You are on page 1of 32

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Nguyễn Minh Châu

Nguyễn Minh Châu là một người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, tha thiết
kiếm tìm “hạt ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm hồn con người”. Trước năm 1975,
Nguyễn Minh Châu được biết với những tác phẩm đậm chất sử thi như: “Cửa sông”,
“Miền cháy”, “Dấu chân người lính”. Thế nhưng, sau 1975, chính Nguyễn Minh Châu
lại là người đi đầu trong công cuộc đổi mới văn học. “Chiếc thuyền ngoài xa” được in
năm 1983 là một bước dài đáng trân trọng trong hành trình khám phá vào tầng chìm,
vào chiều sâu của cuộc sống và con người của văn xuôi Nguyễn Minh Châu.

I. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM

1. Tác giả Nguyễn Minh Châu

Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An.

Bén duyên với nghiệp cầm bút từ năm 1960, tác giả đã đóng góp một lượng
truyện ngắn không hề nhỏ cho văn đàn dân tộc, tác phẩm của ông có nhiều giá trị
nghiên cứu và làm cho kho tàng văn học nước nhà trở nên phong phú vô cùng.

Thật hiếm thấy một nhà văn nào như Nguyễn Minh Châu, ông cả đời chỉ viết về
nhân vật trong thời kỳ chiến tranh và đi tìm những vẻ đẹp cất giấu bên trong nội tâm
của con người. Ngòi bút và cái nhìn của tác giả có nhiều mới mẻ, để lại một ấn tượng
sâu đậm trong lòng bạn đọc.

Với hai chặng đường sáng tác ở hai giai đoạn văn học trước và sau 1975, Nguyễn
Minh Châu có những đóng góp to lớn cho nền văn học hiện đại. Các tiểu thuyết và
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975 khá tiêu biểu cho thành tựu, đặc điểm
và giới hạn của nền văn học sử thi thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt, sau 1975
Nguyễn Minh Châu là một trong những “người mở đường tinh anh và tài năng nhất”
(Nguyên Ngọc) của công cuộc đổi mới văn học.

Là nhà văn trưởng thành từ quân đội sau những năm 1975, Nguyễn Minh Châu
dần khẳng định được vị thế của mình trên bầu trời văn chương bằng ngòi bút bóc tách
những khía cạnh của cuộc sống. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, tiếng súng chiến
tranh ngừng nổ trên bầu trời Việt Nam, đất nước ta đã hoàn toàn được thống nhất, thời
thế đã thay đổi tất yếu tư tưởng của các nghệ sĩ cũng phải đổi thay. Nguyễn Minh Châu
là người đã đi đầu trong công cuộc lột xác văn chương, khép lại cảm hứng lãng mạn –
sử thi và mở ra cảm hứng thế sự. Đặc điểm của tác phẩm mang cảm hứng thế sự là
hướng về sinh hoạt hàng ngày của con người khẳng định giá trị thẩm Mỹ của cái đời
thường đi sâu khám phá hành trình của con người giữa một thực tại ngổn ngang nhằm
tìm kiếm hạnh phúc và khẳng định nhân cách…

Ở Nguyễn Minh Châu, sự đổi mới mạnh mẽ trong ý thức nghệ thuật luôn đi liền
với những tìm tòi đổi mới trong sáng tác của nhà văn. Người đi tiên phong ấy không
tránh khỏi những khó khăn nguy hiểm, thiệt thòi và sự đơn độc trong những bước khởi
đầu của hành trình tìm kiếm mở đường. Điều quan trọng là Nguyễn Minh Châu “với
sự dũng cảm rất điềm đạm” (Vương Trí Nhàn) đã kiên trì dẫn bước trên con đường đã
chọn của mình. Và ông xứng đáng là “người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền
văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ sau này”.
(Nguyễn Khải).

Những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong vai trò người mở đường cho
công cuộc đổi mới văn học được thể hiện chủ yếu ở các phương diện sau:

- Đổi mới ý thức nghệ thuật


- Mở rộng quan niệm về hiện thực và mối quan hệ giữa văn học với đời sống
- Ý thức cao độ về bản lĩnh và trách nhiệm của nhà văn, về tự do sáng tạo của
người nghệ sĩ.
- Đổi mới cách nhìn và sự khám phá, thể hiện về con người.
- Những tìm tòi đổi mới trong nghệ thuật tự sự.

Là một nhà văn luôn đau đáu về số phận con người sứ mệnh của người nghệ sĩ,
ông tâm sự rằng: “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng
trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người
nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan
hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình
yêu lớn ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất
hạnh của người đời, giúp họ vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước
cuộc sống.”
Nguyễn Minh Châu còn đòi hỏi rất cao về trách nhiệm của những người cầm
bút: “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: Để làm công việc giống như kẻ nâng
giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến
chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn
mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời, để bênh vực cho những con người không có ai để
bênh vực.” Đích đến cuối cùng của tác giả và tác phẩm luôn là con người, đặc biệt là
những mảnh đời cơ cực đau khổ. “Văn học và cuộc sống là những vòng tròn đồng tâm mà
tâm điểm là con người.”

Với một trái tim chỉ biết trăn trở cho những kiếp người cùng khổ và đau đáu về
sứ mệnh nhà văn, Nguyễn Minh Châu đã trung thành theo đuổi một đời văn sống và
viết vì con người. Sau những năm tháng tháng trầm và nhiều biến động lịch sử, văn
chương của ông vẫn mang một sức sống bền bì và những giá trị không thể nào thay thế.

Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nói: “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc
những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho
những cây bút trẻ tài năng sau này”. Những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu luôn
mang đậm tính triết lí khiến mỗi chúng ta không khỏi suy ngẫm về cuộc sống. Những
tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”
(1983), “Bến Quê” (1985), ... Và đặc sắc hơn cả có lẽ vẫn là tác phẩm “Chiếc Thuyền
Ngoài Xa” (1987), Những tác phẩm như thế này của Nguyễn Minh đã đưa ông lên vị trí
“Người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) và chúng sẽ mãi là những bản
tuyên ngôn trong thời kí đổi mới.

2. Tác phẩm

a. Vị trí

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất của nhà văn
Nguyễn Minh Châu. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đời tư – thế sự của Nguyễn
Minh Châu sau năm 1975. Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 1 tháng 10 năm 2007) cũng
chọn và coi đây là tác phẩm hay nhất của nhà văn.

b. Hoàn cảnh sáng tác


Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được sáng tác vào tháng 8/1983, lúc
đầu được in trong tập Bến quê, sau đó có vinh dự được nhà văn dùng để đặt tên cho cả
tập truyện ngắn, xuất bản năm 1987.

Năm 1983, đó là một thời điểm khá đặc biệt khi cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay
sai đã kết thúc thắng lợi, chúng ta trở về muôn mặt của đời thường. Và cũng trong thời
điểm này, cả dân tộc đang bước vào giai đoạn đổi mới, cho nên cuộc sống có nhiều điều
bất ngờ thú vị, có sức hút đối với văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Minh Châu.

Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai
trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Trong giai đoạn này, qua tác phẩm
Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã bộc lộ sự chuyển biến quan trọng trong sáng tác: từ
phong cách mang đậm tính chiến đấu, chuyển sang cảm hứng thế sự, cảm hứng nhân
sinh, ngòi bút của nhà văn hướng vào thể hiện con người trong hành trình nhọc nhằn
kiếm tìm hạnh phúc và bình yên. Truyện ngắn thực sự là một tác phẩm mang giá trị
nhân đạo sâu sắc, đồng thời giúp nhà văn gửi gắm được những thông điệp nghệ thuật
quan trọng.

c. Nhan đề

Chiếc thuyền ngoài xa là một nhan đề mang tính biểu tượng, hé mở tình huống
truyện, thể hiện chủ đề của tác phẩm. Nhan đề bao gồm đối tượng quan sát là “Chiếc
thuyền", cự li quan sát là “ngoài xa”, người quan sát là nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng. Cùng
một người quan sát, cùng một đối tượng quan sát, nhưng ở các cự li khác nhau sẽ cho
những kết quả khác nhau, dẫn đến nhận thức khác nhau.

Với nghĩa tả thực, Chiếc thuyền là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên đẹp và
cuộc sống sinh hoạt của người dân làng chài “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu
của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng
người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang
hướng mặt vào bờ.”

Thế nhưng, chiếc thuyền ngoài xa cũng là một hình ảnh mang ý nghĩa ẩn dụ về
mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là
không gian sinh sống của gia đình người hàng chài. Cuộc sống gia đình: đông con, khó
kiếm ăn, cuộc sống túng quẫn là nguyên nhân làm cho người chồng trở nên cục cằn, thô
lỗ và biến vợ thành đối tượng của những trận đòn. Những cảnh tượng đó, những thân
phận đó nếu nhìn từ xa, ở ngoài xa thì sẽ không thấy được.

Vì ngoài xa nên con thuyền mới cô đơn. Đó là sự đơn độc của con thuyền nghệ
thuật trên đại dương cuộc sống, đơn độc của con người trong cuộc đời. Chính sự thiếu
gần gũi, sẻ chia ấy là nguyên nhân của sự bế tắc và lầm lạc. Phùng đã chụp được chiếc
thuyền ngoài xa trong sương sớm – một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích, một chân lí
của sự toàn diện. Nhưng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, chứng kiến cảnh đánh
đập vợ của người đàn ông kia, anh đã kinh ngạc và vứt chiếc máy ảnh xuống đất. Anh
nhận ra rằng, vẻ đẹp ở ngoài xa kia cũng ẩn chứa nhiều oái oăm, ngang trái và nghịch
lí. Nếu không đến gần thì chẳng bao giờ anh nhận ra xa và gần, bên ngoài và sâu
thẳm… đó cũng là cách nhìn, cách tiếp cận của nghệ thuật chân chính.

Như thế, sau những nội dung cụ thể của tác phẩm, tác giả Nguyễn Minh Châu
đã mang đến cho chúng ta sự đối lập giữa cuộc đời và nghệ thuật. Nó giúp nghệ sĩ
Phùng giác ngộ được nhiều điều như: Phải nhìn nhận cuộc đời với nhiều chiều khác nhau và
phải đem nghệ thuật gắn với cuộc đời hơn. Dường như, đó cũng chính là bài học cuộc sống
cho mỗi chúng ta.

d. Chủ đề

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua tác phẩm Nguyễn Minh Châu
đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người
và gửi gắm chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải
luôn luôn gắn với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách
đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.

e. Tóm tắt truyện ngắn

Phóng viên Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, có niềm đam mê với nghề và
có một tâm hồn nhạy cảm, được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh về
cảnh biển có sương để bổ sung vào bộ ảnh lịch. Anh đến một vùng biển miền Trung
vào giữa tháng 7. Ngoài Đẩu, người đồng đội cũ giờ làm chánh án tòa án huyện, anh đã
quen thân với Phác, một cậu bé thường đi cùng ông ngoại chở gỗ từ trên rừng về bán
cho xưởng đóng tàu. Sau khoảng tuần lễ chưa chụp được bức ảnh ưng ý, tình cờ anh
thấy cảnh một chiếc thuyền ngoài xa, đang lái vó trong làn sương sớm "mũi thuyền in
một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng hồng
do ánh mặt trời chiếu vào, vài bóng người ngồi yên phăng phắc như tượng trên chiếc
mui khum khum đang hướng mặt vào bờ" tạo nên một khung cảnh "từ đường nét đến
ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích". Phùng nhanh
chóng bấm liên thanh một hồi, thu vào chiếc máy ảnh của anh "cái đẹp tuyệt đỉnh của
ngoại cảnh", một vẻ đẹp thật đơn giản nhưng đạt đến sự hoàn mỹ và toàn bích khiến
cho tâm hồn Phùng như được gội rửa và trong ngần trong khoảnh khắc.

Tuy nhiên, khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng chứng kiến một cảnh tượng nghiệt
ngã, phi thẩm mỹ: hai vợ chồng người dân chài bước vào bờ, người đàn bà mặt rổ dáng
người thô kệch, người đàn ông đôi mắt nhìn chằm chằm vào lưng người đàn bà đang đi
như một con gấu khổng lồ, rồi người chồng rút thắt lưng ra đánh vào lưng người đàn
bà tới tấp. Vừa đánh hắn vừa chửi chúng mày chết hết đi, chết hết đi cho ông nhờ, rồi
Phác, chính là đứa con của cặp vợ chồng kia, xông vào ngăn cản, đánh lại bố. Cảnh
tượng này những ngày sau đó lại tiếp diễn, chỉ khác là lần này khi lão đàn ông vừa rời
khỏi thuyền thì có thêm đứa con gái cũng bơi vào bờ, rượt theo em nó và giành được
con dao găm thằng bé giấu trong cạp quần. Phóng viên Phùng đánh nhau với lão đàn
ông và bị thương nhẹ. Tòa án gọi người đàn bà đến.

Tại đây, chánh án Đẩu vì căm giận người đàn ông vũ phu nhiều lần đánh vợ "ba
ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng", đã khuyên người đàn bà ly hôn, nhưng bà
ta còn xin Đẩu đừng bắt tù chồng bà mà hãy bắt bà bỏ tù. Nhưng không ngờ người đàn
bà đã van xin Đẩu con lạy tòa tòa đừng bắt con bỏ nó. Sau đó, chị kể lại cuộc đời, gia
cảnh của mình, lý do chị không muốn bỏ chồng vì gia đình họ cần một người đàn ông
để chèo chống lúc phong ba và nuôi cả một đàn con. Người đàn bà chấp nhận sống
nhẫn nhục trong sự ngược đãi của chồng là vì những đứa con. Một người đàn bà có
tình thương con vô bờ bến, sự cảm thông cho chồng, thấu hiểu lẽ đời đó chính là quyền
uy có sức công phá lớn nhất để cảm thông cả pháp luật mà một người lao động lam lũ
có được. Qua đó, chánh án Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống còn
phóng viên Phùng lại hiểu thêm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Cuộc đời
còn nhiều góc khuất mà nghệ thuật chưa vươn tới, ẩn chứa nhiều ngang trái oái oăm
mà khi đến gần mới có thể nhận được, chỉ có lòng tốt và kiến thức sách vở thì không thể
giải quyết được vấn đề thực tế, mà phải có một cái nhìn sâu sắc đa diện và nhiều chiều
về một vấn đề trong cuộc sống.
Tấm ảnh của Phùng trong năm ấy và nhiều năm về sau vẫn còn được treo ở
nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Nhưng cứ mỗi lần Phùng nhìn
bức ảnh, những ám ảnh, trăn trở về hình ảnh người đàn bà vùng biển lại đến với anh.

f. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm

Dựng lên sự đối lập giữa hình ảnh chiếc thuyền trên bức ảnh nghệ thuật và tấn
bi kịch của gia đình người ngư dân bên trong chiếc thuyền đẹp đẽ ấy, nhà văn thể hiện
rõ quan niệm nghệ thuật của mình: nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ
cuộc sống, phục vụ cuộc sống; tài năng và tấm lòng của người nghệ sĩ là những nhân tố
không thể thiếu được trong sự sáng tạo nghệ thuật.

Nguyễn Minh Châu đã không trực tiếp phát ngôn cho quan niệm nghệ thuật của
mình nhưng hệ thống nhân vật của tác phẩm và đặc biệt quá trình tự ý thức của người
nghệ sĩ nhiếp ảnh (ở đoạn kết) đã toát ra điều đó (xem phần trích tác phẩm). Bằng hành
động tự ý thức, Phùng đã nhận ra cái chưa đến được của mình để rồi đấu tranh tự hoàn
thiện. Đây cũng chính là khát vọng kết nối Chân – Thiện – Mĩ mà suốt đời nhà văn
Nguyễn Minh Châu luôn khao khát và tìm kiếm.

II. TÌM HIỂU CHI TIẾT

1. Tình huống truyện

Trong mỗi truyện ngắn thì thường có ba kiểu tình huống: tình huống hành động,
tình huống tâm lí - tâm trạng và tình huống nhận thức. Thành công của tác phẩm là đã
xây dựng lên được một tình huống nhận thức có tính luận đề mới mẻ, khác với các tình
huống trong các tác phẩm văn chương trước năm 1975. Bởi như Nam Cao đã từng nói
trong tác phẩm “Đôi Mắt”: “Hãy rũ bỏ đôi mắt cũ khi nhìn cuộc đời mới, bởi càng đi
nhiều, càng quan sát lắm anh sẽ chỉ cảm thấy chán nản hơn mà thôi”.

Sẽ rất thú vị nếu ta đọc Chiếc thuyền ngoài xa trong sự so sánh thường xuyên với
những truyện khác của Nguyễn Minh Châu hay của một số nhà văn khác được sáng tác
trong không khí sử thi của những ngày đánh Mỹ trước đây. Trong một tác phẩm truyện
ngắn, tình huống bao giờ cũng là yếu tố quyết định đến sự thành công của tác phẩm.
Tình huống truyện là một lát cắt về thời gian, là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một
sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của
tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.

Ngoài ra, tình huống truyện còn giúp tác giả tổ chức mạnh truyện linh hoạt và
xây dựng thành công tính cách của các nhân vật. Nếu tình huống hành động chủ yếu
nhằm tới hành động có tính bước ngoặt của nhân vật, tình huống tâm trạng chủ yếu
khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của nhân vật thì tình huống nhận thức chủ yếu
cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí nhân vật.

a. Tình huống được hé mở ngay trong nhan đề của tác phẩm

Nhan đề bao gồm đối tượng quan sát là “chiếc thuyền", cự li quan sát là “ngoài
xa”, người quan sát là nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Phùng quan sát và ngỡ ngàng chớp lấy
hình ảnh một cánh buồm mờ nhòa trong màn sương huyền ảo vào buổi sớm mai trên
mặt biển xa, vẻ đẹp hài hòa, toàn bích, cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh khiến nhiếp
ảnh Phùng bàng hoàng xúc động trong cảm nhận: Cái đẹp chính là đạo đức!

Như thế, chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thuật, là thứ
nghệ thuật đạt tới sự hoàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người
nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc. Thế nhưng, chiếc thuyền khi vào gần thì đó
chính là hiện thực, là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí là của những éo
le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.

Khi vào gần tới bờ, chiếc thuyền lại là hiện hữu của một không gian sống đầy bi
kịch của những người dân chài bị cầm từ bởi nghèo đói, tăm tối và bạo lực – một thực tế
khiến người nghệ sĩ kinh hoàng và phẫn nộ.

Sự đối lập tàn nhẫn giữa ngoại cảnh và hiện thực cuộc sống ở những cự li và góc
độ quan sát khác nhau đã khiến Chiếc thuyền ngoài xa trở thành một biểu tượng giàu ý
nghĩa. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng hiện thực thì lại ở rất gần. Đó
chính là quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Người nghệ sĩ cần có những
khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thuật
nhưng cũng cần bám sát vào hiện thực cuộc sống để có thể phát hiện ra những sự thật.

b. Tình huống truyện tiếp tục đuợc xây dựng với những phát hiện đầy nghịch lí của
Phùng
Sự tự nhận thức đầu tiên có lẽ bắt nguồn từ anh chàng nhiếp ảnh gia tên Phùng.
Anh được cấp trên giap cho nhiệm vụ chụp ảnh cảnh biển vào buổi sớm, thực chất
chính tác giả Nguyễn Minh Châu cũng là một người con của miền biển nên câu chuyện
của ông được kể và miêu tả khá sinh động, chi tiết và có phần mặn mòi. Hiện thực của
“Chiếc thuyền ngoài xa” không phải bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường
xưa ghi lại tội ác kẻ thù cũng như bao chiến công lừng lẫy từng đi vào lịch sử.

Sau bao nhiêu ngày trở về chiến trường xưa, lang thang ở bãi xe tăng hỏng,
Phùng đã phát hiện ra vẻ đẹp của bức tranh thời cổ mà anh chụp được, đó chính là hình
ảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang được tưới thẫm lên bằng màu của sương khói. Đó
là một bức ảnh “đắt” như được ông trời ban cho vậy. Bức ảnh mang nét tráng lệ thời cổ
“bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe
vào mầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu
vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi
khum khum”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét cho đến ánh sáng đều hài hòa và
đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản mà toàn bích”.

Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hóa công, người nghệ sĩ trở
nên bối rối, và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Bức ảnh đã khiến cho tâm
hồn người nghệ sĩ rung động, cảm xúc thẩm mỹ đang cháy lên trong lòng anh. Chưa
hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn “Khám phá thấy cái chân lí cựa toàn thiện, khám
phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nguyễn Tuân đã từng nói “Cái đẹp
cảm hóa lòng người” và cũng không phải ngẫu nhiên, ông được mệnh danh là một
người cả đời đi tìm cái đẹp. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, anh
đã cảm thấy cái chân, cái thiện của cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ như được gột rửa,
trong trẻo, tinh khôi. Phùng bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim để có
thể thu lại khoảnh khắc tuyệt đỉnh của chiếc thuyền ngoài xa.

Tất cả những hình ảnh tuyệt vời ấy có lẽ sẽ không bị phá vỡ và Phùng có lẽ cũng
sẽ không kinh ngạc khi con thuyền trở vào gần bờ và bắt đầu xuất hiện những tiếng
quát tháo. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là một người đàn bà xấu xí,
mệt mỏi “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, ... cao lớn với những đường nét thô kệch.
Mụn rỗ mặt…” và người đàn ông to lớn dữ dằn “Tấm lưng rộng và cong như lưng một
chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông
mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ…”. Một cảnh tượng thật tàn nhẫn:
Gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng
chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, vừa đánh lão vừa thở hồng hộng,
hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi lần quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng
rên rỉ đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”

“Mâu thuẫn được đẩy lên rõ nét khi người đàn bà kia bị đánh mà không hề chạy
trốn, cũng không kêu van nửa lời. Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận
lấy hai cái bạt tai ngã dúi xuống cát. Ta nhận thấy đứa con trong gia đình này được
miêu tả chẳng khác nào một viên đạn, nó đập vào hình ảnh của người cha và đâm
xuyên qua trái tim của người mẹ. Ta đã nhận ra khoảng lặng của tác phẩm khi thấy sự
trăng trở của người nghệ sĩ. Có lẽ ít ai hình dung và tưởng tượng được rằng không hiểu
sao cảnh tượng phũ phàng ấy lại xảy ra khi con người ta đang xây dựng cuộc sống mới
trong thời đại mới, thời đại mà Tố Hữu đã từng viết: “Người yêu người, sống để yêu
nhau”

Nhiếp ảnh gia Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi
kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu tối cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ
sĩ như chết lặng. Những điều bất công xảy ra trước mắt người chiến sĩ từng chiến đấu
cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã bùng lên một cơn giận dữ.
Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia là một kẻ độc ác, tàn nhẫn nhất thế gian, còn
người đàn ba kia là nạn nhân đáng thương nhất trong nạn bạo hành gia đình. Sở dĩ
Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì của
tạo hóa kia lại có cái ác, cái xấu đến mức không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh
còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, là cái “toàn thiện” của cuộc đời.
Phùng xót xa khi nhận thấy cái xấu xa, ngang trái, bi kịch trong gia đình người dân chài
đã làm cho bức ảnh của anh chụp được như nhuốm màu đau thương ghê sợ! Chao ôi!
Nghệ thuật không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai mà che đi
nỗi đau thương ghê rợn, khiếp người kia.

Qua hai phát hiện của Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn người đọc nhận thức
mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật không nên chỉ dừng lại ở vẻ đẹp
ngoài, nhất là cái tuyệt vời thơ mộng, mà còn phải nhìn vào bề sâu, bề sâu của cuộc đời
không hề đơn giản, mà tâm điểm chính là số phận con người đa đoan, với mọi nhọc
nhằn và khổ đau, không hiếm những ngang trái bi kịch. Cuộc đời đâu phải chỉ toàn
màu hồng, cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, mà còn chứa đựng nhiều nghịch lí.
Cuộc sống luôn luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn giữa đẹp – xấu, thiện
–ác, … Vì thế mà nhà văn có dụng ý khi để cảnh tượng “trời cho” hiện ra trước mắt như
là vỏ bọc bên ngoài để hòng che giấu bản chất thực của đời sống bên trong. Nhà văn
khẳng định: Đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên ngoài và nội
dung bên trong vì không phải bao giờ chúng cũng thống nhất. Đừng vội đánh giá con
người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ đẹp của nó.
Bởi xuất phát của văn chương và đích đến của nó là cuộc đời con người. Từ đó ta còn
thấy được Nguyễn Minh Châu muốn nhắn gửi đến những người cầm bút viết văn chân
chính, nhiệm vụ của họ là phải kéo nghệ thuật ở ngoài xa kia để nó lại gần hơn với cuộc
sống. Và không phải ngẫu nhiên chính ông đã từng nói rằng: “Văn chương và cuộc
sống là những vòng tròn đồng tâm, tâm của nó chính là con người”

c. Tình huống truyện tiếp tục được mở rộng với phát hiện của Phùng ở tòa án huyện

Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là một người có lòng tốt, không thể chấp nhận những
bất công nhưng anh đã quá đơn giản khi nhìn nhận cuộc sống để rồi đi đến tình huống
vỡ lẽ thứ hai trong tác phẩm này. Chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập dã
man không lí do như thế, nghệ sĩ Phùng đã đánh nhau với gã chồng để bảo vệ chị ta, để
rồi bị thương, vết thương trên mặt đã lên da non nhưng vẫn sẽ để lại những dấu tích.
Người đàn bà bị mời đến tòa án huyện để giải quyết công việc gia đình, từ đây đã có
một cuộc tranh luận giữa ba người là Phùng, Người đàn bà và Chánh án Đẩu.

Được mời đến tòa án huyện lần này là lần thứ hai, “chị ta rụt rè, tìm một góc
tường ở chỗ chốn công đường để ngồi”, tuy không phải lần đầu nhưng chị ta có vẻ rất
sợ sệt và lúng túng, “Dáng vẻ thì nhấp nhổm, mụ xoay người trên ghế như bị kiến đốt”,
cái sợ sệt mà ta không hề thấy có khi chị ta bị chồng đánh ở bãi xe tăng. Chị thấy sợ hãi
khi phải đối diện với một không gian lạ, chị ta thật tội nghiệp, cái dáng vẻ ngồi “nép
vào mép ghế” và cố “thu người lại”, để có thể tự về dù Đẩu đã nói những lời rất thân
mật, chia sẻ và cảm thông.

Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế
của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi nói chuyện và tiếp xúc với chánh án Đẩu, chị
còn xưng “Con” với “quý tòa” có lúc đã van xin “Con lạy quý tòa, quý tòa bắt tội con
cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất
hiện, đang cúi gục mặt bỗng người đàn bà hàng chái ngẩng lên, nhìn thẳng và lại đổi
cách xưng hô thành “chị’” và “các chú”. “chị cảm ơn các chú…Lòng các chú tốt nhưng
các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu hiểu được cái việc của người
làm ăn lam lũ khó nhọc” Cái vẻ sợ sệt cũng không còn, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã
làm cho Phùng và Đẩu hết sức ngạc nhiên.

Người đàn bà hàng chài đó không hề đơn giản như Phùng và Đẩu nghĩ. Mới
bước vào cuộc tranh luận thì ta nhận thấy nhân vật người đàn bà hàng chài có vẻ đáng
trách, rung túng cho bạo lực gia đình diễn ra một cách thường xuyên “ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước ta không có người nào như hắn”. Thế nhưng
đọc kĩ và ngẫm nghĩ lại thì đó lại là những điều mà Phùng và Đẩu phải vỡ lẽ ra. Đẩu
vốn là một chánh án, được mệnh danh là Bao công phố huyện vùng biển, là người có
kiến thức về luật pháp còn Phùng là người hiểu biết về nghệ thuật, chuyên săn lùng cái
đẹp vậy mà cũng đã bị người đàn bà thuyết phục hoàn toàn. Người đàn bà hàng chài
với lời lẽ thuyết phục ấy đã lộ ra cái sắc sảo của mình, người đàn bà không tên này càng
ngày càng thể hiện mình là một người từng trải, hiểu biết về cuộc sống. Thì ra, cái nghề
hài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênh không thể thiếu bàn tay, sức lực của
người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại mà làm
quần quật để nuôi một đàn con mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa ý chính người đàn
bà còn khẳng định người chồng của chị ta vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền
lành lắm”, nhưng chỉ vì hoàn cảnh khắc nghiệt, đói nghèo mà anh ta trở nên vũ phu,
tàn nhẫn và ích kỉ. Đó là cả một câu chuyện về kế sinh nhai, về những người làm ăn lam
lũ khó nhọc.

Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình của người đàn bà hàng chài, người đàn
bà khẳng định chị ta sống cho những đứa con chứ không phải cho mình. Ở đây lẽ đời
đã chiến thắng, Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm
của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ uy quyền có sức công phá
lớn. Nó đã làm cho nghệ sĩ Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều điều, nhận ra nỗi nhọc nhằn
vất vả của cư dân vùng biển, nhận ra mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng bên
ngoài, cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận nghịch cảnh, những ngang trái và
người đàn bà không chịu đòn roi một cách vô lí.

Cả Đẩu và Phùng đều chua chát nhận ra rằng: Trên thuyền cần có một người đàn
ông… dù hắn có man rợ, tàn bạo, thì vẫn cần có một người đàn ông để chèo chống khi
biển phong ba bão táp. Và cái bản chất ở đây là cuộc sống sinh nhai, không thể một mực
áp dụng luật pháp, kiến thức sách vở được mà đôi khi đó phải là những sự trải nghiệm
và hiện thực cuộc sống phản ánh lại. Họ còn nhận thức được rằng, với người phụ nữ,
với người đàn bà kia họ vẫn luôn tìm thấy cho mình niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ
nhoi trong cuộc sống còn đầy rẫy những khó khăn, vẫn luôn tin vào một sự lạc quan và
tình yêu cuộc sống. Hành trình kiếm tìm hạnh phúc với họ không đơn giản nhưng họ
vẫn thấy hạnh phúc khi nhìn thấy những đứa con của mình được ăn no. Tình yêu
thương gia đình của người đàn bà đã khiến cho “Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị
bao công phố huyện vùng biển này”. Đó là sự vỡ lẽ về quan niệm tình yêu, hạnh phúc,
lòng nhân ái và sự khoan dung mang giá trị nhân bản sâu sắc.

Bước ra khỏi cuộc chiến tranh, không còn phải đương đầu với quân xâm lược
nhưng người Việt Nam lúc bấy giờ cần phải tổ chức lại nhịp sống của mình, khôi phục
lại kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh, đây không phải công việc có thể thực
hiện một sớm một chiều. Dù là một người đàn bà ít học, suốt ngày lênh đênh trên biển,
chỉ là một nhân vật luận đề am hiểu về cuộc sống cũng khiến cho Phùng và Đẩu vỡ lẽ.
Ta biết rằng lí thuyết sách vở luôn đúng nhưng cuộc sống cũng sẽ có những lí lẽ riêng
của nó. Những kết hợp ấy mang lại cho tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cái nhìn đa
diện về số phận con người.

Kết thúc truyện, người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà hàng chài. Sở dĩ
đây cũng là dụng ý nghệ thuật của tác giả để ông có thể bộc lộ được hết ý tưởng của
mình. Không có tên là bởi lẽ hình ảnh người đàn bà hàng chài ấy tượng trưng cho biết
bao người phụ nữ khác nơi vùng biển xa, số phận của những người phụ nữ làng chài sẽ
còn mãi bị phụ thuộc nếu như cuộc sống mưu sinh còn nhiều vất vả, nhưng ở họ luôn
luôn toát lên một tư tưởng về tình yêu gia đình, tình yêu cuộc sống của tình mẫu tử
thiêng liêng cao quý, là động lực để họ vươn lên ngay cả khi không thể chịu đựng được
nữa, những con người từng trải, cam chịu và nhẫn nhịn. Tác giả muốn bạn đọc có cái
nhìn đa diện, nhiều chiều, để có thể đối chứng các vấn đề lại với nhau từ đó rút ra bài
học cho riêng mình.

“Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con
đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có, quê
hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”.
Đã có những bi kịch tiềm ẩn khiên con người ta phải ngỡ ngàng.

Một câu chuyện đơn giản nhưng chưa đựng nhiều những phát hiện mới mẻ bởi
tình huống nhận thức làm ló ra những chân lí về đời sống, chân lí về nghệ thuật hướng
đến con người. Nếu chỉ suy nghĩ một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh
sáng cách mạng sẽ khiến người dân lao động đổi đời, sẽ xóa tan những bi kịch đè nặng
lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ ra rằng: Cách mạng không thể
giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với bi kịch và
dung hòa với nó. Cách lí giải của Nguyễn Minh Châu còn chứa đựng suy ngẫm về số
phận dân tộc phải trải qua khổ đau để đối diện với hiện thực còn nhiều thách thức.
Điều thống nhất trong hành trình sáng tạo của Nguyền Minh Châu luôn vẫn là “nỗi lo
âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con người” về cuộc sống. Đây cũng là lí do mà
Nguyễn Minh Châu một đời cầm bút với hi vọng. “Văn học sinh ra đời để gìn giữ trong
từng con người - một cái gì hết sức mong manh và luôn luôn run rẩy... một cái gì đó
thật là như vậy, nhưng thiếu nó trong con người thì y rằng con người ấy không thể
sống giữa quần thể loài người được, và trở thành một tại họa cho loài người (Nhật kí -
Nguyễn Minh Châu).

Nếu như trước kia, giai đoạn văn học 45 - 75 khi viết về con người bao giờ các
nhà văn cũng nói về sức sống mãnh liệt để vượt qua nghịch cảnh, của tác động môi
trường, xã hội như ta tìm thấy ở anh Cu Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân, hay anh
Chí Phèo của Nam Cao bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính vẫn trải qua sóng gió để
có thể trở về chết trên con đường lương thiện… Khi diễn tả con người các nhà văn
thường đi theo hướng tích cực, vượt lên hoàn cảnh và hồi sinh tâm hồn thì những minh
họa ấy trở nên phiến diện vô cùng trong thời đại đổi mới. Nguyễn Minh Châu đã
không đi theo con đường mòn ấy, trong Chiếc thuyền ngoài xa, tác giả khẳng định
nghịch lí xuất hiện như một điều hiển nhiên trong cuộc sống con người.

Trước sau, Nguyễn Minh Châu vẫn là người đi săn tìm cái đẹp, tìm cái hạt ngọc
ẩn sâu trong tâm hồn con người. Đó phải chăng là ý nghĩa của những biểu tượng như
“mảnh trăng cuối rừng”, “chiếc thuyền ngoài xa”? Có sự đổi thay trong cách nhìn của
nhà văn bởi thực tế và tâm thế sáng tạo của nhà văn đã khác trước, bởi cuộc sống hòa
bình khác với cuộc sống chiến tranh. Bằng thái độ cảm thông và những hiểu biết sâu sắc
về con người, kết hợp với điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đã diện ông đã cung cấp cho
bạn đọc cái nhìn toàn diện về cuộc sống khi đi từ bề nổi đến bề sâu. Nguyễn Minh Châu
là một nhà văn luôn hướng về con người và có khả năng giải mã tất cả những gì phức
tạp nhất của cuộc đời. Bức tâm thư về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống chính
là nhận thức thấm thía nhất: “Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật
nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một
khoảng cách để có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật, và nếu muốn khám phá
những bí ẩn đằng sau thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi
vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời” (Lê Ngọc Chương)

Với cách xây dựng tình huống truyện đặc sắc, độc đáo có ý nghĩa khám phá kết
hợp với lời văn giản dị, đầy tính dư ba, Nguyễn Minh Châu đã làm nổi bật chủ đề của
tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. Từ câu chuyện về bức ảnh nghệ thuật và sự thật về cuộc
đời tác giả đã mang đến bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống, cách phát hiện
ra bản chất thật sâu vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Chiếc Thuyền Ngoài xa sẽ mãi là
tuyên ngôn nghệ thuật của tác giả với những nhà văn cùng thời.

d. Tình huống truyện đặc sắc giúp nhà văn gửi gắm những thông điệp lớn lao

+ Trước hết, đó thông điệp về cách nhìn nhận cuộc sống

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vượt qua được cái nhìn đơn giản, dễ dãi để đem
đến cho ta một truyện ngắn có chiều sâu nhận thức và có giá trị phát hiện bằng những
nghịch lí của đời thường. Chiếc thuyền chỉ đẹp khi nó ở ngoài xa trong sương mù bồng
bềnh huyền ảo, nhưng khi nó đến gần thì bên trong nó lại bộc lộ những cái thật xấu xa
của cuộc sống con người và trong cuộc sống bất hạnh của người đàn bà khốn khổ kia
vẫn ánh lên những nét đẹp của người phụ nữ lao động - cho dù đó là những nét đẹp
của sự âm thầm nhẫn nhục cam chịu không đáng có và không nên có của người phụ nữ
trong thời đại ngày nay. Đó chính là cuộc sống thật đang diễn ra đâu đó trên đất nước
ta - một cuộc sống trần trụi, gai góc, nhức nhối - nhưng rất dễ bị che lấp bởi một vẻ đẹp
thoáng qua bên ngoài. Và khi nhà văn đã vạch ra cái sự thật của cuộc sống đó thì cũng
tức là họ đã đặt ra những câu hỏi bức xúc để góp phần thay đổi cuộc sống, hoàn thiện
nhân cách con người.

+ Tình huống còn đưa đến một thông điệp quan trọng về trách nhiệm của người nghệ sĩ
với nghệ thuật và con người

Qua câu chuyện và những chân lí giản đơn của người đàn bà làng chài, Phùng
phát hiện ra cái đẹp của đời thực, của nghệ thuật trong đời sống nội tâm của con người-
thế giới con người là thế giới phức tạp, khám phá về con người, muốn giúp đỡ con
người không phải là điều đơn giản. Còn chánh án Đẩu, vị bao công của phố huyện
nghèo cũng sẽ thấy pháp luật và công lý không nằm trong đống sách vở thô cứng, lẽ
phải ở chính lòng người, luật pháp là cần thiết, lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ,
cần phải thấu hiểu, thâm nhập sâu vào đời sống của nhân dân hơn để tìm cách phù hợp
giúp đỡ họ.

Hơn nữa, câu chuyện ở tòa án huyện còn nêu lên cốt lõi tinh thần nhân đạo của
tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã từng quan niệm rằng: “Nhà văn tồn tại ở trên đời
trước hết là để làm công việc như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ,
bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể
xác bị đày đọa và hắt hủi đến ê chề, hoàn toàn mất niềm tin vào con người và cuộc đời.
Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không còn có ai để bênh
vực”. Nhà văn đã hướng ngòi bút nhân đạo của mình khám phá vẻ đẹp khuất lấp của
người đàn bà hàng chài, ca ngợi giá trị tốt đẹp của họ; đồng thời đặt ra câu hỏi: “Người
nghệ sĩ phải nhìn cuộc đời như thế nào?” và “Cần phải làm gì để nhân dân đều có cuộc
sống ấm no, hạnh phúc sau khi hòa bình đã lập lại?”.

Người đàn bà vùng biển này cũng giống như cô Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng”,
đều là kiểu “hạt ngọc ẩn” mà Nguyễn Minh Châu đang đi tìm. Có điều, cô Nguyệt là
mẫu hình lý tường chỉ để ngắm nhìn, mơ ước chứ không có thực, còn người đàn bà
trong tác phẩm hiện lên trong những cái lấm lem, bụi đời.

+ Tình huống truyện cũng giúp nhà văn thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc nhất
cho truyện ngắn của mình

Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một nhà văn mang tư tưởng nhân đạo thấm vào
từng con chữ. Người đã đi tìm vẻ đẹp tâm hồn con người bằng cách đào sâu vào nội
tâm và mối quan hệ giữa con người, giữa con người với cuộc đời bởi lẽ ông không bằng
lòng với hào quang quá khứ. Đồng thời, trước hoàn cảnh éo le của người đàn bà, tác giả
bộc lộ niềm thương xót cho số phận khốn cùng của những mảnh đời bất hạnh sau khi
hòa bình đã được lập lại. Liệu rằng khi đất nước thống nhất thì cuộc sống nhân ân ai ai
cũng ấm nó hạnh phúc hay còn những góc tối chưa được soi chiếu?

Nguyễn Minh Châu đã tự hóa thân mình thành nghệ sĩ Phùng và tự bước chân
kiếm tìm vẻ đẹp của người đàn bà làng chài. Ông nhận ra rằng giữa cái thờ có cái tình,
giữa cái tạp chất có cái lóng lánh vàng ngọc. Tầm nhìn của nhà văn cũng thật sâu rộng
khi đề cập đến vấn đề bạo lực gia đình – một vấn đề vô cùng nóng bỏng hiện nay và
rung lên hồi chuông cảnh tỉnh cho chúng ta. Từ hình ảnh người đàn bà đã cho ta thấy
được tấm lòng nhân đạo của nhà văn cà có cách nhìn đa chiều của ông. Nghệ thuật
không thể chỉ vì nghệ thuật mà còn phải vị nhân sinh bởi lẽ con người đa đaon, cuộc
đời đa sự đòi hỏi người nghệ sũ không được hời hợt với đôi mắt nhìn con người, cuộc
đời.

Nguyễn Minh Châu đã thành công dựng lên nhân vật người đàn bà trong cái
lấm lem bụi đời để bày tỏ tình cảm nhân đạo của mình. Cách trần thuật, tình huống
truyện và lời thoại nhân vật đã góp phần làm nên cái đắc địa, tuyệt mĩ của “Chiếc
thuyền ngoài xa”. Từ đó cho ta thấy những triết lý nhân sinh và nghệ thuật, cuộc đời
cũng như trách nhiệm của người nghệ sĩ ấy.

Theo Maksim Gorky thì: “Văn học là nhân học”, tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài
xa” đi sâu vào lòng người không chỉ vì nhan đề đa nghĩa, cảnh thiên nhiên tơi đẹp hay
vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà mà còn là những trang viết viết đầy ắp hơi thở cuộc
sống và thấm đượm tinh thần nhân đạo của nhà văn với quan niệm: “Cuộc sống và
nghệ thuật là những vòng tròn đồng tâm mà con người là tâm điểm”. Ngày hôm nay ta
đến với “Chiếc thuyền ngoài xa” – tác phẩm mang lại giá trị nhận thức sâu sắc về con
người và cuộc đời. Mỗi chúng ta, đặc biệt là người nghệ sĩ cần phấn đấu nhìn cuộc đời,
con người xét trên nhiều bình diện. Đồng thời, ta phải có lòng thương cảm sâu sắc với
những mảnh đời chắp vá mà của người đàn bà là điển hình. Qua tuyệt phẩm văn học,
tất cả độc giả đều “vỡ” ra nhận thức mới mẻ, triết lý để xứng đáng nâng “Chiếc thuyền
ngoài xa” lên làm “bài học nghệ thuật và cuộc đời”, tin hằn mãi trong tâm khảm mọi
người!

2. Nhân vật người đàn bà làng chài

Người đàn bà hàng chài là nhân vật trung tâm của tác phẩm, nơi nhà văn gửi
gắm tình thương yêu đến đớn đau, khắc khoải trước số phận con người. Đây cũng là
nhân vật phụ nữ ấn tượng nhất của Nguyễn Minh Châu, khác hẳn với những Nguyệt
trong Mảnh trăng cuối rừng, Thai trong Cỏ lau, hay Liên trong Bến quê, Quì trong Người
đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Không có một cái tên để gọi, một nét khả dĩ về ngoại
hình để được yêu thương, người phụ nữ miền biển này như là hiện thân của nỗi khổ
nghèo, vất vả đến tận cùng, như là hiện hình của nỗi chát chua cho số phận. Nhưng
cũng chính ở chị, ta sẽ gặp những “hạt ngọc” tâm hồn thật đáng quí trọng, nâng niu. 

a. Sự cam chịu, nhẫn nhục


Nhà văn Nguyễn Minh Châu được mệnh danh là vị khai quốc công thần của triều
đại văn học mới, là “người mở đường tinh anh và tài năng”. Sinh thời, ông từng quan
niệm rằng: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề
sâu tâm hồn con người”. Nếu trước năm 1975, nhà văn đi tìm hạt ngọc ấy trong chất sử
thi anh hùng với những tác phẩm tên tuổi như“Mảnh trăng cuối rừng”, “Dấu chân
người lính”, “Cửa sông”,…thì sau năm 1975, bằng tâm huyết và tài năng, bằng khát
vọng sáng tạo chân chính và bản lĩnh dũng cảm, ông vẫn tiếp tục hành trình tìm kiếm
không ngừng nghỉcủa mình về cảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức, nhân
sinh, để từ đó khám phá ra vẻ đẹp của những “hạt ngọc ẩn giấu” trong những con
người đời thường lam lũ, nhọc nhằn. Và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một
tác phẩm tiêu biểu thể hiện tài năng và tấm lòng của Nguyễn Minh Châu – một người
nghệ sĩ mang trong mình mối quan hoài sâu sắc trước những vấn đề của đời sống, của
con người.

“Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối;
nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”. Vì vậy,
văn chương không chỉ được tạo nên bởi sự mĩ miều với những giá trị tuyệt đích mà
phải là những tác phẩm mang đến cho người đọc một nội dung ý nghĩa có tính thông
điệp, và hơn hết phải làm rung động hàng triệu tâm hồn, có chỗ đứng qua thời gian và
năm tháng. Điều này đòi hỏi ở các văn nhân sự chú trọng khai thác mọi khía cạnh và
phản ánh cuộc sống đa chiều, muôn màu muôn vẻ, từ đó khơi sâu và làm hiện lên cả
những góc khuất của đời sống xã hội, của bản chất con người, hơn thế là làm nổi bật
những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn con người, mang một niềm tin cao cả, hướng
người tiếp nhận tới những chân – thiện – mĩ, những chân giá trị đích thực... Và Chiếc
thuyền ngoài xa chính là một minh chứng rõ nét, tiêu biểu cho tất cả những điều ấy.

Chiếc thuyền ngoài xa bắt đầu bằng một tình huống độc đáo và bất ngờ. Nếu nói
mạch cảm xúc và cấu tứ là cái để người ta vịn vào tìm hiểu nội dung của một văn bản
thơ, thì tình huống truyện chính là một khởi điểm chắc chắn để khai thác, tìm tòi những
cái đặc sắc của một tác phẩm văn xuôi. Đó là những sự kiện éo le, bất ngờ, khác lạ để
mở ra một câu chuyện dài ở phía sau, mà theo như ý của Nguyễn Minh Châu thì tình
huống truyện là “cái tình thế mà ở đó sự sống hiện ra một cách đậm đặc, cái khoảnh
khắc chứa đựng cả một đời người”. Từ tình huống truyện, tính cách, số phận của nhân
vật được gợi mở, cũng từ tình huống truyện mà chủ đề cũng như những giá trị mà tác
giả xây dựng được hé lộ một cách tinh tế và độc đáo.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh một người nghệ sĩ Phùng bắt gặp được cảnh "đắt trời
cho" vào một buổi sớm mai. Từ xa xa, trong từng làn sương mờ ảo, huyền diệu, bóng
một con thuyền thấp thoáng tiến vào bờ, trong khoảnh khắc ấy, ánh mặt trời bình minh
mang màu hồng nhạt đang chiếu vào con thuyền tạo nên vẻ toàn bích. Trong con mắt
của người nghệ sĩ khát khao đi tìm kiếm cái đẹp lúc ấy thật hạnh phúc khi được ngắm
nhìn một vẻ đẹp "xưa nay chưa từng có". Cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, hài hoà trong
vẻ đẹp lao động của người ngư phủ, cả sắc màu, ánh sáng, đường nét đều hoàn mỹ.
Trước bức tranh tuyệt đẹp ấy, người nghệ sĩ đã vô cùng rung động, vô cùng cảm xúc và
vẫn không quên nhiệm vụ của mình, bấm máy ảnh liên tục ghi lại khoảnh khắc ấy. Đây
là một bức tranh đẹp mà tạo hóa đã ban tặng, những không phải lúc nào cũng có thể
bắt gặp được, một người nghệ sĩ như Phùng phải mải miết mà tìm kiếm, phải đi nhiều
nơi, đến nhiều chỗ, phải lao động nghiêm túc trên hành trình đi tìm cái đẹp ấy mới có
thể gặp gỡ và tạo ra sản phẩm đáng tự hào.

Nghịch lí cuộc đời bắt đầu từ đây, khi chiếc thuyền tiến gần vào bờ, hình ảnh một
cặp vợ chồng đang rời thuyền, họ lội qua một quãng bờ phá, nước ngập tới tận đầu gối.
Trong giây lát tiếng người đàn ông cất lên văng vẳng quát tháo những đứa con đang ở
trên thuyền. Hình ảnh cặp vợ chồng lam lũ bước ra từ chiếc thuyền vốn đẹp như thiên
đường, người chồng cao to, thô lỗ, vẻ mặt dữ tợn, còn người đàn bà khuôn mặt thô
kệch toát lên đầy sự mệt mỏi.

Chỉ bằng một vài câu văn miêu tả ngoại hình tác giả phần nào đã khiến cho người
đọc vỡ mộng, đằng sau vẻ hào nhoáng kia của chiếc thuyền thì con người lại hiện ra
chân thực, chẳng hề mang vẻ đẹp hoa mĩ nào. Nhưng nghiệt ngã hơn chính là cảnh bạo
hành vợ của gã đàn ông thô bạo kia, hắn rút ra “một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày
xưa”, chẳng ai nói với nhau lời nào, hắn trút cơn giận như lửa cháy dùng hết sức lực
quật tới tất vào lưng người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, răng nghiến ken két.
Mỗi một nhát quất xuống hắn lại cất lên những câu chửi nguyền rủa bằng cái giọng
“rên rỉ, đau đớn”: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
Người đàn bà vẫn ngồi im “cam chịu, nhẫn nhục”, không một lời van xin hay oán trách,
chẳng chống trả cũng không hề chạy trốn.

Sự việc xảy đến quá nhanh, quá bất ngờ đến nỗi nghệ sĩ Phùng không thể tin vào
chuyện gì đang diễn ra trước mắt. Anh bàng hoàng, sửng sốt trong mấy phút đầu chỉ
biết “đứng há mồm ra mà nhìn”. Thằng Phác từ đâu lao đến nhanh hơn cả mũi tên, giật
lấy chiếc dây lưng quất vào “tấm ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của cha nó. Cảnh tượng
người chồng đánh đập vợ dã man, người vợ cam chịu, đứa con đánh lại cha trái ngược
hoàn toàn với vẻ đẹp của con thuyền ngư phủ.

Tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực cuộc sống ẩn sau vẻ đẹp hào nhoáng bằng
một hiện thực nghiệt ngã. Qua những gì được chứng kiến, Phùng như được giác ngộ về
những nghịch lí vẫn còn tồn tại trong cuộc sống. Từ chiếc thuyền ngoài xa rất đẹp, rất
thơ mộng, cho đến khi con thuyền tiến lại gần, khi khoảng cách không còn nữa, bản
chất cuộc đời mới được biểu hiện một cách rõ ràng và chân thực.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã xây dựng hình ảnh người đàn bà hàng chài hiện lên
là một nạn nhân khốn khổ của bạo hành gia đình. Đó là một người đàn bà không tên,
lẫn vào trong đám đông vất vả, lam lũ, khốn khổ của đời sống hiện thực, một con người
không hề cá biệt, một cuộc đời tiêu biểu cho nhiều cuộc đời khác. “Người đàn bà trạc
ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những
đường nét thô kệch” với khuôn mặt rỗ đầy mệt mỏi.

Chân dung người đàn bà hàng chài là một chân dung rất khác với các nhân vật nữ
trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu trước và sau 1980. Những người phụ nữ
trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu nhìn chung thường mang vẻ đẹp thánh thiện,
trong sáng. Đó là Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng, là Quỳ trong Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, … Bước vào thế giới ấy, chân dung người đàn bà hàng chài là một
dị biệt. Chị vốn dĩ đã không đẹp ngay từ nhỏ, lại phải chịu di chứng của trận đậu mùa
với vô vàn nốt rỗ trên gương mặt xấu xí. Ngoại hình ấy còn tiều tuỵ thêm vì cuộc sống
lam lũ, vất vả, phải đối mặt với phong ba bão táp hàng ngày trong khi họ chỉ có một
con thuyền nghèo túng, chật chội mãi thêm vì đàn con ngày một đông đúc. Không chỉ
có vậy, người đàn bà ấy còn phải chịu đực những trận đòn thô bạo như cơm bữa của
lão đàn ông hàng chài độc dữ. Tất cả những nét chân dung ấy đã hé mở cho người đọc
về một cuộc sống nghèo đói, lam lũ, một thân phận đàn bà khốn khổ, nhọc nhằn.

Không chỉ qua nét chân dung về ngoại hình, nhà văn Nguyễn Minh Châu còn khắc
hoạ nỗi đau của người đàn bà hàng chài qua hành động, cử chỉ của chị khi bị chồng
đánh. Trước những trận đòn trời giáng của người chồng, người đàn bà không hề kêu
than, không hề chạy trốn, cũng không hề chống trả mà chỉ quỳ xuống cầu xin. Phải
chăng vì đòn roi nhiều quá, phải chịu đựng nhiều quá khiến chị u mê, hay phải chăng
do thất học mà chị không hiểu quyền sống của mỗi người? Với chồng là vậy, còn với
con, chị cũng có những hành động thật trái với lẽ thường: “người đàn bà ngồi xệp
xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi
lại ôm chầm lấy”. Tâm trạng của người đàn bà hàng chài được thể hiện rõ nhất qua
“những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Dòng nước mắt ấy
như được chắt ra từ những vết thương đau đớn trong tâm hồn chị, đó là những giọt tủi
thân, tủi phận. Chỉ khi khóc, chị mới thấm thía cả nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần.

b. Lòng tự trọng, đức hy sinh và tấm lòng vị tha, nhân hậu của người đàn bà làng
chài

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà
hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho
chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé
này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao
người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.

Song ẩn bên trong người đàn bà hình dáng bên ngoài xấu xí, thô kệch, chịu bao cay
đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là sự nhẫn nhục,
chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc
của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề
có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình.

Mặc dù là một nạn nhân khốn khổ của nạn bạo hành gia đình nhưng thực chất, ẩn
sâu bên trong vẻ bề ngoài xấu xí ấy là một người phụ nữ trải đời sâu sắc, giàu lòng vị
tha và đức hi sinh. Đó chính là một “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”
được nhà văn khám phá qua hành trình nhận thức của Phùng và Đẩu. Khi bị đưa về toà
án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc hôn nhân không hạnh phúc
ấy, vậy mà chị chỉ xin quan toà: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được,
đừng bắt con bỏ nó". Đến tận cùng nỗi đau, thế nhưng, khi được quyền lựa chọn giải
thoát khỏi số kiếp ấy, chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và
nực cười cho người bà dại dột.

Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm
phục người phụ nữ ấy. Cái nhìn của người đàn bà hàng chài như lời minh oan cho lão
đàn ông, rằng lão cũng là một nạn nhân, một số phận khốn khổ khác. Bản tính của lão
không xấu, lão hiền lành, chất phác, nhưng cái nghèo đã khiến lão trở thành một con
người vũ phu, cộc cằn. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, thấu hiểu lòng người,
khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng người phụ nữ
thân gái dặm trường cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần
có một người cha để dựa dẫm. Những con người lênh đênh bốn bề là nước, họ vẫn chịu
những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc
đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho môt người phụ nữ.

Đối với con cái, người đàn bà tự nhận thiên chức của mình là sinh ra để đẻ con, nuôi
con. Người đọc dường như hiểu vì sao người đàn bà phải gửi thằng Phác lên bờ. Chị
gửi con đi, một phần vì đói nghèo, phần nhiều vì đó là đứa chị yêu thương nhất trong
đàn con của mình. Chị gửi con đi vì mơ hồ nhìn thấy trước tai hoạ, rằng nếu cứ để nó
trên thuyền thì những điều tồi tệ nhất cũng có thể xảy ra. Hơn nữa, chị không muốn
làm tổn thương con, không muốn con mang những ấn tượng xấu về gia đình, về người
cha, không muốn điều gì ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của con. Với chị,
niềm vui nhỏ bé nhà được nhìn đàn con ăn no, dù cho mình có bị đánh đập tàn nhẫn
đến thế nào, chị vẫn cam chịu. Dù chân dung ngoại hình có khác với những nhân vật
nữ trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài vẫn là người
phụ nữ muôn thuở mang vẻ đẹp mẫu tính sâu đậm. Đó là người sinh ra với thiên chức
của người mẹ.

Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người
đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam
chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể
khác được. ⠀⠀⠀⠀⠀⠀

Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.
Với người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị,
chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với
người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý  tòa bắt tội con
cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do chị đưa ra thật
đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự
sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu.

Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn
bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình như ở trên đất được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn
để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước
đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh chị còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh:
“Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh”.

Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình
yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và
sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ
cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.

Không những thế, đây còn là người phụ nữ vị tha thánh thiện. Không chỉ yêu
thương, hi sinh đến quên mình vì đàn con, ở người phụ nữ này còn có một tấm lòng
bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng
là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh
con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.

c. Sự sâu sắc, trải đời

Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ
đời, rất sắc sảo. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ
người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt
ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời
thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo
chống khi phong ba”.

Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng
vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh
ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy
cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà
với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.

Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh
phúc nhỏ nhoi, đời thường. Đó những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui
vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo
tàn. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.
Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi
sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ.

Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt
xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con
người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh
phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.

Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của
chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu
sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không
phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân
khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì
nghèo đói, ít học. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân
khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu
sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.

Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của
tình yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng
chài, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao
dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng

Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời.

Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại h́ình và tâm hồn, đi
sâu vào thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người
đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông
đã khai thác số phận cá nhân và thân phận con người đời thường, để phát hiện những
nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời ông đã tâm niệm sáng tác
văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.

Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng
chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia
đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của
cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh
chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.

d. Khái quát về nhân vật

Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong
việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều,
phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm
1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học
mới".

Trong cuộc đời cầm bút của mình, điều mà Nguyễn Minh Châu đau đáu nhất là
khai phá vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn con người. Và trong Chiếc thuyền ngoài xa, “hạt
ngọc” ấy được tìm thấy giữa vô vàn những lấm láp, những gồ ghề, gai góc. Tất nhiên,
một phát hiện như vậy không thể đến nếu người nghệ sĩ chỉ đứng ngoài mà quan sát
hời hợt, vồ vập và chụp những bức ảnh hiện thực bề ngoài. Vượt lên tất cả, đó là sự dấn
thân, là lòng trắc ẩn, là niềm đau đáu với số kiếp con người của một người cầm bút
chân chính.

3. Nhân vật nghệ sĩ Phùng

Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh và anh vốn là một cựu chiến binh, chiến tranh
kết thúc anh trở thành một phóng viên của một tờ báo trung ương. Phùng được giao
nhiệm vụ chụp ảnh để hoàn thành bộ lịch 12 tờ năm sau. Anh đã đi tới nhiều nơi chụp
nhiều những bức ảnh, trưởng phòng khó tính nhưng rất ưng ý. Trưởng phòng yêu cầu
anh đi chụp cảnh biển trong sương sớm không có người, để làm ảnh lịch của tháng 7.
Để thực hiện nhiệm vụ, anh trở về vùng biển miền trung là chiến trường xưa của mình,
vừa thăm người bạn cũ của mình là Đẩu, hiện là chánh án tòa án huyện. Tại đây Phùng
đã chứng kiến nhiều sự việc khiến anh đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Anh
nhận ra mình cần phải thay đổi trong cách nhìn nhận về cuộc sống con người và nghệ
thuật. Phùng chính là nhân vật mà nhà văn gửi gắm những quan niệm về cách nhìn,
cách nhận thức của Nguyễn Minh Châu. Phùng cũng chính là phương tiện để ông gửi
gắm và khám phá, truyền tải phương tiện của mình đến với người đọc. Phùng là thể
hiện cái tôi của nhà văn, bóng dáng của tác giả.

a. Một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp thơ mộng của cảnh vật

Trước tiên Phùng là người nghệ sĩ luôn khao khát tìm kiếm cái đẹp, có một trái tim
dễ rung cảm với vẻ đẹp của cuộc sống, con người. Vẻ đẹp này của anh được thể hiện ở
phát hiện thứ nhất. Khi được giao nhiệm vụ săn ảnh trong tờ lịch tháng 7 năm sau, anh
quay trở lại vùng biển miền trung, quyết định phục kích ở đây suốt một tuần. Chấp
nhận ăn gió nằm sương để tìm ra vẻ đẹp cảnh biển mà trưởng phòng giao phó. Sáng
sớm, anh bắt gặp một cảnh tượng đắt như trời cho, chiếc thuyền đánh cá đang thu lưới
trong lúc bình minh. Phùng khẳng định đó là một cảnh đẹp như một bức tranh bằng
mực tàu của một danh họa thời cổ (mũi thuyền in một nét lòe nhòe trong bầu sương mù
trắng như sữa pha chút màu hồng hồng của nắng, rồi tất cả khung cảnh ấy nhìn qua
mắt lưới, tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra với hình thù như cánh của một
con dơi. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ
đẹp đơn giản và toàn bích.

Anh say sưa thưởng lãm vẻ đẹp của đất trời, thậm chí còn thấy bối rối, trong trái tim
nhưng có gì bóp thắt lại. Anh còn đắm chìm trong vẻ đẹp từ đó suy tưởng về mối quan
hệ giữa cái đẹp và cái thiện, để rồi nhận ra rằng bản thân cái đẹp chính là đạo đức).
Chính cái đẹp đã làm trong sạch tâm hồn khi cảm nhận được chiếc thuyền ngoài xa.
Phùng vồ vập háo hức tới mức chẳng còn lựa chọn xê dịch gì nữa, anh gác máy lên
chiếc xe tăng hỏng bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuộn phim.

Tóm lại, Phùng là một người nghệ sĩ chuyên “săn lùng” cái đẹp, anh thật sự biết
quan sát lựa chọn cái đẹp của tự nhiên và cảm nhận được giá trị. Phùng thực sự là một
người nghệ sĩ chân chính.

b. Một tấm lòng đầy trăn trở, lo âu về thân phận con người

Phùng là người biết bất bình trước cái xấu, biết đứng lên bảo vệ bảo vệ bênh vực
người yếu kẻ yếu. Vẻ đẹp này của anh được thể hiện ở phát hiện thứ hai. Từ chính chiếc
thuyền ngoài xa đẹp như mơ ấy, anh nhận ra một cảnh đời rất trớ trêu, éo le. (khi con
thuyền tiến lại gần) người đàn ông hàng chài thô kệch, hung dữ đánh người đàn bà một
cách dã man. Hai người đi qua trước mặt anh, vòng về sau chiếc xe tăng xích trên bãi
cát, người đàn ông lao vào đánh người đàn bà, với chiếc thắt lưng da, vừa đánh vừa
nguyền rủa bằng cái giọng độc dữ: “mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi
cho ông nhờ”. Điều kì lạ người đàn bà chấp nhận để cho chồng đánh với vẻ nhẫn nhịn
và cam chịu. Phác là con trai của nhà này ngủ với Phùng ở xe tăng xích, lao đến đánh
bố, giật được thắt lưng của bố quật vào ngực rồi ăn hai cái tát ngã dúi xuống cát.

Lần đầu Phùng nhìn thấy cảnh tượng đó thì vô cùng kinh ngạc, anh vứt chiếc máy
ảnh xuống đất lao tới để ngăn cản. Lần thứ 2, sau đó ba ngày, anh lại chứng kiến cảnh
bạo lực và lần này không thể nén chịu hơn được nữa, anh xông ra buộc gã đàn ông phải
chấm dứt hành động của gã đàn ông tàn độc. Gã đánh trả Phùng khiến anh bị thương,
câu chuyện của gia đình hàng chài khiến anh trăn trở và suy nghĩ rất nhiều. Phùng
hoàn toàn có thể đi về sau khi chụp xong ảnh và hoàn thành bộ lịch mà cấp trên giao
phó. Nhưng Phùng vẫn quyết định tìm hiểu về câu chuyện này, giúp đỡ người đàn bà
hàng chài.

Kết thúc tác phẩm, sự day dứt của người nghệ sĩ thể hiện ở chỗ: bức ảnh anh chụp
chiếc thuyền ngoài xa được treo ở rất nhiều nơi nhất là những gia đình sảnh nghệ thuật,
tuy là ảnh đen trắng nhưng kì lạ thay, mỗi lần Phùng nhìn bức ảnh. Nghệ sĩ Phùng
nhìn thấy hiện lên ánh hồng hồng của ánh sương mai, hình ảnh người đàn bà bước ra
khỏi tấm ảnh. Vẫn tấm áo bạc phếch, lưng có miếng vá, nửa thân người ướt sũng,
khuôn mặt rỗ, nhợt trắng vì hàng đêm kéo lưới. Chị bước những bước đi chậm rãi,
chậm giậm trên mặt đất chậm chậm một cách chắc chắn hòa lẫn vào đám đông. Anh
nhìn thấy những số phận còn đói nghèo vẫn đeo bám con người, hòa bình đã lập lại 7,8
năm, đất nước đã chuyển sang giai đoạn mới. Thế nhưng vẫn còn những cảnh đời
nghiệt ngã, lạc hậu, thất học, sinh nhiều con… vẫn còn đeo bám họ. Cần phải có giải
pháp để thay đổi cuộc sống của những con người trong thời đổi mới. Đó là sự tưởng
tượng của Phùng, anh hi vọng người đàn bà sẽ đứng vững trên đường đời của mình.

c. Nhận thức của Phùng – người nghệ sĩ chân chính về mối quan hệ giữa nghệ
thuật và cuộc đời

Vẻ đẹp cuối cùng của Phùng là dũng cảm dám thay đổi cách nhìn nhận về cuộc
sống và nghệ thuật. Nếu như những chiếc xe tăng hỏng trên bãi cát là ẩn dụ cho một
thời đại huy hoàng của đất nước ta. Con thuyền ngoài xa với ánh nắng hồng hồng của
sương mai là đại diện cho nghệ thuật, đại diện cho cái nhìn màu hồng của cuộc sống.
Nhưng khi Phùng nhìn thấy con thuyền vào gần, câu chuyện của gia đình hàng chài và
phiên tòa của Đẩu. Phùng đã hiểu cuộc sống trong thời đại mới đã khác, màu hồng ấy
chỉ che đậy những xấu xa tệ hại, màu hồng ảo tưởng mơ hồng cuộc sống. Thế nhưng
cuộc sống này vẫn có những trái ngang mà bản thân anh phải thay đổi cách nhìn của
mình (bản chất và hiện tượng, nghệ thuật và cuộc sống, lý thuyết sách vở và sự thật
cuộc sống).

Nhờ việc chứng kiến câu chuyện của gia đình hàng chài, anh đã hiểu được nghệ
thuật chân chính phải đi lên từ cuộc sống, xử lý một vấn đề phải đi từ bản chất chứ
không phải hiện tượng bên ngoài, lý thuyết sách vở thì thường đúng nhưng cuộc sống
vẫn có lí lẽ riêng của nó đầy trái ngang. Cuộc sống vẫn có vô vàn những cái khó khăn,
trớ trêu, ngang trái, nghịch lý không thể giải thích được (Vợ bị chồng đánh đập thường
xuyên nhưng lại quyết tâm gắn bó cả cuộc đời mình không một lời chê trách oán thán,
bị đánh không chạy trốn, không kêu van, trẻ con không được đến trường, cho con lên
rừng, giấu con chuyện tệ hại của gia đình, không cho con chứng kiến sự tàn nhẫn của
người bố). Anh may mắn nhận ra rằng cuộc đời này không phải màu hồng.

Vì vậy anh đã thay đổi cách nhìn nhận, trong khi Đẩu như vỡ ra một điều gì đó.
Anh cảm thấy ngột ngạt dù gió biển thổi trong căn phòng, đó là ngột ngạt của nhận
thức, người nghệ sĩ nhận ra mình đã sai. Vẻ đẹp của cuộc sống, phải là những gì thật
nhất, chân thực nhất, nhìn nhận một vấn đề phải nhìn vào bên trong của vấn đề, một
cái nhìn đầy đủ, đa diện và nhiều chiều. Đó mới đích thực là công việc của nghệ sĩ.

d. Khái quát về nhân vật

Thông qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sinh động quan điểm
nghệ thuật trên. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được toát ra từ tình yêu tha thiết đối với
con người. Tình yêu ấy bao hàm cả khát vọng kiếm tìm, phát hiện, tôn vinh những vẻ
đẹp người còn tiềm ẩn, cả những khắc khoải lo âu trước cái xấu và cái ác...Cuối truyện
Đẩu đi gặp người đàn ông, Phùng đi gặp thằng Phác. Kết quả như thế nào, tác giả còn
bỏ ngỏ. Chỉ biết bức ảnh anh chụp có chiếc thuyền lưới vó và suy nghĩ của Phùng “bao
giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là người đàn bà vùng
biển cao lớn với đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới
ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm”. Phải chăng đây là sự trăn
trở trước cuộc sống còn nhiều điều khó khăn, vất vả của người làm nghệ thuật. Đó là
mối quan hệ giữa văn chương với cuộc đời.

Truyện Chiếc thuyền ngoài xa, qua những phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của thiên
nhiên, về sự thật cay đắng, đầy bi kịch, nghèo khổ của những con người lao động bằng
nghề chài lưới, đã bộc lộ những lo lắng, trăn trở của nhà văn về nhân cách, đời sống con
người, bộc lộ lòng thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người
dân lao động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu.

4. Các nhân vật khác trong truyện


Không chỉ làm hiện lên bức chân dung người đàn bà hàng chài một cách chân
thật, các nhân vật khác trong “Chiếc thuyền ngoài xa” cũng được Nguyễn Minh Châu
dụng công xây dựng bằng tất cả tấm lòng của người cầm bút chân chính.

a. Thằng bé Phác

Trong cuộc sống mới, khi chiến tranh đã qua, mặc dù những đứa trẻ như cậu bé
Phác không phải gánh chịu những nỗi đau chiến tranh gây nên nhưng hoàn cảnh sống
của chúng cũng thật đáng thương. Những đứa trẻ phải sống trên chiếc thuyền lưới vó
trong công cuộc mưu sinh đầy bấp bênh, nhọc nhằn. Nhân vật Phác cùng với những
đứa con khác đều là nạn nhân của nghèo đói, thất học. Tất cả dường như khía vào lòng
người đọc nỗi đau về thân phận của những đứa trẻ trong cuộc đời mới. Cậu bé Phác
được nhà văn khắc hoạ với những hành động thật khác thường mà cũng thật cảm động
như đánh bố, lau nước mắt cho mẹ, thủ sẵn con dao trong người, tuyên bố rằng “nó còn
có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Để bảo vệ mẹ, thằng bé tàn nhẫn với
chính người bố của mình. Đó lại là một nghịch lí ở đời, qua đó nhà văn muốn phơi bày
bức tranh hiện thực sâu sắc của cuộc sống con người sau chiến tranh.

b. Chị gái Phác

Trái ngược với cậu bé Phác đầy xốc nổi, nhân vật người chị gái lại là một người biết
suy nghĩ chín chắn, là điểm tựa tinh thần cho người đàn bà hàng chài khốn khổ. Chị là
một người con gái hiếu thảo. Chị thương mẹ nhưng không biết phải làm gì để giúp mẹ,
giận cha nhưng cũng không thể làm gì để can ngăn cha, và dù thương em chị cũng
không biết phải khuyên bảo em như thế nào. Quả thật, dù đều là những đứa trẻ biết
yêu thương nhưng mỗi đứa trẻ có một cách phản ứng khác nhau trước hành động bố
nó gây ra. Những đứa trẻ ấy phải chịu bất hạnh, không được hưởng hạnh phúc trọn
vẹn nên chúng rất dễ bị tổn thương bởi những hành vi xấu của người lớn. Tác phẩm
dường như gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, mang theo nỗi lo sợ cho sự phát triển nhân
cách của những đứa trẻ trong một môi trường phi nhân tính.

c. Người đàn ông đánh vợ dã man

Với nhân vật lão đàn ông, Nguyễn Minh Châu chỉ khắc hoạ một vài chi tiết ngoại
hình nhưng làm nổi bật hình ảnh người đàn ông lam lũ, nhọc nhằn trong cuộc mưu
sinh, đồng thời hé mở phần nào tính cách dữ dội của nhân vật.
Đó là người đàn ông có “tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc
tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ
xuông hai con mắt đầy vẻ độc dữ”. Tuy nhiên đây chỉ là hình dáng bề ngoài, còn tính
cách, tâm hồn của người chồng lại chủ yếu xuất hiện một cách gián tiếp thông qua lời
“khai” của vợ. Qua câu chuyện giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà, chúng ta có thể
“phác họa” lại được bức tranh toàn cảnh về con người này.

Từ lời nói đến hành động, nhà văn cho người đọc thấy được cách đối xử thô bạo và
tàn nhẫn của lão với vợ con. Nhưng sâu xa hơn, ta thấy được rằng, không chỉ là kẻ gây
nên cảnh bạo hành, lão đàn ông cũng là nạn nhân của sự thất học, của cuộc sống đói
nghèo đầy tăm tối. Đằng sau tất cả, đó là sự phơi trải và thấu hiểu của nhà văn về bi
kịch của kiếp người.

d. Chánh án Đẩu

Nhân vật Đẩu cũng được nhà văn Nguyễn Minh Châu dụng công xây dựng, góp
phần thể hiện cái nhìn sâu sắc về cuộc đời, về con người của ông. Đẩu là người chiến sĩ
trong thời kì chiến tranh. Trong thời bình, người chiến sĩ từng đi qua những năm tháng
chiến tranh ấy tiếp tục đứng ra để bảo vệ công lí, bảo vệ lẽ phải. Và ở toà án huyện, sau
khi nghe người đàn bà kể lại chuyện về cuộc đời mình và về lão đàn ông, “một cái gì
vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Câu chuyện của
người đàn bà hàng chìa đã giúp Đẩu nhận ra, hiểu hơn về những nghịch lí ở đời, và đôi
khi vì mưu sinh, vì cuộc sống mà những người phụ nữ phải chấp nhận tất cả những
nghịch lí trớ trêu ấy.

e. Khái quát

Có thể thấy, Nguyễn Minh Châu là một người nghệ sĩ đầy tài năng khi đặt nhân vật
vào một tình huống độc đáo để bộc lộ rõ tính cách, tạo tầng sâu ý nghĩa cho nhân vật và
cho tác phẩm. Qua Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn bộc lộ quan điểm, nhận thức của mình
về nghệ thuật, đồng thời thể hiện cái nhìn đầy nhân đạo, tin tưởng về những phẩm chất
tốt đẹp của con người. Nguyễn Minh Châu đã dứt khoát chối bỏ con đường bằng
phẳng để dũng cảm khai phá con đường mới đầy cheo leo, gai góc, đến với sự thật sâu
xa toàn vẹn của cuộc sống và tâm hồn con người. Ngòi bút của ông đã lật xới, thăm dò
những tầng sâu nhất của đời sống để làm thay đổi những cái nhìn giản đơn, hời hợt, để
từ đó Chiếc thuyền ngoài xa đã ra đời, chạm tới những góc khuất nơi tâm hồn người đọc,
cũng vì thế mà làm nên sức sống của tác phẩm trên văn đàn theo năm tháng.
III. TỔNG KẾT

1. Nội dung - Giá trị nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm

- Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính được
tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người,
những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu,
trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con
người dù trong bất kỳ hòan cảnh nào của cuộc đời.

- Biểu hiện ở sự đồng cảm của nhà văn đối với cuộc đời người lao động sau chiến tranh.
Nhà văn đã nhìn thấu và miêu tả chân thực cuộc sống nhọc nhằn, cơ cực, khốn khổ của
những con người lao động thông qua hình tượng người đàn bà hàng chài. Nguyễn
Minh Châu đã dành biết bao yêu thương cho số phận bất hạnh của chị (phân tích nỗi
khổ của người đàn bà: xấu xí, nghèo khổ, nạn nhân của bạo hành gia đình).

- Không chỉ dừng lại ở đó, nhà văn còn lí giải những nguyên nhân gây nên đau khổ cho
con người. Từ đó, ông phê phán, lên án hành động vũ phu thô bạo của người chồng
trong đối xử với vợ, con (các em miêu tả cảnh người chồng đánh vợ). Đồng thời, thể
hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người (cảnh đói
nghèo, cơ cực, tình trạng bất ổn, bất trắc trong cuộc sống …là nguyên nhân sâu xa của
sự bạo hành và sự nhịn nhục chịu đựng); bày tỏ niềm trắc trở trước cuộc sống của thế
hệ tương lai (qua cách nhìn của nhà văn đối với cậu bé Phác).

- Tác giả đã khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động mà tiêu biểu là người
đàn bà hàng chài và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là vẻ đẹp của lòng
vị tha, sự thấu hiểu lẽ đời và tình mẫu tử sâu nặng (phân tích câu chuyện của người
đàn bà ở tòa án huyện). Trong hoàn cảnh đau khổ, nghèo khó, tăm tối vẫn ngời lên vẻ
đẹp của tình yêu thương, của đức hy sinh thầm lặng.

- Tư tưởng nhân đạo mang tính triết lí của tác phẩm, còn được thể hiện ở việc nhà văn
đặt ra vấn đề: làm thế nào để giải phóng con người khỏi những bi kịch gia đình, bi kịch
cuộc sống con người muốn thoát khỏi đau khổ, tăm tối, man rợ cần những giải pháp
thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực
tiễn, cần rút ngắn khoảng cách giữa văn chương và hiện thực đời sống.
=> Tác phẩm thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai đọan sáng tác thứ hai:
Văn học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người… Quan niệm ấy đã
khiến tác phẩm của Nguyễn Minh Châu ở giai đọan này giàu nhân bản. Đọc tác phẩm
của ông, người ta đau đớn, day dứt về thân phận con người và tràn đầy khát vọng làm
người cao đẹp.

2. Nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng cốt truyện độc đáo.

- Điểm nhìn là nhân vật Phùng (sự hóa thân của tác giả) nên cách kể truyện tự nhiên,
khách quan, sinh động, chân thực những cũng vô cùng sắc sảo, đồng thời thể hiện được
tư tưởng của tác giả.

- Ngôn ngữ tự nhiên, sống động và phù hợp với đặc điểm tính cách nhân vật.

You might also like