You are on page 1of 22

Văn bản:

VỢ CHỒNG A PHỦ
Tô Hoài

Nhà văn Tô Hoài đã có dịp tâm sự:


“Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có thực. Tức là nguyên mẫu
ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa
tôi gặp một cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống của họ, tức
khoảng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên Đán của ta 1 tháng. Tết người Mèo kéo
dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang bản khác. Ăn
tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh, cuộc đời chị vợ,
về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa
vợ chạy trốn đi nơi khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết
của tôi về đời sống người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ dần. Và tôi bắt tay vào
viết.”

I. THÔNG TIN TÁC GIẢ


Tô Hoài

Từ khóa - Là một người từng trải.


- Sự nghiệp: được chú ý qua tác phẩm “Dế Mèn
phiêu lưu ký”, sự nghiệp gắn bó với Cách mạng.
- Thành tựu: số lượng tác phẩm đồ sộ nhiều thể
loại.
- Phong cách nghệ thuật: lối kể chuyện tự nhiên,
vốn hiểu biết rộng.

Tô Hoài sinh ra trong một gia đình thợ thủ công. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải
làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,...vì vậy

1
vốn sống cũng như sự từng trải của ông in sâu vào trong sáng tác… Đến với văn
chương, ông gây được tiếng vang lớn qua tác phẩm truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký”.
Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương,
ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan
trọng như Truyện Tây Bắc. Với hơn 60 năm lao động nghệ thuật miệt mài, tâm huyết,
với số lượng tác phẩm đồ sộ: 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện
ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác… Tác
phẩm của ông đi vào lòng bạn đọc bởi lối kể chuyện có duyên, tự nhiên, vốn am
hiểu rộng, khéo léo đưa hiểu biết của mình vào trong tác phẩm.

II. THÔNG TIN TÁC PHẨM


Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" in trong tập “Truyện Tây Bắc” – Tập truyện được
trao giải nhất về truyện, kí - giải thưởng của Hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955.
"Truyện Tây Bắc" là kết quả của chuyến thâm nhập thực tế của Tô Hoài cùng bộ đội
vào giải phóng Tây Bắc (1952). Trong chuyến đi này, Tô Hoài đã sống và gắn bó
nghĩa tình với đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Mông,.. cũng như học hỏi và biết
thêm nhiều điều về phong tục tập quán nơi đây. Nguồn cảm hứng mới lạ dưới cái nhìn
của một nhà văn nhân đạo đã giúp ông viết nên các tác phẩm: "Cứu đất cứu mường",
"Mường Giơn" và "Vợ chồng A Phủ".
Cách ghi nhớ hoàn cảnh sáng tác chi tiết của tác phẩm:
● Là kết quả của chuyến đi thực tế tới vùng Tây Bắc năm 1952.
● Tại đây, ông đã có dịp tiếp xúc và cảm nhận nét văn hóa, phong tục tập quán và
con người Tây Bắc.

Để hiểu rõ hơn về tác giả Tô Hoài và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” các em có thể
tham khảo sưu tầm của team Học văn chị Hiên về bài trả lời phỏng vấn, tâm sự của
chính tác giả khi giãi bày về “đứa con tinh thần” của mình.
NHÀ VĂN TÔ HOÀI TÂM SỰ VỀ TÁC PHẨM “VỢ CHỒNG A PHỦ”

Truyện “Vợ chồng A Phủ” được rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc” và là truyện ngắn

2
xuất sắc nhất của tập sách này. Truyện có 2 phần: Phần đầu kể chuyện Mị và A Phủ
ở Hồng Ngài; phần sau là thời kì ở Phiềng Sa, hai người gặp cách mạng rồi trở thành
du kích. Nhưng chương trình văn lớp 12 chỉ trích dạy phần đầu của tác phẩm.

Thưa nhà văn, những năm đầu thập niên năm mươi, cuộc kháng chiến chống
Pháp của dân tộc ta đã có những thay đổi về chiến lược. Tinh thần và sức mạnh
bất khuất của cả nước được nuôi dưỡng và phát triển trong những cánh rừng đại
ngàn Tây Bắc. Sống với những ngọn thác dữ dội, những núi đá hùng vĩ, những
vạt rừng âm u là các dân tộc thiểu số anh em. Đời sống sinh hoạt của họ khác
nhau nhưng tinh thần kháng Pháp thì là một. Nhưng dường như đời sống của
người Mèo (H’Mông) đã để lại ấn tượng riêng biệt và sâu đậm cho ông?

Nhà văn Tô Hoài:

Năm 1952, khi các hoạt động kháng Pháp tăng mạnh trên chiến trường, quân ta đã
dần đánh đuổi quân Pháp khỏi Sơn La, Lai Châu, tôi là phóng viên của báo Cứu
Quốc, báo Đại Đoàn Kết bây giờ, được cử đi viết về các căn cứ cách mạng và đời
sống ở vùng mới giải phóng. Tây Bắc với những cánh rừng bạt ngàn là nơi sinh
sống chủ yếu của người Mường, Thái, Mèo… và một số dân tộc nhỏ khác. Trong
các dân tộc anh em, người Mèo thường sinh sống ở những vùng núi cao nhất và xa
nhất. Đấy cũng chính là nơi có căn cứ cách mạng sớm nhất. Người Mèo chống Pháp
với một tinh thần bất khuất và kiên cường kì lạ. Tôi chọn đi viết về đời sống dân tộc
Mèo là vì vậy. Tôi đi từ núi này sang núi khác, từ vùng Mèo Nghĩa Lộ đến Lai Châu
trong 5 tháng trời. Đường đi rất khó khăn, hiểm trở, thiếu thốn đủ thứ cộng với khí
lạnh của vùng Tây Bắc, nhưng may mắn là đến bản nào cũng gặp cán bộ cách mạng.
Từ 1950 – 1951, tôi và Nam Cao đã từng đi viết và sống với đồng bào miền núi.
Khó nhất là sự cách biệt ngôn ngữ, phải có chung tiếng nói mới có thể hiểu được
nhau. Người Mèo có ngôn ngữ riêng, tuy nhiên vốn từ vựng của họ ít, nên tôi không
mấy khó khăn khi học tiếng của họ. Chỉ cần vài chục từ là có thể giao tiếp được.
Tuy vậy, vì ở vùng núi cao và xa nên đời sống của họ trăm bề thiếu thốn. Hạt muối

3
quý hơn vàng. Có nơi 5-6 tháng ăn không tí muối nào. Khi bản có việc, thịt bò, ngựa
đều phải ăn nhạt. Tôi sống trong sự thiếu thốn của người Mèo 5 tháng, đi sâu tìm
hiểu đời sống, sinh hoạt của họ, viết được một số truyện ngắn, trong đó có Vợ chồng
A Phủ. Thực ra trong ngôn ngữ Mèo không có chữ Phủ chỉ có chữ Phữ thôi.

Đời sống văn hóa của người Mèo giờ đây vẫn mới lạ và bí ẩn đối với chúng ta. Họ
có những truyền thống văn hóa độc đáo. Nhưng trong Vợ chồng A Phủ, thân phận
người đàn bà thật không khác gì con trâu con ngựa. Điều đó có thật hay chỉ là một
cốt truyện hư cấu của tác giả?

Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có thực. Tức là nguyên mẫu ở
ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa
tôi gặp một cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống của họ, tức
khoảng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên Đán của ta 1 tháng. Tết người Mèo kéo
dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang bản khác. Ăn
tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh, cuộc đời chị vợ,
về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa
vợ chạy trốn đi nơi khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết
của tôi về đời sống người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ dần. Và tôi bắt tay vào
viết.

Nhận xét về tác giả và tác phẩm:


1. "Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội ác cũng
không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống,
âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt". (Tô Hoài, “Tác phẩm văn học 1930 - 1945”
trang 71).
2. “Ở "Vợ chồng A Phủ" nhà văn đã có sử dụng công và thành công trong miêu
tả,trong dựng cảnh. Nói cách khác, ông đã dựng lên cho bạn đọc thấy được
diễn biến tâm lí cùng đời sống nội tâm của nhân vật qua hàng loạt chi tiết bên
ngoài như một dáng ngồi, một cách ăn mặc, một vài câu hỏi, một cái nhìn, một

4
bước đi đến một tảng đá hay một ô cửa sổ khi miêu tả như thế, do đã được
nhập vào với số phận của nhân vật, thuộc được hoàn cảnh sống đầy biến động
và đổi thay của nhân vật, nhà văn đã định ra được một cách tự nhiên một mạch
lời kể chuyện vừa phù hợp với tâm lý riêng của họ,vừa mang sự gãy gọn của
ngôn ngữ văn xuôi hiện đại”. Nguyễn Quốc Luân
3. Bàn về kết thúc đoạn trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, có ý kiến cho rằng: “
Hành động cắt đứt dây mây cởi trói cứu A Phủ rồi chạy theo A Phủ của nhân
vật Mị thật bất ngờ, đột ngột, không thể dự đoán trước.”, lại có người khẳng
định: “Đó là một kết thúc tự nhiên, tất yếu.”
4. Nhận xét về nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô
Hoài, tác giả Đỗ Kim Hoài khẳng định: “ Tấm lòng yêu thương của nhà văn
vẫn nhận ra: bên trong hình ảnh của một con rùa nuôi trong xó cửa kia, đang
còn một người.”
5. Nhận xét về nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô
Hoài có ý kiến cho rằng: “Mị là một cô gái hội tụ đầy đủ phẩm chất tốt đẹp
của người con gái Việt Nam nhưng lại có một số phận bất hạnh.”
6. Bàn về tác phẩm “Vợ chồng A Phủ, có ý kiến cho rằng: “ Thắp sáng ngọn lửa
của khát vọng sống, Tô Hoài cũng làm bừng sáng giá trị nhân van cao cả của
tác phẩm.”
7. “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách khoa
Toàn thư mà không Viện sĩ nào, không Học giả nào có thể sánh được. Tôi đã
có dịp tò mò hỏi ông về Hà Nội và rất ngạc nhiên. Tôi không ngò ông hiểu Hà
Nội sâu sắc đến thế. Tôi gọi ông là nhà Hà Nội học, dù ông không nghiên
cứu.” (Trần Đăng Khoa)
III. NỘI DUNG TÁC PHẨM

Bố cục phân tích

1 Nhân vật Mị và sức sống tiềm tàng của Mị.

2 Nhân vật A Phủ.

5
3 Chi tiết tiếng sáo.

4 Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

1. Nhân vật Mị và sức sống tiềm tàng của Mị


Kiến thức khái quát:

Nội dung

a.Ấn tượng - Tô Hoài đã mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong
ban đầu về cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả với một đoạn văn
nhân vật trữ tình ngoại đề: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra
Mị. thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá
trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái
cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên,
cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
+ Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái
âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái
quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống
lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười
rượi”.
+ Mị xuất hiện bên cạnh những vật vô tri, có cảm giác
như người con gái ấy cũng không hề có một chút cảm
xúc nào.
+ Trước cửa có một tảng đá đặt cạnh chuồng ngựa, hình
ảnh của tảng đá ấy phải chẳng là tảng đá của số phận
đang đè nặng lên Mị.
+ Khuôn mặt “buồn rười rượi” gợi ra một số phận đau
khổ, bất hạnh, khiến cho người đọc vô cùng tò mò về
số phận của người con gái này.

b. Nguồn - Mị vốn là một người con gái đẹp . Mị có nhan sắc, và có khả

6
gốc, lai lịch, năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi: “thổi lá cũng hay như thổi
cuộc sống sáo” .
của Mị - Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao
trước khi bị yêu đương. Quả thế, Mị đã nhận được tình yêu và đã khát
làm dâu gạt khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước
nợ âm thanh hò hẹn của người yêu .
- Cuộc sống tuổi thanh xuân, tương lai của Mị hứa hẹn biết bao
điều tốt lành, tươi sáng. Khi mùa xuân về, Mị đã sống những
giây phút tươi đẹp của tuổi thiếu nữ.

c. Bi kịch - Nguyên nhân: vì một món nợ truyền kiếp từ khi cha mẹ mới
thân phận cưới nhau mà Mị bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí - một
làm dâu gạt tên quan lại, địa chủ tham lam, sảo quyệt và tàn nhẫn ở Hồng
nợ Ngài.
- Kể từ khi về làm con dâu nhà thống lí, Mị phải sống những
ngày tháng đau thương, tủi nhục, tăm tối. Danh nghĩa là con
dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là bề tôi tớ không công. Mị
không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về tinh
thần.
+ Dưới mấy tầng áp bức, Mị phải sống kiếp sống như con
vật, thậm chí không bằng con vật “bây giờ thì Mị tưởng
mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “lúc
nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc làm giống
nhau, tiếp nhau vẽ ra mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại
làm đi làm lại.”
+ Bị giam hãm, đày đọa trong cái địa ngục khủng khiếp
của nhà thống lí, Mị đang chết dần, chết mòn theo năm
tháng, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị bị tê liệt cả
lòng yêu đời, sức sống lẫn tinh thần phản kháng, mất
hết ý thức về thời gian, không gian: “ở lâu trong cái

7
khổ Mị quen khổ rồi”, “mỗi ngày Mị càng không nói,
lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
+ Hình ảnh căn buồng của Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ
vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào
cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay
là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian
giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời,
cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô.
=> Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất
lên nhân danh quyền sống. Chế độ ấy thực sự đáng lên án, bởi vì nó
làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống
trong những con người vô cùng đáng sống.

d. Sức sống - Khi mới bị bắt về làm dâu gạt nợ, Mị có phản ứng quyết liệt
tiềm tàng “đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc.”
của Mị khi - Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó
dám chết, món nợ của người cha. Đây là một trong những biểu hiện đầu
dám sống tiên của lòng ham sống – dám chết khi nghĩ rằng cuộc đời này
dù cảm không còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa. Nhưng đến lúc có thể chết
thấy cuộc đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi
đời không sự tồn tại vật vờ. Đây cũng chính là một trong những hành
còn bất cứ động thể hiện sự khát sống của Mị, dám sống ngay cả khi trên
ý nghĩa nào cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa gì nữa.
nữa => Đây là hai trong số những tín hiệu đầu tiên chứng tỏ rằng trong
trái tim của cô gái này, nhất định vẫn ẩn chứa một lòng ham sống rất
lớn.

e. Sức sống * Sức sống tiềm tàng là khả năng sống từ sâu thẳm bên trong của con
tiềm tàng người được bộc lộ trong những hoàn cảnh khắc nghiệt. Nó được ví
của Mị như hạt mầm bị vùi trong cát bỏng, chỉ đợi một cơn mưa là nảy mầm
trong đêm thành cây đời xanh tươi.

8
tình mùa * Ngoại cảnh: Mùa xuân về trên vùng cao Tây Bắc có ý nghĩa như
xuân “một hoàn cảnh điển hình” làm khơi dậy ở thiên nhiên và con người
sức sống tiềm tàng.
- Khung cảnh mùa xuân tươi vui tràn đầy sức sống và màu sắc:
cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa xòe như con bướm
sặc sỡ, đám trẻ đợi Tết chơi quay, cười ầm lên trên sân trước
nhà…
- Tiếng sáo rủ bạn đi chơi vọng vào tâm hồn Mị “thiết tha, bổi
hổi” từng lời hát giản dị, mộc mạc nhưng có sức mời gọi lớn
lao đối với Mị: “Ta không có con trai con gái…”
- Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã, chiêng đánh ầm ĩ
và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa.
=> Những yếu tố ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị,
đặc biệt là tiếng sáo. Tiếng sáo gọi bạn tình chính là âm thanh của
hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa, nó đã xuyên qua hàng
rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn
Mị, đánh thức sức sống vẫn còn tiềm ẩn trong cõi lòng người thiếu
nữ Tây Bắc này.
* Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị
- “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi…
Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng…Mà tiếng sáo
gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đường” Tiếng sáo được lặp
lại nhiều lần, để rồi sau bao tháng ngày câm lặng, Mị cất tiếng
nói đầu tiên, là một bản tình ca yêu đương đầy xao xuyến:
“Mày có con trai con gái rồi / Mày đi làm nương / Tao chưa
có con trai, con gái / Tao đi tìm người yêu”
- Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát,
“uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa
gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ.
+ Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng,

9
người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan
lúc nào cũng không hay)
+ Mị lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng
giỏi…), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một
con người, vẫn có cái quyền sống của một con người :
“Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có
chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử,
không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau” .
- Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân
phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị
đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo
quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ
vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý
nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi: “Nếu có nắm lá ngón trong
tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không còn buồn nhớ
lại nữa.”
- Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ
lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy
nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo
giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời
điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: Mị xắn
miếng mỡ, thắp sáng căn phòng u tối; quấn lại tóc, với thêm
cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã
làm như trong một giấc mơ
- A Sử biết Mị muốn đi chơi và chuẩn bị đi chơi, hắn tức lắm,
đánh rồi trói đứng Mị vào cột, tắt đèn đóng sập cửa lại. Những
hành động nhẫn tâm của A Sử dường như muốn đẩy Mị vào
bóng tối, dìm Mị chết trong sự bế tắc và tuyệt vọng thế nhưng
Mị thực tâm chẳng hề để ý tới những gì đang diễn ra với
mình. Mị đang ở trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với

10
những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong
cảm giác du xuân. Bây giờ, tiếng sáng vẫn đang rập rờn trong
đầu của Mị, “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,
những đám chơi”. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại
ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập
tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn
khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà
tay chân đau không cựa được.
- Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng
vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh,
giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa
đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều
ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm
sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà
thậm chí còn câm lặng hơn trước .

g. Sự phản - Mùa đông trên núi cao dài và lạnh lắm, Mị có một thói quen
kháng táo không thể bỏ đó là sưởi lửa mỗi buổi đêm. Với Mị, bếp lửa là
bạo trong người bạn, là tri âm, là tri kỷ, là thứ hiếm hoi mang tới cho Mị
đêm đông một nguồn sáng ấm áp, giúp Mị vượt qua sự lạnh giá, cô đơn
cởi trói cho trên dẻo cao này. Dù đã có nhiều lần, A Sử về và nhìn thấy
A Phủ Mị sưởi lửa, hắn đạp Mị ngã lăn nhưng Mị vẫn nhất quyết
không bỏ thói quen này.
- Khi chứng kiến tình cảnh của A Phủ, mấy hôm đầu Mị vô
cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết
đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê
dại trong tâm hồn Mị. Bởi trong hoàn cảnh của Mị, cô gái này
thực sự đã quá khổ để có thể đồng cảm với nỗi khổ của người
khác, thậm chí, trái tim của Mị bây giờ còn mất hết những
cảm xúc, chỉ còn một trái tim đóng băng, lạnh giá vô cùng.

11
- Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt: “Đêm ấy A Phủ
khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã
xám đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm
tràn ly nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị
nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng
đã từng khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết
lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A
Phủ, đã giúp Mị nhớ ra hoàn cảnh của mình, xót thương cho
chính mình. Và Mị đã nhớ lại mọi chuyện, biết nhận ra mình
cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó
cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình
thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh
ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là
đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người
kia việc gì mà phải chết”. Mị không cảm thấy sợ hãi, chỉ cảm
thấy một điều duy nhất bây giờ: “Cha con chúng nó thật độc
ác”. Nghĩ thế, Mị cầm dao cắt dây trói cho A Phủ để rồi có
khựng lại vài giây rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham
sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết
hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con
người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay
đổi số phận. Đến bây giờ, tất cả những nỗi sợ hãi như cường
quyền, bạo quyền hay thần quyền đều tan biến, chỉ còn lại
trong Mị là một lòng ham sống vô cùng mãnh liệt, trào sôi.
- Hai người dắt tay nhau đi, chạy trong đêm tối, mặc kệ tất cả
những khổ ải nơi Hồng Ngài này đề tới Phiềng Sa, gặp cán bộ
A Châu, hai người được giác ngộ cách mạng và kết hôn với
nhau, trở thành những chiến sĩ kiên trung trong công cuộc bảo
vệ Tổ quốc.

12
Phân tích chi tiết

1. Nhân vật Mị và sức sống tiềm tàng của Mị.


a. Trong đêm tình mùa xuân:
Tô Hoài đã mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy
nghịch lý và cuốn hút độc giả với một đoạn văn trữ tình ngoại đề: “Ai ở xa về, có dịp
vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá
trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi
hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.Cách
giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào
các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế,
giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Mị xuất hiện bên cạnh những vật vô
tri, có cảm giác như người con gái ấy cũng không hề có một chút cảm xúc nào. Mị
như một cái xác không hồn, hoàn toàn mất hết ý niệm về không gian và thời gian.
Trước cửa có một tảng đá đặt cạnh chuồng ngựa, hình ảnh của tảng đá ấy phải chăng
là tảng đá của số phận đang đè nặng lên Mị? Khuôn mặt “buồn rười rượi” gợi ra một
số phận đau khổ, bất hạnh, khiến cho người đọc vô cùng tò mò về số phận của người
con gái này.
Tô Hoài đã khắc họa hình tượng Mị là một cô gái Mèo trẻ trung, xinh đẹp, tài
hoa, hiếu thảo và có khát vọng tự do, khát vọng yêu và được yêu vô cùng mãnh liệt.
Cô “thổi lá cũng hay như thổi sáo”, đã bao lần trái tim Mị hồi hộp trước trước âm
thanh hò hẹn của người yêu. Mị hiện lên như một bông hoa xinh đẹp của núi rừng Tây
Bắc.
Xinh đẹp, tài sắc là vậy thế nhưng bất hạnh ập đến ngay khi người con gái ấy
đến tuổi trưởng thành phải gánh trên vai món nợ truyền kiếp từ cha mẹ. Vì món nợ ấy,
Mị đã bị thống lý Pá Tra bắt về làm “con dâu gạt nợ”. Cuộc sống của một cô con dâu
gạt nợ đã cướp đi tuổi thanh xuân dạt dào trong Mị. Kể từ khi về làm con dâu nhà
thống lí, Mị phải sống những ngày tháng đau thương, tủi nhục, tăm tối. Danh nghĩa là
con dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là bề tôi tớ không công. Mị không chỉ bị hành
hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về tinh thần. Dưới mấy tầng áp bức, Mị phải sống
kiếp sống như con vật, thậm chí không bằng con vật “bây giờ thì Mị tưởng mình cũng

13
là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc làm
giống nhau, tiếp nhau vẽ ra mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại.”Bị giam
hãm, đày đọa trong cái địa ngục khủng khiếp của nhà thống lí, Mị đang chết dần, chết
mòn theo năm tháng, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị bị tê liệt cả lòng yêu đời, sức
sống lẫn tinh thần phản kháng, mất hết ý thức về thời gian, không gian: “ở lâu trong
cái khổ Mị quen khổ rồi”, “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa”. Hình ảnh căn buồng của Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn
tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy “mờ mờ trăng trắng không biết là
sương hay là nắng”. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị,
cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Qua nhân vật
Mị, Tô Hoài đã lên tiếng tố cáo chế độ phong kiến miền núi. Chế độ ấy thực sự đáng
lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống
trong những con người vô cùng đáng sống.
Những tưởng rằng cuộc đời Mị sẽ như thế cho đến khi chấm dứt ở nhà thống lí
Pá Tra nhưng không phải vậy. Sức sống, sự ham sống trong Mị đã phản kháng: khi
mới bị bắt về làm dâu gạt nợ, Mị có phản ứng quyết liệt “đến hàng mấy tháng, đêm
nào Mị cũng khóc.” Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món
nợ của người cha. Đây là một trong những biểu hiện đầu tiên của lòng ham sống –
dám chết khi nghĩ rằng cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa. Nhưng đến
lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn
tại vật vờ. Đây cũng chính là một trong những hành động thể hiện sự khát sống của
Mị, dám sống ngay cả khi trên cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa gì nữa. Đây là
hai trong số những tín hiệu đầu tiên chứng tỏ rằng trong trái tim của cô gái này, nhất
định vẫn ẩn chứa một lòng ham sống rất lớn như trực chờ có đốn lửa nhen nhóm sẽ
bùng lên mạnh mẽ.
Và rồi đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã làm trỗi dậy khát khao được giải
phóng, tự do trong Mị....
Khi mùa xuân đến, tất cả những gì tưởng chừng như đã chết trong Mị như có
cơ hội hồi sinh bởi mùa xuân là mùa của cây cối đâm hoa nảy lộc, mùa của hội hè
đình đám, mùa của gặp gỡ, hò hẹn lứa đôi...Mùa xuân đến với Hồng Ngài đã được Tô
Hoài miêu tả bằng những câu văn rất hay. Khung cảnh mùa xuân tươi vui tràn đầy sức

14
sống và màu sắc: “cỏ gianh vàng ửng”, “những chiếc váy hoa xòe như con bướm sặc
sỡ”,… Giữa giá rét của mùa đông nhưng người dân Hồng Ngài vẫn rực rỡ đón xuân.
Hòa với những sắc màu của mùa xuân là âm thanh náo nhiệt, tưng bừng: “đám
trẻ đợi Tết chơi quay”, “cười ầm lên trên sân trước nhà”, tiếng sáo rủ bạn đi chơi vọng
vào tâm hồn Mị “thiết tha, bổi hổi” từng lời hát giản dị, mộc mạc nhưng có sức mời
gọi lớn lao đối với Mị: “Ta không có con trai con gái…” Tiếng sáo là âm thanh quen
thuộc của vùng núi Tây Bắc, là tiếng lòng đắm say của trai gái Mèo trao gửi bạn tình
nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm
hồn Mị, đánh thức sức sống vẫn còn tiềm ẩn trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc
này. Trong khoảnh khắc ấy, tiếng sáo như tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Mị cùng
với không khí mùa xuân tưng bừng, đang hừng hực một sức sống mãnh liệt. Tất cả
như khơi dậy, làm cho Mị bừng tỉnh.
Khi nghe tiếng sáo lặp lại nhiều lần, sau bao tháng ngày câm lặng, Mị cất tiếng
nói đầu tiên, là một bản tình ca yêu đương đầy xao xuyến, Mị ngồi nhẩm theo bài hát
“Mày có con trai con gái rồi / Mày đi làm nương / Tao chưa có con trai, con gái / Tao
đi tìm người yêu”. Tiếng sáo cất lên từ trái tim tưởng chừng như khô cằn, chai sạn của
Mị giờ đây, tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn ngủ yên và khát vọng được yêu bấy lâu
nay Mị chôn chặt trong tim. Mị như bừng tỉnh, tiếng sao rung lên trong trái tim Mị
khiến cho nhận thức về cuộc sống ùa về.
Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi
say đến lịm người đi. Cách uống “ực từng bát” không phải là cách uống của người
thưởng rượu, cũng không phải cách uống của người thèm rượu bởi đã từ lâu Mị không
thèm khát rượu nữa rồi. Mị uống rượu là vì thói quen: “ngày trước, Mị cũng uống
rượu”, uống theo thói quen của người Mèo nhưng cách uống “ực từng bát” lại giống
như Mị đang cố nuốt xuống những cay đắng, tủi nhục cùng uất hận trào dâng.
Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực
tại “lịm đi nhìn mọi người nhảy đồng”, “người hát mà không nghe, không thấy” và
cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay, lòng Mị như đang “sống về ngày trước”. Tô
Hoài đã rất tinh tế khi dùng từ “sống” chứ không phải “nhớ”... Mị như thoát xác để
tìm về những ngày xưa hạnh phúc. Mị lại nhớ về ngày trước “Mị thổi lá hay như thổi
sáo”, “có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” và quan trọng hơn là Mị

15
vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người : “Mị vẫn
còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống
chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau” .
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên
trong thời khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi
phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ
vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được
chết ngay đi: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ
không còn buồn nhớ lại nữa.” Chính mong muốn được chết trong Mị lại chính là biểu
hiện cao nhất của khát vọng ham sống của con người bởi chỉ khi chết đi Mị mới được
tự do. Tuy là muốn chết nhưng đó là hành động của người yêu cuộc sống thiết tha khi
bị đẩy đến cảnh “sống không bằng chết”.
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới
khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn
chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời
điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: Mị “xắn một miếng mỡ bỏ vào
đĩa đèn cho sáng”. Hình ảnh ngọn đèn chính là ngọn lửa sáng đang trỗi dậy mạnh mẽ
trong lòng Mị, thắp sáng căn phòng u tối chính là xua đi tăm tối cuộc đời mình, bừng
lên ánh sáng hi vọng cho cuộc đời. Mị “quấn lại tóc, thay chiếc váy hoa với ở vách” ,
rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ. Đó
không chỉ là nhu cầu làm đẹp của bản thân trước lúc đi chơi, đó còn là mình chứng rõ
nhất về giá trị bản thân, lòng ham sống đang bừng dậy đầy mạnh mẽ, mãnh liệt khiến
cho Mị bất chấp bạo quyền. Tâm hồn Mị lúc này như đang ngân lên khát vọng hạnh
phúc, tự do không gì kìm nén được.
Vậy nhưng, khát vọng sống của Mị lại bị vùi dập một cách phũ phàng: A Sử
về, biết Mị muốn đi chơi và chuẩn bị đi chơi, hắn tức lắm, đánh rồi “trói đứng Mị vào
cột nhà bằng cả một thúng sợi đay”, không những thế, nó còn “lấy tóc Mị cuốn lên xà
nhà”, tắt đèn đóng sập cửa lại. Những hành động nhẫn tâm của A Sử dường như muốn
đẩy Mị vào bóng tối, dìm Mị chết trong sự bế tắc và tuyệt vọng thế nhưng Mị thực
tâm chẳng hề để ý tới những gì đang diễn ra với mình. Mị đang ở trong trạng thái
mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh

16
trong cảm giác du xuân. Bây giờ, tiếng sáng vẫn đang rập rờn trong đầu của Mị,
“Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị đang còn
sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức
giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng
chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được “dây trói thít lại, đau
nhức”. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai
đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây
trói và tiếng “chân ngựa đạp vào vách”, nhai cỏ, gãi chân khiến “Mị thổn thức nghĩ
mình không bằng con ngựa.”
Khái quát:
Trong suốt đêm bị trói, Mị đã sống trong một tâm trạng giằng xé giữa quá khứ
đẹp đẽ và thực tại đau khổ, giữa ước mơ hạnh phúc và nỗi tủi hờn về kiếp trâu ngựa.
Đó là biểu hiện của tâm hồn yêu sống, thèm sống, sống một cuộc đời tự do, hạnh phúc
bất chấp cường quyền chà đạp, vùi dập. Diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong
đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là một tâm trạng hồi hộp, vui sướng và đau khổ, ham
sống và muốn chết. Trong bóng tối nặng nề ấy, Tô Hoài đã không đề nhân vật nói câu
nào và hành động cũng rất ít, phân lớn là những dòng nội tâm trỗi dậy, tuôn trào trong
lòng Mị. Thông qua nhân vật Mị, ta thấy tác giả bộc lộ rõ nét tài năng miêu tả diễn
biến nội tâm nhân vật Mị một cách chân thực, sinh động. Sự trỗi dậy của Mị trong
đêm tình mùa xuân tuy chưa thay đổi được số phận của cô nhưng đó là tiền đề quan
trọng cho những đột biến lớn lao trong đời Mị để rồi dũng cảm cắt dây trói, giải thoát
cho A Phủ, giải phóng cho chính cuộc đời mình. Như nhà văn Lỗ Tấn đã từng nói:
“Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai.”.
b. Trong đêm mùa đông trên núi cao(cắt dây trói cho A Phủ):
Sau đêm tình mùa xuân, Mị lại trở về với cuộc sống bình thường như một cái
xác không hồn. Mùa đông ở Hồng Ngài dài và lạnh lắm, Mị có một thói quen không
thể bỏ đó là sưởi lửa mỗi buổi đêm. Với Mị, bếp lửa là người bạn, là tri âm, là tri kỷ,
là thứ hiếm hoi mang tới cho Mị một nguồn sáng ấm áp, giúp Mị vượt qua sự lạnh giá,
cô đơn trên rẻo cao này. Dù đã có nhiều lần, A Sử về và nhìn thấy Mị sưởi lửa, hắn
đạp Mị ngã lăn nhưng Mị vẫn nhất quyết không bỏ thói quen này “Tối nào Mị cũng ra
sưởi lửa”. Khi chứng kiến tình cảnh của A Phủ, mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với

17
hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một
minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bởi trong hoàn cảnh của Mị, cô gái này thực
sự đã quá khổ để có thể đồng cảm với nỗi khổ của người khác, thậm chí, trái tim của
Mị bây giờ còn mất hết những cảm xúc, chỉ còn một trái tim đóng băng, lạnh giá vô
cùng. Sống cùng những chà đạp, tủi nhục ở nhà thống lý, Mị đã rơi vào trạng thái trơ
lì cảm xúc. Ở đây Tô Hoài không nhằm chỉ trích sự vô cảm của Mị mà thông qua Mị
ông muốn tố cáo, lên án sự tàn bạo của gia đình thống lý đã biến một cô gái trẻ trung
yêu đời trở nên câm lặng, tâm hồn tê dại.
Chính nhờ ngọn lửa mà Mị trông sang A Phủ “Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt
nước cuối cùng làm tràn ly nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ
mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã từng khóc, nước mắt
chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước
mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra hoàn cảnh của mình, xót thương cho chính mình.
Và Mị đã nhớ lại mọi chuyện, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có
thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có
tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn
vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở
đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết”. Mị không cảm thấy sợ hãi, chỉ cảm thấy
một điều duy nhất bây giờ: “Cha con chúng nó thật độc ác”. Khi một kể đang trong
tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân cái khổ mà mình phải gánh chịu thì
đúng là một cuộc lộn ngược dòng của ý chí. Nó đã cho người đọc thấy được chắc chăn
lần trỗi dậy này không dừng lại như đêm tình mùa xuân mà sẽ là một cuộc phản kháng
mãnh liệt khi Mị nhận thức rất rõ nguyên nhân của nỗi thống khổ.
Nghĩ thế, Mị cầm dao cắt dây trói cho A Phủ để rồi có khựng lại vài giây rồi
bất ngờ chạy theo A Phủ. Hành động “cắt” dây trói là một quyết định mạnh mẽ, táo
bạo, nhanh chóng và dứt khoát. Dường như ta cảm nhận được Mị không chỉ cắt dây
trói cho A Phủ mà còn đang cắt dây trói cho chính mình. Lòng ham sống của một con
người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị
như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay
đổi số phận. Đến bây giờ, tất cả những nỗi sợ hãi như cường quyền, bạo quyền hay

18
thần quyền đều tan biến, chỉ còn lại trong Mị là một lòng ham sống vô cùng mãnh liệt,
trào sôi.
Hai người dắt tay nhau đi, chạy trong đêm tối, mặc kệ tất cả những khổ ải nơi
Hồng Ngài này đề tới Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu, hai người được giác ngộ cách
mạng và kết hôn với nhau, trở thành những chiến sĩ kiên trung trong công cuộc bảo vệ
Tổ quốc.
Khái quát:
Hành động cắt dây trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài không
phải hành động mang tính bản năng mà đó là sự trỗi dậy của lòng khát vọng sống tự
do mãnh liệt. Hành động táo bạo và đầy bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của một sức sống
tiềm tàng khi đã trỗi dậy để chống lại cường quyền, thần quyền để giải phóng chính
mình. Hành động cắt dây trói cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài của Mị có vẻ bất ngờ
nhưng rất phù hợp tâm lí con người với quy luật cuộc sống “tức nước vỡ bờ”. Người
đọc cũng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài khi ông luôn phát
hiện và khẳng định vẻ đẹp tiềm ẩn của con người. Với nhân vật Mị, giáo sư Trần Đình
Sử đã nhận xét: “ Đây là nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi Cách mạng
đương đại.”.
2. Nhân vật A Phủ
A Phủ là một đứa trẻ mồ côi cha mẹ từ nhỏ do trong một trận đại dịch cả gia
đình A Phủ đều chết chỉ một mình A Phủ sống sót vậy nên ngay từ nhỏ A Phủ đã bơ
vơ không nơi nương tựa. Đó là sự mất mát đầu tiên nhưng lại vô cùng to lớn và quá
sức chịu đựng đối với một đứa trẻ. Sự bất hạnh không dừng lại ở đó, A Phủ lớn lên
còn trở thành một món hàng để người làng đem đổi lấy thóc khi người ta đói bụng(
trái ngược với Tnú trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành dù cũng mồ côi
nhưng lại được lớn lên trong vòng tay yêu thương, che chở của buôn làng).
Tuổi thơ bất hạnh, cơ cực là vậy nhưng khi trưởng thành A Phủ vẫn là một
chàng trai khỏe mạnh, lao động giỏi, là niềm ao ước của biết bao cô gái trong làng
“đứa nào được A Phủ cũng bằng được một con trâu tốt trong nhà”. Hoàn cảnh xuất
thân đặc biệt nên A Phủ không có bố mẹ, không có nhà, không có ruộng vì vậy nên A
Phủ không lấy được vợ. Cuộc sống A Phủ là tiếp nối bất hạnh của những con số
không. Đó là cuộc sống triền miên trong nghèo khổ không có tương lai.

19
A Phủ xuất hiện bất ngờ trong đám đánh nhau của trai làng bên với A Sử. A Sử
vào làng tìm đám chơi có tiếng sáo, tiếng khèn nhưng vì đến muộn nên phải đứng
ngoài. A Sử và đám bạn đã tìm cách gây sự và bị A Phủ đánh cho một trận nên
thân.Nhà văn đã miêu tả sức mạnh của A Phủ ngay từ lần xuất hiện này: “Một người
to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử” rồi “xộc tới ném cái
vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Nhưng trong cuộc chiến chống
cường quyền hùng dũng mà đơn độc này, A Phủ đã thua cuộc. Anh bị bắt sống, trói
chân tay và xọc gậy mang về nhà thống lí Pá Tra.
A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra bắt trói, đánh đập vô nhân đạo, phạt vạ dã
man, vô lí và trở thành người ở trừ nợ cho nhà thống lí. A Phủ chịu trói quỳ giữa nhà
cho bọn tay sai đánh tới tấp hết trận này đến trận khác, đến nỗi thân tàn ma dại: “mắt
A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”, “đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ
phù”. Cứ xong một lượt đánh các quan lại chửi, lại hút, khói thuốc phiện tuôn ngập
các cửa sổ, cứ như thế “suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng
chửi, càng hút”. Qua bữa tiệc phạt vạ, nhà văn đã vạch trần bản chất bất công, thối nát
của bọn thống trị phong kiến và số phận thảm thương của người dân miền núi trước
Cách mạng.Sau khi bị đánh đập tàn bạo, A Phủ bị bọn thống lí, chức việc trói chặt vào
kiếp đời nô lệ. Đầu tiên chúng buộc tội cho A Phủ vì đánh con quan nhưng làng tha
cho tội chết, chỉ bắt nộp vạ. Sau đó thống lí vừa gán nợ cho A Phủ một cách trắng
trợn, vừa bày cách để A Phủ trả nợ, cái cách vô lí và vô nhân đạo: “Mày không có
trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về,
chưa có tiền thì tao bắt mày làm con trâu con ngựa nhà tao. Đời mày, đời con đời cháu
mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Như vậy dưới hình thức cho vay
này, A Phủ chính thức trở thành tôi đòi cho nhà chúa đất phong kiến.
Từ sau đám xử kiện, A Phủ chấp nhận làm con ở gạt nợ cho nhà thống lí,
không còn nhớ đến những tháng ngày theo bạn đi chơi hội các làng, suốt năm, suốt
tháng vùi đầu vào công việc, bị bóc lột tàn tệ.
Khi bị trói đứng vào cột, đứng trước cái chết đang cận kề, A Phủ ban đầu
không chấp nhận, đến đêm anh “cúi xuống, nhay đứt hai vòng mây” nhưng đó chỉ là
sự cố gắng vô ích, vì sáng mai ra cổ anh lại thêm thòng lọng, dường càng chặt hơn,
càng tàn bạo hơn. Bị trói, bị bỏ đói, gắng gượng trong vô vọng suốt mấy ngày đêm,

20
chàng thanh niên khỏe mạnh ngày nào nay đã không còn chút sức lực, chỉ biết trút
dòng nước mắt tuyệt vọng. Đến khi được Mị cắt dây trói, A Phủ như một cái xác trực
“ngã khuỵu xuống, không bước nổi”.Nhưng khi khát vọng sống một lần nữa được
đánh thức mãnh liệt, A Phủ đã quật sức chạy, quyết tâm vùng chạy để thoát khỏi gông
cùm, xiềng xích và đến Phiềng Sa, chàng trai gan góc, táo bạo ấy đã trở thành tiểu đội
trưởng du kích.
Khái quát:
Mặc dù số phận đầy đau khổ và bất hạnh nhưng ở A Phủ vẫn tiềm tàng những
phẩm chất cao đẹp tiêu biểu cho vẻ đẹp của những con người lao động vùng núi cao
Tây Bắc. Thông qua nhân vật A Phủ người đọc cũng thấy được bút pháp khắc họa
nhân vật phong phú, tài hình ở Tô Hoài. Nếu như với nhân vật Mị chủ yếu là được
khắc họa từ thế giới nội tâm bên trong đầy tinh tế thì đối với nhân vật A Phủ lại chủ
yếu được khắc họa từ những điểm nhìn bên ngoài với những hành động mạnh mẽ, đầy
ý nghĩa, Đó chính là thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Tô
Hoài.

IV. MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI THAM KHẢO


Mở bài:
Tô Hoài sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng lại gắn bó sâu sắc với đất và con
người Tây Bắc, ông đã từng thốt lên rằng: “Đất và người Tây Bắc đã để thương, để
nhớ trong tôi nhiều quá.” Vợ chồng A Phủ chính là kiệt tác được ra đời từ những nỗi
nhớ thương ấy. Tác phẩm được viết sau chuyến đi thực tế của nhà văn ở vùng Tây Bắc
vào năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đây là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô
Hoài nói riêng và văn xuôi chống Pháp nói riêng. Tác phẩm là bức tranh chân thực về
cuộc sống và thân phận khổ đau của người dân nghèo miền núi trong ách áp bức, bóc
lột của thế lực phong kiến thực dân, đồng thời tác phẩm cũng là bài ca về sự sức sống
và khát vọng tự do của người dân miền núi.
Kết bài:
Qua việc khắc họa cuộc sống và số phận cùng khổ của Mị và A Phủ, nhà văn
Tô Hoài đã mở ra bức tranh hiện thực tăm tối, ngột ngạt của người dân miền núi Tây
Bắc dưới chế độ phong kiến đen tối, nơi giai cấp thống trị có thể tự do áp bức, tước

21
đoạt đi tự do, hạnh phúc và cả quyền sống của những người dân nghèo vô tội. Quá
trình vượt qua nghịch cảnh, giải phóng bản thân, đi theo cách mạng của Mị và A Phủ
cũng chính là quá trình giác ngộ Cách mạng của đồng bào dân tộc miền núi. Truyện
ngắn không chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo của Tô Hoài khi bênh vực, đồng cảm với
số phận con người mà còn thể hiện niềm tin của tác giả vào Cách mạng, khẳng định
chỉ có đi theo Cách mạng con người mới có thể thực sự tìm thấy tự do, phá bỏ xiềng
xích áp bức để hướng đến cuộc sống hạnh phúc. Tô Hoài đã làm đúng thiên chức của
một nhà văn như Nguyễn Minh Châu từng nói: “Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh
vực cho những con người không có ai để bênh vực.”

22

You might also like