ.
Với khổ thơ đầu tiên: Sóng gợn ..mấy dòng Hai từ láy “điệp điệp” và “song song” của 2 câu thơ đầu đậm chất cổ điển của thơ
Đường. Giữa cái bao la bát ngát của sóng, của nước là hình ảnh một “con thuyền xuôi mái”. Thuyền và nước thường đi đôi với
nhau nhưng ở đây “thuyền về nước lại” nghe sao xót xa. Câu thơ cuối “Củi một cành khô lạc mấy dòng” cho ta thấy được sự cô
đơn lẻ loi đến lạc lõng giữa vũ trụ bao la. Nét đẹp cổ điển của khổ thơ được thể hiện qua ngòi bút đặc sắc của tác giả, chỉ bằng vài
nét chấm phá đơn sơ đã gợi được lên hồn cốt của tạo vật.Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn thấy được nét đẹp hiện đại của khổ thơ,
đó là hình ảnh độc đáo không ước lệ “củi một cành khô”, hình ảnh thâu tóm ý tưởng chủ đạo cả khổ thơ, hé mở tâm trang nhân
vật trữ tình cô đơn, lac lõng.
Khổ thơ tiếp Lơ thơ …cô liêu. Từ láy được tác giả sử dụng dày đặc “lơ thơ” “đìu hiu”, “chót vót” cùng với việc sử dụng hình
ảnh đối lập “nắng xuông- trời lên”, “sông dài- trời rộng” là thủ pháp nghệ thuật trong lối thơ cổ. Vẻ đẹp cổ điển còn hiện ra qua
các thi liệu quen thuộc như sông, trời còn cuộc sống con người thì cô đơn, buồn bã. Cái mới mẻ ở đây là cách diễn đạt qua hình
ảnh chuyển đổi cảm giác của tác giả khi mà “nắng xuống trời lên” lại “sâu chót vót”, gợi lên cho ta cái mở rộng về thời gian,
không gian để rồi thấy rõ hơn cái nhỏ bé cô đơn của con người.
Ở khổ thơ thứ ba:Bèo dạt …bãi vàng. “Bèo” là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người trôi nổi thường được sử dụng trong những bài
thơ cổ điển. Ở đây, bèo không chỉ có một cánh mà “hàng nối hàng” rợn ngợp. Cảnh vật ở đây hiu quạnh đến vô cùng. Cụm kết
cấu “không… không” nhấn mạnh điều đó. Giữa không giang mênh mông rợn ngợp giường như heo hắt không có sự sống, chỉ có
“lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại được thể hiện đặc sắc ở khổ thơ cuối:Lớp lớp …nhớ nhà “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” được tác
giả lấy thi hứng từ tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn của ải xa”. Bút pháp gợi tả cùng từ láy “lớp lớp” cho thấy
được hình ảnh sống động của núi mây. Ở đây tác giả vận dụng rất tài tình động từ “đùn” khiến cho từng lớp mây như đang chuyển
động. Hình ảnh này rất độc đáo, mang vẻ đẹp hiện đại. Ở câu thơ sau, “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Hình ảnh “chiêm
nghiêng cánh” và “bóng chiều” cũng là những hình ảnh quen thuộc của thơ ca cổ điển. Câu thơ tả không gian nhưng gơi được cả
thời gian. Giữa khung cảnh đó là một tâm hồn rất hiện đại:Lòng …nhớ nhà
“Dợn dợn” là một từ láy độc đáo của Huy Cận mà trước đó chưa ai sử dụng. Kết hơp cùng với cụm từ “vời con nươc” khiến
cho “lòng quê” càng thêm hiu quanh. Ở câu thơ cuối tác giả lấy cảm hứng từ tứ thơ “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” của Thôi
Hiệu. Nhưng ở đây tác giả không cần “khói hoàng hôn” cũng vẫn “nhớ nhà” bởi nỗi nhớ đó luôn thường trực trong tâm khảm. Nét
khác biệt đó làm nên vẻ đẹp hiện đại của câu thơ.
Ngoài ra bài thơ “Tràng Giang” mang vẻ đẹp cổ điển và hiện đại thể hiện ở thể loại thơ và bút pháp mà tác giả sử dụng. Thể
loại thơ ở đây là thơ 7 chữ với lối ngắt nhịp đăng đối nhuần nhuyễn. Song, “Tràng Giang” cũng rất mới qua những từ ngữ giãi bày
cảm xúc cá nhân
“Tràng Giang” là một bức tranh về phong cảnh mà còn là một bản nhạc về tâm hồn. Nét thi vị của bài thơ là ở vẻ đẹp cổ điển và
hiện đại luôn hòa quyện, sóng đôi. Nét đẹp của bài thơ sẽ mãi đi vào lòng người, để rồi qua vẻ đẹp đó ta thấy được một tấm lòng
yêu nước thầm kín, một tài hoa rực sáng của thi ca.
Bài 2 "Tràng giang" là bài thơ kiệt tác của Huy Cận rút trong tập thơ "Lửa thiêng" (1940). Bài thơ có một câu đề từ rất đậm đà:
"Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài". Tác giả đã có lần nói: "Tràng giang là một bài thơ tình và tình gặp cảnh, một bài thơ về
tâm hồn". "Tràng giang" tiêu biểu cho vẻ đẹp của hồn thơ Huy Cận trước cách mạng: hàm súc, cổ điển, giàu chất suy tưởng triết
lí, thấm thía một nỗi buồn nhân thế "sầu trăm ngả".
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, có 4 khổ thơ hợp thành một bộ tứ bình về tràng giang một chiều thu. Đây
là khổ thơ thứ hai của "Tràng giang":"Lơ thơ …cô liêu".
Từ dòng sông, sóng gợn, con thuyền xuôi mái và cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sóng... ở khổ một, Huy Cận nói đến cảnh
tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Giọng thơ nhè nhẹ man mác buồn. Không gian nghệ thuật được mở rộng về đôi
bờ và bầu trời. Những cồn cát thưa thớt nhấp nhô "lơ thơ" như nối tiếp mãi dài ra. Gió chiều nhè nhẹ thổi "đìu hiu" gợi buồn khôn
xiết kể. Hai chữ "đìu hiu" gợi nhớ trong lòng người đọc một vần thơ cổ:"Non Kì quạnh quẽ trăng treo,Bến Phì gió thổi đìu hiu
mấy gò".(Chinh phụ ngâm)
Làng xóm đôi bờ sông, trong buổi chiều tàn cũng rất vắng lặng. Một chút âm thanh nhỏ bé lao xao trong khoảnh khắc tan chợ,
vãn chợ ở đâu đây, ở từ một làng xa vẳng đến. Lấy động để tả tĩnh, câu thơ "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều" đã làm nổi bật sự
ngạc nhiên, chút bâng khuâng của người lữ khách về cái vắng vẻ, cái hoang vắng của đôi bờ tràng giang. Các nhà thơ mới coi
trọng tính nhạc trong thơ, vận dụng nghệ thuật phối âm, hòa thanh rất thần tình, tạo nên những vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu,
đọc lên nghe rất thích. Hai câu thơ đầu đoạn có điệp âm "lơ thơ" và "đìu hiu", có vần lưng: "nhỏ - gió", có vần chân: "hiu - chiều".
Câu thơ của Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu/Lả lả cành hoang nắng trở
chiều"...(Thơ duyên) Các điệp thanh: "nhỏ nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả"; các vần thơ, như vần lưng "nhỏ" với "gió", vần chân
"xiêu" với "chiều". Những vần thơ "tươi nhạc tươi vần" ấy đã trở thành câu thơ trong trí nhớ của hàng triệu con người yêu thích
văn học.
Trở lại đoạn thơ trong bài "Tràng giang" của Huy Cận, ta như được nhập hồn mình vào cõi vũ trụ mênh mông và bao la. Trời đã
về chiều. Nắng từ trên cao chiếu rọi xuống làm hiện ra những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Vẻ đẹp của bầu trời thu quê
hương ta đã trở thành vẻ đẹp của thi ca dân tộc: "Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao" (Thu vịnh); "Trời cao xanh ngắt - Ô kìa..."
(Tiếng sáo Thiên Thai); "Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng" (Xuân Diệu). Thi sĩ Huy Cận lại nhận diện bầu trời không phải là cao
mà là sâu, "sâu chót vót":"Nắng xuống / trời lên sâu chót vót"
Bầu trời và lòng sông "sóng gợn" là không gian hai chiều, rộng và cao, sâu. Trời cao thăm thẳm, rộng mênh mông in xuống, soi
xuống lòng sông. Người ta thường nói "cao chót vót" và "sâu thăm thẳm", nhưng Huy Cận lại cảm nhận là "sâu chót vót" vừa để
làm nổi bật hai vế tiểu đối: "nắng xuống" // "trời lên", vừa gây ấn tượng về cái bao la, mênh mông đến rợn ngợp của không gian
vũ trụ vô tận, và cũng là nỗi buồn như vô tận trong lòng người. Khách li hương càng cảm thấy nhỏ bé, lẻ loi và cô đơn trước
không gian vô hạn của vũ trụ. Dòng sông như dài thêm ra, bầu trời như rộng thêm ra, bến đò (hay bến lòng?) như cô liêu hơn, xa
vắng, quạnh hiu hơn. Lời đề từ nhà thơ đã viết: "Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài", cảm hứng ấy đã được láy lại ở câu thơ số
8, mở ra một trường liên tưởng đầy ám ảnh về vũ trụ thì vô hạn vô cùng, còn kiếp người thì nhỏ bé, hữu hạn:"Sông dài… cô liêu".
Cảnh sắc tràng giang được nói đến trong đoạn thơ là một không gian nghệ thuật đẹp mà buồn. Vẻ đẹp của những dòng sông
trên mọi miền đất nước hội tụ trong tâm hồn thi nhân. Vẻ đẹp của tình yêu quê hương, tình yêu sông núi. Tình yêu đó mang nỗi
buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước của Huy Cận, của thế hệ các nhà thơ thời tiền chiến. "Tràng giang" đã hợp lưu trong lòng
người hơn 60 năm rồi. Đọc đoạn thơ trên, ta mới thấu hiểu nỗi lòng thi nhân trước cách mạng: "Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu
lắm...".
Bài 3 MB:Nếu ai đã từng thưởng thức các sáng tác Huy Cận, ắt hẳn sẽ không thể không nhận ra rằng: trước Cách mạng tháng
Tám 1945, thơ ông thường mang nỗi sầu nhân thế và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên vũ trũ. Một trong những thi phẩm tiêu biểu
cho hồn thơ ấy của Huy Cận là bài “Tràng giang”. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của ông trước Cách mạng.
Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, mang tâm sự u hoài trước kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời mênh mông, vô định.
Bài thơ vừa có đượm nét đẹp cổ điển lại vừa có nét hiện đại, đem đến nhiều yêu mến, say mê cùng những rung động khó phai
trong tâm hồn độc giả.
TB:* Khái quát chung:Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. “Tràng giang” là một
cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “anh” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ
dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng
Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Tứ thơ “Tràng giang” mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà
thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận
lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức
quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: “Bâng khuâng trời rộng nhớ
sông dài”. Trước cảnh“trời rộng”, “sông dài” sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm
“bâng khuâng” và nhớ. Từ láy “bâng khuâng” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u
sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con “sông dài”, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi
trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
1/ Khổ 1:Ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não:“Sóng …dòng”. Vẻ đẹp cổ điển
của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ
mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con
sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng
“điệp điệp”, nước “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao
chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng “tràng giang” dài và rộng bao la không biết đến nhường nào. Dòng
sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng “Thuyền …dòng”.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước
đang chia lìa, xa cách“thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”.
Ta cảm tưởng rằng thuyền về, con nước lại và một khoảng trống sẽ được mở ra, một khoảng trống về một mối sầu lan toả, không
chỉ được mở ra trên hai chiều trái ngược nhau mà là mọi chiều trong không gian – “ sầu trăm ngả”. Nhà thơ viết “trăm ngả”
dường như khiến người đọc cảm nhận mối sầu ấy không có chỗ tận cùng, và nỗi buồn lại càng mênh mang hơn nữa.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: “Củi một càng khô lạc mấy dòng”. Huy Cận đã
khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. “Một” gợi lên sự ít ỏi,
nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên “mấy dòng” nước
thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến
lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi. Để từ đó, con người dường như đang lạc lối, bơ vơ , ngơ ngác trước những dòng
nước của con sông lớn ở trong hiện thực, cũng là trước con sông của nỗi buồn ở lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, cô đơn của
một kiếp ngườởtớc dòng đời vô định.
Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ
mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng
bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt, không
chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
2/ Khổ 2:Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:“Lơ thơ …cô liêu” Bức
tranh “Tràng giang” giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc “cồn” của những làng xóm ở bên sông. Vì thế hai câu thơ đầu
phảng phất cảm giác man mác, nhẹ nhàng mà sâu kín về một quê hương. Huy Cận đã vô tình phác ra một cảnh sắc rất quen thuộc
về một miền quê nước Việt : bờ sông hoặc giữa lòng sông có những cồn đất nhỏ, xa xa ven sông có những âm thanh xao xác của
một xóm làng. Nhưng đó không phải là tất cả ý nghĩa của câu thơ. Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên
cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung
cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có
thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con
người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái
tịch liêu của thiên nhiên. Tất cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang. Đến câu thơ thứ ba thì không gian
được mở ra theo một chiều khác, chiều cao qua hình ảnh của nắng và bầu trời :“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.”
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: “lên” – “xuống”. Nắng xuống và trời
lên, để lại một khoảng trống thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà Huy Cận đã diễn tả bằng một sự kết hợp từ độc đáo – “ sâu
chót vót ”. “Sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Cụm từ này tạo cảm
giác thăm thẳm về bầu trời và mặt nước. Không chỉ thế, phải có chữ “sâu” để không gian được nhuộm trong gam màu, gam cảm
xúc buồn, trầm lắng.
Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận.
Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao:
“Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn
về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vụ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng. Vẻ đẹp cổ điển của khổ
thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với
“vãn chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
3/ Khổ 3: Đến khổ thơ thứ ba, nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại
hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng
quạnh quẽ, đìu hiu: Bèo dạt …bãi vàng”.
Hình như ở đây có cái gì đông đúc hơn lên, sự chuyển động dường như cũng đã nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Chúng ta nhận ra
điều ấy qua từ “dạt” ngay ở câu thơ đầu tiên. Cảm giác đông đúc cũng thể hiện khá rõ trong ba chữ “hàng nối hàng”. Nhưng sự
đông đúc ở đây lại chỉ là của những cánh bèo, hình ảnh từ lâu đã tượng trưng cho những kiếp phù sinh, cho cuộc sống không ý
nghĩa. Hình ảnh “bèo dạt” ấy cũng đã từ lâu dùng để nói về số phận của những kiếp người không có khả năng tự làm chủ cuộc đời
mình. Và cảm giác vô định ấy được Huy Cận nhấn thêm một lần nữa bằng hai chữ “về đâu”. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng
người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi
vàng” như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có
chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:“Mênh mông ..thân mật”.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định: “…không…không” để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Không có con đò
đậu. không có lấy một chiếc cầu tĩnh lặng, vô tri. Không có cả một chút bóng dáng con người mà thông thường người ta có thể
mường tượng ra qua hình ảnh con đò.Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô
đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của
con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Và cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ, khi nhà thơ viết câu thơ cuối :“Lặng lẽ ..’’ Cảm
giác về “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng. Câu thơ gợi cho người đọc cảm nhận về dòng chảy qua hết bờ
xanh lại đến bãi vàng, nhưng tuyệt đối âm thầm. Chúng ta lại nhận ra thêm ở đây một nỗi buồn sông nước.
4/ Khổ 4: ở khổ cuối cùng của bài thơ,Huy Cận đã khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:“Lớp …nhà” Có
thể nói rằng đây là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi ra liên tưởng về một câu thơ Đường. Cũng không có khổ thơ nào
trong “Tràng giang” lại vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh trời chiều trên sông nước rõ ràng và gợi cảm như ở khổ bốn này.
Câu thơ thứ nhất đem đến cho ta cảm giác của một thiên nhiên vừa quen thuộc lại vừa lớn lao, kì vĩ.“Lớp lớp ..bạc” Chỉ bảy
chữ thôi mà câu thơ đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh mà ở đó những làn mây dường như được đùn, đẩy từ nơi mà bầu
trời tiếp liền cùng mặt nước, cứ chất ngất mãi lên phía của trời cao thành hình giống như ngọn núi, nhưng lại là núi bạc. Những
đám mây kia đang phản quang những tia nắng của trời chiều, nhờ vậy mà ánh lên, loá lên, hình thành một khoảng không gian lớn
rộng, gợi nên cảm giác trong sáng hiếm có ở bài thơ. Và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ
Đường cổ của Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.
Vẫn nhìn lên bầu trời ấy, ở hai câu tiếp theo, nhà thơ điểm lên bức tranh bầu trời trên dòng tràng giang hình ảnh một cánh chim,
một hình ảnh rất đặc trưng cho buổi chiều tà.“Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa” Cánh chim ấy không khỏi làm cho những
người yêu thơ nhớ đến một câu thơ của Vương Bột :“Lạc hà dữ cô lộ tề phi”
Song cánh chim chiều trong thơ Huy Cận không bình thản như thế thì nhà thơ nói đến “chim nghiêng cánh nhỏ”. Chi tiết ấy đủ
làm người đọc nhận ra bóng chiều đang buông xuống. Bóng chiều vốn vô hình dường như giờ đây có thể được nhìn thấy như
trong cảm giác về một vật thể hữu hình. Nhà thơ đã hữu hình hoá cái vô hình. Và như vậy chỉ bằng hai câu mà nhà thơ đem lại
cho người đọc những xúc cảm thân thương, quen thuộc của quê hương, đất nước, để rồi từ cảnh quê trong hai câu đầu mà nói đến
tình quê, đến nỗi nhớ quê nhà trong hai câu thơ cuối. Nỗi nhớ mênh mông như là những làn sóng đang dợn trên mặt sông và trải
ra theo con nước về phía xa vời.
Có thế thấy nét hiện đại của ngòi bút Huy Cận bộc lộ rõ qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi
mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng
chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng
“cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:“Lòng quê …nhà” “Dợn dợn” là một từ láy
nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nổi niềm
bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương
đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là tứ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” của Thôi Hiệu. Xưa
Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc
lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm
phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim…
Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như“sâu chót vót”, dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp
ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức
muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.
KB: Có thể nói “Tràng giang” đã, đang và sẽ mãi luôn đi sâu vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất Huy Cận, với vẻ đẹp
cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
Bài 4 Xuân Diệu đã tự ví mình và Huy Cận như Rim-bô và Véc-len: "Hai chàng thi sĩ choáng hơi men – Say thơ xa lạ mê tình
bạn – Khinh rẻ khuôn mòn bỏ lối quen!" – "Say thơ xa lạ" – đó là thơ lãng mạn phương Tây của thế kỉ XIX. Tuy vậy, Huy Cận
còn là người rất thích thơ Đường và trân trọng vốn thơ ca dân tộc. Từ buổi thiếu niên, tác giả đã thuộc lòng khá nhiều ca dao, thơ
Đường, thơ Nguyễn Du,… Lẽ vậy chăng, trong những câu thơ tuyệt đỉnh của Huy Cận có cả những vần thơ vừa cổ điển vừa lãng
mạn. Nét cổ điển và hiện đại đan cài vào nhau, kết hợp hài hòa với nhau, trong thơ và trong con người thi sĩ Huy Cận – sự kết tinh
của hai nền văn hóa Đông và Tây nhưng lại giao nhau ở một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm đa sầu. Lần đầu tiên, Huy Cận mang tác
phẩm "Lửa thiêng" bất ngờ theo Xuân Diệu bước chân vào hội Tao đàn thì "trong thơ Việt Nam nghe bừng dậy một tiếng dịch
buồn". Điệu buồn ảo não ở Huy Cận đồ tự tìm đên một cám hứng riêng để kí thác cảm hứng vũ trụ.
Như Voltaire từng nói: "Thơ là âm nhạc của tâm hồn nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”. Và "Tràng giang" mang nỗi buồn
mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn, rất tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước cách mạng. Xuân Diệu
đã có nhận xét rất tinh tế: "bài thơ hầu như đã trở thành cổ điển của một nhà thơ mới". Nét cổ điển được thể hiện ngay từ tiêu đề
tác phẩm: "Tràng giang" – "Tràng" là một âm khác "Trường" – có nghĩa là dài. Tuy nhiên, Huy Cận đã chọn "Tràng giang" vì nó
chẳng, những đã chứa trong mình cả "Tràng giang" mà nhờ âm "ang" đã gồm cả nét nghĩa sông rộng, sông lớn, mớ ra một khoảng
không gian bao la vô tận vô cùng. Dường như cảnh càng bát ngát thì tình càng miên man, và Huy Cận, bởi "quá cảm nghe với
mênh mông thì giọng thơ của người cũng lấy cái sầu của vũ trụ". Bài thơ mở ra bằng lời đề từ: Bâng khuâng …sông dài.
Dường như đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Đó là nồi niềm cảm nhận sâu xa của cái tôi cô đơn trước cái vô cùng
của trời đất. Trong nỗi niềm ấy, "Tràng giang" đầy nỗi nhớ không gian, khao khát được giao cảm giữa con người với vũ trụ, đồng
thời muốn hòa nhập giữa cái tiểu ngã hữu hạn với cái đại ngàn vô hạn. Thơ xưa các thi nhân tìm đến thiên nhiên vũ trụ luôn nhận
mối đồng cảm tương giao. Huy Cận cũng đến với vũ trụ. Thế nhưng khác xưa là, tác giả chỉ thấy thâm thía nỗi buồn của cái tôi cô
độc, với cảm giác “bâng khuâng" "dợn dợn" trước không gian bao la. Phải chăng, nguồn mạch thơ mới của bài ”Tràng giang"
cũng chính là ở đó.
Trước hết, ta bắt gặp một không gian vũ trụ mênh mông:Sóng gọn tràng giang buồn điệp điệp. Sắc thái cổ điển và hiện đại hòa
quyện nhau, nhuần nhuyễn để làm nổi rõ thiên nhiên vắng lặng và buồn. Tràng giang đó, bình thản suy tư qua bao lớp sổng "buồn
điệp điệp", qua dòng khơi "nước song song", cảm giác buồn ấy lại gửi trong vần điệu, trong những từ gợi hình mỏng manh càng
làm tăng thêm mỗi lúc và trải dài mãi không thôi, càng như thấm đẫm trong từng cảnh vật.Nấng xuống trời lên sầu chót vót.
Không gian như vụt lên hơn. Trên bức tranh sông dài lại hiện lên bầu trời thăm thẳm: "Sâu chót vót" – "sâu" đã gợi lên cho
người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút, khôn cùng, mà lại là "sâu chót vót" thì chiều cao càng vô tận. Câu thơ bảy chữ thì có ba
chữ vần bằng nằm giữa bốn vẩn trắc, dường như nhân mạnh thêm không gian vô tận giữa mặt đất sâu thẳm và trời cao chót vót.
Cái đẹp ở đây chính là tác giả đã đặt những hình ảnh ấy trong một thế giới hài hòa nghệ thuật tuyệt diệu "nắng xuống" – "trời lên"
càng cao rộng, cảnh vật càng thêm vắng lặng. Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con người như trở nên nhỏ bé
và có phần rợn ngợp trước cái bao la vĩnh hằng của vũ trụ, cái xa vắng cùa thời gian:Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng .
Cũng như trong câu thơ:Lớp lớp mây cao đùn núi bạc Thiên nhiên hiện ra buồn nhưng cũng thật tráng lệ. Nét đặc trưng này
của không gian đó được Đỗ Phủ miêu tả trong bài "Thu hứng": Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm/ Mật đất mây ùn cửa ải xa.
Lấy lại ý thơ người xưa, hình ảnh "mây cao đùn núi bạc" trong bài thơ gợi lên ấn tượng về sự mênh mông của vữ trụ. Nếu trên
kia là sông nước Tràng giang "điệp điệp" "song song thì bây giờ là "lớp lớp" mây cao – những đám mây trắng cứ đùn lên, tràng
điệp phía chân trời. Huy Cận không viết: "đùn sóng bạc" – nghĩa là những áng mây như muốn ngàn con sóng tung bọt trắng, mà
viết "đùn núi bạc" khiến cho không gian vũ trụ khổng chỉ hiện lên bao la, vô tận mà còn hùng vĩ nữa… thế nhưng, cũng khác thơ
xưa, cảnh vật mỗi lúc một bao la thì hồn người trong bài "Tràng giang" càng thêm cô độc, lạc loài. Thi nhân vốn "sớm vương nỗi
sầu thiên cổ mang mang" hẳn không khỏi khát khao được giao cảm, tương thông với trời đất vô cùng.
Nếu không gian vũ trụ qua “Tràng giang” hiện lên với tất cá vẻ đẹp bao la, kì vĩ mênh mông thì đối lập với nó không gian của
cõi nhân thế lại bé nhỏ, đơn côi lạc loài: Con thuyền …mấy dòng.
Đó là hình ảnh của con thuyền côi cút và cành khô lạc loài giữa sông nước mênh mông. Vào những năm ba mươi, đây là những
câu thơ mới mẻ, bởi nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi vô nghỉa như "một cành củi khô". "Trong cảm thức xa vắng vẻ không
gian, đối với Huy Cận, con thuyền, cành khô chỉ gợi lên sự đơn lẻ thấm thía nỗi buồn chia lìa lạc loài đang đón đợi. Thuyền "về"
mà nước thì "lại" nghĩa là nghịch chiều nhau. Tuy chỉ có hai hướng thôi nhưng lại tạo nên mối "sầu trăm ngả" và cành cây chỉ còn
là "củi một cành khô". Nếu nói như Huy-gô "ngôn ngừ cùng chi là một sinh vật” thì ở đây sinh vật ấy đang bơ vơ, đau xót, bất lực
vì nước xô đẩy: "Lạc mấy dòng” nó hàm chứa cả cái gì đó côi cút, tan tác đến tội nghiệp. Với cách đặt từ "một" ở giữa hai số từ
"trăm" và "mấy" trong những câu thơ khiến hình ảnh cõi nhân thế dường như càng nhỏ lại, bế tắc tột cùng. Tất cả như vây bủa lấy
cảnh vật trong sự lạc lõng, đơn côi. Nôi buồn đó càng như da diết mãi không thôi:Lơ thơ cồn …chợ chiều.
Vài dải đất giữa sông dài, vài ngọn gió hiu hiu nhưng khống đủ làm sống động cảnh vật và âm thanh của tiếng "làng xa vãn chợ
chiều" thì mơ hồ, mong manh lắm không làm bớt đi sự vắng lặng của cảnh. Bấy nhiêu hình ảnh dường như chỉ là những nét chấm
phá, tô đậm thêm không gian cao rộng của vũ trụ mà thôi. Thơ Đường tả “Tràng giang” chỉ qua một vài nét chấm phá đơn sơ,
bình lặng, hiền hòa, không đi sâu vào chi tiết:Xanh um cổ thụ tròn xoe tán /Trăng xóa Tràng giang phẳng lặng tờ.
Huy Cận cững miêu tả "Tràng giang" theo trường phái phương Đông truyền thống. Nhưng “Tràng giang” vẫn là một bài thơ
hiện đại, không chỉ hiện đại ở hình ảnh, thi liệu mà còn ở cảm xúc của nhà thơ lãng mạn. Huy Cận đã soi "chiếc linh hồn nhỏ” của
mình trên sông nước Tràng giang:Bèo dạt …bãi vàng.
Một loạt tính từ “mênh mông" "lặng lẽ’ đã gợi lên không khí vắng vẻ, u buồn. Nỗi buồn như càng được khắc sâu qua hình ảnh
những cánh bèo dạt trối nổi lênh đênh. Hình ảnh đó là ngẫu nhiên nhìn thấy hay vì thi nhân đã liên tưởng đến thân phận "hoa trôi
bèo dạt” của những kiếp người chìm nổi long đong trong xã hội. Tâm trạng chung của lớp trẻ những năm 30 là thế. Nhưng không
phải vì vậy mà họ quên hết chất thơ chất đẹp ở đời. Ngay cả khi phủ định tất cả "không một chuyến đò ngang", "không cầu gợi
chút niềm thân mật" cũng chính là bộc lộ tấm lòng thi nhân yêu cuộc sống, tha thiết mong mỏi niềm giao cảm. Không gian trần
thế vì vậy qua cái nhìn thỉ sĩ dù sầu tư lai láng nhưng vẫn lung linh có hồn. Tình càng sâu thì cánh càng đẹp:Chim …chiểu sa.
Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiếu tà càng gợi lên những nỗi buồn xa vắng của lòng người – Nhưng cánh chim ấy lại
chao xuống vì sức nặng của hoàng hôn nhịp nhàng với buổi chiều bóng xế. Hình ảnh đẹp vừa cố điển vừa lãng mạn. Nếu như
Nguyễn Du thấy “Bên cẩu tơ liễu bóng chiều thướt tha", Hán Mặc Tử cũng nhận ra "bóng xuân sang trên một giàn thiên lý thì
Huy Cận, thi nhân cũng rất tinh tế nhận thấy bóng chiều trong một cánh chim nghiêng. Chính là, nhà thơ đã phá lôgic của cuộc
sống để đạt đến logic của nghệ thuật. Cũng vì vậy, cánh chim dường như hiện lên sinh động hơn, đẹp hơn và đặc biệt cũng buồn
da diết trước cái nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ bao la.
Từ những hỉnh ảnh quen thuộc của cuộc sống thế gian, một cành củi khô, cồn nhỏ lơ thơ, con thuyền nhỏ, cánh chim… đã hắt
vào tác phẩm vẻ từ biệt sinh li, vẻ sầu bỉ của nó. Chỉ vài nét chấm phá thôi, Huy Cận đã khơi gợi cầm giác lẻ loi, chia li trong lòng
người, trong cánh vật. Đó cũng là tâm lí tự nhiên của con ngưởỉ, cảm thấy nhỏ bé trước thiên địa vô thủy vô chung:Ai người trước
đã qua /Ai người sau đã tới /Nghĩ trời đất vô cùng /Một mình tuôn giọt lệ.(Trần Tử Ngang) Cảnh tỉnh ấy khiến thi nhân không thể
không bâng khuâng và thầm mong ước. Nó kết tinh thành tinh quê hương tha thiết:Lòng quê …nhớ nhà. Âm hưởng Đường thi
triền miên trong câu thơ. Lấy lại ý xưa của Thôi Hiệu:Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
nhưng Huy Cận khác, trong buổi hoàng hôn ấy không hề có "trên sông khói sóng" tạo điều kiện phản xạ gợi nhớ “hương quan”
(cổng làng – đường về quẽ cũ) như tác giả Hoàng Hạc Lâu. Phải chăng chính cảm giác “dợn dợn” của chủ thể lãng mạn đã làm
nảy sinh tâm lí nhớ nhà. Nhớ nhà, muốn được trở về có mặt giữa gia đình, quê cha già để hóa giải cảm giác “dợn dợn” bơ vơ của
kẻ tha hương. Tình quệ trong bài Tràng giang vì vậy da diết hơn, thường trực bơn. Nó không chỉ là những dòng ý nghĩ lộ thiên
đơn giản mà là xuất phát từ qui luật thầm kín tự đáy thẳm tâm linh của con người.
Tuy vậy, ý thơ không chỉ dừng lại ở một tình quê hương thuần túy. Phải chăng, "lòng quê dờn dợn vời con nước" còn thể hiện
nỗi niềm của một cái tôi cô độc, nhô bé trước vũ trụ đang tìm vẻ giao hòa, nương tựa với cái ta rộng lớn hơn. Chất lãng mạn của
bài Tràng giang là đây, bên cạnh nỗi niềm quê hương là nỗi niềm nhân thế:Đạm đạm trường giang thủy/Du du viễn khách tình.
Có thể nói, Tràng giang là một bài thơ chứa đầy không gian và tâm trạng. Là không gian vũ trụ, cảnh sắc bao la, vô tận mà cũng
thật tráng lệ. Là không gian nhân thế, cảnh lại hiện lên cô đơn, lạc loài. Bao trùm lên bức tranh thiên nhiên là sự tĩnh lặng gần như
tuyệt đối. Duy chỉ có tiếng lòng nhà thơ đang thầm vọng trong xa thẳm:Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Hai mươi năm sau, cũng đứng trước một không gian vô tận của đại dương vào lúc hoàng hôn, Huy Cận đã viết những vần thơ
vui tươi khỏe khoắn:Mặt trời xuống biển như hòn lửa.Sóng đã cài then đêm sập cửaĐoàn thuyền đánh cá lại ra khơiCâu hát căng
buồm với gió khơi.
Nhưng đó là sau này, khi Huy Cận đang viết "Trời mỗi ngày lại sáng”. Còn ở đây, cảm giác vũ trụ ở Huy Cận là sự khắc khoải
cô đơn khi đối diện với trời đất vô tận vô cùng. Bài thơ Tràng giang vì thế mang nỗi buồn mênh mang sâu lắng trong giọng thơ
vừa cổ điển vừa lãng mạn. Nỗi buồn của Huy Cận trước sau vẫn là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú hổn người và
làm nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.
Bài 5 Mới đọc, có khi nhầm Tràng giang là một bài thơ thuần tuý tả cảnh thiên nhiên. Nhưng nghiền ngẫm cho kỹ mới thấy điều
tác giả muốn nói đến trong bài thơ này tuyệt nhiên không phải là cái hữu hình, nhất thời, mà là cái vô hình, cái vĩnh viễn. Đúng
như Hoài Thanh đã khẳng định: Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình thường, nhưng người luân luân lắng nghe mình sống
để ghi lại cái nhịp nhàng lặng lẽ của thế giới bên trong. Cái thế giới bên trong, cái linh hồn của tạo vật trong bài Tràng giang là
nỗi buồn xa vắng mênh mông.
Dòng sông và con người, không gian bao la và tâm trạng cụ thể; đó là một tứ thơ cổ điển:Sóng gợn …song song. Bài thơ có
tựa đề Tràng Giang, câu thơ đầu tiên cũng nhắc lại tựa đề. Tràng Giang chứ không phải trường giang.
Tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ giọng điệu
của cả bài thơ. Mặt khác. Tràng giang còn gợi nên được hình ảnh một con sông dài và rộng, vừa là tràng giang, vừa là đại giang.
Phải chăng, đấy là sông Hồng, bền bỉ muôn đời, đã từng chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử? Và suy cho cùng sức mạnh của
hai câu thơ trên không phải là nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khêu gợi, khêu gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi
buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang), và theo thời gian (điệp điệp).
Ở khổ thơ đầu, cũng như toàn bộ bài Tràng giang, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu
đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm, luật như cách đối trong thơ cổ. Chẳng hạn Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, có thể
coi là đối với Con thuyền xuôi mái nước song song; Nắng xuống, trời lên sâu chót vót, đối với: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Hoặc ở một cấp độ khác: bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; - Mênh mông không một chyến đò ngang lại cũng có thể đối với Không
cầu gợi chút niềm thân mật – Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Nghệ thuật đối ý (và đối xứng) nói trên, một mặt làm cho giọng điệu của bài thơ uyển chuyển, linh hoạt (tránh được sự khuôn
sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi đầu thế kỉ); mặt khác, vẫn phát huy đợc một trong những thế mạnh
của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng cổ điển. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như: điệp điệp, song song cũng có
hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. Nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại. Trước hết hiện đại ở hình ảnh, ở thi liệu
ở cảm xúc: Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, đây là những câu thơ mới mẻ, bởi trong đó xuất hiện cái tầm thường nhỏ nhoi, vô nghĩa như
củi một cành khô...thơ xưa chủ yếu là địa hạt dành riêng cho những tao nhân mặc khách, hầu như thiếu vắng cái hiện thực khô ráp
của đời thường. Đến thời Thơ mới, nó xuất hiện, góp phần tạo nên cuộc cách mạng trong thơ (Hoài Thanh). Hình ảnh một cành
củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh, trên dòng sông mênh mông sóng nước gợi lên nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định.
Đến khổ thơ thứ hai, nỗi buồn càng như thấm sâu vào cảnh vật: Lơ thơ …cô liêu Theo Huy Cận, là đìu hiu ông học được trong
bản dịch Chinh phụ ngâm: Non Kì quanh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Cặp từ láy lơ thơ và đìu hiu gợi lên
được sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn...chợ chiều thường buồn tẻ, không có được cái nhộn nhịp, hào hứng của chợ sáng, chợ trưa.
Đoàn Văn Cừ đã đặc tả thành công nét buồn này bằng những câu kết của bài thơ Chợ Tết quanh quán chợ. Trong Tràng giang,
tiếng chợ chiều đã vãn từ một làng xa nào vẳng lại đã gợi một không khí buồn vắng, cô tịch:Nắng xuống… cô liêu.
Đây là mấy câu thơ có giá trị tạo hình. Không gian được mở rộng, và đẩy cao thêm. Sâu gợi lên ở người đọc ấn tượng thăm
thẳm, hun hút khôn cùng. Chót vót gợi tả chiều cao vô tận. Càng rộng, càng cao, thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông
dài, với bến bờ lẻ loi xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ thấm vào không gian ba chiều. Con người trở nên bé bỏng, có phần rợn
ngợp trước vũ trụ vĩnh hằng, rộng lớn, không khỏi thấy lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian. (Hoài
Thanh).
Ấn tượng nói trên lại được tô đậm thêm ở khổ thơ tiếp theo:Bèo dạt …bãi vàng. Vẫn trong mạch cảm xúc ở hai khổ đầu, nỗi
buồn càng được khắc sầu qua hình ảnh những cánh bèo dạt lênh đênh. Bên cạnh những hình ảnh thuyền và nước cùng trôi về cõi
vô biên, hình ảnh cành củi khô bập bềnh trên sông nước ở khổ một, đến khổ thơ này, ấn tượng về sự chia li lán, tan tác được láy
lại một lần nữa, càng gợi thêm một nỗi buồn mênh mông. Toàn cảnh sông dài, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng con người;
không một chuyến đò, đồng thời cũng không có lấy một cây cầu - nhờ chúng có thể tạo nên sự gần gũi giữa con người với con
người, mà chỉ có thiên nhiên (bờ xanh) nối tiếp với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, hoang sơ.
Như vậy, sự cô quạnh đã được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Thực ra điều này còn có thể nhận thấy ở khổ
bốn (Không khói hoàng hôn...) nhưng rõ nhất vẫn là ở khổ ba. Bởi vậy, có thể nói, thái độ phủ định thực tại của tác giả nằm ngay
ở trong kết cấu của bài thơ. Khổ kết bài thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt của Thơ
mới, và vẫn thể hiện nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận:Lớp lớp …nhà.
Thiên nhiên buồn, nhưng cũng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời, ánh dương
phản chiếu trông lấp lánh như những núi bạc. Hình ảnh mây cao đùn núi bạc tạo ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước
cảnh sồng nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim nhỏ bé, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều xa
xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ, trong một buổi chiều tà cũng để gợi lên một nỗi buồn xa vắng. (Chim hôm thoi thót về rừng -
Đoá trà mi đã ngậm trăng nửa vành. Truyện Kiều - Nguyền Du). Nhưng điều đáng nói hơn ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật
đối lập; đối lập giữa cánh chim bé nhỏ với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn,
thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt cũng buồn hơn?
Như vậy, đi suốt bài thơ là nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn ở bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà Thơ
mới, trước hết, chính là nỗi buồn của cả thế hệ, của cả dân lộc, trong những năm ngột ngạt dưới thời thuộc Pháp. Vả chăng, có lẽ
nỗi buồn nói trên còn xuất phát từ chính quan niệm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn đương thời. Theo họ, cái đẹp thường đi sóng
đôi với cái buồn. Bôđơle, người được Rembô mệnh danh là hoàng đế của các nhà thơ, đã từng có câu nổi tiếng: Em cứ đẹp, và em
mãi buồn. Vả chăng, cái buồn của Huy Cận ở bài thơ này, trước sau vẫn là cái buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm
tâm hồn của bạn đọc; nó cũng như cái buồn đã làm nên sức hấp dẫn mê hồn của thơ ca dân gian Nga, như Biêlinxki đã nhận xét.
Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo nên được những vang hưởng kì lạ do tác giả đã chọn được thể thơ thích hợp (gần với thể cổ phong)
vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả, với tần số cao, hệ thống từ láy( 10 lần trong 1 dòng thơ) và cách ngắt nhịp truyền
thống... Chất cổ điển đặc biệt rõ ở cấu kết. Thôi Hiệu nhìn khói nhớ đến quê hương (Nhật mộ hương quan hà xứ thị? - Yên ba
giang thượng sử nhân sầu - Hoàng Hạc lâu). Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn - Trên sông khói sóng cho buồn lòng
ai? Huy Cận không cần có khói sóng - không cần có cái gợi nhớ - mà lòng vẫn dờn dợn nhớ nhà. Rõ ràng nỗi nhớ của Huy Cận da
diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn; do đó, hiện đại hơn!.
Cổ kính, trang nghiêm, Tràng giang còn là một bài thơ rất Việt Nam. Dòng sông sóng gợn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi
khô bồng bềnh, cánh bèo lênh đênh, chợ chiều của làng quê, cánh chim trong buổi chiều tà... thật gần gũi với người Việt Nam
chúng ta.
Bài 6 Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận và thể hiện rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã
nhiều lần kể lại quá trình viết nó. Cảm hứng thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại thành Hà Nội. Bây giờ
nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào thời Huy Cận viết Tràng giang cho đến mấy chục
năm sau, nó đìu hiu sông nước, vắng lặng, đẹp và buồn đúng như trong bài thơ đã tả.
Huy Cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng chọn thơ bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ông còn cho
biết Lớp lớp mây cao đùn núi bạc là do ông học ở bản dịch thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa". Ý kết là ông tựa vào thơ
Thôi Hiệu, qua bản dịch của Tản Đà “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” để tả nỗi buồn của lòng mình: Không khói hoàng
hôn cũng nhớ nhà. Chính không gian Đường thi trong hơi thơ bảy chữ tạo nên sự cộng hưởng cảm xúc đồng chiều ấy. Nếu viết ở
thể thơ khác, chưa chắc đã có sự cộng hưởng ấy. Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu. Huy Cận thừa biết mình đứng nhờ trên vai người
ta, có cao nhưng không chắc mình có chiều cao hơn người ta. Đọc Tràng giang có thể thấy buồn Hoàng Hạc lâu nhưng là ở nhiều
chỗ khác chứ không phải ở câu kết so đo ấy.
Bài thơ này có vẻ đẹp cổ điển, trang trọng mở vào cao rộng trời đất mà nỗi buồn lại thấm thía sâu thẳm xuống một cõi lòng. Nỗi
buồn bàng bạc mơ hồ nhưng đụng vào đầu cũng thấy. Mơ hồ vì buồn không rõ lí do cụ thể. Bàng bạc vì không rõ sắc thái, không
rát bỏng nhưng ngân nga như một nỗi bâng khuâng, một tâm trạng nhớ không đối tượng: trời rộng nhớ sông dài. Câu đề từ quả đã
ôm đủ chủ đề bài thơ. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ đựng đầy không gian. Cảnh nào cũng gợi buồn, cảnh bị nhiễm vào từ trường
tình cảm. Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. Tâm hồn ông khi ấy thường trực một nỗi buồn thế hệ, cái thế hệ vừa biết suy
nghĩ thì chạm ngay vào nỗi buồn mất nước, vào thân phận nhược tiểu, một linh hồn nho nhỏ/ mang mang thiêng cổ sầu. Chất tâm
hồn bất thường bắt rất nhạy cảm xúc không gian rộng xa, vắng lặng hắt hiu. Riêng với Huy Cận, người đã từng “nghiêng tai kì
diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe lòng mình. Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn thì không gian trời nước quãng sông Hồng
nơi Chèm Vẽ cộng hưởng với lòng ông mà thành thơ là điều không khó hiểu.
Chữ tràng trong Tràng giang đề bài và trong câu đầu tiên vốn ít dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hơn trường nhưng Huy Cận lại
chọn dùng... Có người giảng là để khỏi nhầm với sông Trường Giang bên Trung Quốc. Chả hiểu có đúng thế không. Nhưng chỉ
căn cứ vào âm thanh (chứ không phải chỉ nghĩa chữ) thì giang hai âm vang đồng dạng đứng liền nhau gợi được khoảng rộng, dàn
theo chiều ngang, bát ngát bao la hơn là trường. Trường chỉ cho thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm trường thuôn lại trong
khi tràng mở ra. Mặt sông dài rộng, nên đầu sóng của sông, vốn thấp như càng thấp thêm, chỉ như gợn nhẹ mặt sông phẳng. Đã
rộng lại tĩnh nên gợi buồn, buồn điệp điệp. Chứ sóng mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm giác khác. Điệp điệp là trạng thái
của gợn sóng trên tràng giang và cũng là của gợn buồn trong lòng người. Câu vào này buồn thật. Nhưng câu thứ hai: “Con thuyền
xuôi mái nước song song" có người cũng cho là câu thơ buồn, buồn lắm, lấy lí rằng: song song là chẳng bao giờ gặp nhau, là
không gắn bó gì với nhau. Đấy là vận dụng định lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình tượng văn chương. E khó
thuyết phục. Thuyền nước trong câu thơ này là đang gắn bó, thậm chí hài hoà xuôi chèo mát mái. Câu thơ này không buồn. Hơn
nữa, vui. Đang vui. (Chữ nước song song chỉ là một dụng ý để đối với buồn điệp điệp). Có đang vui mới dẫn đến cái buồn ở câu
sau. Mới tạo nên mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc mà buồn thì tất yếu, ấy là lúc thuyền về tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi
một mình, phiêu bạt hai ngả rẽ vô thường nên mới kinh hãi với cái sầu trăm ngả. Hình ảnh sông nước đến đây đã nhập vào thân
phận con người. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả. Một chữ lại (trạng từ), lại sầu... cho thấy cách nhìn đời hồi ấy của Huy Cận
khá giống Xuân Diệu (hoa nở để mà tàn - Trăng trong để mà khuyết - Bèo hợp để chia tan - Người gần để li biệt). Thuyền và nước
song song xuôi mái chỉ khoảnh khắc rồi lẻ loi với bao nhiêu ngã ba sông nước, sầu trăm ngả. Từ hình ảnh trăm ngả dẫn đến câu
cuối đoạn như mội tổng kết:Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Trên sông Hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trôi, thân gỗ trôi, vật vã nổi chìm trong sóng đục phù sa. Cảnh gợi tang
thương. Nhưng không phải mạd cảm xúc Huy Cận ở bài này. Ông nói ông phải lựa chọn hình ảnh sao cho ra cai thân phận nổi
nênh của kiếp người. Chọn củi hơn là gỗ, chọn một cành không hơn là những cây tươi. Củi một cành mà lạc mấy dòng thì đắt
quá, chưa kể nó còn ứng với sầu trăm ngả ở ưên.
Đoạn một là nhìn vào mặt sông mà tả. Chi tiết tung hứng, ngôn ngữ đăng đổi và ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa
xung quanh: cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng... không gian mở ra rộng - cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Thưa vắng và yên
tịnh. Chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu không rõ, mơ hồ như nghe trong hoài niệm một phiên chợ quê lúc vãn người. Âm thanh
mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang dãn dần ra theo nắng, theo trời:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Sâu chứ không cao là một sáng tạo, gây ấn tượng. Chiều năm ngang thì “ Sông dài, trời rộng,
bến cô liêu"... Không màu sắc, không âm thanh, không hoạt động. Tất cả bất động, lặng đi, ngấm vào nỗi cô liêu.
Cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. Huy Cận tỉnh táo chuyển lại ánh về mặt sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu,
hàng nối hàng”. Đẩy mức vắng lặng tới chỗ bặt dấu người. Hai đoạn trên còn có thuyền, có chợ. Giờ đây, trên sông chỉ còn có
bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Không đò ngang, không cầu bắc, không thấy một công trình nào mang dấu người, chỉ lặng lẽ
thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh. Buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Rồi lại dựng lên cao “Lớp lớp
mây cao đùn núi bạc". Trút qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng mới trội lên
nỗi nhớ quê, lòng quê. Tình thế trôi dạt nổi nênh của ngoại cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia
đình quần tụ. Bài thơ khép lại trong nỗi nhớ nhà. Tính lôgíc trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài
thơ này. Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn’’

You might also like