You are on page 1of 7

CÁC LOẠI ĐỀ VỀ CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Đề 1: “ từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đi qua chiếc máy ảnh …. Lảo đảo ngã dúi xuống cát”

I. Mở bài
- Nguyễn Minh Châu từng là người lính viết văn, khi cuộc chiến đi qua, ông lại tiép tục sáng tác với
nhiều trăn trở về khám phá hiện thực cũng như phương thức thể hiện. Là một người lao động
nghệ thuật dũng cảm và đầy bản lĩnh, Nguyễn Minh Châu được tôn vinh là nhà văn mở đường
tinh anh của văn học Việt Nam
- Truyện Ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là thành công mới trong phong cách tự sự triết lý của
Nguyễn Minh Châu cũng như VHVN thời kì đổi mới
- Vấn đề nghị luận: Đoạn trích Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng (…) lảo đảo ngã dúi xuông
cát diễn tả phát hiện của nhân vật Phùng về cảnh bạo lực gia đình Làng chài từ đó làm nên nghệ
thuật tạo tình huống nhận thức của tác phẩm
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh ra đời: Chiếc thuyền ngoài xa (1983) rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên (in năm
1987). Ra đời trong đêm trước của cuộc đổi mới, tác phẩm đã gửi gắm những suy tư trăn trở về
sứ mệnh của văn học và số phận con người
- Tình huống được hé mở ngay trong nhan đề tác phẩm
Chiếc thuyền ngoài xa là một nhan đề có ý nghĩa biểu tượng, khơi gợi suy tưởng, hé mở tình
huống và góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm.
Nhan đề bao gồm cả đối tượng quan sát là chiếc thuyền và cự li quan sát là ở ngoài xa. Chiếc
thuyền xuất hiện trong truyện ngắn trước hết ở ngoài xa mang vẻ đẹp hài hoà, toàn bích, thánh
thiện cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh
Nhưng khi chiếc thuyền đến gần, đó là sự hiện hữu một không gian sống đầy bi kịch, đầy nghịch
lí ngang trái của những người dân chài bị cầm tù bởi đói nghèo tăm tối và bạo lực
 Nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa trở thành một biểu tượng khơi gợi ý nghĩa là thông điệp sâu sắc
về cách nhìn cuộc sống, về trách nhiệm của người nghệ sỹ với nghệ thuật và con người
2. Phân tích phát hiện của nhân vật Phùng trong đoạn trích
a. Giới thiệu sơ lược về tình huống truyện và phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng
- Tình huống xây dựng trong truyện là tình huống nhận thức
- Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng là phát hiện về vẻ đẹp của nghệ thuật đầy thơ mộng lãng
mạn khiến cho người nghệ sĩ thăng hoa cảm xúc
b. Phân tích phát hiện ( thứ hai ) của nghệ sĩ Phùng: cảnh bạo lực của gia đình hàng chài
- Điểm nhìn của người nghệ sĩ
+ Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh đi quá mười bước sâu vào phía
trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ
 Khách quan chứng kiến sự việc một cách chân thực. Nó bất ngờ và trớ trêu như một trò đùa
quái ác của cuộc sống. Đó chính là phát hiện về cuộc đời-một cuộc đời trần trụi đau đớn
- Phát hiện của người nghệ sĩ về một hiện thực ngang trái
 Hình ảnh người đàn bà:
- Ngoại hình: người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà
vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch.
Gánh nặng nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả cùng những bất hạnh
cay đắng trong cuộc đời đã lấy đi của chị tất cả sinh lực và niềm vui,
Sự nghèo khó, nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện ra trong tấm lưng áo bạc
phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng vì khi rời thuyền phải lội qua quãng bờ phá nước
ngập đến quá đầu gối
 Nỗi xót xa cho nhân vật đã hiện ra ngay trong những đường nét miêu tả đầu tiên về ngoại hình
Dáng vẻ. Đây chính là hình ảnh của một người lao động lam lũ nhọc nhằn trước một trận đòn
nhục nhã ê chề.
- Hành động:
Sau khi xuống thuyền, người đàn bà đi thẳng tới bãi xe tăng hỏng, trước lúc đến bên chiếc xe rà
phá mìn.
 Có thể nhận thấy đây là nơi quá đỗi quen thuộc với chị - đó là nơi mỗi khi người đàn ông đánh
người đàn bà theo thoả thuân giữa hai người. Sự quen thuộc ghê sợ, khủng khiếp trước những
trận đòn đã thành lệ của người chồng vũ phu, thô bạo.
Cánh tay chị buông thõng phó mặc,ngước mẳt nhìn ra… chỗ chiếc thuyền đậu… cố gắng vợi bớt
cho những đứa trẻ sự tổn thương đau đớn, tìm kiếm sự an ủi.
cặp mắt nhìn xuống chân mệt mỏi, chán chường dường như buông xuôi như một kẻ tội đồ nhẫn
nhục chờ hình phạt không tránh khỏi.
Khi bị chồng đánh dã man, chị chịu đòn với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một
tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn. Tác giả liệt kê một chuỗi hành động
nghịch lý, bí ẩn.
 Đó là thái độ của một người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình- không oán
thân, bất bình hay né tránh; cuộc sống đau khổ dường như đã làm mất đi ở người đàn bà kể cả
những phản xạ bản năng tối thiểu.
 Hình ảnh người đàn ông:
- Ngoại hình: người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ
quạ…
 Vẻ xù xì thô nhám của đời thường trần trụi nhọc nhằn mưu sinh
- Hành động
Hắn đánh vợ một cách thô bạo “lão rút ra trong người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày
xưa… Chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy… Quật tới tấp vào lưng người đàn bà”
 Bằng cách so sánh và động từ mạnh, tác giả đã miêu tả hành động tàn nhẫn thú tính của người
chồng như đối với một kẻ thù của thời trung cổ. Đó là hành động trút giận: GIận đời, giận vợ,
giận thân. Hành động của sự bế tắc, cùng đường thể hiện bằng ngôn ngữ của chiếc thắt lưng da.
Đánh vào lưng vợ như đánh vào một cái gì đó vô hình, đánh vào cái mà vì nó mà hắn khổ.
- Lời chửi mắng, nguyền rủa độc địa của anh ta về người vợ “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai
hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau
đớn: “ mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hểt đi cho ông nhờ!”
 Đó là lời của kẻ thất học vô văn hoá đang khốn cùng vì gánh nặng của vợ “mày chết đi” , vì gánh
nặng của con “ chúng mày chết hết đi” đè lên đôi vai, biến ông ta trở thành kẻ độc ác, ích kỉ, tàn
nhẫn ngay cả đối với những người thân yêu nhất của mình.
Hành động với nhứng đứa trẻ tội nghiệp: “Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng
chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi
xuông cát
 Hành động man rợ của một con thú không có tình người
 Tiểu kết: người đàn ông không chỉ đơn giản chỉ là kẻ tàn bạo, ông ta còn là một kẻ đáng thương.
Tính chất lưỡng phân ở con người này không hẳn là tính cách bẩm sinh mà một phần không nhỏ
là do cảnh ngộ đẩy vào
 Hình ảnh đứa con:
- Hành động:
So sánh : Như một viên đạn trên đường lao tới đích  tốc độ lao tới không thể ngăn cản khi đứa
trẻ khi tấn công người bố.
Lập tức nhảy xổ vào cái gã đàn ông…. Đã nhằm giằng được chiếc thắt lưng, liền dướm thẳng
người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng
 Một loạt động từ; dướn…giằng….vung…quật  sự căm hận tột độ biến thành hành động trả thù
dữ dội
 Chuỗi nghịch lí của hiện thực trần trụi, tàn nhẫn và cả những xót xa, bất bình trước những bất
công và bi kịch
- Thái độ của người nghệ sĩ
“Kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há hốc mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng
biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”
+ Cảm xúc: Kinh ngạc tột độ khi chứng kiến hàng loạt sự kiện bất ngờ diễn ra trước mắt như
những thước phim không lời: “một câu chuyện quái đản”
+ Hành động: vứt ngay chiếc máy ảnh xuống đất: phản xạ tức thời của một người bất bình trước
cái xấu cái ác, lao tới bênh vực người đàn bà hàng chài không quen biết bằng tất cả niềm xót xa
thương cảm.
 Thực tế phũ phàng giúp Phùng nhận ra nhiều điều. Cảnh tượng ấy giống như thứ thuốc rửa màu
khiến cho tất cả những tăm tối và bi kịch hiện lên rõ nét hơn bao giờ
 Phùng say mê và khao khát cái đẹp tuyệt đỉnh của thiên nhien nhưng không dửng dưng trước
những số phận đầy bi kịch và cay đắng của con người
3. Đánh giá:
- Đó là tình huống nhân vật Phùng đang trong trạng thái cảm xúc đối lập : những giây phút thăng
hoa cảm xúc, bất ngờ chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí dã man
- Từ đây nhận thức, suy nghĩ về con người, về cuộc sống của Phùng có những thay đổi: anh đã
phát hiện ra những nghịch lí của cuộc đời: nghịch lí giữa cái đẹp của nghệ thuật với sự trần trụi
bi đát của cuộc đời
- Ý nghĩa: với tình huống của truyện, nhà văn đã đặt ra một vấn đề quan trọng để người đọc suy
nghĩ về sứ mệnh về trách nhiệm của người nghệ sĩ đó là mối quan hệ giữa văn chương, nghệ
thuật với cuộc sống. Nghệ thuật trước hết phải gắn liền với cuộc sống, phài phản ánh chân thật
cuộc sống và góp phần cải tạo cuộc sống làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn
III. Kết bài.
- Về nghệ thuật: tình huống truyện đặc sắc, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống và lời văn
giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa
- Nêu cảm nghĩ trách nhiệm của bản thân chọn một trong các ý sau
- nghệ sĩ trước cuộc đời: người nghệ sĩ không nên nhìn nhận cuộc sống từ một phía mà phải nhìn
từ nhiều phía, nhiều góc độ để cảm nhận nhiều hơn về nó
- Về số phận con người trong đời thường
- Rút ra cách nhìn nhận của bản thân về cuộc đời và con người: thấu đáo nhân văn.
- Nguyễn Minh Châu đã từng tâm sự: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản và
nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”

Đề 2: “ người đàn bà bỗng chép miệng… đàn con tôi chúng được ăn no”

I. Mở bài
- Nguyễn minh châu quan điểm: “Văn học và cuộc sống là hai đường tròn đồng tâm mà tâm điểm
là con người”
- Khát vọng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: phát hiện ở những con người bé nhỏ cằn cỗi
những mảnh đời bất hạnh một ánh sáng lấp lánh của tình thương yêu , của lòng vị tha và đức hi
sinh.
- Cách nhìn về cuộc sống và con ngừời của nhà văn nguyễn minh châu đã được thể hiện qua câu
chuyện về số phận của người đàn bà trong đoạn trích
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Hoàn cảnh ra đời:
+ Sáng tác năm 1983, ra đời trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, ra đời tong thời kí hậu chiến
+ tác phẩm nằm trong xu thế của văn học thời kì đổi mới : hướng nội, khai thác sâu sắc số phận
cá nhân và thân phận con người đời thường. Nhân vật người đàn bà hàng chài đã thể hiện sâu
sắc hành trình văn học trờ về gần với hiện thực, với số phận mỗi con người
2. Phân tích:
 Luận điểm 1: Người đàn bà hàng chài hiện lên là hình ảnh của con người vô danh có số phận bất
hạnh:
- CHị không có tên cụ thể, nhà văn gọi tên chị chung chung theo giới tính và nghề nghiệp của
người phụ nữ làm nghề chài lưới: người đàn bà hàng chài, chị, mụ
 Người phụ nữ vô danh trong đời thường gợi chân dung số đông những người đàn bà vùng biển
lao động nghèo khổ cơ cực.
- Nỗi khổ vì nghèo túng, đông con, thuyền chật: “ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà
vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”
 Cảnh sống thiếu thốn, chật vật chống chọi với cái đói hiện hữu.
- Cuộc sống lam lũ vất vả hằn in lên vóc dáng của người đàn bà: khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt,
lưng áo bạc phếch và rách rưới
- Ngoại hình xấu xí: từ nhỏ đã là một đứa con gái xấu….không ai lấy….
 Thân phận thiệt thòi, lời kể ngậm ngùi xót xa.
- Nỗi khổ cùng cực vì bị chồng hành hạ thường xuyên : “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách
tôi ra đánh, ba ngày một trận nhẹ , năm ngày một trận nặng”
 Người đàn bà thô kệch lấm láp đời thường nhưng ẩn sâu lại là viên ngọc quý ánh lên một tâm
hồn cao thượng, đẹp đẽ vượt lên trên số phận bi kịch
 Vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài
- Là người vợ hiền thảo, nhân hậu, vị tha độ lượng”
- Người vợ nhận hết mọi lỗi về mình “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà
thuyền lại chật”
 Hiểu nguyên nhân sâu xa của sự đói nghèo thất học, bạo lực. Vì thế nên gánh lấy cái khổ, chịu
khổ như một thói quen , một định mệnh mà mình phải gánh lấy không hề oán trách, đổ lỗi.
- Dù được Đẩu khuyên ly hôn để thoát khỏi cảnh bạo lực nhưng người đàn bà một mực từ chối sự
giúp đỡ, tha thiết van xin: “ quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con
bỏ nó… Đừng bắt tôi bỏ nó”
 Lời khẩn cầu tha thiết ấy có lẽ bởi tận sâu trong tâm hồn người vợ chan chứa tình yêu thương và
chia sẻ lớn lao
- Sâu xa của lý do không bỏ chồng chính là chị thấu hiểu bản chát của chồng: “lão chồng tôi khi ấy
là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.”
 Bênh vực bản chất tốt đẹp vốn có của người chồng, Người đàn bà hiểu rằng, những trận đòn
như một cách được trút đi những cay đắng, uất nghẹn , bế tắc của cuộc đời,….
 Chị nhìn chồng mình là nạn nhân khốn khổ đáng thương. Chính sự thất học đói nghèo, lam lũ đã
tạo ra người đàn ông độc ác ấy, bởi một người phải gánh nặng mưu sinh trên đôi vai trong hoàn
cảnh đời khốn khó hẳn sẽ bế tắc và đau khổ.
- Là người phụ nữ thâm trầm, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời:
+ Chị đã làm thay đổi Đẩu và Phùng trong cách nhìn vấn đề: “Là bởi vì các chú không phải là đàn
bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền
không có đàn ông
 Muốn hiểu được người khác, đầu tiên phải từ bỏ cách nhìn phiến diện, một chiều, phải đặt mình
vào hoàn cảnh người khác.
+ lý giải việc không bỏ chồng theo lí lẽ rất riêng “đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có
người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào
cũng trên dưới chục đứa”
 Cần người đàn ông, vì đàn ông là trụ cột, họ làm ăn và nuôi con; họ chèo chống gia đình. Với
người đàn bà lẽ đời này là sống và giữ gìn cho các con một gia đình dù phải cháp nhận nghịch
cảnh. Đó là bổn phận và trách nhiệm mà không phải ai cũng có đủ sức mạnh để sống và hi sinh vì
điều đó
- Là người mẹ giàu đức hi sinh, có tình mẫu tử thiêng liêng, cảm động.
- Chị ý thức sâu sắc về thiên chức làm mẹ mà ông trời đã ban cho sứ mệnh: đẻ con và nuôi con;
sống vì con: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho
nên phải gánh lấy cái khổ”
 Người đàn bà hàng chài lam lũ, không được học hành nhưng cư xử thật sâu sắc.
- Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền.
 Tình mẹ là tình cảm lớn lao, thiêng liêng nhất có người mẹ nào không hi sinh tất cả cho con. Đó
là tấm lòng yêu thương cao cả
- Thương con sợ còn tổn thương tinh thần, chi đã xin lão chồng “có đánh thì đưa tôi lên bờ mà
đánh”. Chị dứt ruột gửi thằng Phác – đứa con mà chị yêu thương nhất lên rừng ở với ông ngoại
nó. Bởi chị sợ thằng Phác lớn lên ở đây nhân cách nó sẽ phát triển lệch lạc vì nhiễm thói bạo lực
từ người cha nó.
 Tình thương con ở chị gắn liền với lý trí. Người đàn bà hàng chài lam lũ, không được học hành
nhưng cư xử thật sâu sắc. Có lẽ cũng vì lăn lộn với cuộc sống khắc nghiệt đã giúp cho người đàn
bà nhìn đời ở những khía cạnh không ngờ
- Chị lấy con làm niềm vui, lấy gia đình làm điểm tựa để vượt lên trên số phận nghiệt ngã của
chính mình: cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ.” chị góp nhặt niềm
vui dù bé nhỏ để bù đắp lên những cơ cực cuộc đời: “vui nhất là lúc nhìn đứa con tôi ăn no.”
 Không niềm vui nào của người mẹ ấy lớn hơn sự no nê, êm ấm của các con, của gia đình. Và vì
thế, người mẹ hi sinh tất cả , nhận về mình tất cả thua thiệt và đớn đau. Niềm vui nhỏ bé trong
những khoảnh khắc hạnh phúc đời thường được chắt chiu
- Hình ảnh nụ cười của người đàn bà: Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng
lên như một nụ cười
 Hình ảnh đẹp nụ cười hiếm hoi nhưng có sức mạnh như một điểm tựa và động lực giúp người
mẹ ấy trụ vững trc bao khốn khó và bi kịch của số phận.
 Vẻ đẹp khuất lấp và giàu nhân văn cuả người đàn bà hàng chài- hiện thân cho cái đẹp bình dị
nhưng lấp lánh toả sáng của đời thường
3. Đánh giá
- Chia sẻ cảm thông của mình với những số phận đau khổ tủi nhục của người lao động vô danh
trong xã hội
- Lên án, đấu tranh với cái xấu cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình
- Phát hiện ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người
- Khao khát một xã hội tốt đẹp cho mỗi con người đều được sống với những giá trị đích thực và
cao quý
- Gửi gắm những triết lí sâu sắc về cuộc sống về con người và nghệ thuật
- Nhìn nhận mọi sự việc hiện tượng cuộc sống và con người không được dễ dãi đơn giản phiến
diện, công thức. Cần phải có một cái nhìn đa diện nhiều chiều để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới
chiều sâu nhân bản.
- Nghệ thuật phải gắn với cuộc sống và nhà văn phải đưa con thuyền nghệ thuật đến gần vs hiện
thực của những số phận bi kịch khát vọng
III. Kết bài
- Nghệ thuật đặc sắc
- Trần thuật hấp dẫn, khách quan
- TÌnh huống truyện được miêu tả tinh tế chân thực
- Ngôn ngữ mộc mạc giản dị chắt lọc

You might also like