Professional Documents
Culture Documents
A. MỞ BÀI CHUNG
Lã Nguyên đã nói về yêu cầu của văn chương nghệ thuật và thiên chức của
người nghệ sĩ “Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn
học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông”. Nguyễn Minh Châu đã ý thức được
sâu sắc thiên chức ấy của người cầm bút trong công cuộc đổi mới văn học nên trở
thành người mở đường tinh anh và tài hoa của văn học Việt Nam sau năm 1975.
Đứng trước sự thay đổi của thời đại, nhận thức được nhu cầu đổi mới văn học,
Nguyễn Minh Châu đã người tiên phong gieo những hạt giống đầu tiên trên con
đường đổi mới. Nếu như trong giai đoạn trước Nguyễn Minh Châu sáng tác theo
cảm hứng sử thi đậm nét, sau năm 1975 ông đã chuyển sang cảm hứng thế sự với
những vấn đề về đạo đức và triết lý nhân sinh. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu
có sức hấp dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét
phong cách kết hợp hài hòa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình
tượng nhân vật được soi thấu trong quan hệ đa chiều, phức tạp và đề cao, tôn vinh
những giá trị cuộc sống. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu
biểu cho sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Đây là một tác phẩm hay
đậm tính nhân văn, thể hiện một lối tư duy mới mẻ của nhà văn về cái đẹp, nghệ
thuật và số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và
hoàn thiện nhân cách.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang
đứng…lảo đảo ngã dúi xuống cát” thuộc phần đầu của truyện đã diễn tả phát hiện
của nghệ sĩ Phùng, từ đó góp phần thể hiện một tình huống truyện có tính nhận
thức.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Khái niệm tình huống truyện: Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò
là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi
một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư
tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống
truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được
bộc lộ. Nói cách khác thì tình huống truyện như một thứ nước rửa ảnh làm nổi
hình, nổi sắc nhân vật. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình
huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của
tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát,
khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn. Nhà văn Nguyễn
Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc
thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy
thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống
truyện hết sức độc đáo.
- Tính huống truyện ở đoạn trước:
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng
khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với
cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng
quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh
có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Với tâm thế của
một người nghệ sĩ chân chính khao khát cái đẹp, Phùng đã mai phục ở bãi biển này
suốt gần một tuần mà chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Sau khi suy nghĩ, tìm
kiếm, Phùng quyết định sẽ thu vào tờ lịch tháng bảy của bộ lịch năm sau cảnh
thuyền thu lưới vào lúc bình minh. Và buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được
một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được
một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một
“vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ
thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt
đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ
khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên
tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình.
2. Phát hiện của Phùng trong đoạn trích: Bức tranh hiện thực đời sống nghiệt
ngã
Trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục thể hiện những
khám phá, phát hiện về nghệ thuật và đời sống, khiến tình huống truyện được phát
triển. Éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh
nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải
là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí,
một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng
mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn.
Bạo lực gia đình lại diễn ra ngay sau chiếc xe rà phá mìn của Mĩ trên bãi cát,
và gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng da của lính Ngụy. Phải chăng cái ác
mà Mĩ Ngụy gieo xuống đất nước ta còn không khủng khiếp bằng cuộc chiến giữa
cái thiện với cái ác trong cuộc sống hòa bình. Hay đó là hậu quả của cuộc chiến
tranh vẫn hiện hữu ngay cả khi hòa bình lập lại. Tưởng rằng cuộc chiến đấu giành
độc lập tự do ta đã giải quyết được trọn vẹn, mang lại niềm vui cho mọi người.
Nhưng sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng còn biết bao vấn đề đặt ra: Đói
kém, bệnh tật, bạo lực gia đình … Dấu tích của chiến tranh để lại không chỉ là mấy
cái xe hỏng mà hơn nữa là cuộc sống đói nghèo, lạc hậu của những người như hai
con người bất hạnh kia. Người đàn bà từ dáng vẻ đến hành động đều thể hiện sự
bất lực, buông xuôi và cam chịu thể hiện qua cánh tay buông thõng, đôi mắt nhìn
xuống dưới chân khi “đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc
nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân”.
Tiếp đó, Phùng lần lượt chứng kiến những cảnh tượng vô cùng đau lòng.
Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Với môt
vẻ “hùng hổ, mặt đỏ gay”, lão đàn ông dùng chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa để
đánh vợ “chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng
chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong cơn giận dữ như lửa
cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt lưng
quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn ra
sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho
vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng
kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng,
nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn.
Phùng chưa hiểu nổi những gì đang xảy ra trước mắt, sau vài phút đứng há
mồm ra mà nhìn, anh chỉ kịp vứt máy ảnh định chạy đến can thiệp, Nhưng cũng
chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình
đau lòng hơn. Thằng Phác, là con trai của lão đàn ông và người đàn bà chạy tới
như một mũi tên và giật chiếc thắt lưng từ tay cha nó, vung chiếc khóa sắt quật vào
giữa khuôn ngực trần của cha để che chở cho người mẹ đáng thương. Lão đàn ông
từ chỗ đánh vợ thì giờ chuyển sang đánh con “Lão đàn ông định giằng lại chiếc
thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát
khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát”.
Có thể nhận thấy trong đoạn văn là một tấn bi kịch gia đình đầy đau đớn.
Trong gia đình ấy có một người chồng độc ác, đánh vợ một cách tàn độc, nguyền
rủa vợ con bằng những lời lẽ nặng nề, nghiệt ngã nhất; có một người vợ chỉ biết
cam chịu trước những trận đòn vô cớ của người chồng; có một đứa con vì thương
mẹ nên căm ghét và đánh lại cả bố. Nghệ sĩ Phùng là người chứng kiến câu chuyện
gia đình ấy và từ đây trong anh có thêm những phát hiện, nhận thức về hiện thực
đời sống. Chỉ có điều, phát hiện lần này của anh đầy bất ngờ và trớ trêu như trò
đùa quái ác của cuộc sống mà trong đó, cuộc đời thực hiện lên thật trần trụi, đau
đớn biết bao. Hóa ra, cuộc sống không chỉ tồn tại cái đẹp mà còn có bao nhiêu điều
nghịch lí, đau lòng. Nếu như trước đó, cảnh tượng hiện ra trước mắt anh là bức
tranh nghệ thuật đầy lãng mạn, đẹp tuyệt đỉnh thì màn bạo lực gia đình liên
hoàn mà anh vừa chứng kiến chính là bức tranh hiện thực đời sống đầy nghiệt
ngã. Tất cả những sự việc ấy diễn ra khiến cảm giác, cảm xúc trong Phùng hoàn
toàn thay đổi. Không còn thấy hạnh phúc tràn ngập tâm hồn nữa mà thay vào đó là
ngạc nhiên, đau đớn. Đằng sau bức tranh nghệ thuật đẹp, lãng mạn mà anh tưởng
là toàn thiện, toàn mĩ kia hóa ra lại ẩn chứa một hiện thực đời sống đầy nghiệt ngã,
đáng sợ. Và đó là chính là tính hai mặt của hiện thực đời sống.
3. Ý nghĩa của phát hiện (Nhận xét về tình huống nhận thức trong tác phẩm)
Những khám phá, phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong đoạn trích và tác phẩm
đã bộc lộ một tình huống truyện vô cũng độc đáo, có tính nhận thức về đời sống và
nghệ thuật. Thông điệp nhận thức được thể hiện sâu sắc khi giúp người đọc nhận
ra:
Cuộc sống hóa ra vốn chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và
trái, xa và gần… nhiều khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng
chứa đầy những mâu thuẫn, đối lập. Bởi vậy con người không được nhìn cuộc đời
bằng cái nhìn đơn giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để khám
phá ra bản chất thật của đời sống.
Những khám phá, phát hiện ấy còn giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa
hiện thực đời sống và nghệ thuật. Con thuyền nghệ thuật thì lãng mạn, lung linh
huyền ảo nhưng ở rất xa, còn cuộc đời đôi khi rất nghiệt ngã lại ở rất gần. Người
nghệ sĩ chân chính không chỉ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều để phát hiện ra
bản chất thật của đời sống mà còn phải đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời. Bởi
nghệ thuật chân chính là cuộc đời và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ biết rung động
trước cái đẹp trước hết phải là người biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời.
Vậy là Phùng đã nhận ra một điều mà có lẽ từ đó sẽ thay đổi cái nhìn của
anh về lao động nghệ thuật và khẳng định quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Nghệ
thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phải phản ánh chân thật cuộc sống.
Nghệ thuật đích thực không thể xa rời cuộc đời, dù cuộc đời đó có đau đớn, trần
trụi bao nhiêu. Vì nghệ thuật sẽ không là gì nếu nó không phục vụ cho cuộc
sống và làm cho nó tốt hơn lên. Nghệ thuật chỉ có thể sống được và xanh tươi
khi nó thực sự bám rễ vào cuộc đời. Nói như Biêlinxki thì văn học “trước hết là
cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Chi tiết Phùng vứt bỏ chiếc máy ảnh mà lao
vào giúp đỡ người đàn bà đã khẳng định rõ thêm điều này.
3. Đánh giá
Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một
tình huống truyện khá độc đáo. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết
hợp với cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật khắc họa nhân vật sắc sảo, ... Điểm nhìn
linh hoạt bởi truyện được kể ở ngôi thứ nhất xưng "tôi", và người kể chuyện chứng
kiến lại toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối, ít có sự tham gia của các nhân vật
khác. Người kể chuyện mang đặc điểm của người nghệ sĩ đang đi tìm cái đẹp theo
một chủ đề: sự hài hòa trong yên tĩnh của con người và thiên nhiên khiến người
đọc nhận ra nhiều điều về cuộc sống và mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật.
Bức tranh người nghệ sĩ chụp được tưởng là bức tranh tĩnh vật thì nó lại rất động
với trạng thái phức tạp, nhức nhối của nó. Tình huống truyện giúp ta hiểu rõ hơn về
các nhân vật, làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn và chứa đựng giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo sâu sắc:
+ Giá trị hiện thực: Sau khi đất nước hòa bình thống nhất, cuộc sống đã tốt
đẹp hơn rất nhiều nhưng đâu đó vẫn còn những khoảng tối hoặc tranh sáng tranh
tối. Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia
đình. Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hy sinh gian
khổ nhưng cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go,
lâu dài, cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền và cộng đồng.
+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau
khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội. Lên án, đấu
tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình. Phát hiện, ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của người lao động và hướng đến một cuộc sống tốt đẹp
hơn.
Đoạn số 2
Phân tích số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng
chài được nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện trong đoạn trích sau:
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:
- Con lạy quý toà...
- Sao, sao?
- Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc
bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi
cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không
khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc
ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng toà án đã bố trí
sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng.
- Chị cứ ngồi nguyên đấy! – Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người
bảo vệ công lí vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách
một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh
án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi, với mấy vết
thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.
- Tuỳ bà! – Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề
ngoài của một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hoà
thuận...
Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào
chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.
- Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn
thiết - Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các
chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của
các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Ngữ văn 12, Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 74)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà…khó nhọc” đã giúp người
đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó thấy được vẻ đẹp khuất lấp của
nhân vậy và góp phần thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là
hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng
chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan
niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu
đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật
phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất.
Tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là để có thể xuất bản một
bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có
sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển
từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu
là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm
ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời
cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của
một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước
cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong
giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã “khám phá ra chân lý
của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đó là niềm
hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự của nghệ
thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào
ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc
mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước
xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là
một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình
khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn ông
hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ
như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt
lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn
ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành
cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ
im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng
chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình
đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn ông và người đàn bà vì thương
mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai
cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh
án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn
bà được bộc lộ rõ nét.
2. Số phận và vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn
trích
2.1. Số phận:
Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc vẫn không biết tên của
người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà
hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị....như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô
đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc
đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những
miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là
hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó
trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh
của cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải
thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho
các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Số phận, cuộc đời của chị được tác giả tái
hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn khi chị đến toà án
huyện.
Vì lạc hậu, ít học, nghèo khổ và hơn nữa có thể do bị bạo hành thường xuyên
nên người đàn bà xuất hiện ở tòa án trong dáng vẻ và hành động đầy tự ti, rụt rè
đến tội nghiệp. Chị xưng là con, gọi chánh án Đẩu là quý tòa, thậm chí còn có hành
động chắp tay lại vái lia lịa. Khi nhận ra Phùng là người đã chứng kiến câu
chuyện, chị nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt. Có lẽ, chị nghĩ
rằng tòa sắp xếp Phùng đến đây làm nhân chứng.
Đoạn số 3
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà chép miệng…ăn no” đã
giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó cảm nhận sâu sắc hơn
được vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong văn học.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là
hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng
chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan
niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã
tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải
bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương
mất mát.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng
khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với
cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng
quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh
có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần
mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho,
cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như
“một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và
toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại,
bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã
“khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai
trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh
của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp
như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ
thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích
mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia
đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Lão đàn
ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn bạo. Trong cơn giận dữ
như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để dùng chiếc thắt
lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn ông còn
ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành
cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ
im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng
chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình
đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn ông và người đàn bà vì thương
mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi lão đàn ông tát cho thằng bé hai
cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ người đàn bà nên chánh
án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn
bà được bộc lộ rõ nét.
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích
2.1. Số phận bất hạnh:
- Không có tên tuổi, xấu xí: Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện
người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm
định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị....như
một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh,
là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác
không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng,
người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến
nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh
của cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải
thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho
các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Từ nhỏ chị đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ
mặt sau một bận lên đậu mùa. Vì xấu nên không ai lấy, chị có mang với người con
trai nhà hàng chài hay đến mua bả về đan lưới rồi thành vợ chồng, được anh ta
mang theo xuống sống dưới thuyền. Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ
có hạnh phúc và ấm êm nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam
lũ, bấp bênh, đau khổ càng làm cho diện mạo chị trở nên xấu xí và thô kệch, thể
hiện rõ qua hình ảnh lưng áo bạc phếch, gương mặt tái ngắt như buồn ngủ vì thức
trắng đêm kéo lưới, nửa thân dưới ướt sũng...Số phận, cuộc đời của chị được tác
giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn trong câu
chuyện của chị với Phùng và Đẩu ở toà án huyện.
- Nghèo khổ: Nghèo khổ, làm ăn khó nhọc lại còn đông con, cả gia đình hàng
chài trên dưới mười người phải sống chung trên con thuyền chật chội. Theo lời chị
“từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm
động biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc
chấm muối…”
- Bị bạo hành: Không chỉ bị cái xấu, cái nghèo đói, lam lũ đeo đuổi mà
người đàn bà còn thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ. Như chánh án Đẩu
nhận xét trước đó thì “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước
không có một người chồng nào như hắn”. Còn theo lời người đàn bà thì Bất kể lúc
nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống
rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Nếu như ở các đoạn văn
trước, người đọc chỉ thấy người đàn bà bị chồng đánh tàn độc thì qua lời người đàn
bà trong đoạn trích đã biết thêm việc chị bị chồng đánh là hoàn toàn vô lí. Chị
không có lỗi lầm gì nhưng lão đàn ông vẫn có thể đánh chị bất cứ lúc nào. Có lẽ,
người đàn bà bị đánh nhiều đến mức khiến chị nghĩ việc chị bị chồng đánh là lẽ
đương nhiên như những đàn ông hàng chài khác uống rượu, bị chồng đánh như
một phần quen thuộc của cuộc đời.
- Nỗi đau về tinh thần: Ngoài nỗi khổ vì vật chất, sự đau đớn về thể xác,
người đàn bà còn phải chịu nỗi đau về tinh thần. Thật đau đớn biết bao khi người
mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó
“Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”.
Việc những đứa con phải chứng kiến cảnh mẹ bị đánh khiến người đàn bà cảm
thấy xấu hổ, nhục nhã và đau đớn. Hơn nữa, chị lo lắng liệu khi những đứa con
nhìn thấy cảnh bạo lực ấy tâm hồn non nớt của chúng sẽ ra sao? Chúng sẽ nghĩ gì
về bố và mẹ? Sau này lớn lên liệu chúng có giống bố không? Chị đã cố giữ gìn một
mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui sống, tâm hồn chúng
không vẩn đục nhưng chị hoàn toàn bất lực.
=> Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn,
khốn khổ, không có sự che chở yêu thương. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất
học và lạc hậu. Số phận đầy bi kịch ấy của chị được tác giả tái hiện đầy cảm thông
và chia sẻ.
2.2. Vẻ đẹp của người đàn bà trong đoạn trích
Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự
tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy
mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng
một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà
văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá,
phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ
nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng
và ngợi ca.
* Thấu hiểu chồng, vị tha cao thượng
Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người
đàn bà hiểu rõ nguyên nhân mình bị chồng đánh. Chị hiểu, lão đàn ông đánh mình
không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia
đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến
người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như
một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng
nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con, trước Phùng và Đẩu.
Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy
kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không
chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Thấu hiểu chồng phải làm ăn
lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về
mình cho rằng mình chính là nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ “Giá tôi
đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” và ”nhưng cái lỗi
chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thậm chí, chị sẵn
sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.
* Thương con:
Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn
ác và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi
người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà
chủ yếu là vì chị thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là
tất cả những gì chị có trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có
người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con
trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài không sống như trên đất
được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn lớn “Đàn bà ở
thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất
được”. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam chịu
những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm chí, chị
coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện
đương nhiên. Cũng vì thương con, sợ con bị tổn thương nên chị mới xin chồng lên
bờ đánh. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ
nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc
sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị
nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng
thật dễ hiểu.
* Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời
Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với
người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất
học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Sự trải đời ấy
của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những
hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của
chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện
đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và
sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người
từng trải với con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình. Chị hiểu thiện chí của Phùng
và Đẩu khi khuyên mình bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song chị càng hiểu hơn
về thực tiễn đời sống trên sông nước. Chị chắt lọc từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ
một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị muối mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng
chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”.
Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng
vũ phu tàn bạo. Chị cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông
trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên
phải gánh lấy cái khổ”. Người đàn bà quê mùa, thất học còn chỉ cho Phùng và Đẩu
bất cập trong chính sách, chủ trương của của chính quyền là Làm nhà trên đất ở
một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp
đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được! Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ
lẽ và “ngộ” ra bao điều.
Đoạn số 4:
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, qua con mắt của Phùng và lời
kể của người đàn bà, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã viết về nhân vật người
đàn ông như sau:
(…)Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền.
Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày
cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm
lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước
sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn
màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi.
Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra
ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có
lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn
xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một
chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ
đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng
chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng
hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng
cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ!”(…)
(…)- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? Tôi bỗng hỏi một câu như
lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ túng quẫn vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ
ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ
nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền
khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn
lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu,
Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2017)
Cảm nhận của anh/ chị về hình ảnh người đàn ông trong lời kể trên. Từ
đó, nhận xét về cảm hứng thế sự thể hiện trong tác phẩm.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích kể về người đàn ông đã giúp người đọc
hiểu thêm về nhân vật, từ đó thấy được cảm hứng thế sự được thể hiện rõ qua tác
phẩm.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là
hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng
chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan
niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã
tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải
bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương
mất mát.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng
khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với
cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng
quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh
có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần
mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho,
cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như
“một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và
toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại,
bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như đã
“khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai
trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh
của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp
như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ
thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích
mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia
đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt và đau đớn. Người
gây ra cảnh bạo lực tàn bạo ấy chính là người đàn ông. Vậy ông ta là người thế nào
mà lại đánh vợ như vậy? Đọc tác phẩm, ta có thể nhận thấy nhân vật người đàn
ông xuất hiện qua đôi mắt quan sát và miêu tả của Phùng và qua lời kể của người
đàn bà. Chừng đó thôi cũng đủ để người đọc hiểu về nhân vật một cách rõ nét.
2. Nhân vật lão đàn ông qua cái nhìn của Phùng
2.1. Ngoại hình
Người đàn ông xuất hiện đầu tiên trước người đọc khi ông ta cùng người đàn
bà bước từ dưới thuyền lên, ông ta quát đứa con đang ở dưới thuyền “Cứ ngồi
nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đó đâu phải là lời của một con
người bình thường với người khác, nhất là với những người thân của mình. Đó là
lời nói của một người gia trưởng tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác,
miệng ra là đòi giết, là muốn người ta chết… Cùng với lời nói cộc cằn, thô lỗ, thất
học thể hiện sự tàn ác, lão đàn ông xuất hiện trong đoạn trích với những nét ngoại
hình “Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi
chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai
con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách
rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”. Những nét ngoại hình vừa làm
toát ra vẻ tàn độc vừa thể hiện vẻ lam lũ, khắc khổ, hé lộ những điều ẩn khuất
trong cuộc đầy những lo toan, vất vả, cực nhọc của lão.
3. Hành động bạo lực (tội nhân)
Đúng như dáng vẻ bề ngoài, hành động của lão cũng rất cục cằn, dữ tợn, tàn
ác. Hành động đánh vợ của gã đàn ông diễn ra một cách thô bạo “lập tức trở nên
hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy
ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng
rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp
vào lưng người đàn bà”. Theo suy nghĩ thông thường, một người đàn ông là trụ
cột gia đình phải yêu thương vợ con, lo lắng và chở che cho gia đình của mình.
Nhưng ở đây, người đàn ông không những không bảo vệ vợ con mà còn hành hạ
họ. Lão lấy vợ mình ra để trút bỏ cơn tức giận như lửa cháy, đối xử thú tính như
đối với một kẻ thù của thời trung cổ khiến cho người đàn bà phảichỉ biết cam chịu,
phải nhẫn nhịn, chịu nhục nhã. Bấy thôi cũng quá đủ để nói lên tính cách dữ tợn,
vũ phu và độc đoán, vô lương tâm của người đàn ông.
Đi đôi với hành động trên là những lời chửi mắng độc địa của ông ta về người
vợ “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát
quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho
ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Lão nguyền rủa vợ con một cách
nghiệt ngã bằng lời lẽ của kẻ thất học, vô văn hóa, tàn ác đã đành và nhưng hơn
nữa lời nói ấy còn có nghĩa lão nhìn nhận vợ con là gánh nặng cuộc đời. Vợ là
gánh nặng nên “mày chết đi cho ông nhờ”, con cũng là nợ đời nên “chúng mày
chết hết đi cho ông nhờ”.
Đáng trách hơn là sự tàn độc của người đàn ông không chỉ là sự bộc phát mà
nó đã diễn ra rất thường xuyên "Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.
Cả nước không có một người chồng nào như hắn". Những lời nói và hành động
mất hết nhân tính ấy khiến Phùng hay bất cứ ai chứng kiến đều cảm thấy phẫn nộ,
giận dữ, không hiểu vì lí do gì mà người đàn ông ấy có thể ra tay độc ác đến vậy.
4. Người đàn ông là nạn nhân
Qua sự quan sát và miêu tả của Phùng về người đàn ông thuyền chài, ai cũng
đều căm ghét cái thói vũ phu, đánh đập tàn bạo vợ con của hắn. Nhưng lắng nghe
câu chuyện của người đàn bà với Phùng và Đẩu ở tòa án chúng ta nhận thấy ngay
câu chuyện không đơn giản, Người đàn bà đã cho ta thấy một mặt khác ở người
đàn ông, đó là ông ta còn là một kẻ đáng thương.
Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như
muốn quy kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời
ngay “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Qua lời người đàn
bà, trước bảy nhăm, người đàn ông này không đi lính ngụy mà trốn quân dịch. Lúc
bấy giờ, anh ta “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, không bao giờ
đánh vợ con, không biết uống rượu, không biết hút thuốc…, đó là mẫu đàn ông lí
tưởng. Nhưng cũng chính vì trốn lính mà sinh ra nghèo đói, túng quẫn. Câu nói
Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà hiểu rõ
nguyên nhân vì sao lão đàn ông lại đánh vợ. Người đàn bà hiểu rõ, lão đàn ông
đánh mình không phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu
sinh của gia đình hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn
ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông
đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như những người đàn
ông hàng chài khác uống rượu. Như vậy, nếu trong con mắt của Phùng, Đẩu người
đàn ông là một kẻ độc ác, không có tính người thì với người đàn bà hàng chài, ông
ta không chỉ là người chồng mà còn là một ân nhân, một nạn nhân. Ngày còn trẻ,
người đàn bà xấu xí lại rỗ mặt do bị bệnh đậu mùa nên khó lấy được chồng. Khi ấy
người đàn ông hàng chài đã chấp nhận cưu mang và ban đầu đã mang đến cho
người đàn bà ấy một cuộc sống gia đình đúng nghĩa. Bạo lực, độc ác của lão đàn
ông không phải do tính cách bẩm sinh mà chủ yếu do cảnh ngộ xô đẩy. Người đàn
ông hóa ra cũng là nạn nhân của cuộc sống thời hậu chiến. Những áp lực vô hình
của cuộc sống đã biến ông ta trở thành một kẻ độc ác, ích kỉ, nhẫn tâm ngay cả với
những người thân yêu nhất của mình.
Tính chất lưỡng phân ở nhân vật lão đàn ông, vừa đáng giận vừa đáng thương,
vừa là nạn nhân vừa là tội nhân, còn được thể hiện rõ qua nhiều chi tiết trong đoạn
trích: Hành động vừa quất tới tấp cái thắt lưng lính ngụy vào lưng vợ, vừa thở hồng
hộc vừa nghiến răng ken két cho thấy cách “thở hồng hộc” đúng là vũ phu rồi.
Nhưng còn tiếng nghiến răng “ken két” cùng “cái giọng rên rỉ đau đớn” kia thì phải
chăng có cả sự đau đớn, xót xa. Giận đời, giận vợ, giận cả mình nữa. Tất cả biến
thành phẫn nộ vì bế tắc, cùng đường, thể hiện bằng ngôn ngữ của chiếc thắt lưng
da. Nhìn vào ngoại hình khắc khổ và giọng điệu rên rỉ đau đớn khi buông những
lời chửi mắng tàn tệ có thể thấy ông ta cũng rất đau khổ. Đau khổ vì nghèo, vì bất
lực trước cuộc sống đói nghèo, bế tắc. Không ai có thể phủ nhận sự độc ác trong
hành động, lời nói của người đàn ông thế nhưng cũng cần nhìn nhận một cách công
bằng, vì ở một khía cạnh nào đó, dù khổ cực, bần cùng thì ông ta vẫn có trách
nhiệm với gia đình, cố gắng cáng đáng mà không bỏ rơi vợ con. Lão đàn ông dù có
vũ phu, nguyền rủa vợ con nhưng trên hết ông ta vẫn là người có sức khỏe, có đủ
khả năng chèo lái con thuyền trước những bão going, là chỗ dựa của người đàn bà
và những đứa con. Trong đoạn trích, người đàn bà còn kể “Sau này con cái lớn
lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc lão đàn ông chấp
nhận lời cầu xin ấy của vợ cho thấy trong sâu thẳm ở ông ta tình phụ tử vẫn còn
tồn tại, vẫn còn chút lương tri như bản chất lương thiện ban đầu.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật
Nghệ thuật xây dựng tình huống nhận thức, miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc
qua ngôn ngữ sắc sảo, chọn chi tiết độc đáo. Nhân vật người đàn ông thuyền chài
được tác giả đặt vào nhiều góc nhìn khác nhau của các nhân vật. Nhờ vậy, mà nhân
vật này dù chỉ xuất hiện “thoáng qua” nhưng diện mạo, ngôn ngữ, hành động, tính
cách cục cằn, tàn nhẫn cũng như bản chất của lão được bộc lộ một cách toàn diện,
rõ nét và khách quan. Một thành công nữa của Nguyễn Minh Châu là đã học tập ở
nhà văn Nam Cao trong việc diễn tả hiện tượng lưỡng tính (tính chất lưỡng phân) ở
nhân vật người đàn ông thuyền chài: vừa tàn nhẫn nhưng cũng vừa đau đớn, khốn
khổ, vừa là tội nhân vừa là nạn nhân…
3.2. Nhận xét về ý nghĩa đoạn trích
Qua hình ảnh người đàn ông hàng chài trong đoạn trích, nhà văn Nguyễn
Minh Châu thể hiện quan niệm về cuộc sống, con người và cảm hứng nhân đạo
trong ngòi bút của mình. Từ nhân vật người đàn ông ta thấy rõ ràng, không thể
nhìn người và nhìn đời một phía. Trước mọi sự vật, hiện tượng nói chung và cuộc
sống con người nói riêng, chúng ta cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Phải
tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến những hành vi của con người trước
khi kết luận về tính cách hay phán xét họ. Đúng như nhà văn Nguyễn Minh Châu
đã từng tâm sự: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và
nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.
Qua đó, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với hiện thực
cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái nhìn
đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người. Tác
phẩm vì vậy góp phần thể hiện phong cách truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
Đoạn số 5:
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau:
“Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất
bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi
vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất la trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái
lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng
hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn
lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là
một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo
bạc phết có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo
lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc
chắn, hòa lẫn trong đám đông…”
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, SGK Ngữ văn 12,
tập 2, NXB Giáo dục, tr 77,78)
Bài làm
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Nguyễn Minh Châu là người luôn trăn trở về số phận
của con người và trách nhiệm của nhà văn trong cuộc đời. Thành công của truyện
ngắn được tạo nên bởi những hình ảnh, chi tiết ấn tượng, giàu giá trị biểu đạt, trong
đó nổi bật nhất có thể kể đến chi tiết “tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm”
qua đoạn văn ngắn cuối tác phẩm. Đây là chi tiết đắt giá thể hiện được quan niệm
về cuộc sống và nghệ thuật của tác giả và có thể khơi dậy ở người đọc nhiều chiêm
nghiệm sâu xa.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là
hạt nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng
chỉ qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan
niệm như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã
tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống nhận thức ấy, nhà
văn khám phá và thể hiện nhiều điều về cuộc sống, về mối quan hệ giữa nghệ thuật
và đời sống.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng
phòng khó tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức
ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng,
Phùng quyết định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở
đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một
tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời
cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp
như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn
giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình
thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng
như đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong
ngần của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp,
nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ
đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con
thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách
toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp
và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác
và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng
sốt và đau đớn. Những ngày sau đó, Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn bà bị
đánh lần thứ hai, anh muốn ngăn cản nên đã lao vào đánh người đàn ông và bị
thương nhẹ. Chánh án Đẩu và Phùng có khuyên người phụ nữ ấy nên ly hôn, tuy
nhiên người đàn bà đã kiên quyết không chịu bỏ chồng. Rồi người đàn bà kể cho
Phùng và Đẩu nghe câu chuyện cuộc đời mình để từ đây Phùng và Đẩu đã ngộ ra
nhiều điều về cuộc sống và nghệ thuật.
2. Tấm ảnh được chọn
Tấm ảnh được nhắc đến trong đoạn trích là bức ảnh Phùng chụp được trong
buổi sáng hôm ấy. Đó là bức ảnh tĩnh vật với cảnh thuyền và biển vào buổi sáng có
sương mù. Tấm ảnh Phùng chụp được trưởng phòng rất ưng ý “Những tấm ảnh tôi
mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.” Sự đánh
giá cao của cấp trên xứng đáng với công sức Phùng đã bỏ ra để “phục kích” nhiều
ngày mới chụp đựơc tấm ảnh đó cũng như tài năng của anh. Không những thế, nó
trở thành bức ảnh có giá trị nghệ thuật cao, có giá trị lâu bền “không những cho bộ
lịch năm ấy mà mãi mãi về sau”. Tấm ảnh được nhiều người rất yêu thích, được
“treo rất nhiều nơi trong các gia đình sành nghệ thuật”. Tấm ảnh đó đã khẳng
định tài năng, nâng cao uy tín của người nghệ sĩ trên hành trình khám phá cái đẹp
và việc nhiều người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh của Phùng cũng là điều dễ
hiểu. Có lẽ, những người yêu nghệ thuật thực sự đã nhận ra bức ảnh đẹp toàn bích,
đáng để cho họ thưởng thức và treo ở nơi sang trọng nhất trong nhà.
Mỗi khi nhìn lại vào tấm ảnh năm ấy, dù là ảnh đen trắng nhưng Phùng vẫn
nhìn thấy màu hồng hồng của ánh ban mai, nhìn thấy hình ảnh người đàn bà làng
chài lam lũ, như đang bước ra khỏi tấm ảnh. Nhà văn viết: Quái lạ, tuy là ảnh đen
trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương
mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi
cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà
vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phết có miếng
vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ
bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong
đám đông…”.
Với rất nhiều sự băn khoăn day dứt nên Phùng luôn “ ngắm kĩ”, “nhìn lâu
hơn” để mỗi lần như thế anh lại không chỉ rung động trước cái đẹp mà còn bị ám
ảnh bởi hình ảnh người đàn bà nghèo khổ lam lũ. Cái “màu hồng hồng của sương
mai” chính là biểu tượng cho cái đẹp lãng mạn của cuộc đời, là chất thơ của cuộc
sống và đó cũng chính là biểu tượng cho vẻ đẹp của nghệ thuật. Qua đó nói lên ngụ
ý của nhà văn nghệ thuật cần có chút lãng mạn trong bề sâu tác phẩm. Và hình ảnh
người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức tranh là hiện thân cho cuộc đời thực nhiều
sóng gió, phũ phàng. Qua hai hình ảnh ấy, người đọc nhận ra hóa ra đằng sau vẻ
đẹp trong trẻo, thánh thiện, thơ mộng của cái màu hồng hồng ánh sương mai kia
chính là hiện thực bi đát của cuộc đời, cuộc sống lam lũ, khổ đau của người hàng
chài nói riêng và người lao động nghèo sau chiến tranh nói chung. Tấm ảnh nghệ
thuật “chiếc thuyền ngoài xa” đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài. đằng sau nó là
cuộc sống rách rưới, đói nghèo, khổ đau của con người.
Qua những khám phá, phát hiện của Phùng khi ngắm nhìn bức ảnh của mình
ở cuối truyện tác giả Nguyễn Minh Châu gửi gắm đến người đọc thông điệp nhận
thức:
+ Thông điệp thứ nhất là về cách nhìn cuộc đời, con người: Cuộc sống vốn
chứa đầy những nghịch lí giữa trong và ngoài, phải và trái, xa và gần… Cái đẹp
ngoại cảnh có khi che khuất cái xấu của đời sống Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp
bị khuất lấp. Cuộc sống nhiều khi thường "đánh lừa" ta như thế. Hơn nữa, nhiều
khi trong cùng một sự vật, một sự việc, một con người cũng chứa đầy những mâu
thuẫn, đối lập. Bởi vậy, con người không được nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đơn
giản, một chiều mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phải có con mắt tinh
tường nhìn thấu gan ruột để khám phá, phát hiện ra bản chất thật của đời sống.
+ Thông điệp thứ hai là về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Thông
qua hai hình ảnh đầy ám ảnh trong bức ảnh, nghệ sĩ Phùng đã thể hiện những nhìn
nhận đúng đắn về bản chất đích thực của nghệ thuật. Không thể có nghệ thuật
thuần túy, nghệ thuật vị nghệ thuật mà cái đích tối cao của nghệ thuật là nghệ
thuật vị nhân sinh. Nghệ thuật chân chính phải bắt nguồn từ cuộc sống dẫu có
nhọc nhằn, lam lũ, thậm chí là khổ cực và cay đắng và quay lại phục vụ cho cuộc
sống, phải dành ưu tiên trước hết cho con người, góp phần giải phóng con người
khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực, làm thay đổi cuộc sống theo
hướng tốt đẹp hơn. Đúng như chính nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Văn học
và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Mỗi tác
phẩm nghệ thuật thật sự đều phải bắt nguồn từ cuộc sống, không được tách rời
cuộc sống. Người nghệ sĩ chân chính phải có tấm lòng biết trăn trở về số phận
con người; phải nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và phải
dũng cảm, trung thực nhìn thẳng vào hiện thực, biết rút ngắn khoảng cách giữa
nghệ thuật và cuộc đời. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính
phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ
ngoài đẹp đẽ, lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sự trải
nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.
Quan niệm về đời sống và mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống ấy của
Nguyễn Minh Châu đã được cụ thể hóa qua nhân vật Phùng và bức ảnh được chọn
trong đoạn trích. Với tư cách là một con người, Phùng là cũng là một con người
chân chính, biết yêu thương, nâng đỡ cái yếu, căm ghét cái ác, có nhưng trăn trở,
băn khoăn, lo lắng trước nỗi đau khổ của những con người bất hạnh. Với tư cách
người nghệ sĩ Phùng đã nhận ra chân lí của nghệ thuật và thực hiện được sứ
mệnh, thiên chức của người nghệ sĩ, có cái tâm với nghề, đáng để người ta
kính phục. Thế nhưng, trước sự thực cuộc đời đầy cay đắng, phức tạp đôi khi
người nghệ sĩ ấy còn “ngây thơ” và có những lẽ ngang trái cuộc đời, anh không thể
làm gì để thay đổi nên có những điều khiến anh luôn phải trăn trở, day dứt thành
nỗi ám ảnh. Còn bức ảnh nghệ thuật được nhắc đến trong đoạn trích đã
chuyển tải được thông điệp nghệ thuật sâu sắc nên nó trở thành bức ảnh nghệ
thuật mẫu mực, là nghệ thuật thăng hoa được công chúng đón nhận.
+ Tấm ảnh ấy cho ta thấy rõ trái tim nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh
Châu. Không chỉ trăn trở về cuộc sống nghèo đói, nhìn thấy vẻ đẹp của người lao
động giữa cát bụi thô nhám của cuộc đời đầy sóng gió mà nhà văn còn quan tâm,
thể hiện niềm tin vào tương lai của họ. Mỗi lần xem lại bức ảnh, Phùng thấy người
đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh. Những bước đi chắc chắn và hòa lẫn vào đám
đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của Phùng về sự hòa nhập của
người lao động trong hành trình đi lên của cuộc sống.
3. Đánh giá
Kết thúc truyện cho thấy tác phẩm được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn:
mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm
nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện. Giọng văn trầm lắng, suy tư, triết lí, nhiều
dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ cùng lối kết thúc mở độc đáo, gợi nhiều suy nghĩ ở
người đọc như một khúc vĩ thanh không chỉ khép lại câu chuyện mà còn mở ra một
hướng mới cho số phận của con người; chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa biểu tượng;
cách kể chuyện hấp dẫn từ cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp làm cho câu
chuyện gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục…
Đoạn văn miêu tả bức ảnh nghệ thuật gợi bao thức nhận đầy đau đớn và sâu
sắc và chỉ một đoạn văn ngắn nhưng đã tổng hợp lại toàn bộ ý đồ nghệ thuật của
tác giả.
“Có ai đó đã ví sáng tạo nghệ thuật như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao
nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Ý tưởng ấy gợi cho ta
nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Nhìn
vào một số tác phẩm văn học lớn, chúng ta thấy rõ mối quan hệ máu thịt này.”
(Muốn viết được bài văn hay – Chủ biên: Nguyễn Đăng Mạnh)
+ “Văn học là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời
là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu)