You are on page 1of 6

I.

Mở bài

"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu


Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"...

       ("Đất Nước" – Nguyễn Khoa Điềm)

Tổ quốc ta có trăm núi nghìn sông hùng vĩ và đó cũng trở thành cảm hứng để sáng
tác biết bao vần thơ đẹp viết về sông núi quê hương. Và Đà giang cũng là một
dòng sông đẹp được người xưa gợi ca: "Chúng thủy giai đông tẩu / Đà Giang độc
bắc lưu". Sông Đà vốn là nơi mang tới cho nhân dân ta nguồn thủy điện to lớn,
đem ánh sáng đến mọi miền đất nước thân yêu gần xa. Cách đây sáu mươi năm vào
năm 1960 nhà văn Nguyễn Tuân đã viết tác phẩm “Sông Đà” ca ngợi cảnh sắc
thiên nhiên tráng lệ kì thú, con người Tây Bắc có bao phẩm chất cao quý, đẹp đẽ.
Tùy bút "Người lái đò Sông Đà" là một trong số 15 bài của tác phẩm “Sông Đà”, là
một "tờ hoa", đích thực. Nó đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, độc đáo. Bên cạnh hình ảnh của người lao
động kiên cường, dũng cảm là một thiên nhiên đẹp đẽ, mang trong mình hai vẻ đẹp
đối lập: hung bạo và trữ tình. Hai vẻ đẹp này hòa quyện, tạo nên một bức tranh
sống động, đầy sức sống của dòng sông.

II. Thân bài


1. Khái quát

Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái
đẹp. Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện,
hoàn mỹ. Bằng phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa, không quản
nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề
nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng lay động người đọc
nhiều nhất, Nguyễn Tuân đã sáng tác được rất nhiều tác phẩm có giá trị lớn, trong
đó có "Sông Đà", một thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà tác giả thu hoạch được
trong chuyến đi tới vùng Tây Bắc tổ quốc xa xôi, rộng lớn. Ông đã tìm được cái
chất vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa được thể hiện trong
thiên tùy bút "Người lái đò Sông Đà". Sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các
triền núi, dòng nước chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho Đà
giang một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo
mà trữ tình đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của ông lái đò trên dòng Đà
giang.

2. Phân tích
a.
Mở đầu đoạn trích, nhà văn cho người đọc ngắm nhìn sông Đà theo một cách rất
riêng, một góc nhìn rất độc đáo, làm người ta phải thốt lên dòng sông đẹp như một
mĩ nhân với vẻ dịu dàng, trữ tình thơ mộng. Vẻ đẹp Đà giang được miêu tả qua
nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh, không gian và thời gian khác nhau. Từ trên cao
nhìn xuống, con sông Đà được tác giả liên tưởng tới "cái dây...chân mình". Bằng
biện pháp nghệ thuật so sánh, Nguyễn Tuân cụ thể hóa dáng hình mềm mại như ca
dao xưa ví dòng sông uốn lượn như hình con long đang chìm vào giấc ngủ trên núi
rừng Tây Bắc bao la. Không những thế, con sông Đà uốn lượn, mềm mại như áng
tóc của người con gái Tây Bắc kiều diễm, xinh đẹp. Dòng sông Đà được nhà văn
bằng những hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn tượng sâu sắc, “tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Với việc sử dụng trùng
điệp các lối so sánh sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dòng
sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm, duyên dáng của một người con gái đang độ
xuân thì. Thông thường người ta sẽ thấy chữ “áng” hay được dùng để chỉ những
tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Điệp
ngữ "tuôn dài" kết hợp với từ "ẩn hiện" và động từ mạnh "bung nở" cùng nhịp điệu
kéo dài không dứt đã khiến người đọc hình dung ra một khinh cảnh thơ mộng vô
cùng! Có thể thấy trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà giống như một tác phẩm
nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra. Vẻ đẹp của dòng sông thật yên bình, khơi gợi sự
yêu thương, đưa lòng người đến với những rung cảm trong tâm hồn mình, một sức
hấp dẫn tuyệt vời quá đỗi. Một dòng sông ẩn hiện giữa mây ngàn, làn khói sương
lảng bảng mỗi độ xuân về lại được trang điểm bởi sắc trắng ngút ngàn của hoa ban,
sắc đỏ rươi rói của hoa gạo. Đôi lúc, sông Đà cũng có những cảm xúc, cũng nhớ,
cũng thương như bao người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông được thể hiện giữa
thiên nhiên, mây trời tạo nên nét riêng biệt không trộn lẫn, bởi vậy dù bất cứ lúc
nào nó cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: "Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng
nước sông Đà”. Bằng sự quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, ngòi bút tài
hoa, Nguyễn Tuân đã đem tới một bức tranh phong cảnh tuyệt tác, một cảm xúc
bất ngờ, thú vị vô cùng: Tây Bắc muôn đời vẫn đẹp, sông Đà dẫu hung hãn cũng
có lúc yêu kiều, diễm lệ như cô gái bừng sức trẻ thanh xuân. So sánh sông Đà như
một người con gái xinh đẹp càng làm dòng sông trở nên có hồn, có tâm trạng và
cảm xúc. Từ đây ta càng khâm phục, ngưỡng mộ tài năng của Nguyễn Tuân - một
con người suốt đời đi tìm cái đẹp.

Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn đem đến cho người đọc cảm xúc bất ngờ
khi nhìn ngắm con sông từ những khoảng thời gian khác nhau. Nguyễn Tuân lại
phát hiện ra những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của dòng sông. Sắc nước đổi thay
theo mùa, mỗi mùa có vẻ đẹp rất riêng: Mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích, chứ
không phải màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô". Màu ngọc bích là
xanh trong, xanh biếc - một sắc màu trong xanh, là sắc màu của sông, núi, da trời
hòa quyện thành khiến dòng nước không chỉ xanh mà còn trong vắt, lanh lanh như
tấm gương phản chiếu vẻ đẹp của đất trời. Mùa xuân thì vậy, còn "mùa thu thì
nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt của người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Nhà văn sử dụng phép so
sánh vô cùng độc đáo, so sánh màu nước mùa thu giống màu đỏ giận dỗi, hờn trách
của người bất mãn, bực bội gì đó mỗi độ thu về". Con sông như người thiếu nữ
xinh đẹp, mơ mộng đang tuổi xuân thì tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đôi
phần khó hiểu, thay đổi thất thường. Một lần nữa, nhà văn so sánh dòng sông với
con người, khéo léo lồng ghép tình cảm, thần sắc, tâm trạng. Nếu như ở tác phẩm
"Ai đặt tên cho dòng sông", Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện hình ảnh sông Hương
thay đổi sắc nước theo ngày "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím" thì đến với tác phẩm
này, Nguyễn Tuân lại phát hiện vẻ đẹp độc đáo của sông Đà. Mỗi sông mang một
vẻ đẹp riêng, song đều là biểu tượng cho vẻ đẹp phong phú của thiên nhiên sông
nước Việt Nam. Đặc biệt, nhà văn khẳng định con sông chưa bao giờ có màu đen
như bọn thực dân Pháp "đè ngừa con sông ta ra đổ mực Tây vào và gọi bằng cái
tên láo lếu" sông Đen. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những so sánh độc
đáo sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng, từ đó nhà văn bày tỏ sự tự hào, tôn
vinh vẻ đẹp xứ sở: dòng sông mỗi mùa đều mang vẻ đẹp quyến rũ và tình tứ đặc
biệt. Qua đây, ta có thể thấy được vốn hiểu biết sâu rộng cùng khả năng quan sát
tinh tế cũng như tài năng hiếm có của Nguyễn Tuân trong nền văn học hiện đại
Việt Nam cùng tình yêu mà ông dành cho sông Đà nói riêng và Tây Bắc nói chung.

b.
Xuyên suốt đoạn văn, Nguyễn Tuân đã khắc họa bức tranh thiên nhiên sông Đà
bằng những nét chấm phá đầy màu sắc, khiến nó trở thành sản phẩm tuyệt mỹ của
tạo hóa. Và ông quan sát nó ở nhiều phương diện và góc độ khác nhau. Lúc thì ông
nhìn con sông từ trên cao, lúc lại nhìn qua đám mây mùa thu. Ở mỗi góc nhìn khác
nhau, nhà văn lại có những liên tưởng hết sức thú vị. Màu nước của con sông ở đây
được miêu tả thật tinh tế: "Trước mặt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu
gương vào mắt mình rồi hỏ chạy". Một trò chơi trẻ con ùa về trong kí ức, nước
sông Đà như một tấm gương phản chiếu, lóe ánh sáng vào mặt mình. Nếu như
nước sông Hương trong "Ai đặt tên cho dòng sông" được Hoàng Phủ Ngọc Tường
miêu tả qua sự thay đổi màu sắc xuyên suốt bốn mùa thì Nguyễn Tuân chỉ dùng
đúng một từ láy "loang loáng" để gợi tả màu nước sông Đà vừa trong sáng, vừa
mang vẻ đẹp hồn nhiên, tinh nghịch như trẻ thơ. Màu nước sông Đà phản chiếu
màu nắng vàng rực rỡ từ trên cao xuống mặt sông vẽ lên một tổng thể thật thi vị,
nên thơ. Phải chăng đó là “màu nắng tháng ba Đường thi”, xuôi thuyền về Dương
Châu giữa tháng ba mùa hoa khói, nhà văn gợi nhớ đến cây thơ của Lí Bạch: "Yên
hoa tam nguyệt há Dương Châu". Nhìn theo chiều sâu của bức tranh thiên nhiên,
hai bên bờ sông mênh mang, trải dài trong cái nắng giòn tan với đầy những chuồn
chuồn bươm bướm: "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông
Đà”. Câu văn ngắt nhịp ngắn, như tiếng reo vui trong lòng nhà thơ trước món quà
tuyệt mỹ về thiên nhiên đầy sức sống mà thiên nhiên ban tặng. Ông không tham
lam các chi tiết mà chỉ chọn lựa vài chi tiết rất đẹp, rất đặc sắc mà toát lên tất cả
thần thái của bức tranh. Một bức tranh trong trẻo tinh khiết như một khu vườn cổ
tích tuổi thơ. Miêu tả sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã có những trang văn tuyệt
bút. Đó là thứ văn xuôi đầy chất thơ, giàu chất nhạc học và chạm khắc tạo hình.
Văn của Nguyễn Tuân đúng là những giọt maatjx mật của con omg yêu hoa, cần
mẫn và sáng tạo, đem thơm thảo cho đời.
Nhà văn không chỉ vẽ lên một tuyệt tác nghệ thuật sông Đà bằng những điểm nhìn
tinh tế mà còn bằng cả cái tình, cái cảm xúc chân thực của người đi rừng lâu ngày
về lại bên dòng sông: "Chao ôi, trông con sông, vui ngưu thấy nắng giòn tan sau kì
mưa dầm vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Hai tiếng "Chao ôi" như lột tả cảm
xúc hết sức vui mừng, xúc động của ông. Có thể nói, câu văn là một đặc sắc nghệ
thuật, là điểm nhấn của toàn bộ tác phẩm, vừa chân thực, sống động lại vừa khéo
léo bộc lộ cảm xúc sung sướng của tác giả. Phải yêu thiên nhiên tha thiết, nồng nàn
như thế nào thì nhà văn mới có những cảm xúc tự nhiên đến vậy? Không chỉ có
thế, nhà văn còn cảm nhận sông Đà dịu dàng "như một cố nhân" và thể hiện bằng
nỗi nhớ của cố nhân, gặp thì vui mừng xa thì nhung nhớ. Người cố nhân ấy là
người bạn tri kỉ, thân thiết, dẫu đôi lúc có gắt gỏng, "lắm bệnh lắm chứng", khó
chiều nhưng trân quý vô cùng. Sông Đà như một người bạn gắn kết với Nguyễn
Tuân, gợi về một thời xưa cũ, để rồi dù có đi bao lâu, bao xa thì khi trở về, ông vẫn
nhận ra cái chất "đằm đắm ấm ấm" thân thuộc và gần gũi ấy. Những cảm xúc tha
thiết đối với người bạn tri kỉ - sông Đà là ẩn dụ cho tình yêu, sự gắn bó mãnh liệt,
cháy bỏng của ông dành cho quê hương, đất nước mình.

3. Đánh giá

Dòng sông Đà được tác giả khắc hoạ rất rõ nét bằng nhiều vận dụng nghệ thuật độc
đáo: So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, động từ mạnh…, cùng khả năng liên tưởng, sáng
tạo mới mẻ, ông đã viết lên những câu văn thật giàu nhịp điệu, sống động. Dưới
ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ cùng nghệ thuật viết tùy bút bậc thầy, bức tranh
sông nước Đà giang được hiện lên trước mắt người đọc hết sức đẹp đẽ. Nghệ thuật
tả cảnh trữ tình, hình tượng độc đáo, ngôn ngữ sống động kết hợp với những nét
thơ mộng hòa quyện trong chất Đường thi, bằng những nét chấm phá tinh tế được
tổng hợp trên nhiều vốn tri thức, vốn văn hóa từ nhiều lĩnh vực khác nhau trong
đời sống cùng những hình ảnh so sánh liên tưởng, sông Đà hiện lên qua những
trang văn của Nguyễn Tuân không chỉ thuần túy là thiên nhiên mà còn là sản phẩm
nghệ thuật vô giá. Sự hài hòa trong cảnh vật thiên nhiên đã tạo nên vẻ đẹp của núi
rừng Tây Bắc. Qua đây, nhà văn Nguyễn Tuân cũng bộc lộ tình yêu đất nước, niềm
tự hào hứng khởi, sự say đắm trước thiên nhiên, non sông Việt Nam.

III. Kết bài


Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” còn chính là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Đọc tác phẩm người ta
càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn của Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp
đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác phẩm đặc sắc này không chỉ có vẻ đẹp kì vĩ
thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà còn đan xen vẻ đẹp trữ tình, nên thơ, nhẹ
nhàng như chốn bồng lai. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân cũng kín đáo thể hiện tình
yêu đất nước tha thiết, niềm tự hào, say mê vẻ đẹp thiên nhiên xứ sở mình. Đọc tác
phẩm, ta thấy được sông Đà quả thật là quà tặng của thiên nhiên:
"Ôi những dòng sống bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát - khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi".

You might also like