Professional Documents
Culture Documents
A. MỞ BÀI CHUNG
Lã Nguyên đã nói về yêu cầu của văn chương nghệ thuật và thiên chức của người
nghệ sĩ “Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ ra đại
dương nhân bản mênh mông”. Nguyễn Minh Châu đã ý thức được sâu sắc thiên chức ấy
của người cầm bút trong công cuộc đổi mới văn học nên trở thành người mở đường tinh anh
và tài hoa của văn học Việt Nam sau năm 1975. Đứng trước sự thay đổi của thời đại, nhận
thức được nhu cầu đổi mới văn học, Nguyễn Minh Châu đã người tiên phong gieo những hạt
giống đầu tiên trên con đường đổi mới. Nếu như trong giai đoạn trước Nguyễn Minh Châu
sáng tác theo cảm hứng sử thi đậm nét, sau năm 1975 ông đã chuyển sang cảm hứng thế sự
với những vấn đề về đạo đức và triết lý nhân sinh. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu có sức
hấp dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét phong cách kết hợp
hài hòa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng nhân vật được soi thấu
trong quan hệ đa chiều, phức tạp và đề cao, tôn vinh những giá trị cuộc sống. Truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau
năm 1975. Đây là một tác phẩm hay đậm tính nhân văn, thể hiện một lối tư duy mới mẻ của
nhà văn về cái đẹp, nghệ thuật và số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn kiếm
tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
Đoạn số 2
Đọc đoạn trích sau:
“Người đàn bà bổng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách
mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang
tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt – nhưng
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó ? Từ ngày
cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được !
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ? – Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác
uống rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới
xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi cùng một lúc thốt
lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi
vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, -
trên thuyền phải có một người đàn ông…dù hắng man rợ, tàn bạo ?
- Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động song gió chứ chú ?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hang chài ở thuyền chúng tôi
cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng
một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con,
rôi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi
phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng
tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó ! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí
của mụ chợt ửng sang lên như một nụ cười – vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ
chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ?– Đột nhiên tôi hỏi?
- Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…”
(Trích“Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu – Sách Ngữ văn
12, tập hai , NXB giáo dục Việt Nam, trang 75-76).
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét
về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà chép miệng…ăn no” đã giúp người
đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó cảm nhận sâu sắc hơn được vẻ đẹp của hình
tượng người phụ nữ trong văn học.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân
của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ qua một lát cắt ấy
thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm như vậy nên trong truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để
trong tình huống ấy, các nhân vật phải bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện
được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến
tranh nhiều đau thương mất mát.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó tính
đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi
sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết định đến vùng biển
từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có người bạn chiến đấu là Đẩu,
hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh
lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp
được một lần. Cảnh đẹp như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ
đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim
mình thắt lại, bối rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như
đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm
hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận ra vai trò thực sự
của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp tuyệt đỉnh của cảnh vật vào
ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong
bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải
là những con người đẹp và toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người
đàn ông độc ác và một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng
sửng sốt và đau đớn. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn
bạo. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết sức lực để
dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ tàn độc mà lão đàn
ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành
cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ
là trước trận đòn như với kẻ thù của người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục
chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Phùng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ
người đàn bà thì lại chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai
của lão đàn ông và người đàn bà vì thương mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi
lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn giúp đỡ
người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh ấy vẻ đẹp của nhân
vật người đàn bà được bộc lộ rõ nét.
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích
2.1. Số phận bất hạnh:
- Không có tên tuổi, xấu xí: Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người đọc
vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là
người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị....như một sự xóa mờ tên tuổi nhằm tô
đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc
nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.
Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng
không phải quá phổ biến nhưng ta có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.
Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của cuộc
đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải thường xuyên chịu
những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố
đánh mẹ… Từ nhỏ chị đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa. Vì
xấu nên không ai lấy, chị có mang với người con trai nhà hàng chài hay đến mua bả về đan
lưới rồi thành vợ chồng, được anh ta mang theo xuống sống dưới thuyền. Cứ ngỡ tưởng có
một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển
cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh, đau khổ càng làm cho diện mạo chị trở nên xấu xí và thô
kệch, thể hiện rõ qua hình ảnh lưng áo bạc phếch, gương mặt tái ngắt như buồn ngủ vì thức
trắng đêm kéo lưới, nửa thân dưới ướt sũng...Số phận, cuộc đời của chị được tác giả tái hiện
với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn trong câu chuyện của chị với Phùng
và Đẩu ở toà án huyện.
- Nghèo khổ: Nghèo khổ, làm ăn khó nhọc lại còn đông con, cả gia đình hàng chài trên
dưới mười người phải sống chung trên con thuyền chật chội. Theo lời chị “từ ngày cách
mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang
tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…”
- Bị bạo hành: Không chỉ bị cái xấu, cái nghèo đói, lam lũ đeo đuổi mà người đàn bà
còn thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ. Như chánh án Đẩu nhận xét trước đó thì “Ba
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như
hắn”. Còn theo lời người đàn bà thì Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh,
cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Giá mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…
Nếu như ở các đoạn văn trước, người đọc chỉ thấy người đàn bà bị chồng đánh tàn độc thì
qua lời người đàn bà trong đoạn trích đã biết thêm việc chị bị chồng đánh là hoàn toàn vô lí.
Chị không có lỗi lầm gì nhưng lão đàn ông vẫn có thể đánh chị bất cứ lúc nào. Có lẽ, người
đàn bà bị đánh nhiều đến mức khiến chị nghĩ việc chị bị chồng đánh là lẽ đương nhiên như
những đàn ông hàng chài khác uống rượu, bị chồng đánh như một phần quen thuộc của cuộc
đời.
- Nỗi đau về tinh thần: Ngoài nỗi khổ vì vật chất, sự đau đớn về thể xác, người đàn bà
còn phải chịu nỗi đau về tinh thần. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van xin
chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó “Sau này con cái lớn lên, tôi mới
xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc những đứa con phải chứng kiến cảnh mẹ
bị đánh khiến người đàn bà cảm thấy xấu hổ, nhục nhã và đau đớn. Hơn nữa, chị lo lắng liệu
khi những đứa con nhìn thấy cảnh bạo lực ấy tâm hồn non nớt của chúng sẽ ra sao? Chúng
sẽ nghĩ gì về bố và mẹ? Sau này lớn lên liệu chúng có giống bố không? Chị đã cố giữ gìn
một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui sống, tâm hồn chúng không
vẩn đục nhưng chị hoàn toàn bất lực.
=> Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ,
không có sự che chở yêu thương. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số
phận đầy bi kịch ấy của chị được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
2.2. Vẻ đẹp của người đàn bà trong đoạn trích
Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh
con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt
gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình
kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong đoạn
trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật
người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận thấy vì bị ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu
xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.
* Thấu hiểu chồng, vị tha cao thượng
Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà hiểu
rõ nguyên nhân mình bị chồng đánh. Chị hiểu, lão đàn ông đánh mình không phải vì bản
chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình hơn chục người như dồn
hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến người chồng hiền lành của chị trở thành
ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như.
Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con,
trước Phùng và Đẩu. Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?”
như muốn quy kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay
“Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Thấu hiểu chồng phải làm ăn lam
lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình cho rằng
mình chính là nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi
sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” và ”nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ
nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thậm chí, chị sẵn sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không
phải bỏ chồng.
* Thương con:
Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác và
chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi người đàn bà
đã kiên quyết từ chối. Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà chủ yếu là vì chị thương
con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì chị có trong cuộc
đời của mình. Vì thương con nên chị cần có người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió
phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài
không sống như trên đất được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn
lớn “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên
đất được”. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam chịu những
trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm chí, chị coi việc mình bị
đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện đương nhiên. Cũng vì
thương con, sợ con bị tổn thương nên chị mới xin chồng lên bờ đánh. Tình mẫu tử của chị
như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ nữ được bộc lộ một cách cảm động và
sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của
chị. Vì có những phụ nữ như chị nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái
Bình thì thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
* Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời
Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ
nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm
tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau
vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ
ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái
độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên
nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con
người từng trải với con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình. Chị hiểu thiện chí của Phùng và
Đẩu khi khuyên mình bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song chị càng hiểu hơn về thực tiễn
đời sống trên sông nước. Chị chắt lọc từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc
nhưng thấm vị muối mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần
phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người
đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Chị cũng hiểu và tự hào với
thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho
đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Người đàn bà quê mùa, thất học còn chỉ
cho Phùng và Đẩu bất cập trong chính sách, chủ trương của của chính quyền là Làm nhà
trên đất ở một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp
đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được! Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và
“ngộ” ra bao điều.
* Nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường.
Trong khổ đau, bất hạnh người đàn bà vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc nhỏ
bé, hiếm hoi. Hạnh phúc của chị là những lúc trên thuyền vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận
với nhau. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà khiến “lần đầu tiên trên
gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Nụ cười hạnh phúc hiếm hoi của
chị được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi, phải trả
giá bằng những hành hạ, bạo tàn, từ những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Để từ đó, ta nhận
ra dường niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất đối với người người đàn bà chính là sự tận tụy
hi sinh cho chồng con Khi Phùng hỏi chị “Cả đời chị có một lúc nào thật vui không?” thì
câu trả lời của người đàn bà là “Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó
được ăn no…”. Điều đó, cho thấy niềm vui lớn nhất, hạnh phúc nhất của chị là khi được
nhìn đàn con ăn no. Người đàn bà thật sự đã làm người đọc xúc động vì tình mẫu tử thiêng
liêng. Vì các con, chị quên hết nhọc nhằn, cực khổ, chị coi những bất hạnh, khó khăn, ngọc
nhằn mà chị phải gánh chịu như những hạt cát để gió thổi bay còn những hạnh phúc mà chị
nhận được dù quá nhỏ nhoi nhưng chị vẫn hết sức nâng niu, trận trọng, giữ gìn.
3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Tạo tình huống truyện độc dáo mang ý nghĩa khám phá. Trong đoạn trích, nhân vật
xuất hiện trong cuộc đối thoại với Phùng và Đẩu. Ngôn ngữ đối thoại sinh động phù hợp với
tính cách nhân vật và đậm tính triết lý. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa. Cách kể chuyện
tự nhiên, cảm xúc. Khắc hoạ nhân vật bằng việc đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp và đầy
mâu thuẫn trong cuộc sống thường nhật. Biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa
ngoại hình và tâm hồn, của người đàn bà để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng
đáng được ngợi ca… Ngoài ra, với bút pháp hướng nội, cảm hứng thế sự, cách lựa chọn ngôi
kể, điểm nhìn thích hợp đã làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết
phục.
3.2. Nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn học.
Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Tình yêu thương giành
cho những người phụ nữ càng sâu sắc bao nhiêu thì nỗi đau cho thân phận bất hạnh của họ
trong những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều,
những người chinh phụ theo dòng chảy đến với những Thị Nở, người vợ nhặt…và trở nên
đầy ám ảnh trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Trong tác phẩm, tác giả
đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao
động nghèo khổ, lam lũ, bất hạnh. Người phụ nữ ấy tuy số phận đầy bất hạnh nhưng lại có
những phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt Nam, tâm hồn tỏa sáng những phẩm chất
cao đẹp: tảo tần, chịu thương, chịu khó, nhân hậu, bao dung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha,
thương chồng thương con và nhất là lòng thương yêu con vô bờ bến.
3.3. Nhận xét về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn
Nhân vật người đàn bà hàng chài tuy xấu xí, nghèo khổ nhưng mang phẩm chất tốt đẹp
của người phụ nữ. Qua đó, tác giả đã nêu lên cách nhìn nhận, đánh giá con người phải có cái
nhìn toàn diện, nhiều chiều. Không thể nhìn nhận vẻ bề ngoài để suy ra bản chất bên trong
của một con người. Không thể nhìn nhận con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Phải đặt
trong hoàn cảnh và các mối quan hệ mới thấu hiểu được bản chất bên trong của họ. Đúng
như nhà văn Nam Cao từng viết: "Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không
cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi . . . toàn
những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương;
không bao giờ ta thương".
Mặt khác, nhà văn còn cho ta thấy cuộc vật lộn để mưu sinh của con người đầy khó
nhọc. Gánh nặng của cuộc mưu sinh tác động và thậm chí có thể đe dọa hạnh phúc gia đình
và con người cần phải kiên cường đối diện với khó khăn, thử thách để bảo vệ hạnh phúc gia
đình. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn cũng khẳng định vai trò của người phụ nữ trong
việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Một trong những phẩm chất làm nên điều kì
diệu ấy là lòng bao dung vị tha và đức hi sinh của họ. Với nhân vật người đàn bà, nhà văn
Nguyễn Minh Châu đã tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con
người Việt Nam.
3.3. Nhận xét về giá trị nhân đạo:
Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối
của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân
cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Giọng kể buồn thương, thể hiện nỗi lo
âu, trăn trở trước cuộc mưu sinh nhọc nhằn của con người. Nhà văn cảm thông, chia sẻ và ca
ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, phát hiện và trân trọng vẻ đẹp trong tâm hồn của người đàn bà
hàng chài, cảm phục trước sự hi sinh thầm lặng của chị.
3.4. Nhận xét về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu:
Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu khẳng định nghệ thuật phải gắn liền với hiện
thực cuộc sống và nhà văn phải biết vui buồn, yêu ghét trước cuộc đời, phải có cái nhìn đa
diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật của hiện tượng, con người.
“Có ai đó đã ví sáng tạo nghệ thuật như việc thả diều. Con diều dù có bay bổng bao nhiêu
vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Ý tưởng ấy gợi cho ta nhiều suy nghĩ
sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Nhìn vào một số tác phẩm văn
học lớn, chúng ta thấy rõ mối quan hệ máu thịt này.”
(Muốn viết được bài văn hay – Chủ biên: Nguyễn Đăng Mạnh)
+ “Văn học là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất
phát, cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu)