You are on page 1of 6

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

( NGUYỄN MINH CHÂU )

Mỗi khi cầm bút, người nghệ sĩ dù muốn hay không, dù không nói ra hay bộc lộ trực tiếp thì đều viết dưới
ánh sáng của một “ tuyên ngôn nghệ thuật ”nào đấy. Ta thường bắt gặp nhiều tuyên ngôn nghệ thuật của các
nhà văn, nhà thơ lớn như: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh,.....Những tuyên ngôn nghệ thuật
ấy không còn của riêng các ông nữa mà còn là của cả một thế hệ cầm bút, hơn nữa còn là của cả một thời đại
văn học. Viết “Chiếc thuyền ngoài xa ”nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn đưa ra suy nghĩ và quan điểm của
cuộc sống, con người và nghệ thuật (...)

Sau ngày 30/4/1975 – ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tiếng súng đã ngừng nổ trên bầu
trời Việt Nam, giang sơn thu về một mối, Bắc – Nam sum họp một nhà. Chúng ta đã trải qua ba mươi năm
của hai cuộc kháng chiến và giờ đây từ chiến tranh chúng ta lại trở lại với thời hòa bình. Đây chính là giai
đoạn chuyển mình của đất nước, và cũng ở giai đoạn này, bao giờ cũng vậy, trên các diễn đàn văn chương sẽ
xuất hiện những tác phẩm luận đề. Những tác phẩm luận đề là gì? Những tác phẩm luận đề là những tác
phẩm bàn luận để đưa ra vấn đề nào đó. Và thời thế đã thay đổi thì cách viết của nhà văn cũng cần phải được
đổi thay. Tiêu biểu hơn cả là nhà văn Nguyễn Minh Châu, ông được mệnh danh là vị khai quốc công thần của
nền văn học Việt Nam thời đại mới. Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nói: “Nguyễn Minh Châu là người kế tục
xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ
tài năng sau này ”. Nguyễn Minh Châu ( 1930 – 1989 ), ông sinh ra ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là nhà thơ trường thành từ cách mạng, trước năm 1975, ông cũng viết nhiều tác phầm
về vẻ đẹp con người trong kháng chiến, nổi bật là tác phẩm “Mảnh trăng cuối rừng ”. Nhưng nếu chỉ nhận xét
về Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 thì lại là một thiếu xót lớn.

Trong tác phẩm “Đôi mắt ”của nhà văn Nam Cao, mà tiền thân là truyện “Tiên sư anh Tào Tháo ”, nhà văn
Nam Cao đã từng nói: “Hãy rũ bỏ đôi mắt cũ để nhìn cuộc đời mới, bởi càng đi nhiều, càng quan sát lắm, anh
sẽ chỉ cảm thấy chán nản hơn mà thôi ”. Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 là người đi tiên phong cho công
cuộc lột xác văn chương, khép lại cảm hứng sử thi và mở ra cảm hứng thế sự. Ta có thể hiểu nôm na nghĩa là,
không viết nhiều về chiến tranh nữa mà viết nhiều hơn về cuộc sống và chiêm nghiệm nhiều hơn về cuộc đời.
Những tác phẩm của ông phải kể đến như: “Bức tranh ”, “Cỏ lau ”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ”,
“Bến quê ”,.... và đặc sắc nhất phải kể đến tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa ”. Thông qua các tác phẩm ấy,
nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đưa ra những tuyên ngôn nghệ thuật về cuộc đời.
Nhắc tới tác phẩm “Bến quê ”- một tác phẩm đã được học ở năm lớp 9 cũng là của nhà văn Nguyễn Minh
Châu, ông viết về một nhân vật, anh ta tên là Nhĩ, cả cuộc đời Nhĩ đi khắp thế gian để rồi những ngày tháng
cuối đời nằm liệt trên giường bệnh anh mới nhận ra những vấn đề trong cuộc sống. Thứ nhất, anh ta phát
hiện cái bờ bãi bên kia sông – chính là quê hương của anh ta mà anh ta chưa một lần về thăm. Vậy cả đời này
anh ta đi khắp thế gian thì có ý nghĩa gì? Thứ hai chính là hình ảnh người vợ tần tảo sớm hôm quan tâm lo
lắng chăm sóc anh từng chút một mà anh không hề cảm nhận và làm được điều gì cho cô ấy, mãi tới khi anh
nằm liệt trên giường thì anh mới nhận ra hơi ấm từ người vợ của mình nhưng bây giờ thì anh còn có thể làm
được điều gì nữa? Thứ ba, anh nhờ cậu con trai của mình qua bờ bãi bên kia sông hộ bố nhưng cậu con trai lại
vướng vào một cuộc đánh cờ và bỏ lỡ chuyến đò cuối cùng trong ngày sang sông. Tuổi trẻ thì thường vướng
vào những thú vui trong cuộc sống mà quên đi những mong ước đời thường. Từ đây cho ta thấy sự lột xác của
Nguyễn Minh Châu trong văn chương lẫn cách viết, cho thấy sự khởi đầu của ông cho những sáng tác tiếp
theo.
Nhan đề của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa ”là sự biểu trưng của nghệ thuật, là thứ nghệ thuật đạt tới
sự hoàn mỹ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.
Nhưng khi chiếc thuyền tiến vào gần thì đó chính là hiện thực, là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, éo
le, thậm chí là những trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
Trong mỗi truyện ngắn thường có ba kiểu tình huống: tình huống hành động, tình huống tâm lí – tâm
trạng và tình huống nhận thức. Thành công của tác giả đã xây dựng một tình huống nhận thức có tính luận
đề mới mẻ, khác hẳn với các tác phầm văn chương trước năm 1975. Giống như ở tác phẩm “Bến quê ”tình
huống tự nhận thức là nhân vật Nhĩ, Nhĩ nhận ra ý nghĩa cuộc sống trong những ngày tháng cuối đời mình.
Trong một tác phẩm truyện ngắn, tình huống truyện bao giờ cũng là yếu tố quyết định sự thành công của tác
phẩm. Tình huống truyện là một điểm nhấn đặc biệt mà tại đó được bộc lộ lên rõ nét nhất ý đồ và tư tưởng
của tác giả. Ngoài ra còn giúp mạch truyện linh hoạt và xây dựng thành công tính cách các nhân vật. Nếu
tình huống hành động nhằm tới hành động có tính bước ngoặt, tình huống tâm lí – tâm trạng thường khám
phá diễn biến tâm lí của nhân vật thì tình huống nhận thức lại là giây phút “giác ngộ ” ra chân lí cho các
nhân vật.

Sự tự nhận thức đầu tiên có lẽ bắt nguồn từ hình ảnh nhiếp ảnh gia Phùng. Anh được cấp trên giao cho
nhiệm vụ chụp ảnh cảnh biển cho một bộ lịch nghệ thuật thuyền và biển. Sau bao nhiêu ngày trở về chiến
trường xưa, lang thang ở bãi xe tăng hỏng, Phùng đã phát hiện ra vẻ đẹp bức anh mà anh chụp được, đó chính
là hình ảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang được tưới thẫm lên bằng màu của sương khói. Đó là một bức ảnh
“đắt ” như trời cho. Bức ảnh mang nét tráng lệ thời cổ “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ ”. “Mũi
thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời
chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khom khom, đang
hướng vào mặt bờ ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét cho đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực
đơn giản mà toàn bích ”. Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác như thế, người nghệ sĩ trở nên bối rồi
và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào ”. Bức ảnh đã khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung động, cảm
xúc thẩm mĩ đang cháy lên trong lòng anh. Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn “khám phá thấy cái
chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn ”. Nguyễn Tuân đã từng
nói: “ Cái đẹp cảm hóa lòng người ”và cũng không phải ngẫu nhiên, ông được mệnh danh là một người cả đời
đi tìm cái đẹp. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, anh đã tìm thấy cái chân, cái thiện của
cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ như được gột rửa, trắng trẻo, tinh khôi. Phùng bấm liên thanh một hồi hết
một phần tư cuốn phim để thu lại khoảnh khắc tuyệt đỉnh của chiếc thuyền ngoài xa.

Tất cả những hình ảnh tuyệt vời ấy có lẽ sẽ không bị phá vỡ và Phùng có lẽ cũng sẽ không kinh ngạc khi
con thuyền trở vào gần bờ và bắt đầu xuất hiện những tiếng quát tháo. Bước ra từ chiếc thuyền là người đàn
bà hàng chài xấu xí, mệt mỏi “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng
biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới,
tái ngắt và dường như đang buồn ngủ ”và người đàn ông to lớn dữ dằn “Tấm lưng rộng và cong như lưng một
chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ
xuống hai con mặt đầy vẻ độc dữ.... ”. Một cảnh tượng thật tàn nhẫn đã xảy đến: gã chồng đánh đập vợ một
cách thô bạo “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà,
vừa đánh lão vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi lần quất xuống lão lại rên rỉ đau đớn
“Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ! ””. Mâu thuẫn được đẩy lên cao trào khi người
đàn bà kia bị đánh mà không hề trốn chạy cũng chẳng kêu van nửa lời. Đó là một sự nhẫn nhịn, cảm thông và
chia sẻ. Phải chăng chị ta bị đòn nhiều tới mức quen rồi, chẳng còn biết đau là gì nữa. Hay chị ta tăm tối, dốt
nát đến mức không còn chút ý thức về quyền sống của mình? Hay đó là một sự lựa chọn bất đắc dĩ nhưng đã
được suy tính kỹ lưỡng, sáng suốt? Rồi bỗng dưng thằng Phác – con trai chị từ đâu chạy tới, vì thương mẹ đã
đánh lại cha rồi nhận lại hai cái bạt tai ngã dúi xuống cát. Ta nhận thấy đứa con trong gia đình này được
miêu tả chẳng khác nào một viên đạn, nó đập vào hình ảnh của người cha và đâm xuyên qua trái tim của
người mẹ. Bây giờ thì ta đã nhận ra khoảng lặng của tác phẩm. Có lẽ ít ai hình dung và tưởng tượng được
rằng không hiểu tại sao cảnh tượng phũ phàng ấy lại xảy ra khi con người ta đang xây dựng cuộc sống mới
trong thời đại mới mà Tố Hữu đã từng viết; “Người với người, sống để yêu nhau ”.

Dù bị chồng đánh như vậy nhưng chị đâu có khóc. Nhưng sau khi biết được hành động vũ phu của chồng bị
chính con trai mình là thằng Phác và vị khách lạ - nhiếp ảnh gia Phùng phát hiện thì chị lại cảm thấy đau
đớn, xấu hổ và vô cùng nhục nhã. Đó chỉ có thể là một người đàn bà giàu lòng tự trọng. Nhiều khi đòn roi
không thể làm con người ta bật khóc, nó đúng trong trường hợp này của chị. Những giọt nước mắt đau đớn
chứa đựng biết bao những nhọc nhằn, hy sinh ấy chỉ rơi khi đứa con trai bị cha nó đánh. Với chồng thì chị
cam chịu nhưng với con thì chị luôn luôn bao bọc, chở che, tránh cho chúng bị tổn thương, chị ta luôn mang
nặng trong mình những nỗi mặc cảm với các con của mình. Những giọt nước mắt của người đàn bà cũng
chính là giọt nước mắt của tác giả, khi nói đến bạo lực trong gia đình của người đàn bà hàng chài, tác giả đã
khơi dậy trong lòng người đọc nỗi xót thương pha lẫn lo âu trước tình trạng phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, về
cả nguy cơ nếu như trẻ em tiếp xúc gần sẽ sớm nhiễm thói vũ phu, thô bạo do bị tổn thương về tâm hồn, đánh
mất đi cái gọi là niềm tin vào cuộc sống. Nhà văn không chỉ phê phán và lên án bạo lực mà còn phê phán sự
ngu muội, không chỉ bày tỏ tình yêu thương với những con người nhỏ bé, bất hạnh mà còn cảnh báo một nguy
cơ đáng sợ: Nếu không giải phóng con người ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, tăm tối thì không thể
đẩy lùi được cái ác. Đó là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

Nhiếp ảnh gia Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ: “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức trong
mấy phút đầu tôi cứ đứng há mồm ra nhìn ”. Người nghệ sĩ như chết lặng. Những điều bất công xảy ra trước
mắt người chiến sĩ từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng của đất nước, giải phóng con người đã bùng lên
một cơn giận dữ. Bản thân anh, anh nghĩ về người đàn ông kia là một kẻ độc ác, tàn nhẫn nhất thế gian, còn
người đàn bà kia là một nạn nhân đáng thương trong nạn bạo hành gia đình. Sở dĩ Phùng trở nên như vậy là
vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp kì diệu của tạo hóa kia lại có cái ác, cái xấu đến mức không
thể tin được. Phùng xót xa khi nhận thấy cái xấu xa, ngang trái bi kịch trong gia đình của người dân chài đã
làm cho bức ảnh anh chụp nhuốm một màu đau thương ghê sợ! Chao ôi! Nghệ thuật không thể là màn sương
mờ ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai mà che đi nỗi đau thương khiếp rợn mà ghê người kia.

Qua hai phát hiện của Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn người đọc nhận thức mối quan hệ giữa nghệ thuật
và đời sống. Nghệ thuật không nên dừng lại ở vẻ đẹp ngoài, nhất là cái tuyệt vời thơ mộng, mà còn phải nhìn
vào bề sâu của cuộc đời, đó là hiện thực không hề đơn giản, mà nó là những bi kịch trái ngang với nhiều nhọc
nhằn, đau khổ. Cuộc đời đâu chỉ toàn màu hồng mà cuộc đời còn chứa đựng nhiều những nghịch lí. Cuộc đời
luôn tạo ra những mặt đối lập, những mâu thuẫn xấu - đẹp, thiện – ác,..... Vì thế mà nhà văn có dụng ý khi để
cảnh tượng “trời cho ” hiện ra trước mắt như là vỏ bọc bên ngoài hòng để che giấu bản chất thực sự bên trong.
Và không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói rằng: “Văn chương và cuộc sống là những
vòng tròn đồng tâm, tâm của nó chính là con người ”

Nghệ sĩ Phùng là một người có lòng tốt, không thể chấp nhận những bất công nhưng anh lại quá đơn giản
khi nhìn nhận cuộc sống để rồi đưa mình đến tình huống vỡ lẽ thứ hai trong tác phẩm này. “Ba hôm sau, cũng
trong làn sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm
mà đứa em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương ”. Chứng kiến cảnh người đàn bà bị gã
chồng đánh đập dã man không lí do như thế, nghệ sĩ Phùng đã xông ra đánh nhau với gã chồng để bảo vệ chị
ta, để rồi bị thương và để lại những dấu tích trên mặt. Người đàn bà bị mời đến tòa án huyện để giải quyết
công việc gia đình, từ đây đã có một cuộc tranh luận giữa ba người là Phùng, người đàn bà hàng chài và
Chánh án Đẩu. Được mời đến tòa án huyện lần này là lần thứ hai, “ người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng
túng...liền tìm đến một góc tường để ngồi”. Cái sợ sệt và lúng túng đó ngay lúc chị ta đứng ở bãi xe tăng cũng
không hề thấy có. Chị ta thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Nhìn chị ta thật tội nghiệp, cái thế ngồi bị
động, ngồi vào mép ghế và cố thu người lại, dường như chị ta đang cố tự vệ dù đã được Chánh án Đẩu nói
bằng những lời lẽ rất thân mật và cảm thông. Nguyễn Minh Châu đã nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm
thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi tiếp xúc nói chuyện với Chánh án Đẩu, chị còn xưng “con” với
“quý tòa”có lúc đã van xin “Con lạy quý tòa, quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt
con bỏ nó ”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi gục mặt bỗng người đàn bà hàng chài ngẩng hẳn mặt
lên, nhìn thẳng và lại đổi cách xưng hô thành “chị” và “các chú”. “Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thực, chị
cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn....cho nên các chú đâu có hiểu
được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”. Sự thay đổi bất ngờ khiến cho Phùng và Đẩu cũng hết sức
ngạc nhiên. Mới bước vào cuộc tranhh luận thì ta nhận thấy người đàn bà hàng chài này có vẻ đáng trách,
rung túng cho việc bạo lực gia đình diễn ra một cách rất thường xuyên “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một
trận nặng. Cả nước ta không người nào như hắn”. Thế nhưng đọc kĩ và ngẫm nghĩ lại thì đó lại là những điều
mà Phùng và Đẩu bị lỡ vẽ ra. Đẩu vốn là một chánh án, được mệnh danh là Bao công phố huyện vùng biển, là
người có kiến thức về luật pháp, còn Phùng là người hiểu biết về nghệ thuật, chuyên đi săn lùng cái đẹp vậy
mà cả hai đã bị người đàn bà thuyết phục hoàn toàn. Chị ta đã nói cho Đẩu và Phùng biết sự nguy hiểm khôn
lường của người đàn bà trên chiếc thuyền đánh cá không có đàn ông, nhất là những khi biển động. Người đàn
bà hàng chài với lời lẽ thuyết phục ấy đã lộ ra cái sắc sảo của mình, người đàn bà không tên này càng ngày
càng thể hiện mình là một người hiểu biết và từng trải trong cuộc sống. Thì ra cái nghề chài lưới này không
thể thiếu bàn tay và sức lực của người đàn ông. Để duy trì tồn tại cho gia đình thì họ phải hợp sức lại làm
quần quật để nuôi một đàn con mà nhà nào cũng có trên dưới cả chục đứa và ý chính người đàn bà còn khẳng
định người chồng của chị ta vốn là: “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, nhưng vì hoàn cảnh đói
nghèo, khắc nghiệt mà trở nên vũ phu tàn nhẫn và ích kỷ. Đó là câu chuyện về kế sinh nhai, về những người
làm ăn lam lũ khó nhọc. Có thể nói chị ta là một người giàu lòng vị tha và cao cả. Chị nghĩ rằng mình sống
cho con chứ không phải cho bản thân, lúc nào cũng tự an ủi là nếu như các bà vợ khác chấp nhận được các
ông chồng nghiện rượu thì mình cũng có thể chấp nhận được ông chồng đánh đập thường xuyên. Chị chỉ xin
chồng hãy đánh ở trên bờ và đừng để các con thấy được cảnh đấy. Tất cả những suy nghĩ của chị đều chỉ dành
cho chồng cho con, đó là điều đáng thương mà cũng đáng quý biết nhường nào!

Ở đây lẽ đời đã chiến thắng. Những người lao động lam lũ nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm
của một người thương con và thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ uy quyền có sức công phá lớn. Nó đã làm cho
nghệ sĩ Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra quá nhiều điều, nhận ra nỗi nhọc nhằn khó khăn của cư dân miền biển. Nhận
ra mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng bên ngoài, cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận nghịch
cảnh, chấp nhận những ngang trái. Cả Đẩu và Phùng đều chua chát nhận ra rằng : Trên thuyền cần có một
người đàn ông...dù hắn có man rợ,tàn bạo thì vẫn có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão
táp. Và cái bản chất ở đây chính là cuộc sống sinh nhai không thể một mực áp dụng pháp luật được. Họ còn
nhận thức được rằng, với người phụ nữ kia vẫn tìm thấy một chút niềm vui, hạnh phúc rất nhỏ nhoi trong
cuộc sống này dù biết nó còn đầy rẫy những khó khăn, gian khổ, vẫn luôn có một tinh thần lạc quan và tình
yêu cuộc sống. Hành trình tìm kiếm hạnh phúc của họ không đơn giản nhưng họ vẫn hạnh phúc khi nhìn thấy
những đứa con của họ được ăn no. Tình yêu thương gia đình của người đàn bà đã khiến cho “một cái gì mới
vừa vỡ ra trong đầu vị bao công phố huyện vùng biển lúc này”. Đó là vỡ lẽ về quan niệm tình yêu, hạnh phúc,
lòng nhân ái và sự khoan dung mang giá trị sâu sắc. Bước ra khỏi cuộc chiến tranh, không còn phải đương
đầu với quân xâm lược nữa nhưng chúng ta lúc bấy giờ lại phải tổ chức lại nhịp sống, khôi phục lại kinh tế,
hàn gắn lại vết thương chiến tranh, tuy nhiên công việc này cần cả một quá trình chứ không phải trong ngày
một ngày hai là có thể làm được. Dù là một người đàn bà ít học, suốt ngày lênh đênh trên biển, nhưng lại rất
am hiểu cuộc sống khiến cho Phùng và Đẩu bị vỡ lẽ. Từ một người với tư cách là bị can, người đàn bà ấy đã
nhanh chóng trở thành quan tòa công minh luôn coi tình yêu thương con cái và hy sinh là nguyên tắc sống
của bản thân. Họ đã phát hiện ra bên trong người đàn bà thô kệch ấy, là một trái tim vô cùng nhân hậu, một
vẻ đẹp tâm hồn mà không ai có thể nhận ra được. Vẻ đẹp ấy hoàn toàn đối lập với cảnh biển vào lúc buổi sáng,
nhưng đó cũng là một vẻ đẹp, mà không phải ai cũng có thể khám phá ra được. Giọng người đàn bà bớt sầu
não hẳn khi nói về sự hy sinh của bản thân của mình. Bên ngoài có thể chị ta là một kẻ quê mùa, thất học,
nhưng bên trong lại là một người từng trải và vô cùng thấu hiểu lẽ đời. Bên cạnh đó là đời sống nghèo nàn
của người dân trên biển không biết giãi bày với ai. Người đàn bà hàng chài gọi Phùng và Đẩu là “các chú cách
mạng”, gọi như thế vừa thân thương vừa xa lạ, bởi các chú đâu có hiểu cuộc sống đời thường và những
chuyện vất vả như thế này đâu?

Hình như người đàn bà hàng chài chẳng bao giờ để lộ ra ngoài cái vẻ đau khổ của mình, sự nhẫn nhục cam
chịu gần như chi phối toàn bộ suy nghĩ và hành động. Thấp thoáng ở người đàn bà ấy là một người mẹ nhân
hậu đảm đang, một người vợ bao dung và hy sinh tới quên mình. Và cả cái hình ảnh khi chị vì con mà nén
cam chịu bao đau thương nhục nhã để vái lạy cha nó để coi như nhận lỗi về mình khi nó đánh lại cha bảo vệ
mẹ nó. Phải là một người có tấm lòng yêu thương con cái sâu sắc như vậy mới có thể sẵn sàng làm được
những việc đấy. Hạnh phúc của người đàn bà thật quá đỗi giản dị mà không kém phần sâu sắc. Đó là triết lí
về cuộc sống con người. Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc
thật nhỏ bé nhưng đôi khi lại có thể nằm ngoài tầm tay.

Người đàn bà ấy sau mọi nỗi đau, mọi thăng trầm trong cuộc sống thì những thứ đấy chưa bao giờ là điều
thừa thãi với chị, tất cả cũng chỉ vì tình yêu thương con cái vô bờ bến. Người đàn bà hàng chài là hiện thân
cho vẻ đẹp khiêm nhường và thế giới tâm hồn phức tạp và có phần bí ẩn của con người. Qua hình ảnh người
đàn bà hàng chài ta bắt gặp đâu đó hình ảnh những người phụ nữ Việt Nam từ ngàn đời xưa nhân hậu bao
dung và ngập tràn đức hy sinh.

Đã có những bi kịch tiềm ẩn khiến cọn người ta phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng chứa
đựng nhiều phát hiện mới mẻ bởi tình huống nhận thức giúp ta nhận ra những chân lí về đời sống về nghệ
thuật và về con người. Nếu chỉ suy nghĩ một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng
sẽ khiến người dân lao động đổi đời, sẽ xóa tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Nhưng Nguyễn Minh
Châu đã lí giải những bi kịch mà còn chứa đựng những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua đau khổ để
đối diện với hiện thực con rất nhiều thách thức. Điều thống nhất trong hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh
Châu vẫn luôn là nỗi sầu lo và khắc khoải về con người, về cuộc sống. Đây cũng là lí do mà Nguyễn Minh
Châu một đời cầm bút với hy vọng: “Văn học sinh ra đời để gìn giữ trong từng con người - một cái gì hết sức
mong manh vì luôn luôn run rẩy....một cái gì đó thật là như vậy, nhưng thiếu nó trong con người thì y rằng
con người ấy không thể sống giữa quần thể loài người được, và trở thành một tai họa cho loài người”
Nếu như trước kia, giai đoạn văn học năm 45 – 75 khi viết về con người bao giờ các nhà văn cũng nói về
sức sống mãnh liệt vượt qua nghịch cảnh khó khăn như ta tìm thấy ở anh Cu Tràng trong “Vợ Nhặt” của Kim
Lân hay anh Chí Phèo của Nam Cao bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính vẫn trải qua sóng gió để trở về với
con đường lương thiện. Khi diễn tả con người các nhà văn thường đi theo hướng tích cực , vượt lên hoàn cảnh
và hồi sinh trong tâm hồn thì những minh họa ấy trở nên phiến diện trong thời đại văn học mới. Nguyễn
Minh Châu đã không đi theo đường mòn ấy, ông đi tiên phong theo cái cách riêng của ông, để khẳng định
nghịch lí xuất hiện như một lẽ đương nhiên trong cuộc sống. Bằng thái độ cảm thông và những hiểu biết sâu
sắc về con người , kết hợp với những điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo mà ông đã cung cấp cho bạn đọc những cái
nhìn toàn thể, chân thật từ bề sâu tới bề nổi. Ông là một nhà văn luôn hướng về con người và luôn giải mã
những gì phức tạp nhất về cuộc đời. Bức tâm thư về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống chính là nhận
thức thấm thía nhất: “ Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ
cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của
nghệ thuật, và nếu muốn khám phá những bí ẩn đằng sau thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận
với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng với cuộc đời” ( Lê Ngọc Chương )

Kết thúc truyện, người đọc vẫn chẳng biết người đàn bà hàng chài kia tên là gì, phải chăng là tác giả sơ
xuất? Không, đó chính là dụng ý của tác giả, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà
hàng chài, lúc lại gọi là mụ, khi thì gọi là chị ta,.....nghĩa là người đàn bà ấy là chỉ một trong số đông những
người đàn bà lam lũ, nhọc nhằn, những con người như thế đông đúc và vô danh. Tuy nhiên khi khép lại câu
chuyện về người đàn bà vô danh này thì dư âm của nó vẫn mãi còn đó, day dứt và ám ảnh người đọc. Qua
đây, Nguyễn Minh Châu đã sử dụng thành công thủ pháp đối lập giữa ngoại hình với tính cách, giữa cảnh đẹp
buổi sáng trên biển với bi kịch của một gia đình, giữa hoàn cảnh và tính cách để làm rõ đức hy sinh của người
phụ nữ. Đó cũng là những vấn đề nhức nhối trong cuộc sống như: tình trạng bạo hành, gia đình nghèo đói,
tha hóa về nhân cách,..... và những ngang trái lẫn nghịch lí trong cuộc sống.

Với điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo và đa diện, lời văn giản dị mà sâu sắc, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã để
lại một kiệt tác cho văn học Việt Nam hiện đại mà ở đó nhân vật người đàn bà hàng chài với những vẻ đẹp “
khuất lấp” và tình huống truyện đặc sắc độc đáo đã mang đến một bài học về cách nhìn nhận cuộc sống, và
cách phát hiện ra bản chất thật sâu bên trong vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Vì thế mà nhà văn Nguyễn
Minh Châu từng viết: “ Không thể nhìn con người một cách đơn giản, nhà văn phải phấn đấu để đào xới vẻ
đẹp của con người, khám phá “hạt ngọc” long lanh đằng sau cái lấm láp bụi bẩn đời thường”

Qua đó ta thấy rằng, tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn: “ Văn
học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người....”. Quan niệm ấy đã khiến cho tác phẩm ở giai
đoạn này giàu nhân bản. Đọc tác phẩm của ông, người ta day dứt, đau đớn về thân phận con người tràn đầy
khát vọng làm người cao đẹp. Đồng thời nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp tâm
hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào của cuộc đời đi
chăng nữa !

You might also like