You are on page 1of 12

VỢ NHẶT

A. Tác giả:
-Sự nghiệp:
+ Trước CM: Cầm bút sáng tác từ 1941, là nhà văn hiện thực,thường tập trung viết về đề tài nông thôn
VN tiêu điều,về cuộc sống vất vả lam lũ của người nông dân với sinh hoạt văn hóa lành mạnh.Qua đó
phát hiện vẻ đẹp của người nông dân nghèo, khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà chất phác, thông
minh, hoam hỉnh,tài hoa.
+ Sau Cm:trở thành nhà văn CM,tiếp tục viết về nông thôn VN,vẻ đẹp của người nông dân trong kháng
chiến.
-TP tiêu biểu: Làng,Vợ Nhặt,Đứa con người cô đầu,Con chó xấu xí
*Được mệnh danh là “con đẻ của đồng ruộng”
*Là nhà văn viết ít nhưng được khâm phụ.Có sang tác hay ở cả 2 giai đoạn.Nói như Nguyên Hồng,ông
là nhà văn một lòng đi về với “đất”,với “người” với “thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông
thôn”.
 Nhận xét cái nhìn mới mẻ về con người của nhà văn Kim Lân
- Nhà văn có cái nhìn xót xa, thương cảm và tin yêu về con người Việt Nam dưới ách thống trị của giai
cấp phong kiến và bọn thực dân phát xít trong nạn đói khủng khiếp Ất Dậu 1945. Tuy sống trong thân
phận rẻ rúng, hết sức bi đát, bị cái đói, cái chết bủa vây nhưng họ vẫn khao khát sống, khao khát yêu
thương và có niềm tin bất diệt vào tương lai sẽ được đổi đời. Kim Lân còn tìm thấy sức mạnh của tình
yêu trong thẳm sâu những con người bé nhỏ. Tràng lấy vợ, một câu chuyện dở khóc dở cười nhưng sau
sự kiện bi hài ấy, con người và thế giới của riêng Tràng thay đổi: vợ hiền thảo hơn, Tràng đã trưởng
thành nên người. Bà mẹ lần đầu tiên trên trán bớt đi đám mây u ám. Tình yêu thương đã khiến cho ba
con người nhỏ bé và mái ấm gia đình của họ không bị vùi xuống vực thẳm của sự chết chóc. Trong thời
khắc quyết định số phận, họ đã nương tựa, cưu mang, sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu.
- Các nhìn mới mẻ, lạc quan tin tưởng về con người cho thấy tài năng quan sát, miêu tả, dựng cảnh, đi
sâu khai thác diễn biến tâm trạng nhân vật rất hợp lí, chân thực, đặc biệt tạo tình huống truyện độc đáo,
bất ngờ, éo le và cảm động của nhà văn Kim Lân, góp phần làm bừng sáng giá trị nhân văn trong sáng
tác của nhà văn nông thôn được đánh giá xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại 1945-1975.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Là phương thức nghệ thuật nhằm khai thác những nét thuộc đặc tính
con người, các thành tố tạo nên nhân vật như: tinh thần, tư tưởng, cảm xúc, ý chí, hành động. Nhà văn
xây dựng nhân vật từ các yếu tố: cử chỉ, hành động, nội tâm, ngôn ngữ, tình huống
+Tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ kể giản dị, đời thường, mộc mạc nhưng sinh động, tinh tế kết
hợp nghệ thuật xây dựng nhân vật qua cử chỉ, hành động, đặc biệt nội tâm. Lựa chọn sự việc tinh tiết
tiêu biểu, chọn lọc. Mỗi một nhân vật được KL xây dựng bút pháp khác nhau, bà cụ Tứ và Tràng chú
trọng nội tâm nhưng cô nhặt thì bằng hành động, cử chỉ vì…
- Tình huống truyện: Là sự kiện, hoàn cảnh, tinh thế của câu chuyện. tình huống này chứa những mẫu
thuẫn, bất thường, thậm chí là nghịch cảnh trong cs của nhân vật. Qua đó nhà văn thể hiện tư tưởng, ý
đồ. Tình huống trong truyện ngắn được ví “là lát cắtt trên thân cây cổ thụ mà qua đó thấy được trăm
năm của đời thảo mộc”
B. Tác phẩm
Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy
1
(30 năm đời ta có Đảng-Tố Hữu)
Một đời vốn liếng mẹ trao
Cho con tất cả mẹ nào giữ riêng
(Vô danh)
Và ánh sáng vào lúc hoàng hôn
Xin cứ tỏa trên mái nhà của mẹ
(Thư gửi mẹ,ê-xê-nhin)
“Trên thế gian vị thần đẹp chẳng có vị thần nào đẹp bằng thần mặt trời, chẳng có ngọn lửa nào kì diệu
hơn ngọn lửa tình yêu” (Vô danh)
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
(mùa xuân nho nhỏ)
“chòng chành nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng”
“đời ta gương vỡ lại lành
Như cây khô lại đâm cành nở hoa”
(Tố Hữu)
Gió bay đi, mà nhạc cũng bay theo
Đưa tin mới khắp trên trời nước Việt
Hỏa cỏ đón, mà núi sông cũng biết
Cờ VN oanh liệt gió mừng bay
( Ngọn quốc kỳ- Xuân Diệu)
Nền cờ thắm màu đào vì đất nước
Sao vàng tươi da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sĩ-nông-thương-binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh
-Lưu ý:
-Nạn đói qua tp: các chi tiết, mở rộng, đưa vào trong bài viết
-Nắm được các nhân vật: cuộc đời, ngoại hình, sụ thay đổi, đặc biệt ý nghĩa, nghệ thuật
-Nắm được các đoạn trích: Nội dung, nhân vật, hành động tâm trạng, sự thay đổi, ý nghĩa nhân
vật, đoạn trích, nghệ thuật. Lưu ý tóm tắt phần trước, bám sát phần đoạn trích, so sánh nhân vật
với phần trước.
-Cô vợ nhặt: Nạn nhân nạn đói, khát vọng sống, sức mạnh của tình yêu thương.
-Tràng: Khát vọng sống, ý nghĩa của khát vọng sống, hạnh phúc, niềm tin của tác giả vào tương lai tươi
sáng
-cụ Tứ: Nạn nhân nạn đói, số phận đau khổ; tình yêu thương con, lòng nhân hậu, đức hi sinh; tinh thần
lạc quan
Đề 2: Hình tượng bà cụ Tứ trong đoạn trích: Bữa cơm ngày đói..
Đề 3: Cảm nhận đoạn trích” Bữa cơm..
Đề 1:Cảm nhận hình tượng bà cụ Tứ trong đoạn trích:
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai …

2
- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này.
Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy.Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...
Mở bài: Bà cụ Tứ trong đoạn trích- khi anh Tràng giới thiệu với bà về cô vợ: bà cúi…
-Kl: phong cách nghệ thuật, 2-3 tp
Thân bài:
1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích: Xuất xứ, hoàn cảnh, vị trí đoạn trích
Vợ nhặt được xem là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ
cư được viết ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, lấy bối cảnh nạn đói năm Ât Dậu (1945)
nhưng bị bỏ dở và mất bản thảo. Mãi đến sau khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần
cốt truyện cũ và viết truyện ngắn này.Tp được in trong tập truyện Con chó xấu xí
- Vị trí, nội dung đoạn trích: thuộc phần cuối của truyện, diễn tả tâm trạng của của bà cụ Tứ khi
anh Tràng, con trai bà đưa người vợ nhặt về nhà.Trong câu chuyện, nhân vật Bà cụ Tứ xuất hiện khá
muộn, ở gần cuối tp, khi anh Tràng, con trai bà, giữa lúc bóng đêm nạn đói bao trùm lên cuộc sống anh
Tràng đã “ nhăt” được một cô vợ. Đây thực sự là một tình cảnh éo le với bà Tứ, con trai lấy vợ giữã
lúc nạn đói quay quắt chờ chực cướp đi tính mạng của con người, lúc này thêm người là thêm một
miếng ăn, một nỗi lo. Hơn thế bà cụ Tứ là mẹ nhưng lại không hề hay biết việc con mình đã có vợ. Bà
cụ trở về nhà trong bóng chiều và không hay biết một tình cảnh éo le, nhiều âu lo đang chờ mình phía
trước. Những thắc mắc, ngạc nhiên của bà cụ Tứ về một người đàn bà chào mình bằng u, lại đứng ở
đầu giường con trai mình, nhanh chóng được anh Tràng giải đáp bằng lời giới thiệu:”nhà tôi nó về làm
bạn với tối đấy u ạ!”. Lời giới thiệu của anh Tràng thật bất ngờ đột ngột, tuy nó giải tỏa thắc mắc trong
lòng bà nhưng nó khiến lòng người mẹ diễn ra bao tâm tư rối bời, ngổn ngang. Và rồi để qua những
diễn biến tâm trạng, qua những ứng xử với người con dâu xa lạ của bà cụ Tứ, nhà văn KL đã gửi gắm
đến chúng ta những thông điệp sâu sắc về cuộc đời về vẻ đẹp và ý nghĩa đích thực của hạnh phúc, tình
yêu thương, tinh thần lạc quan.
2. Hình tượng bà cụ Tứ qua đoạn trích
a. Một người mẹ nông dân nghèo khổ, bất hạnh, là nạn nhân của nạn đói
Qua đoạn trích, trước hết bà cụ Tứ hiện với một số phận nghèo khổ, bất hạnh, là nạn nhân đáng
thương của nạn đói, có thể nói số phận của bà cụ Tứ là số phận tiêu biểu, đại diện cho những kiếp đời
đau khổ của người lao động trên đất nước ta trong nạn đói năm 1945. Cuộc đời dài dằng dặc của bà cụ
Tứ chỉ toàn là chuyện buồn, suốt một đời trong cảnh nghèo đói, góa bụa, bà Tứ ở với anh con trai làm
kéo xe bò thuê, trong một ngôi nhà như một túp lều. Cái khổ cực suốt một đời người như đè nặng, in
dấu trong cái ngoại hình của bà Tứ: không mặt bủng beo u ám, dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run
rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già. Và hôm nay khi con trai
của bà có được vợ, ngày hạnh phúc của anh ấy và cũng là ngày vui của gia đình, những đau khổ, ai oán
vẫn chưa chịu buông tha bà. Ngày vui vủa con trai, người con trai duy nhất nhưng ta hãy xem tâm trạng
của người mẹ ấy chỉ toàn âu lo, buồn tủi, xót xa. Sau lời giới thiệu của anh Tràng về cô vợ, bà cụ Tứ
“cúi đầu nín lặng”,một cử chỉ nhưng diễn tả bao nỗi niềm.Đó là cái “nín lặng” của sự bất ngờ nhưng
trên hết là xót xa,lo âu,thương xót. Nếu anh Tràng vô tư vô lo tiếp nhận việc có vợ bằng sự phởn phơ,
vui sướng, đầy khát khao thì bà cụ Tứ tiếp nhận hạnh phúc của con mình bằng kinh nghiệm sống,bằng
sự trả giá của 1 chuồi đời nặng nhọc bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh. “Lòng người mẹ nghèo ấy
hiểu ra bao cơ sự,vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình.Chao ôi! Người ta dựng vợ gả
chồng là lúc trong nhà ăn nên làm nổi…này không?”.Chao ôi tiếng than nghe cháy ruột xót gan.Chừng
ấy năm sống trên đời đã mách bảo bà rằng mối duyên kiếp trớ trêu kia không nên có trong lúc này. Bà
hiểu rằng con mình lấy vợ lúc này là trái với qui luật của cuộc sống.Thông thường người ta phải

3
“Người ta dựng vợ gả chồng là lúc trong nhà ăn nên làm nổi” nghĩa là nhà phải có kinh tế vững chắc
thì cuộc sống đôi vợ chồng trẻ mới có tương lại tốt đẹp. Đằng này con bà lấy vợ giữa lúc nhà bà thì
nghèo khó mà “cái đói đã tràn đến xóm tự lúc nào.’. Hình ảnh “những gia đình từ vùng NĐ, TB đội
chiếu lũ lượt bồng bế...xanh xám như những bóng ma. Người chết như ngả rạ.ba bốn cái thây nằm còng
queo.Tiếng qua kêu từng hồi thê thiết” là một mình chứng khủng khiếp cho những mất mát của nhân
dân ta trong nạn đói. Bức tranh tình cảnh thê thảm, khốn cùng của nhân dân ta cũng đã được nhà thơ
TH sau này viết lại trong bài thơ “Ba mươi năm đời ta có Đảng:
Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy
+Và nó thật sự đã trở thành nỗi âu lo, ám ảnh, buồn tủi trong tâm trí bà cụ Tứ. Vì thế “Trong kẽ mắt
lèm nhèm chảy xuống 2 dòng nước mắt!”Thật xót xa cho người mẹ - ngày hạnh phúc của con mà chỉ
toàn khóc lóc, lo âu. Hiện thực tăm tối của nạn đói đã khiến con người phải tiếp nhận hạnh phúc bằng
đau khổ.
+Mặc dù sau giây phút âu lo lòng người người nông dân nghèo khổ ấy trỗi dậy biết bao tình thương
con, thương người nhân hậu để quyết định cưu mang, đón nhận người con dâu xa lạ nhưng cái bóng
đêm tăm tối của nạn đói, cuả hiện thực cứ theo đổi bám riết. Vừa dứt lời động viên các con” Biết thế
nào…về sau” Bà đã thấy” Bóng tối bao trùm…khét kẹt”. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết
hay bóng tối theo cả nghĩa vật lí, ẩn dụ kia đã trở thành một hiện thực, một sự thật mà con ngừi không
thể né tránh, nó khiến ngày vui của anh Tràng mà người mẹ khốn khổ chỉ biết đặt ra những câu hỏi lo
lắng, phập phồng:” Cuộc đời chúng nó liệu có hơn cuộc đời của bố mẹ chúng trước kia không”. Rồi lại
cố gượng giấu tâm tư, bà lại động viên, ân cần với các con.
+Và rồi lại chua xót, đau đớn khi nói đến sự thiệt thòi của các con: “Kể có ra làm...nhưng nhà mình
nghèo. Năm nay thì đói to…u thương quá” bà “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống
ròng ròng”. Một thời gian rất ngắn, chỉ để anh Tràng nói một câu và bà cụ Tứ nói dăm bà câu trong
ngày cô vợ về nhà mà người mẹ khốn khổ của chúng ta đã 2 lần khóc. Giọt nước mắt của đau khổ,
buồn tủi âu lo của cả tình thương vô bờ bến khiến ta thêm thương cảm với số phận của nhân vật bà cụ
Tứ, của bao kiếp đời nhân dân ta cơ cực, đau thương trong nạn đói.Giọt nước mắt thêm một lần nữa tố
cáo mạnh mẽ bóng tối hiện thực đẩy nhân dân tới tình cảnh đau thương.
b. Hiện thân cho vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân VN: Tình mẫu tử, đức hi sinh, lòng nhân
hậu, tinh thần lạc quan
- Nhưng giữa sự tối tăm của cuộc đời, người mẹ nông dân nghèo khổ, bà cụ Tứ, ngời sáng vẻ đẹp của
một tình mẫu tử thiêng liêng, một tấm lòng nhân hậu, đức hi sinh, là hiện thân cho tình đời tình người
cao đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam. Giọt nước mắt hay những âu lo đến quặn lòng của bà cụ
Tứ đều xuất phát từ tấm lòng thương yêu con vô bờ bến.
+Như bao người mẹ trên thế gian, hiểu con mình lấy vợ lúc này là đối diện với cả một sự mù mịt, bấp
bênh nên lòng người mẹ ấy khi hiểu ra cơ sự đã dấy lên nỗi xót thương cho số kiếp đứa con mình đến
quặn lòng. Và cũng vì thương con nên bà không nghĩ tới tình cảnh bị động của mình khi mà con trai bà
lấy vợ, bà không hề được hay biết, được tham gia, bà chỉ nghĩ tới trách nhiệm làm mẹ và tương lai cho
các con” Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo được cho con…nó được yên bề gia thất”. Bà lây
hạnh phúc của con là nguồn động viên để vượt qua bóng tối của hiện thực, lo âu.
+Đặc biệt, tình mẫu tử cao đẹp của bà cụ Tứ còn được thể hiện qua những lời nói ân cần, động viên,
tràn đầy niềm tin tương sáng với các con. Dù thắt quặn lòng thắt gan vì lo lắng, vì buồn tủi, chua xót
nhưng bà vẫn cố nén, giấu đi cảm xúc để trở thành chỗ dựa tinh thần cho các con. Bà nhẹ nhàng nói với
4
vợ chồng trẻ Tràng“Nhà ta thì nghèo con ạ...về sau”. Lời khuyên bảo động viên lúc này thật ý nghĩa,
nó khiến cặp vợ chồng mới lấy nhau trong hoàn cảnh đói khổ còn nhiều bỡ ngỡ, lo âu trở nên an tâm,
nó tiếp thêm niềm tin sức mạnh giúp họ vượt qua chông gai, thử thách.
+Rồi không ngại ngần bà trực tiếp bày tỏ tình yêu thương sâu sắc của mình với các con:“Kể có ra
làm…nhưng nhà mình nghèo..Năm nay thì đói to...u thương quá” bà “nghẹn lời không nói được nữa,
nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ khiến ta thêm
một lần xúc động trước tình mẫu tử thiêng liêng. Những giọt nước mắt lấp lánh lòng vị tha cao quý của
người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất, là muối của trái tim yêu thương dạt dào như
biển cả. Ôi tấm lòng người mẹ như nhà thơ nào đó là ca ngợi:
Một đời vốn liếng mẹ trao
Cho con tất cả mẹ nào giữ riêng
+Không chỉ dành cho con mình tình yêu thương thiêng liêng mà bà cụ Tứ còn hiện lên với tấm lòng
thương người như thể thương thân, với tấm lòng nhân hậu cao cả vốn có từ trong truyền thống tốt đẹp
của nhân dân ta từ ngàn xưa. Chúng ta hãy cùng xem cách bà xử xử với cô con dâu vốn rất xa lạ. Người
xưa có câu: ‘Yêu nhau như thể nàng dâu mẹ chồng” để nói nên mối quan hệ mẹ chống nàng dâu rất
khó dung hòa.Trong tình cảnh bà cụ Tứ, có thể bà sẽ ác cảm với cô dâu “nhặt” kia. Một cô gái theo
không về làm vợ, thật khó có thiện cảm. Song, trái lại với tấm lòng của một người mẹ thương con, một
người phụ nữ từng trải, đôn hậu, đầy vị tha, bà nhìn“ thị cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt”,
bà nghĩ “Người ta có ..con mình”. Và rồi bà quyết định đón nhận, cưu mang người có cảnh ngộ đói
khổ: “Thôi thì các con đã..lòng”. Lời nói giản dị nhưng chao ôi mới ấm áp làm sao,nó chính là tình
người, lòng nhân hậu bao dung vô hạn của con người VN. Lời nói chân thành ấy đã xóa nhòa khoảng
cách xa lạ giữa cô con dâu mới với mẹ chồng và nó làm cho T “thở phào 1 cái”. Một ngọn lửa ấm áp
của tình cảm gia đình đầm ấm, tình người đã xuất hiện trong ngôi nhà nghèo khổ của người mẹ cao
quí. Và nói với cô con dâu xa lạ bao lời ân cần:’ Con ngồi xuống đây cho đỡ mởi chân. Ngồi xuống đây
cho đỡ mởi chân” “Bà nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót…trong nhà rồi”. Dù biết mối duyên của
con mình không nên có vào lúc này, nó chỉ làm gia cảnh nhà bà thêm túng quẫn, thậm chí cả hiểm nguy
nhưng vượt lên tất cả những sợ hãi, âu lo ấy bà vẫn dang rộng vòng tay đón nhận, trao yêu thương đùm
bọc cho người vợ nhặt. Ứng xử thật rộng lòng của bà cụ Tứ với người vợ nhặt giúp ta hiểu được vì sao
dù đã trải qua bao gian nan khó khăn của nghèo khó, thiên tai, chiến tranh, đất nước ta:
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước...
-Nhưng như Kl đã khẳng định: Khi viết về con người năm đói, .người ta hay nghĩ đến những con người
chỉ nghĩ đến cái chết.Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý nghĩa khác.Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù
cận kề cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống,vẫn hi
vọng,tin tưởng ở tương lai. Với mong muốn đó, thông qua hình tượng bà cụ Tứ Kl đã đề cao tinh thần
lạc quan, hướng về sự sống của nhân dân ta trong nạn đói tăm tối. Ngay sau những suy nghĩ đầy âu lo
về tương lai của các con, bà cụ Tứ nhanh chóng tự tìm một niềm an ủi động viên thấm đẫm phép thắng
lợi tinh thần: “Người ta có gặp bước…lo lắng cho con được”. Dùng cái tâm thức từ ngàn đời của cha
ông ta “Người sống hơn đống của” bà tự động viên mình bước qua lo lắng, tin vào tươi lai tương sáng.
+Rồi bà động viên các con bằng câu tục ngữ rất quen thuộc “biết thế là hở con ai giàu ba họ ai khó ba
đời? Có ra thì con cái chúng mày về sau” Lời nói động viên này trong hoàn cảnh tăm tối này thật giá trị
làm sao, không biết tương lai như thế nào nhưng nó đã thắp lên cho vợ chống Tràng một niềm tin tươi

5
sáng, một sức mạnh để họ vượt qua khó khăn. Và sau này đến kết thúc tp ta thấy vẫn người mẹ gần đất
xa trời, này là nói nhiều nhất, nghĩ nhiều tới tương lai nhất. Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan
khỏe khoắn của người lao động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con
của người mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời
người trong sự chăm lo vun vén cho con. Và bởi vậy, những ước muốn, hy vọng đâu chỉ dành cho tuổi
trẻ - nó trở nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng của những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai
dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu
thương không những không tàn héo đi mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời. Tâm
tính ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều về vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật bà cụ Tứ, của nhân dân ta.
*Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo.
- Cách dựng truyện của Kim Lân rất tự nhiên, hấp dẫn, có duyên, đơn giản nhưng chặt chẽ.
- Miêu tả tâm lí nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc.
- Ngôn ngữ đậm chất nông dân và có sự gia công sáng tạo của nhà văn.
*Ý nghĩa đoạn trích
Ý nghĩa: Phản ánh,lên ánh thực tràn xã hội đen tối đẩy con người vào hoàn cảnh bi thương
+ Khẳng định khát vọng sống,tình yêu thương của con người. Như nhân vật Paven Cócsaghin (Thép đã
tôi thế đấy- Nicôlai Oxtr oopxki): “ Hãy biết sống cả khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”.
+Hiện thân cho lòng nhân hậu, tinh thần lạc quan yêu đời của nhân dân VN.
+Dịch covid như…giữ tinh thần lạc quan, khát vọng…
Đề 2:
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong
giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
… Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:
- Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.
- Vâng.
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu
đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu
mà thị tu chí làm ăn không? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà
rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho
quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 30)
Trình bày cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp người nông dân trong đoạn trích trên
Trình bày cảm nhận về hình tượng nhân vật Tràng trong đoạn trích.
Gợi ý:
Kim Lân là nhà văn của nông thôn. Truyện ngắn của Kim Lân viết về cuộc sống và con người của
làng quê Việt Nam tuy nghèo khổ, thiếu thốn nhưng vẫn yêu đời, thật thà, chất phác mà thông minh, tài
hoa. Truyện ngắn Vợ nhặt của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí những người ở thôn
quê: dù cuộc sống có tăm tối đến đâu họ vẫn khao khát sống, yêu thương đùm bọc nhau, vẫn hi vọng
vào tương lai.
– Nêu vấn đề cần nghị luận: vẻ đẹp người nông dân trong đoạn trích Sáng hôm sau, mặt trời lên
bằng con sào (…)làm ăn có cơ khấm khá hơn thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người của nhà văn Kim
Lân.
3.2.Thân bài
3.2.1. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích:
- Về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, sơ lược cốt truyện…;
Vợ nhặt được xem là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ
cư được viết ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, lấy bối cảnh nạn đói năm Ât Dậu (1945)
6
nhưng bị bỏ dở và mất bản thảo. Mãi đến sau khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần
cốt truyện cũ và viết truyện ngắn này. In tập Con chó xấu xí.
- Vị trí, nội dung đoạn trích: thuộc phần cuối của truyện, diễn tả tâm trạng của 3 nhân vật
trong gia đình bà cụ Tứ vào buổi sáng sau đêm tân hôn. Truyện bắt đầu với tình huống một anh
Tràng một anh thanh niên nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò thuê, là dân ngụ cư, một lần kéo xe bò thuê
trên tỉnh, giữa lúc nạn đói tràn về, nhờ 4 bát bánh đúc, vài câu nói đùa đã dễ dàng nhặt được cô vợ. Sau
khi được sự chấp nhận, sự đón nhận nhân ái, ấm áp của bà cụ Tứ cô vợ nhặt đã chính thức trở thành vợ
Tràng. Và đêm ấy đôi vợ chống trẻ đã trải qua một đêm tân hôn hạnh phúc, sáng hôm sau cả gia đình
trở dậy.
* Đoạn trích tuy ngắn nhưng đã khắc họa thành công vẻ đẹp của người nông dân, đó là những con
người nghèo khổ, cơ cực đang đứng trước sự đe dọa của nạn đói nhưng vẫn sáng đẹp khát vọng sống,
hạnh phúc, lòng nhân hậu và tinh thần lạc quan mạnh mẽ. (mỗi một nhân vật trong đoạn trích được nhà
văn miêu tả chân thực sinh động và mỗi người họ đều mang một suy tư, một hành động, một khuôn
mặt rất riêng …Nhưng tựu chung ở họ chúng ta thấy được vẻ đẹp của người nông dân VN. Tuy họ có
cuộc đời…)
3.2.2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp người nông dân trong đoạn trích
a. Về nội dung
a.1.Vẻ đẹp của Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi anh có vợ được Kim Lân đó chính là khát
vọng sống, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, Tràng là hiện thân cho súc mạnh của hạnh phúc, vẻ
đẹp của Tràng là sự trưởng thành, yêu thương, ý thức trách nhiệm với gia đình (kết hợp phần đã
học)
- Một cảm giác lạ chưa từng thấy tràn ngập trong lòng anh. Anh thấy trong người êm ái, lơ lửng
như người vừa ở trong giấc mơ đi ra, việc có vợ vẫn hình như là không phải. Tràng chợt nhận ra xung
quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới lạ: Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn
sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đĩa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy
đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc cây ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Còn bà
cụ Tứ lúi húi giẫy cỏ, nàng dâu quét tước, nấu nướng. Tất cả những cảnh tượng đó thật bình thường, là
sự thay đổi đơn giản nhưng cũng đủ làm cho anh rất cảm động vì nó đều khác hẳn, chưa bao giờ Tràng
thấy thế.
- Trước mặt Tràng, người vợ mới của hắn khác hẳn - đó là một người đàn bà mẫu mực, chăm chỉ.
Thị rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng
gặp ở ngoài tỉnh. Thị thu dọn nhà cửa, phơi phóng quần áo, quét sân, gánh nước và chuẩn bị bữa ăn
ngày mới.
- Trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn:
+Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình.
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng,
phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bởi vì Tràng đã có một gia đình, và trong cái buổi sáng đầu
tiên ấy, anh đã được tắm mình trong không khí ấm áp, hạnh phúc của tổ ấm gia đình.
+Tràng vẫn chưa quen với việc hạnh phúc đến quá bất ngờ. Nhà văn Kim Lân đã khắc họa được
những cảm xúc dấy lên trong lòng Tràng. Từ con người đơn giản, vô tư thì Tràng đã trở thành người
chồng thực sự. Vậy là trong khung cảnh đói khát chết chóc thê thảm của đất nước năm 1945 ấy, người
nông dân khốn khổ như Tràng đã biết vượt lên hoàn cảnh, tìm đến hạnh phúc trong niềm vui nương tựa
đùm bọc lẫn nhau. Chỉ có tấm tình chân thực mới giúp họ có sức mạnh vượt qua sự thật nghiệt ngã của
cuộc đời. Và không có gì ngăn nổi niềm tin, niềm hi vọng của họ vào tương lai. Đó chính là giá trị nhân
văn đầy cảm động của truyện ngắn này.
7
a.2.Vẻ đẹp của nhân vật người vợ là khát vọng sống, hạnh phúc, hiện thân cho sức mạnh
của hạnh phúc, tình thương
- Chỉ qua một ngày, một đêm sau khi đã thành vợ của Tràng, thành nàng dâu mới của bà cụ Tứ, ta
thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Nếu lúc
trước ta thấy thị là người đàn bà thật chao chát, đanh đá, táo báo, trơ trẽn. Lần gặp Tràng thứ 2, trong
bộ quần áo rách như tổ đỉa, thị sầm sập chạy đến mà sửng sỉa mà mắng mỏ Tràng, lúc được mời ăn thì
cắm đầu ăn một chập 4 bát bánh đúc, chẳng có gì là tế nhị, e ngại. Rồi thânálà người con gái ,vậy mà
chỉ bằng vài câu nói đùa, 4 bát bánh đúc thị đã theo không người ta về làm vợ. Bây giờ sau một đêm
làm vợ Tràng ta đã thấy một sự thay đổi lớn ở người đàn bà đói khổ này.
- Thị dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ hạnh
phúc.Tiếng chổi quét sân của thị kêu sàn sạt trên mặt đất tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng
thị. Thị đã xuất hiện trong dáng vẻ của người phụ nữ đảm đang, chăm lo vun vén cho gia đình như bao
người phụ nữ khác
- Thị lẳng lặng đi vào bếp dọn bữa ăn sáng. Đến Tràng cũng nhận thấy: Tràng nom thị hôm nay
khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy
lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không? Hình ảnh
cô vợ nhặt “hiền hậu, đúng mực” lúc này không chỉ khơi dậy trong lòng Tràng bao niềm vui ấm áp và
còn đem đến cho ta bao suy ngẫm, xúc động về thân phận con người trong nạn đói. Có lẽ bản chất của
người vợ nhặt không phải là người đanh đá, chao chat mà vì cái bóng tối của nạn đói, của hiện thực đã
khiến cô ấy luôn phải tỏ ra mạnh mẽ để mong giành lấy một hi vọng sống. Chính cái xã hội đen tối mà
miếng ăn là sự sống đã khiến cô ấy trơ trẽn, táo báo’ ăn một chặp 4 bát bánh đúc” và rồi nó khiến giá
trị, nhân phẩm trở nên rẻ rúng, không cần cưới xin, theo không anh Tràng về làm vợ. Và cũng vì cái
cảnh ngộ lang thang vất vưởng của một cô gái chưa chồng khiến cô ấy chòng chành, thất thường như
các cụ ta xưa đã có câu:
“chòng chành như nón không quai
Như thuyền không bến như ai không chồng”
Nay có được một gia đình, một mái ấm, cảm nhận được tình người, tình cảm gia đình đầm ấm, người
vợ nhặt đã trở về, trở nên thật dịu dàng nữ tính.
- Và rồi tí nữa trong bữa ăn sáng cách cư xử trong bữa ăn của thị cũng thật tế nhị, khôn khéo. Nhìn
bát cháo cám người mẹ vui vẻ đưa cho, mắt thị tối lại nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng. Thị đã giấu
kín nỗi thất vọng chua chát là để khỏi làm phật ý mẹ, giữ gìn không khí vui vẻ trong gia đình.
- Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành người
đàn bà đúng nghĩa, đã nghĩ cho sự sống, đã lo cho gia đình. Qua đây, Kim Lân dường như muốn khẳng
định một niềm tin đầy giá trị nhân văn: mái ấm gia đình có đủ sức mạnh để làm thay đổi, để cảm hóa
một con người. Hình ảnh của người vợ nhặt chính là mình chứng cho sức mạnh của tình yêu thương
trên cõi thế, như nhà văn Macxim Gorki đã khẳng định: “trên thế gian…
a.3.Vẻ đẹp của nhân vật bà cụ Tứ lòng nhân hậu, đức hi sinh, tình yêu thương con, đặc biệt
là sự lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng
- Khái quát: sáng hôm sau, bà cụ Tứ được Kim Lân khai thác ở chiều sâu tâm lý mà màu sắc chủ
đạo là sự lạc quan, tin tưởng, phấn chấn vào cuộc sống.
- Cùng với người con dâu, sáng hôm sau bà cụ Tứ đã dậy sớm, xăm xăm quét dọn, thu vén nhà
cửa để ngôi nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa, mang không khí của một tổ ấm hạnh phúc thật sự. Niềm
hạnh phúc của con đã khiến người mẹ nhân từ, bao dung dường như cũng hạnh phúc theo. Không còn
dáng vẻ của một bà lão gần đất xa trời, khốn khổ, Tràng đã nhận thấy rất rõ sự thay đổi trong dáng vẻ,
thần thái của mẹ mình.
8
- Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh, nhẹ nhõm khác ngày thường, khuôn mặt bủng beo u ám của bà rạng
rỡ hẳn lên. Sự thay đổi ở diện mạo, thần thái của bà cụ Tứ cùng với những việc làm nhỏ bé, giản dị của
bà đã thể hiện rất rõ sự chăm lo cho hạnh phúc của đứa con. Tất cả đều giản dị song lại vô cùng cảm
động vì bà cụ đã hành động bằng tất cả tấm lòng mình để góp phần xây dựng một tổ ấm hạnh phúc.
Với tấm lòng yêu thương đôn hậu hậu người mẹ nông dân nghèo ấy đã thắp lên trên ngôi nhà ánh sáng
diệu kì của tình yêu thương, tinh thần lạc quan, nó khiến ta nhớ tới câu thơ đẹp của Ê xê nhin trong thi
phẩm Thư gửi mẹ:
Và ánh sáng..mái nhà của mẹ
Bức tranh gia đình Tràng vào buổi sáng, sau khi đón nhận cô dâu mới được nhà văn miêu tả thật
chi tiết và mang lại cho ta rung rung một niềm cảm động. Giữa lúc nạn đói đang tràn đến cai xóm ngụ
cư, khi “ bóng người dật dờ như những bóng ma” “ tiếng quạ kêu thê thiết” sáng ra đi làm đồng là
thấy“ 4, 5 cái thây nằm còng queo”, cái thảm cảnh mà TH đã viết:
Ôi nhớ những năm nào thuở trước
Xóm làng ta xơ xác héo hon
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy
Thì một luồng sinh khí, một sự sống, ấm áp từ tâm hồn nhân hậu, tràn đầy tinh thần lạc quan của con
người đang lan tỏa trong căn nhà của anh Tràng. Nó đã khắc họa thật mạnh mẽ thông điệp của Kl về
sức mạnh tâm, hồn của con người “khi nghĩ về nạn đói…”
b.Về nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo.
- Cách dựng truyện của Kim Lân rất tự nhiên, hấp dẫn, có duyên, đơn giản nhưng chặt chẽ.
- Miêu tả tâm lí nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc.
- Ngôn ngữ đậm chất nông dân và có sự gia công sáng tạo của nhà văn.
3.3.Kết bài
- Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp người nông dân trong đoạn trích.
- Nêu bài học cuộc sống từ 3 nhân vật trong đoạn trích: khát vọng sống, tình yêu và hạnh phúc; đề
cao vai trò của gia đình trong đời sống con người.
-Tin rằng bóng đen nạn đói sẽ lùi bước trước khát vọng, tình yêu, tinh thần lạc quan của con người
Đề 3: Tâm trạng của Tràng trong đoạn:
Sáng hôm sau mặt trời…tu sửa lại căn nhà”
*Nếu vào hình tượng: Nếu ở phần đầu truyện và ngay cả khi đã “nhặt” được vợ, anh Tràng vẫn còn là
một anh chàng tuy tốt bụng, nhân hậu, phóng khoáng nhưng còn rất vô tư, vô lo thì trong đoạn văn
miêu tả tâm lí của Tràng sau đêm tân hôn, chúng ta nhận thấy Tràng đã trở thành một người đàn ông
trưởng thành, sâu sắc, anh đã biết chăm lo, ý thức về trách nhiệm với gia đình. Sự thay đổi, trưởng
thành trong suy nghĩ, tính cách của Tràng một lần nữa làm nổi bật sức mạnh của hạnh phúc, khát vọng
hạnh phúc của con người vượt lên trên hoàn cảnh tăm tối của nạn đói. Qua đoạn trích nhân vật Tràng
đã trở thành biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc và sức mạnh của hạnh phúc, tình yêu.
-Sáng hôm sau:
+Những âu lo,ngượng nghịu,vụng về đã nhanh chóng qua đi khi T trải qua 1 đêm hạnh phúc với vợ.
“Sáng hôm sau,mặt trời lên cao bằng con sào,T mới trở dậy.Trong người êm ái lửng lơ như 1 người
vừa đi ở trong giấc mơ đi ra.Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.
Những từ láy
êm ái” ‘lơ hửng” cùng nghệ thuật so sánh” như “đi ở trong giấc mơ đi ra” đã diễn tả niềm hạnh phúc
lâng lâng những tột độ của Tràng sau một đêm vô cùng hạnh phúc.Ở đây, ngòi bút tả tâm lí của nhà văn
9
KL đã diễn tả thật xúc động, tinh tế tâm lí của nhân vật anh Tràng. Khát vọng về một người bạn đời,
một mái ấm gia đình là mong ước cháy bỏng của con người.Nhà văn Séc-nư-sép-xki từng mơ ước :’
Tôi sẵn sàng đánh đổi cả sự nghiệp nếu biết rằng trong căn phòng nhỏ nào đó,có 1 người đàn bà đang
ngóng đợi tôi về ăn bữa tối”. Thế nên, cùng với sự ngỡ ngàng, bất ngờ “ Việc hắn có vợ đến hôm
nay, hắn vẫn ngỡ ngàng như không phải’, tâm hồn Tràng lúc này ngập tràn niềm hạnh phúc êm ái mà
mãnh liệt, sung sướng tột cùng.
+Và dưới ánh sáng hè rực rỡ sáng lòa cả mắt, Tràng đã có phong thái thật ung dung tự tin, đàng hoàng
của người đã nắm giữ được hạnh phúc “ Hắn chắp tay lững thững bước ra sân”. Hình ảnh này của
Tràng gợi ta nhớ tới sự xuất hiện của Tràng ở đầu truyện, trong cái bóng chiều tối sẫm của nạn đói,
Tràng thường về nhà với “từng bước chân mệt mỏi, chiếc áo nâu Tràng vắt sang 1 bên cánh tay, cái đầu
trọc nhẵn chúi về phía trước, hình như những lo lắng vật chất trong 1 ngày đè xuống cái lưng bè rộng
như lưng gấu của hắn”. Bây giờ Tràng xuất hiện trong “ánh nắng buổi sáng lóa xói”, phải chăng nó
chính là một hình ảnh biểu tượng cho 1 ngày mới tươi sáng, đầy ắp hi vọng, hạnh phúc của đời Tràng .
Khác với dáng đi mệt mỏi, lẫm lũi, cô độc hàng ngày, Tràng hôm này “chắp tay lững thững bước ra
sân”, một dáng vẻ thanh thản, êm ái, đàng hoàng. Hạnh phúc từ tổ ấm gia đình đã khiến Tràng tạm
quên đi những âu lo về cái đói, cái khổ của vật chất.
+ Thanh thản tận hưởng hạnh phúc, Tràng đã nhanh chóng phát hiện rất nhiều sự thay đổi trong ngôi
nhà của mình: “Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa
thay đổi, mới mẻ và khác lạ.” Đến đây Kl tập trung miêu tả quang cảnh ngôi nhà trong sự quan sát của
Tràng: “Nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gang. Mấy cái quần áo
rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đêm ra sân hong. Hai cái ang nước
vẫn để khô cong dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”.
Qua sự quan sát của Tràng ta nhận thấy một sự sống đang xuất hiện trong ngôi nhà nghèo khổ của anh
ấy.Chuyện “nhặt” được vợ của T tưởng như đùa nhưng lại là sự thật, sự sống, sinh khí đã trở lại với T
và gia đình anh. Và đặc biệt là cùng với sự thay đổi trong khung cảnh của ngôi nhà là sự thay đổi trong
tính cách, trong nhận thức của Tràng. Vốn là một anh chàng vô tư, vô lo, mặc dù gia cảnh nghèo, cả xã
hội đang chìm trong bóng đêm của nạn đói nhưng Tràng trước kia vẫn vô tư, chiều đi làm về thường nô
đùa với đám trẻ trong xóm. Thế mà giây phút này Tràng bỗng trở thành người đàn ông tỉ mỉ, tinh tế để
nhận ra từng sự đổi thay trong căn nhà của mình. Phải chăng niềm anh phúc thiêng liêng của tổ ấm gia
đình đã khiến Tràng trở nên trưởng thành và sâu sắc hơn.
+ Nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo của Nam Cao) sau đêm ăn nằm với Thị Nở, tỉnh dậy CP nghe thấy”
tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói… tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá..
Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy.” Giống như CP, niềm
hạnh phúc đã khiến Tràng cảm nhận những cảnh tượng vốn rất bình thường thành những gì thật đẹp đẽ,
thiêng liêng.“ Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái
sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với
hắn lại rất thấm thía cảm động”. Một từ “ cảm động” mà thật “ thấm thía” về tình đời, tình người về sức
sống, khát vọng hạnh phúc và giá trị của mái ấm gia đình. Chi tiêt nào khiến ta nhớ tới nhận định của
nhà văn Maxim Gorki:
Trên thế gian vị thần đẹp chẳng có vị thần nào đẹp bằng thần mặt trời, chẳng có ngọn lửa nào kì diệu
hơn ngọn lửa tình yêu”
- Sự vun vén chăm sóc gia đình từ bàn tay người mẹ, người vợ khiến trái tim của Tràng rung lên những
nhịp yêu thương. Từ “ thấm thía cảm động, “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà
của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm
che mưa che nắng”.Cảm xúc “ bỗng nhiên..yêu thương” dâng lên trong Tràng lúc này thật là đẹp biết
10
bao, đó là tình cảm gia đình thiêng liêng, là nguồn động lực to lớn, giúp con người vượt qua cảnh khốn
cùng.Cảnh tượng mà Tràng đang trông thấy ở hiện tại “Hắn đã có một gia đình” và tương lai “Hắn sẽ
cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy “ đã khẳng định đầy mạnh mẽ: từ chính khát vọng hạnh phúc cháy bỏng
của bản thân Tràng đã có được hạnh phúc, Tràng không còn cô đơn, Tràng đang hướng về phía trước
bằng tất cả sự trưởng thành, tinh thần lạc quan, trái tim ăm ắp yêu thương.
-Lúc này , ánh sáng của buổi bình minh hay ánh sáng hạnh phúc đã rọi xuống xuyên thấu vào tâm hồn
Tràng để rồi Tràng cảm nhận thật rõ ràng “ Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong
lòng hắn. Bây giờ hắn mói thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau
này”. Đến đây chúng ta đã cảm nhận được sinh khí từ ngôi nhà, mái ấm gia đình đã thổi vào tâm hồn
Tràng một luồng sinh khí mạnh mẽ, tràn đầy sự sống. Luồng sinh khí , “ nguồn vui sướng, phấn chấn”
ấy không chỉ giúp Tràng nhận thức sâu sắc sự “ nên người”, “ bổn phận” của mình mà nó còn chính là
tinh thần lạc quan tươi sáng, khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Tràng. Nhà văn tin tưởng với khát
vọng sống, với hạt gống hạnh phúc đang nảy mầm cười đời của Tràng và gia đình anh sẽ như nhà như
TH từng viết:
“đời ta gương vỡ lại lành
Như cây khô lại đâm cành nở hoa”
(Tố Hữu)
-Và rồi không còn chỉ là những cảm xúc phấn chấn, vui sướng hay yêu thương, dự tính, Tràng đã hành
động” hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn
nhà”.Những suy nghĩ đầy ắp hi vọng, yêu thương và hành động hăng hái “ xăm xăm” của Tràng chứng
minh sự trưởng thành của T và ý nghĩa của hạnh phúc, gia đình. Hạnh phúc về một mái ấm gia đình đã
khiến T hôm nay không còn là anh T vô tâm vô tư của ngày hôm qua.Tình yêu, hạnh phúc đã biến T trở
thành người đàn ông trưởng thành biết lo toan cho tổ ấm gia đình. Đến đây thông điệp về sức mạnh của
tình yêu thương, của khát vọng hạnh phúc, tinh thần lạc quan của nhân dân ta trong nạn đói 1945 một
lần nữa được nhà văn khẳng định mạnh mẽ.
Đọc đoạn trích ta lại nhớ tới câu nói của nhà văn NMC: “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết vì
thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường,tuyệt lộ,bị cái ác hoặc số
phận đen đủi dồn con người đến chân tường,những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi”. Cảm
ơn nhà văn Kl bằng ngòi bút nhân văn sâu sắc của mình đã “ nâng giấc” cho cuộc đời tưởng như chìm
vào sự “ đen đủi” của nhân vật Tràng và anh ấy và tất cả chúng ta luôn ngời sáng một niềm tin lạc
quan,bước qua những hoàn cảnh éo le, gian khổ hướng tới tương lai tươi sáng.
d.Ý nghĩa xây dựng và nghệ thuật hình tượng nhân vật
-Nghệ thuật: Tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ kể giản dị, đời thường, mộc mạc nhưng sinh động,
tinh tế kết hợp nghệ thuật xây dựng nhân vật qua cử chỉ, hành động, đặc biệt nội tâm
-Cuộc đời của nhân vật T tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo ở đất nước ta trước Cm tháng
8/45.Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy được vợ ( người con trai của lão Hạc trong tp
Lão Hạc của Nc cũng vì nghèo không lấy được vợ quẫn chí bỏ đi đồn điền cao su) và trong nạn đói lấy
được vợ thì hạnh phúc đan xen với bất hạnh,lo âu.Tình huống nhặt vợ của T đã tố cáo xã hội thực dân
phong kiến đặc biệt là phát xít Nhật đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói,tình cảnh éo le đau khổ.
-Qua diễn biến tâm trạng của T sau khi lấy được vợ nhà văn đã khẳng định mạnh mẽ khát vọng hạnh
phúc chân chính của con người.Vượt qua hoàn cảnh đói khổ,cuộc sống của con người rập rình giữa sự
sống và cái chết,con người vẫn khát khao hướng tới hạnh phúc,sự sống. * KL viết : Khi viết về con
người năm đói,người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết.Tôi muốn viết một truyện
ngắn với ý nghĩa khác.Trong hoàn cảnh khốn cùng,dù cận kề cái chết nhưng những con người ấy

11
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống,vẫn hi vọng,tin tưởng ở tương lai Tin rằng bóng đen
nạn đói sẽ lùi bước trước khát vọng, tình yêu, tinh thần lạc quan của con người
-Nối tiếp những trang văn nhân đạo của NC,TL,Kl thể hiện niềm tin lạc quan vào tương lai tươi sáng sẽ
đến với nhân dân VN.Ở T, tuy chưa có được sự thay đổi nhưng cuộc sống bắt đầu hé mở,cho anh một
hướng đi mới.HÌnh ảnh T buổi sáng mai hình dung trong đầu về đoàn nghèo đói vùng lên dưới lá cờ đỏ
bay phấp phới là một kết thúc mở,hứa hẹn tương lai tốt đẹp sẽ đén với T.
-Đoạn trích đã ghi dấu sâu sắc phong cách nghệ thuật của KL:viết về nông dân Vn một cách chân thật,
xúc động, dù viết về phong tục hay con người trong tp của Kl ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con
người làng quê Vn nghèo khổ, thiếu thống mà vẫn yêu đời, chất phác.
Bài học bản thân: Em....Như nhân vật Paven Coocsaghin (Thép đã tôi thế đấy- NHi côlai Oxtr
oopxki): “ Hãy biết sống cả khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”.
* KL viết : Khi viết về con người năm đói,người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái
chết.Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý nghĩa khác.Trong hoàn cảnh khốn cùng,dù cận kề cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống,vẫn hi vọng,tin tưởng ở
tương lai
Đề 4: Cảm nhận nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích: (tự làm)
Đề 5: cảm nhận đoạn trích( các nhân vật trong đoạn trích)
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn
với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão
nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá.
Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế.
Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai
bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
…. Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi
chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.

12

You might also like