You are on page 1of 7

ĐỀ CƯƠNG BÀI AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?

(HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG)

1. MỞ BÀI (HS tự làm, tham khảo 2 mở bài sau:)


MB 1: Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút ký. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng
hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý,…Tất cả được thể hiện qua lối hành văn
hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Sáng tác của ông gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, con
người, đặc biệt là văn hóa Huế: Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bút ký hay nhất của nhà văn viết về
xứ Huế thơ mộng và con sông Hương xinh đẹp. Trong những dòng văn lai láng chất thơ chất họa về dòng
sông ấy, đoạn trích sau là tiêu biểu hơn cả: (TRÍCH VĂN BẢN )

MB 2: Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương và để nhớ
như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, ai rồi cũng có
một dòng sông “để thương và để nhớ” nhưng nỗi nhớ mang theo ở mỗi người lại một vẻ. Với Nguyễn Tuân,
dòng sông mang theo là Đà giang hung bạo mà trữ tình, Tế Hanh nhớ “con sông xanh biếc”, Hoài Vũ mênh
mang phù sa Vàm Cỏ, Quang Dũng nào quên “khúc độc hành” của dòng sông Mã yêu thương…thì Hoàng
Phủ Ngọc Tường lại cùng nàng Hương tương tư với kinh thành Huế qua tuỳ bút “Ai đã đặt tên cho dòng
sông”. Với sự hiểu biết sâu sắc về Huế, về thuỷ trình của sông Hương kết hợp văn phong khoa học, chất trí
tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều – Hoàng Phủ Ngọc Tường quả thực đã mang
đến những xúc cảm nồng nàn về Hương giang – dòng sông của thơ ca. Tất cả những giá trị đặc sắc ấy đã
được nhà văn tập trung sâu sắc qua đoạn trích: (TRÍCH VĂN BẢN)

2. THÂN BÀI

          Là nhà văn gốc Quảng Trị nhưng trưởng thành ở Huế, gắn bó với Huế và đã hơn nửa cuộc đời sống
bên cạnh dòng sông Hương trước khi viết tuỳ bút này. Nên hơn ai hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường rất am hiểu
Hương giang. Sông Hương với ông cũng như một người tình mà suốt cả cuộc đời ông trăn trở đi tìm và lý
giải cội nguồn tên gọi. Tuỳ bút này được nhà văn viết tại Huế năm 1981, in trong tập cùng tên. Đoạn trích
trên là đoạn nằm ở phần đầu của bài kí viết về vẻ đẹp của dòng Hương vùng thượng nguồn (hay vùng đồng
bằng, ngoại ô; hoặc trong lonh2 thành phố; khi rời xa thành phố…)

2.1. Sông Hương vùng thượng nguồn (ĐỀ 1)

- Mở đầu đoạn trích tác giả khẳng định: “trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói
đến hình như chỉ Sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Trong lời mở đầu nồng nàn ấy, tác
giả đã đặt vị trí của sông Hương ngang bằng với những “dòng sông đẹp” của thế giới – nhưng trên hết
tác giả khẳng định rằng “chỉ Sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Lời khẳng định ấy cũng
chính là niềm tự hào của tác giả về dòng sông quê hương – dòng sông thi ca đất mẹ.

- Sau lời khẳng định ấy, tác giả đã nhân cách hóa, sử dụng bút pháp miêu tả kết hợp nhiều động từ mạnh
làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương ở đại ngàn. Sông Hương ở thượng nguồn có mối quan hệ sâu sắc với
dãy Trường Sơn. Bằng vốn am hiểu địa lý, cấu trúc lãnh thổ cũng như am hiểu địa hình, tác giả đã làm hiện
lên thật sống động hình ảnh của sông Hương ở rừng già, Nó được so sánh là“một bản trường ca của rừng
già, rầm rộ giữa bóng cây đại, ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy
vực bí ẩn và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ
quyên rừng”.  Câu văn kéo dài được ngăn cách bởi những dấu phẩy tạo thành kiểu câu phức trùng điệp.
Sông Hương qua những câu văn ấy thật đẹp. Hai nét tính cách hùng vĩ và thơ mộng đan cài dệt nên chất thơ,
chất hùng của dòng sông mang tên một người con gái. Chỉ mấy lời văn mà tác giả đã huy động một loạt tính
từ, động từ, phép so sánh, nhân cách hóa… làm dòng sông trở nên sinh động, có hồn cốt: tác giả gọi Sông
Hương là “bản trường ca”, “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, “bí ẩn”… nhưng đằng sau nét dữ dội
hùng vĩ ấy chính là một sông Hương thơ mộng trữ tình với mái tóc thướt tha, kiều diễm, bung nở  “giữa
những dặm dài” và  “cài lên màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” làm náo nức lòng người.

-  Trong cái nhìn của nhà văn, Sông Hương hiện lên như một “cô gái Di gan phóng khoáng và man dại”.
Dòng chảy ấy được tác giả so sánh ví von như một điệu múa của cô gái Di gan, một vũ khúc giữa rừng già.
Sông Hương không chỉ có ngoại hình “phóng khoáng và man dại” mà còn hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn và trí
tuệ. Trường Sơn và sông Hương có mối tình “nửa cuộc đời” khăng khít, bền chặt. Chính vì có nửa đời gắn
bó với Trường Sơn mà sông Hương đã được đại ngàn ban cho “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và
trong sáng”. Cũng chính rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng của người con gái để khi ra khỏi rừng già
Trường Sơn, sông Hương nhanh chóng mang một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa
của một vùng văn hoá xứ sở”. Ngòi bút giàu chất thơ lai láng của Hoàng Phủ Ngọc Tường quả có sức ru
lòng người. Nếu trước đó sông Hương hiện lên với những từ ngữ góc cạnh, dữ dội “cuộn xoáy, mãnh liệt,
rầm rộ” làm toát lên nét linh thiêng, hùng vĩ của dòng chảy thượng nguồn, thì ở đây nhiều tính từ mĩ miều đã
xuất hiện để nhân hoá, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn trời phú của Hương giang: “dịu dàng, trí tuệ, người mẹ phù
sa”…Khi ra khỏi Trường Sơn, dòng sông đã “đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang
đá dưới chân núi Kim Phụng”, khoá chặt tâm hồn thẳm sâu của mình “không muốn bộc lộ” và tiếp tục cuộc
hành trình đi tìm “người tình mong đợi”. Tác giả thêm cái tôi của mình vào để bàn luận: “nếu chỉ mải mê
ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông
Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua”. Lời trữ tình ngoại đề toát lên vốn am hiểu sâu
sắc thuỷ trình của dòng sông thơ mộng. Dòng sông mang tính cách của một người mẹ vất vả, gian truân mà
khiêm nhường như con người xứ Huế. Nó bồi đắp phù sa cho văn hoá Huế mà không muốn kể công, không
cần người ta phải ghi công. Đó chính là phát hiện mới mẻ, tinh tế của 1 ngòi bút tài hoa, là sự trải nghiệm
của 1 người lính đã từng đi chiến đấu, len lỏi giữa những cách rừng đại ngàn Trường Sơn. Nhà văn đã trân
trọng ghi nhận công ơn của người mẹ Hương giang, đã đem đến cho người đọc những góc nhìn mới mẻ về
dòng sông này mà người ta không nhận ra nếu như chỉ “đến với Huế mộng mơ”.

2.2. Sông Hương vùng đồng bằng và ngoại ô (ĐỀ 2)

- Từ đây ngòi bút của nhà văn tiếp tục theo dòng Hương xuôi dòng về Châu Hoá – cánh đồng phù sa bãi bồi
và đầy hoa dại. Sông Hương được tác giả ví von như một “người gái đẹp”: “phải nhiều thế kỷ qua đi, người
tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Hình
ảnh được nhân cách hóa, liên tưởng thú vị tới truyện cổ tích “Nàng công chúa ngủ trong rừng”. Hai chữ “mơ
màng” gợi tả hình ảnh một giấc ngủ đẹp và đầy quyến rũ của dòng sông, dòng sông như tỉnh như mơ, như
thực như mộng. Hình ảnh cánh đồng hoa dại gợi tả một không gian trong trẻo, thơ mộng nhuốm màu cổ tích.
Chỉ một câu văn ngắn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm toát lên vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của dòng sông,
để từ đó, ngòi bút của nhà văn cuốn hút người đọc vào thuỷ trình đầy mê hoặc của Hương giang. 

- Dưới góc nhìn địa lý, hội họa, sông Hương hiện lên với dòng chảy quanh co:

“sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những
đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức”. Câu văn mềm mại, uyển chuyển biết bao. Sông
Hương sau vài thế kỷ ngủ quên giữa cánh đồng Châu Hóa đã được người tình mong đợi đến đánh thức,
nhưng đánh thức rồi người tình không biết đã đi đâu, nên nàng ngơ ngác đi tìm, vô tình cuộc tìm kiếm ấy đã
làm cho dòng sông càng trở nên đẹp đẽ. Những từ ngữ như “khúc quanh đột ngột”, “uốn mình”, “đường
cong thật mềm” cùng với phép so sánh “như một cuộc tìm kiếm có ý thức” đã gợi ra hình ảnh dòng sông
mềm mại, nữ tính, gợi cảm, quyến rũ. Nét đẹp ấy cũng khiến ta liên tưởng đến nét “ngoằn ngoèo”, hay “áng
tóc trữ tình” tuôn dài, tuôn dài của sông Đà dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân. Càng cho ta thêm một
nét cảm nhận về vẻ đẹp thiên nhiên bao la của đất nước mà thêm trân quý những vẻ đẹp của non sông đất
nước mình.
-Không chỉ dừng lại ở đó, men theo thủy trình của dòng sông, men theo đường cong mềm mại, thướt tha ấy
của cô gái Hương giang nhà văn còn phát hiện ra: “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua
điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương
Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về
Huế”. Câu văn sử dụng phép liệt kê: điện Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ…
mang đến cho người đọc những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của xứ Huế cũng như vốn hiểu biết sâu rộng,
kiến thức địa lý phong phú của nhà văn. Tác giả sử dụng nhiều động từ chỉ đường nét khiến ta hình dung về
dòng chảy trữ tình của con sông thật sống động: “vấp – chuyển hướng – vòng qua – vẽ một hình cung – ôm
lấy – xuôi dần…”. Hệ thống động từ đặc tả dòng chảy ấy làm sông Hương hiện lên chân thực, sắc nét, có
hồn như một sinh thể sống động và giàu sức sống.

 - Quan sát ở điểm nhìn gần hơn: “từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt
qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”. Đi trong “dư vang” là đi
trong âm vang, trong sự vang vọng của đại ngàn Trường Sơn. Dòng chảy ấy dù uốn quanh, lượn vòng nhưng
lưu tốc vẫn còn mạnh mẽ. Hai chữ “vượt qua” gợi hành trình nhọc nhằn, gian truân; và sắc nước “xanh
thẳm” là phần thưởng xứng đáng có được sau hành trình nhọc nhằn ấy. Để khi về đến những Vọng Cảnh,
Tam Thai, Lựu Bảo, dòng sông đã phần nào được kiềm chế sức mạnh. Bản quyền của thầy Phan Danh Hiếu.
Từ đây chỉ còn sắc nước xanh thẳm, hiền hoà. Sắc xanh thẳm của nước hoà vào bóng dáng hùng vĩ của “hai
dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” tạo
nên bức hoạ đồ mà ca dao người Huế từng ngợi ca: “Đường vô xứ Huế loanh quanh – Non xanh nước biếc
như tranh hoạ đồ”. Sắc nước hòa vào sắc núi, sắc đồi và ánh chiếu lên bầu trời Tây Nam thành phố sắc màu
lộng lẫy như đóa hoa phù dung mà chỉ riêng Huế mới có: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Cái sắc màu
không trộn lẫn ấy có lần cũng đã thổn thức trong thơ của Đoàn Thạch Biền:

Đã bốn lần đến Huế

Vẫn lạ như lần đầu

Sông Hương lơ đãng chảy

Nắng tím vướng chân cầu

 Đoạn tả sông Hương thay đổi dòng chảy chỉ có bốn câu văn, bốn câu dài miên man với những từ ngữ
đẹp đã tạo ra một bức họa sơn thủy tuyệt đẹp. Người đọc không khỏi tấm tắc ngợi ca cái tài hoa của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi chỉ một cái vẩy bút mà ông đã tạo nên cái chất “thi trung hữu họa”
hiếm thấy với bất cứ tác giả nào viết về sông Hương. Chợt nhớ tới nhà phê bình văn học Lê -ô- nít
Lê- ô- nốp của nước Nga hùng vĩ với câu nhận định: “Có hai kiểu nhà văn thường gặp, kiểu nhà văn
phóng bút tạo nên những hình tượng góc cạnh, thô mộc; có kiểu nhà văn chỉ vẩy nhẹ ngòi bút mà
hình tượng nghệ thuật đã sống động, đẹp đẽ hơn cả cảnh thần tiên”. Vậy chắc ở đây Hoàng Phủ
Ngọc Tường là kiểu nhà văn thứ hai – một kiểu nhà văn chỉ cần vẩy bút là đã dệt nên thảm lụa ngôn
từ mà điểm tô cho hình tượng nghệ thuật.
- Đoạn trích khép lại bằng hai câu văn miêu tả sông Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lý, như
cổ thi”.  Khi chảy qua miền lăng tẩm đền đài – nơi yên nghỉ của các triều vua, sông Hương như trầm
mặc hẳn đi, bởi nàng đang đi qua một “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín
trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp
cả một vùng thượng lưu: “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn
Niên”. Các từ ngữ như “u tịch”, “âm u”, “thiên cổ”, “vạn niên” gợi không khí cổ kính và cũng như
phần nào giải thích cho vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương. Nhà văn khẳng định: “Đó là vẻ đẹp trầm
mặc nhất của sông Hương, như triết lý, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó
gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát
tiếng gà…”. “Trầm mặc” là vẻ đẹp trầm tư, gợi ra cảm giác im lìm, dáng đứng thâm nghiêm sâu
lắng, mang nặng nỗi niềm tâm sự, hoài niệm quá khứ. Nét đẹp ấy làm cho đất trời, con người cũng
thấy nặng lòng. So sánh với “triết lý”, triết lý là sự trải nghiệm, là chân lý; “Cổ thi” là vẻ đẹp cổ
kính, giàu chất thơ, chất họa. Dòng sông như hội tụ đầy đủ dấu ấn của triết học, thi ca, nhạc họa. Đây
cũng chính là cái tôi tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hai chữ “phẳng lặng” gợi hình ảnh mặt
nước trong trẻo, yên bình, không gợn sóng. Hai chữ “ngân nga” gợi âm thanh ngân vang, luyến láy,
như kéo dài ra mênh mang trong cõi vô thường. Từ láy “bát ngát” đặt giữa “những xóm làng trung
du bát ngát tiếng gà” gợi ra không gian bao la mang vẻ đẹp bình dị, hiền hòa, lắng đọng như đưa
người đọc trôi mênh mang vào một cõi ảo huyền đến nỗi thèm một cái giật mình để dứt ra khỏi cảm
giác ấy mà không được, cho đến khi bừng tỉnh bởi tiếng chuông chùa Thiên Mụ.  “Cái hư vô tịch
mịch của tiếng chuông chùa hòa quyện với chất thơ ấm áp của tiếng gà nơi thôn dã đã đưa dòng sông
trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, như thực, như mơ”.
2.3. Sông Hương giữa lòng thành phố Huế (ĐỀ 3)

-   Không còn vẻ trầm mặc cổ thi, không còn những tiết tấu hùng tráng, không còn những đường cong
gợi cảm, sông Hương ở quãng này được tác giả cảm nhận với sắc màu hội họa, sắc màu văn hoá gắn
bó với kinh thành Huế. Bằng ngòi bút hoa mỹ của một cái tôi tài hoa, tác giả đã cảm nhận sông
Hương dưới góc nhìn hội hoạ với sự thay đổi của dòng chảy và tâm trạng của cô gái Hương Giang
giàu xúc cảm. Chính tiếng chuông chùa Thiên Mụ đánh thức dòng chảy đưa dòng sông từ dáng vẻ
trầm mặc đột khởi thành niềm vui. Bởi thế mở đầu đoạn trích là hình ảnh dòng sông có tâm trạng
“vui tươi hẳn lên”. Nó đã nhìn thấy “chiếc cầu trắng in ngấn lên nền trời nhỏ nhắn như những vành
trăng non”, và chợt nhận ra đó chính là tín hiệu của người tình nhân mong đợi. Trước mắt người đọc
bỗng hiê ̣n ra bức tranh phong cảnh kinh thành Huế với sắc màu tươi tắn mà thanh thoát, nhẹ nhàng.
Phải chăng chính cuô ̣c tình đẹp đã làm cho  khung cảnh gă ̣p gỡ của lứa đôi cũng thâ ̣t nên thơ.  Bởi
thế dòng chảy của nàng Hương cũng  trở nên “thẳng thực yên tâm” chảy nhanh hơn để gặp người
tình. Con sông vì thế mà như bỗng có hồn, có tâm trạng, con sông mang cái náo nức, rạo rực, nôn
nao, khao khát của mô ̣t cô gái chuẩn bị gă ̣p người mình yêu. Và thế là “nàng công chúa ngủ trong
rừng” đã sắp được gặp chàng hoàng tử ngàn năm mong chờ. Thấy mình đã “tìm đúng đường về”
sông  Hương như “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”.
Phép nhân hoá kết hợp với miêu tả trong những câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường làm dòng sông
hiện lên thật sống động và gợi cảm biết bao.

- Đoạn văn tiếp theo, tác giả mang đến ấn tượng thật sâu đậm về hình ảnh của Hương giang đoạn chảy
qua thành phố Huế. Nếu như trước đó, dòng sông chảy thật nhanh, trong nỗi niềm háo hức thì ở đoạn
này sông Hương lại mang một tâm trạng khác, một nét tâm lý khác: “Giáp thành phố ở cồn Giã
Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến; đường cong ấy làm dòng sông như
mềm hẳn đi như một tiếng “Vâng” không nói ra của tình yêu”. Phép so sánh mới lạ, độc đáo; cái
hữu hình so sánh với tâm trạng nên lột tả được cái e thẹn, ngượng ngùng, xấu hổ của người con gái
Hương Giang. Ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường thâ ̣t lãng mạn, tài hoa biết bao trong những câu
văn đậm chất hội hoạ và am hiểu tâm lý như thế. Qua ngòi bút tài hoa, tinh tế ấy của nhà văn, sông
Hương hiện lên như một thiếu nữ Huế. Trong niềm vui hân hoan của hô ̣i ngô ̣ mà phải đến “hàng thế
kỷ qua đi” nàng mới được gặp người mình yêu, nhưng nàng vẫn không đánh mất vẻ dịu dàng, e lê ̣,
tình tứ vốn có của mình.
- Bằng phép so sánh và cái nhìn hướng ngoại, nhà văn đã mở rộng tầm nhìn  tới những dòng sông đẹp
của thế giới. Đó là những dòng sông nổi tiếng đã đi vào thi ca, nhạc hoạ như sông Xen của Pari, sông
Đa-nuýp của Pu-đa-pét hay dòng sông Nê va hùng vĩ của nước Nga. Tiếp đến, là cái nhìn hướng nội,
tác giả lại quay về với sông Hương, quay về với dòng sông “nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý
của mình” và chợt nhận ra đoạn qua thành phố Huế mang vẻ đẹp không chỉ ngoại hình mà còn đẹp ở
tâm hồn thuỷ chung, chung tình với Huế. Nhà văn Nga Lê-ô-nit Lê-ô-nốp từng nói: “Mỗi tác phẩm
phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Thể tuỳ bút đầy ngẫu hứng có lúc
không thể kiềm chế được cảm xúc của nhà văn nhưng chính nó đã mang lại vẻ đẹp lộng lẫy của sông
Hương. Chính nhờ thể tuỳ bút mà nhà văn đã “khám phá” được gần như đầy đủ nhất tâm hồn sâu
thẳm của Hương giang. Với cái nhìn hoài cổ kết hợp với cảm nhận tình yêu, nhà văn đã thấu cảm
được phần hồn sâu lắng của con sông xinh đẹp. Từ góc nhìn tình yêu, nhà văn nhìn thấy giữa lòng
thành phố, sông Hương tỏa thành nhiều nhánh sông đào như những cánh tay mềm mại. Ở góc nhìn
hoài cổ, nhà văn lại thấy sông Hương mang nét đẹp cổ thi đầy lãng mạn với hình ảnh: “sông Hương
toả đi khắp phố thị, với những cây đa cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền
xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn
mô tê xưa cũ”. Những hình ảnh ấy làm sông Hương vừa gần gũi đời thường, vừa lại như xa xăm như
trong cõi mênh mang của cổ thi. Hình ảnh “xóm thuyền xúm xít”, “ánh lửa…lập loè”, “đêm sương”
lại gợi nhớ “trăng tà chiếc quạ kêu sương” trong bài thơ Đường nổi tiếng của Trương Kế. Nhưng
sông Hương qua thành phố Huế không chỉ mang những nét hội hoạ cổ thi như thế mà còn là một bản
nhạc, một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”.
- Gă ̣p gỡ người tình thủy chung, có lẽ ai cũng muốn thời gian trôi châ ̣m lại, ngừng lại. Sông Hương
cũng vâ ̣y, phải trải qua mô ̣t hành trình gian lao mới gă ̣p được người tình mong đợi nên dòng sông
dùng dằng không chảy, lă ̣ng lẽ như chờ đợi. Vì thế qua Huế, dòng chảy chùng hẳn xuống như “vấn
vương của một nỗi lòng”. Chính đảo cồn Hến đã làm giảm lưu tốc của dòng sông và tạo cho khuôn
mặt dòng sông cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh. Nhà văn đã quan sát tinh tế, bắt đúng thần thái,
không khí, linh hồn cố đô: sâu lắng, kín đáo, suy tư. Trong sự liên tưởng tới dòng chảy hùng vĩ của
sông Nê Va với hình ảnh giàu chất thơ: “sông Nê va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy
trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân” hay sự liên tưởng tới nhà triết học Hê –ra-clít đã
khóc suốt đời vì những dòng sông trôi qua quá nhanh. Nhà văn lại đưa ta trở lại sông Hương trong
nỗi nhớ da diết, chảy bỏng: “tôi lại nhớ con sông Hương của tôi”. Rõ ràng, dù có đi trăm phương
nghìn hướng thì cũng không nơi nào đẹp bằng quê hương, và cũng chẳng có dòng sông nào lại có thể
đẹp bằng dòng sông của quê nhà. Qua cái nhìn hướng ngoại, lại hướng nội, nhà văn càng thấy điệu
slow của sông Hương thật trữ tình. Điệu slow ấy gắn với văn hoá tâm linh của Huế: “có thể cảm
nhận bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh từ những đêm hội rằm tháng bảy từ
điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như
những vấn vương của một nỗi lòng”. Ngôn ngữ mượt mà, bóng bẩy, những tính từ, động từ mỹ miều
kết hợp phép so sánh trong câu văn trên như tả hết được nét đẹp lãng mạn mà giàu chất thơ, chất hoạ
của sông Hương làm cho điệu slow tình cảm ấy lại trở nên có linh hồn. Dòng chảy này không chỉ
xuất hiện trong cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường mà trong cái nhìn của nhà thơ mới Hàn Mặc
Tử, sông Hương cũng trở nên vương vấn:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

(Đây thôn Vĩ Dạ)

Hay trong cái nhìn của một nhà thơ kháng chiến:

Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

(Tạm biệt Huế – Thu Bồn)

- Chính điệu slow trữ tình như bản tình ca dành riêng cho Huế đã làm cho tấm chung tình của sông
Hương với Huế trở nên da diết, đắm say. Tình yêu với Huế của sông Hương cũng vì thế mà trở nên
rất đỗi sâu nặng. – Sông Hương – người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya. Ngắm nhìn Huế qua điệu slow trữ tình của dòng sông cùng với trăm ngàn
ánh hoa đăng bồng bềnh, nhà văn như phát hiện ra điều kỳ thú nhất: sông Hương chính là dòng sông
gắn liền với văn hoá Huế. Quả thực vậy, sông Hương trước hết gắn liền với nền âm nhạc cổ điển
Huế. Bằng sự lãng mạn trữ tình vốn có của một nhà văn đã gắn bó lâu năm với kinh thành Huế,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông một cách đắm say và nhận ra, Hương giang giống như
một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Câu văn nhân cách hoá, liên tưởng độc đáo, sáng tạo,
tài hoa biết bao. Sông Hương hiện lên như một người nghệ sĩ với bản đàn sông nước. Nàng đẹp yêu
kiều, diễm lệ; kiêu sa mà đằm thắm dịu dàng. Người tài nữ ấy đã đánh thức Huế bởi những bản đàn,
đánh thức đêm kinh thành bằng lời ca và tiếng hát. Chính không gian sông nước ấy là nơi khơi nguồn
cảm hứng để: “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”.
Liên tưởng tới việc nghe ca Huế giữa ban ngày, hay trên sân khấu nhà hát, nhà văn đã bày tỏ sự thất
vọng của mình vì muốn hiểu được nhạc Huế, ca Huế thì phải nghe chính nó trên chính dòng sông đã
sinh ra nó. Trong sự so sánh ấy, nhà văn lại tiếp tục đưa ta vào đêm Huế để lắng đọng cùng với âm
nhạc của xứ sở này. Với vốn am hiểu sâu sắc về âm nhạc cổ điển Huế, tác giả đã có một cảm nhận
hết sức tinh tế: “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của một mái chèo
khuya”. Đó là câu văn viết theo lối liên tưởng với cảm nhận âm nhạc. Phải là người có độ thẩm âm
cao mới phát hiện ra và có sự so sánh độc đáo đến vậy. “Tiếng nước rơi bán âm” là tiếng nước rơi
trong trẻo, gợi hình dung về một đêm khuya thanh vắng trên dòng sông Hương. Nơi đây, giữa bốn bề
kinh thành trầm mặc, nền âm nhạc đã ra đời. Trong sự liên tưởng phong phú, ngòi bút của Hoàng
Phủ Ngọc Tường có phần phóng khoáng, đôi chỗ tuỳ hứng. Ông liên tưởng đến Nguyễn Du “đã bao
năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời
Kiều”. Vậy là, sông Hương không chỉ là người tài nữ, sông Hương còn là nàng Kiều, hay sông
Hương cũng chính là dòng sông đã khơi nguồn thi ca để người nghệ sĩ Nguyễn Du hoàn thành kiệt
tác của đời mình. Cái tôi tài hoa và phóng khoáng ấy của nhà văn họ Hoàng còn phát hiện ra một
nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi đàn đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều của cụ
Nguyễn: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Khúc âm trong trẻo
như tiếng hạc bay qua, lúc lại đục như tiếng suối mới sa nửa vời, gợi nhớ đến “Tứ đại cảnh” – một
bản nhạc cổ Huế, tương truyền do vua Tự Đức sáng tác.

2.4. Sông Hương rời xa thành phố Huế (ĐỀ 4)

- Bằng ngòi bút nhân cách hoá, ở đoạn văn tiếp theo, tác giả hình dung sông Hương là cô gái lưu
luyến chia tay với nguời tình nhân để về với biển cả. Tuyệt bút nhất có lẽ là đoạn này khi tác giả
miêu tả chỗ đổi dòng đột ngột của sông Hương khi “rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành
phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Cảm giác lưu luyến với dòng sông của một trái tim
nặng lòng với Huế đã truyền tâm hồn cho dòng chảy của tự nhiên khiến con sông cứ như một người
tình của Huế vậy. Với điểm nhìn địa lý, hội hoạ, dưới ngòi bút tài hoa của họ Hoàng, sông Hương đã
bắt đầu ra đi khỏi kinh thành Huế: “Sông Hương chếch về hướng chính Bắc, ôm lấy đảo cồn Hến
quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc
của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ”. Những câu văn như mang linh hồn của
Huế; như diễn tả được thần thái của xứ Huế sương khói mộng mơ. Các từ ngữ “ôm lấy”, “xa dần”,
“lưu luyến” như tả được cái tình của dòng sông đối với quê hương xứ sở. Nếu khi chảy qua kinh
thành Huế, sông Hương trôi đi thực chậm, sông Hương tựa như “mặt hồ yên tĩnh”, có lúc “nửa như
muốn đi, nửa như muốn ở”. Đó là nỗi lưu luyến là vấn vương với người tình nhân. Thì nay khi đã ra
đi giữa màu xanh biếc của vùng ngoại ô Vĩ Dạ, sông Hương vẫn không muốn rời xa người tình.
Nàng “như sực nhớ ra điều gì” và rẽ ngoặt, quay về ôm Huế lần cuối ở góc phố Bao Vinh xưa cổ.

         - Với người Huế, nơi đây là nơi chia tay “dõi xa ngoài mười dặm trường đình”. Là nơi sông Hương sẽ
xuôi một dòng về với biển cả. Nên một lần đi là đi mãi, một lần chia xa là đến cả ngàn vạn dặm đường. Bởi
thế, khúc quanh ấy thật bất ngờ mà cũng thật tự nhiên biết bao nhiêu. Người Huế vốn sống nặng lòng, và
con sông Hương kia cũng vậy. Sông “giống như nàng Kiều trong đêm tình tự”, sông Hương đã chí tình trở
lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Khúc quanh đột ngột ấy làm Hoàng Phủ
Ngọc Tường bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở “nỗi vương vấn
và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Câu văn sử dụng phép nhân hoá kết hợp các tính từ bộc lộ cảm xúc
“vương vấn, lẳng lơ” khiến dòng sông hiện lên sống động, trữ tình. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mượn câu
Kiều để nói lên mối chung tình ấy: “Đã nguyền hai chữ đồng tâm/ Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai/
Còn non còn nước còn dài / Còn về còn nhớ đến người hôm nay”. Và người viết những dòng nhớ, dòng
thương, dòng luyến lưu tha thiết ấy đã kết luận: “Ấy là tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi
chung tình với quê hương xứ sở”. Sông Hương chung tình với kinh thành Huế như người dân Châu Hoá mãi
mãi yêu mảnh đất tình người của họ. Có thể nói, bằng phép nhân hoá, so sánh để lý giải địa hình nên tác giả
khoác cho dòng sông một tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn không nỡ rời xa lúc chia tay, để cảm nhận một
con sông thắm thiết chung tình. Đó là nét đẹp mềm mại trữ tình có linh hồn của con  sông.

2.5. Đoạn văn sau đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói về sông Hương và sự gắn bó của nó với lịch sử Huế,
lịch sử dân tộc. Cũng như vậy, ông cũng gắn bó sông Hương với “dòng sông thi ca”. Bài ký kết thúc
bằng huyền thoại đẹp về tên gọi của sông Hương để lý giải cho câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Đó là
huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế, vì yêu quý con sông Hương
xinh đẹp, nhân dân hai bên bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống cho dòng nước thơm tho mãi.

 3. Đánh giá nội dung và nghệ thuật

-“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một bút ký xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hành văn súc tích, giàu
chất thơ. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn trích là cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu
biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và
tài hoa.

  - Thành công của đoạn trích nói riêng và bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nói chung chính là nhờ vào
một số yếu tố nghệ thuật đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo:
Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ. Sử dụng nhiều phép tu từ như:
So sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp ngữ… Bài ký có sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức
địa lý, lịch sử, văn hoá nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân. Giọng văn nhẹ nhàng pha lẫn hoài
niệm làm bài ký toát lên nỗi niềm thương nhớ bâng khuâng. Tất cả đã hòa quyện lại dưới ngòi bút Hoàng
Phủ Ngọc Tường và chắp cánh, nâng đỡ cho ngòi bút tài hoa ấy thăng hoa cùng tác phẩm.

-Đoạn trích sử dụng bút pháp miêu tả, nhân cách hoá, so sánh, liên tưởng độc đáo. Ngôn ngữ vừa trí tuệ vừa
giàu chất thơ, chất hoạ. Giọng văn mượt mà, truyền cảm. Bài ký rất tiêu biểu cho phong cách của Hoàng
Phủ Ngọc Tường: kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư
đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa…

III. KẾT BÀI (HS tự làm, tham khảo 2 kết bài sau)

-KB1:Trích đoạn bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế
qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng
đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh
thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương
đất nước.
- KB2: Đoạn trích“ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã mang đến những phát hiện mới lạ và độc đáo của sông
Hương cho độc giả cả nước. Sông Hương đi vào trong trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường không vô tri
vô giác mà nó có cảm xúc, có tình yêu. Đoạn trích đã thể hiện được tình yêu quê hương, xứ sở nồng nàn của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, một “người tình” chung thuỷ và nặng lòng với Huế. Bài kí khép lại mà trong tôi
vẫn vang ngân ca từ da diết, khắc khoải của bài hát “Dòng sông ai đã đặt tên” do một cô ca sĩ người Huế
thường hay hát:

“Dòng sông ai đã đặt tên


Để người đi nhớ Huế không quên
Xa con sông mang bao nỗi nhớ
Người ở lại tháng năm đợi chờ”.

You might also like