You are on page 1of 13

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Nguyễn Minh Châu


I TÌM HIỂU CHUNG
1) Tác giả
– Từ bé tới lớn: rụt rè và vô cùng nhút nhát.
– Sống nội tâm, hay trăn trở, thích một mình để suy ngẫm, phân tích.
– Quá trình sáng tác: chia hai chặng rõ rệt.
+ Trước thập kỉ 80: ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn.
+ Đầu thập kỉ 80 – khi mất: cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.
– Đổi mới:
+ Quan niệm mới về con người và cuộc đời:
• Con người không nhất phiến, đơn chiều, lí tưởng mà là con người bề bộn, phức tạp, được ánh
xạ qua nhiều mối quan hệ với hiện thực (cả mặt tốt lẫn mặt xấu “rồng phượng và rắn rết”…)
• Cuộc sống đa chiều, đầy những vết nham nhở sần sùi, có cả niềm vui lẫn nỗi buồn, sự vật vã,
bức bối đầy phức tạp và biến động.
à Khơi tìm những mặt khuất lấp của chiến tranh, những phần sâu kín trong tâm hồn con người.
+ Đề tài: con người cá nhân với các câu chuyện đời thường là trung tâm.
• Không phải con người “trùng khít với chính mình, với bộ áo xã hội của nó một cách đau đớn,
giả dối” (Bakhtin) mà là con người hiện thực trong các mối quan hệ đa dạng.
à “Đọc lời ai điếu cho một nền văn nghệ minh họa”.
– Vị trí văn học sử: Ngòi bút tiêu biểu của thời kỳ văn học đổi mới – người mở đường đầy tài hoa
và tinh anh (Nguyên Ngọc).
2) Tác phẩm:
– Xuất xứ: Chiếc thuyền ngoài xa được in trong tập Bến quê, tác phẩm đem đến cho bạn đọc cái
nhìn đúng đắn về cuộc sống xung quanh và con người.
– Vị trí văn học sử: in đậm dấu ấn phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu
– Chủ đề: Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua tác phẩm Nguyễn Minh Châu đã thể
hiện tình yêu tha thiết đối với những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và gửi gắm chiêm
nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn với cuộc đời và
vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống
và con người một cách đa diện, nhiều chiều.
– Gtri nội dung
+ Tác phẩm đã đem đến cho người đọc bài học về cách nhìn cuộc sống xung quanh và con người:
phải nhìn đa diện, nhiều chiều, phải phát hiện bản chất thực sự đằng sau vẻ bề ngoài của hiện
tượng.
+ Gtrị nghê thuật
• Xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc sắc, cốt truyện hấp dẫn.
• Ngôn từ chắt lọc khắc họa nhân vật sắc sảo và điểm nhìn trần thuật linh hoạt, ...
• Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa để chúng ta có cảm nhận tinh tế hơn về cuộc đời, về thế
giới quan xung quanh và có những suy nghĩ sâu sắc hơn. Một tác phẩm đáng đọc và đáng để
nghiền ngẫm. Với những kiến thức chắt lọc nhất đã được Kiến Guru phân tích ở trên để các bạn
có nguồn tham khảo súc tích và chất lượng nhất nhé.

II PHÂN TÍCH
1) Nhân vật người phụ nữ làng chài
o Giới thiệu chung
– Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã
được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng
chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên
hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây.
– Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một
ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng
có chung hoàn cảnh như mụ. Ông muốn nhấn mạnh đây chỉ là một trong vô số những người đàn
bà đau khổ, bất hạnh, cần cảm thông sẻ chia mà thôi.

o Ngoại hình
– Hình ảnh của người đàn bà với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với
những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái
ngắt, dường như đang buồn ngủ”
à Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão
miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy.
– 1 người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ.
– Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”.
– Từ cách hành xử, đi đứng đến “tìm đến một góc tường để ngồi”, “vẻ sợ sệt,lúng túng”, “rón rén
đến ngồi ghế vào mép chiếc ghề và cố thu người lại” càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến
tội nghiệp.
à Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên
tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.

o Cuộc đời, số phận:


– Lúc nhỏ:
+ Xấu xí, rỗ mặt → không có nhan sắc:
• “một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa”.
à Trog phố ko 1 ai lấy, có mang với một anh con trai nhà hàng chài giữa phá
– Lúc lớn:
+ Cuộc sống nghèo khổ, vất vả, lênh đênh trên sông nước:
• Gia đình đông con trên chiếc thuyền chật chội, mục nát.
• bữa đói, bữa no ,“toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”
+ Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam:
• Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm
thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến 1 người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi.
à Người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc.
+ Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước lúc đến bên chiếc xe, người đàn bà đứng lại "ngước mắt nhìn ra
ngoài ….rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống
đưa cặp mắt nhìn xuống chân".
à Đây là nơi quá quen thuộc với chị, một sự quen thuộc khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ
của người chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cặp mắt nhìn xuống chân mệt
mỏi như một kẻ tội đồ chờ đợi một hình phạt không tránh khỏi.
+ Khi bị đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với vẻ cam chịu nhẫn nhục, đó là thái độ của một con
người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình, không oán thán, không bất bình,
không né tránh.

o Vẻ đẹp tâm hồn, tính cách


– Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với
những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc.
– Là người vợ cảm thông và thấu hiểu sự bế tắc của chồng
+ Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã
xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
à Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Người đọc
sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. - Sau những lời tâm tình của chị,
người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy:
• Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục
tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn: “Lão chồng tôi
khi ấy là 1 anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.
• H/ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của
Nam Cao vậy.
• Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng.
Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con
thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm.
à Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ
nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.
à Người đàn bà hàng chài chấp nhận những trận đòn vũ phu độc ác của người chồng không phải vì
chị ngu muội. Cũng không phải vì chị có tội lỗi gì với chồng mà chị cam chịu, nhẫn nhục những
trận đòn đó không chỉ vì trên thuyền cần một người đàn ông mà còn như một cách giúp người
chồng vơi đi những u uất khổ sở chất chứa trong lòng.
+ Đó là cách xử sự của một con người hiểu rõ bổn phận nghĩa vụ của mình và gắng thực hiện cho
xong, đâu đó là những bổn phận và nghĩa vụ phi lí.
• Không chỉ thấu hiểu sót xa cho nỗi khổ của người chồng, người đàn bà hàng chài còn mang
một mặc cảm tội lỗi khi cho rằng "giá tôi đẻ ít đi" hoặc "chúng tôi sắm được một chiếc thuyền
rộng hơn". Nếu Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu nhẫn nhục của
người vợ bị chồng hành hạ thì khi hiểu được nguyên nhân của thái độ ấy, họ càng kinh ngạc vì
sự nhân hậu, vị tha của tấm lòng người đàn bà hàng chài.
– Là người mẹ thương con:
+ Tình mẫu tử được người đàn bà ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ
"đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình".
+ Chính tình thương yêu sâu sắc với con đã khiến chị nhẫn nhục chịu đựng sự tàn nhẫn của người
chồng vì muốn có một người đàn ông khỏe mạnh biết nghề cùng mình làm ăn nuôi nấng các con.
+ Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà
đánh, sợ đứa con làm điều gì dại dột với bố nó, người đàn bà hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa
con chị yêu thương nhất lên bờ sống với ông ngoại.
+ Ở người đàn bà thầm lặng ấy," tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm
trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài".
+ Khi đứa con ckiến cảnh tàn nhẫn đó, người đàn bà "mếu máo" gọi con rồi "chắp tay vái lấy vái
để" ôm chầm nó, bởi chị sợ tình yêu thương, sự ngây thơ non nớt cùng lòng căm giận, u tối trog
thằng bé sẽ hành động dại dột.
à Tiếng khóc của tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đau đớn vừa xấu
hổ nhục nhã. Chị đau đớn vì làm con tổn thương rồi mới đau cho bản thân mình.
+ Khi nhắc đến những lúc hòa thuận trên thuyền "khuôn mặt xám xịt chợt ửng sáng lên như một nụ
cười". Đó là ánh sáng, là vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui nỗi buồn đều xuất phát từ "vui
nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no".
à Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng người phụ nữ Việt Nam nhân
hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha và đức hi sinh "biết hi sinh nhưng chẳng
nhiều lời" – Tố Hữu.
à Người đàn bà ấy đã để lại một ấn tượng sâu sắc để nhiều năm sau tồn tại, khi nhìn lại "bức ảnh
Chiếc thuyền ngoài xa" bây giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh… hòa
lẫn với đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh khốn khổ trong cuộc sống lầm lũi
đời thường. Họ đã kiên cường vượt lên tất cả, không phải vì mình mà là vì những người thân yêu.
à Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người
đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại.
Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ
còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa
cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ
đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

2) Sự biến đổi nhận thức của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu


– Phát hiện 1: Vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương
– Phát hiện 2: Cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài
– Đặc sắc nghệ thuật
• Tình huống truyện nghịch lí độc đáo
• Diễn biến tình tiết giàu kịch tính, chi tiết đối lập
• Giọng điệu thay đổi linh hoạt
• Sắc thái suy tư, chiêm nghiệm, suy tư - triết lí nổi bật
• Lời văn giản dị, mộc mạc mà nhiều dư vị
o Giới thiệu chung
– Tuy là hai nhân vật, hai con người khác nhau – một người là nghệ sĩ, một người là chánh án toà
án, nhưng hành trình biến đổi nhận thức lại giống nhau. Đều xuất phát từ những mục đích tốt đẹp
và đầy thiện ý song cả hai đều ngạc nhiên, ngỡ ngàng… rồi vỡ ra nhiều điều mới mẻ: cuộc đời
này còn có nhiều góc khuất mà nghệ thuật cần vươn tới; còn có nhiều trái ngang mà lí thuyết sách
vở chưa soi tỏ.

o Nghệ sĩ Phùng:
– Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời của hoá công:
+ Người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Tức là bức ảnh đã
khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung động thật sự.
+ Trong giây lát, người nghệ sĩ còn “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
+ Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân,
cái Thiện, cái Mĩ của cuộc đời, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh
khôi.
à Điều này có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người.
– Tuy nhiên, ngay sau những phút giây bay bổng trong những cảm xúc thẩm mĩ ấy, khi chiếc
thuyền vào bờ, Phùng đã chứng kiến một bức ảnh phong cảnh khác, không thơ mộng, không hài
hoà, mà là sự thực trần trụi, sự thực thô bạo, sự thực méo mó chênh vênh, và nó chính là “cận
cảnh” từ cái bức tượng đài thơ mộng kia:
+ Trước hết là hai con người với những nét thô kệch bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như
trong mơ.
+ Sau đó, một cảnh tượng khủng khiếp, tàn nhẫn, không thể nào tin nổi và không thể nào chấp
nhận: người chồng đánh vợ.
– Điều đáng sợ không chỉ ở chỗ lão dân chài đánh vợ, mà ở cách đánh bài bản như thói quen, coi
việc hành hạ, đánh đập, nguyền rủa vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau,
nhọc nhằn. Còn đáng sợ hơn nữa, người đàn bà cam chịu một cách bình tĩnh như thực hiện một
nghĩa vụ.
+ Rồi đến sự xuất hiện của thằng bé Phác. Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy
hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát…
+ Bức ảnh biển cả buổi sớm có sương thì đẹp như bức cổ hoạ bằng mực tàu, còn bức ảnh nhân sinh
lại như một vết nhơ của cuộc sống, một nỗi sỉ nhục nhân loại.
– Chứng kiến những cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng ngạc nhiên đến thẫn thờ. Người nghệ sĩ như
“chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt.
– Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh
mông, anh ko hể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo.
– Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thì thằng Phác xuất hiện che chở cho người mẹ đáng thương.
– Đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính là
không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Phùng trở thành người hùng, anh quật ngã người
đàn ông vũ phu.
– Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ kì diệu của tạo
hoá lại có cái ác, cái xấu đến mức không thể tin được. Vừa mới lúc trước anh còn cảm thấy “bản
thân cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lí của sự hoàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn
cái gì là “đạo đức” là cái “hoàn thiện” của cuộc đời.
– Phùng cay đắng nhận thấy những cái trái ngang, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài
làm cho tấm ảnh mà anh chụp được kia như nhuốm màu đau thương, ghê sợ.
– Phùng nhờ Đẩu mời người đàn bà đến toà án huyện vì muốn giúp đỡ. Và tại đây, anh đã tận mắt
chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa người đàn bà ấy với chánh án Đẩu, nghe những lời trải lòng và biết
được câu chuyện cuộc đời của người đàn bà.
à Phùng đã lặng im sau câu chuyện của chị. Có lẽ, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng đang trầm ngâm
suy nghĩ sau những gì vừa diễn ra. Câu chuyện mà người đàn bà hàng chài kể ở toà án đã giúp
nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng hiểu rõ hơn về Đẩu, về người đàn bà hàng chài và ngay cả chính mình:
+ Người đàn bà: Không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà
thực ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời.
+ Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu những hạnh phúc đời
thường. Sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ đời nhưng chị ko để lộ điều đó ra bên ngoài.
+ Đây là người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng
dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
à Người nghệ sĩ không thể đơn giản và dễ dãi khi nhìn nhận mọi vấn đề trong cuộc sống và nhìn
nhận con người.
à Rút ra chân lý: Hãy nhìn cuộc sống = trái tim thấu hiểu, cảm thông,thương yêu của bề sâu của nó.

o Chánh án Đẩu:
– Đẩu là một chánh án, vừa làm công việc, vừa thực hiện mệnh lệnh của trái tim. Sau khi thấy các
biện pháp giáo dục, răn đe người chồng không có kết quả, thẩm phán Đẩu đã mới người đàn bà
hàng chài đến toà án giải quyết chuyện gia đình.
– Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà vùng biển, thái độ của anh là rất cương quyết.
+ Anh muốn giải thoát khỏi những trận đòn bất công người đàn bà khỏi những trận đòn bất công,
ngược đãi bằng một “phán quyết”: li hôn.
+ Anh khuyên người vợ bỏ chồng để giải thoát cho chị khỏi cảnh bị ngược đãi và nạn bạo hành
trong gia đình.
+ Anh hào hứng, say mê và tin tưởng vào giải pháp của mình. Cái lí lẽ của pháp luật và lí lẽ của trái
tim làm cơ sở, chỗ dựa vững vàng để anh tự tin, chủ động và ngạo nghễ.
– Nhưng anh đã lầm. Người đàn bà khốn khổ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu cũng như Phùng, chị
cầu xin đừng bắt chị phải bỏ chồng vì cuộc sống tăm tối của chị còn những lí lẽ khác.
– Sau khi nghe nhug gì mà người phụ nữ vùng biển giãi bày, trog đầu “vị Bao Công của cái phố
huyện vùng biển” có “1 cái gì mới vừa vỡ ra”, “lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy
nghĩ”.
+ Có lẽ Đẩu đã vỡ lẽ ra rằng lòng tốt của anh là phi thực tế; kiến thức sách vở mà anh đã được học
trở thành vô nghĩa trước nhug lí lẽ sâu sắc nhug đầy nhân sinh của ng đàn bà quê mùa, thất học.
+ Anh bảo vệ luật pháp bằng sự thông hiểu sách vở nhưng trước cuộc sống, anh thành kẻ quá nông
nổi, ngây thơ.
+ Luật pháp là cần thiết nhưng phải đặt vào hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng máy móc, cứng
nhắc trong mọi hoàn cảnh với mọi đối tượng
+ Qua thái độ và sự lí giải của người đàn bà khốn khổ làng vạn chài có thể trong Đẩu vừa mới giác
ngộ ra những nghịch lí của đời sống, cái nghịch lí buộc những con người khốn khổ phải chấp
nhận một cách thật bất công: “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở
thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn, nuôi
nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… Trên thuyền phải có một người đàn
ông…, dù hắn man rợ, tàn bạo”.
à “Chiếc thuyền ngoài xa” là một hình ảnh ẩn dụ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ
thuật phải gắn bó với cuộc đời, phải đi sâu vào cuộc đời chứ không thể nhìn nó một cách hời hợt
bên ngoài, hay nhìn nó “ngoài xa”. Ở xa thì nhìn thấy nó rất đẹp, nhưng khi đến gần, hoặc đi sâu
vào bên trong mới phát hiện biết bao điều oái oăm, ngang trái.
à Từ đó, tác giả muốn gởi gắm quan điểm nghệ thuật của mình: người nghệ sĩ không thể nhìn đời
một cách đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa dạng, nhiều chiều.
à Cũng có thể, Đẩu bắt đầu hiểu ra rằng, muốn con người thoát ra khỏi cảnh man rợ, tăm tối, cơ cực
thì cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp
đẽ, xa rời thực tiễn.

III LIÊN HỆ
1) Liên hệ mở rộng
– Tác phẩm Nguyễn Minh Châu có tính giáo dục con người và tôn vinh những vẻ đẹp khuất lấp
– Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu bao gồm Cửa sông, Những vùng trời khác nhau, Dấu chân
người lính, Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà, Những người đi từ trong rừng ra, Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê,Mảnh dất tình yêu, Chiếc thuyền ngoài xa, Hãy đọc lời ai điếu
cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ, Phiên chợ Giát, Cỏ lau, Nguyễn Minh Châu toàn tập và Di
cảo Nguyễn Minh Châu
– Nguyễn Minh Châu còn đòi hỏi rất cao về trách nhiệm của những người cầm bút.
+ “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: Để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho
những người cùng đường tuyệt lộ, bị cái ác /số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường,
nhữg con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin
vào con người và cuộc đời, để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.”

– Dựng lên sự đối lập giữa "Bức tranh nghệ thuật đẹp như mơ" và tấn bi kịch của gia đình ngư dân
phía sau bức tranh đẹp đẽ đó. Ông đã thể hiện rõ quan điểm nghệ thuật của mình
+ Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ cuộc sống (bức tranh có
con thuyền, có con người, có nhiều yếu tố thiên nhiên đẹp đẽ khác như sương mù, ánh bình
minh…nhưng thiếu hơi thở cuộc sống, nó chỉ là bức ảnh thể hiện vẻ đẹp bên ngoài của cuộc
sống). Nghệ thuật đích thực phải thể hiện được bản chất sâu xa, sự thật ẩn sâu của cuộc sống.
Ông đã từng khẳng định "Nhà văn không có quyền nhìn sự thật một cách đơn giản, nhà văn cần
phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử" . Đó là một cái nhìn đa diện,
nhiều chiều, đi sâu khám phá sự thật của đời sống ở bình diện đạo đức, thế sự để hiểu đúng bản
chất bên trong của hiện thực.
+ Người nghệ sĩ phải có tài năng và lòng dũng cảm trong quá trình phản ánh hiện thực: Tài năng
nhìn nhận, đánh giá cuộc sống và phải dũng cảm để chỉ ra những điều tốt đẹp lẫn sự xấu xa, độc
ác. Viết về "những vùng tối của hiện thực đời sống để góp phần hoàn thiện nhân cách làm cho
cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn".
+ Nvăn phải tự mình ý thức, đấu tranh để tự hoàn thiện mình vươn tới:Chân - Thiện - Mỹ.
– Chính những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong công cuộc đổi mới Văn học mà trước hết là
quan điểm nghệ thuật, cho nên ông được đánh giá là "Người mở đường tinh anh và tài năng" của
Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

2) Giá trị nhân đạo của tác phẩm

*Giải thích khái niệm: 

– Nói đến giá trị nhân đạo là muốn nói đến: 


+ Thái độ cảm thông của nhà văn đối với số phận con người, nhất là những con người nghèo khổ,
bất hạnh. 
+ Đó còn là thái độ ca ngợi, khẳng định của nhà văn về những phẩm chất tốt đẹp của người LĐ
+ Qua đó, nhà văn thể hiện những khao khát về một cuộc sống tốt đẹp, hphúc cho con người. 
*Những biểu hiện: 

– Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trước nhất thể hiện ở thái độ cảm thông
của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với cuộc sống của những con người nghèo khổ nơi vùng
biển. 
+ Nhà văn xót xa trước cảnh nghèo khổ, đông con của nững gia đình hàng chài: 
• Nhà nào cũng trên dưới chục đứa phải sống chen chúc nhau trong những chiếc thuyền lưới vó
chật hẹp. 
• Vào những vụ bắc, biển động hàng tháng, thuyền không ra biển được “cả nhà vợ chồng con
cái phải ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối. 
+ Nguyễn Minh Châu hết sức cảm thông trước tình cảnh người đàn bà hàng chài thường xuyên bị
chồng đánh đập. 
• Nếu không cảm thông và xót xa cho cuộc đời bất hạnh của chị, tác giả không chú ý kĩ từng
nét ngoại hình lam lũ đáng thương ở người đàn bà hàng chài. 
• Khuôn mặt mệt mỏi, tấm lưng áo bạc thếch và rách rưới, cặp mắt nhìn xuống chân, tay buông
thõng xuống ra vẻ người nhẫn nhục và cam chịu.
+ Hơn thế nữa, nhà văn còn muốn bênh vực cho chị, không muốn cho chị bị chồng đánh 
• Vì vậy, trong tác phẩm, ít nhất hai lần tác giả đã để cho nghệ sĩ Phùng xông ra hai lần bênh
vực cho chị đến nỗi anh phải bị thương. 
• Chúng ta có thể hiểu, nghệ sĩ Phùng cũng chính là hóa thân của nhà văn trong tác phẩm, là
nhân vật mà nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm nhiều suy nghĩ và hành động của mình. 
+ Nhà văn cũng cảm thông với với tình cảnh của người chồng vũ phu: 
• Cũng chính vì cuộc sống quá nghèo khổ lại phải lao động vất vả để nuôi một gia đình đông
con nên anh con trai cục tính nhưng hiền lành không bao giờ biết đánh vợ xưa kia, giờ đã trở
thành một người chồng vũ phu thường xuyên đánh đập vợ một cách tàn nhẫn ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng. 
• Có thể nói, người đàn ông hàng chài thô bạo ấy là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo, lam lũ.
Lão lầm lì đánh vợ như một thói quen để giải tỏa tâm lí và nỗi khổ triền miên của đời mình. 
+ Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã phê phán mạnh mẽ hành động vũ phu của người chồng. 
• Ông muốn giúp người đọc thấy rõ tình trạng bạo lực trong gia đình như một mảng tối còn tồn
tại trong xã hội ta những năm tám mươi của thế kỉ trước. 
• Thông qua hình ảnh của người chồng thường xuyên đánh vợ tàn nhẫn, tác giả đã báo động với
mọi người về một hiện tượng nhức nhối của xã hội. 
• Đâu đó trong cuộc sống xung quanh ta vẫn còn sự lộng hành của cái ác, cái xấu. 
• Gióng lên một hồi chuông báo động về cái ác, Nguyễn minh Châu muốn đấu tranh cho cái
thiện được tồn tại. Đó chính là một trong những biểu hiện về giá trị nhân đạo của tác phẩm. 
– Nguyễn Minh Châu là nhà văn luôn đứng về cái đẹp, cái thiện. Đi tìm, phát hiện, ngợi ca, kđịnh
những phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là biểu hiện sâu sắc của gía trị nhân đạo trong truyện
ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. 
+ Trước năm 1975, trong bối cảnh lịch sử chóng ngoại xâm của dân tộc, Nguyễn Minh Châu xây
dựng vẻ đẹp lí tưởng, yêu nước, anh hùng của con người Việt Nam thời chống Mĩ. 
• Họ là Lãm, là Nguyệt trong tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu. 
• Đó là những con người thật cao đẹp, họ biết hy sinh hạnh phúc cá nhân cho tình yêu Tổ quốc,
biết gác lại những tình cảm của cá nhân mình cho cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. 
+ Sau năm 1975, cuộc sống hiện ra nhiều chiều, nhiều mặt đối lập, Nguyễn Minh Châu đã đi sâu
vào hiện thực để nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa dạng, nhiều chiều. 
• Có như vậy, ông mới phát hiện ra được những vẻ đẹp còn khuất lấp trong cái lấm láp bụi bặm
của đời thường. 
• Hình ảnh người đàn bà hàng chài xấu xí, nhẫn nhục vẫn lóe lên vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng
liêng, một vẻ đẹp đầy nữ tính, vị tha của người phụ nữ ở một miền biển còn đói nghèo, 
+ Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn minh Châu đã thể hiện một cái nhìn rất nhân đạo
về con người. 
• Ông đã phát hiện và khẳng định nhiều phẩm chất cao đẹp ở người phụ nữ có cái vẻ ngoài xấu
xí và cam chịu, nhẫn nhục này. 
• Bằng cái nhìn đa dạng và nhiều chiều và sâu sắc, Nguyễn Minh Châu đã giúp ta cảm nhận
được một tấm lòng vị tha và giàu đức hy sinh của chị. 
à Đối với chồng, mặc dù bị ngược đãi, người vợ vẫn chịu đựng và cảm thông chứ không hề trách
móc hay lên án, tố cáo. 
à Chị hiểu rằng, chồng đánh mình cũng vì những lẽ riêng rất đời thường. Đó là dophair sống trong
đói nghèo, lạc hậu, con cái nheo nhóc, không gian sống chật hẹp, tù đọng. 
à Chị hiểu chính cái môi trường đầy khó khăn ấy đã khiến một anh con trai cục tính nhưng hiền lành
biến thành một gã đàn ông thô bạo, dã man. Trước tòa, chị cố bênh vực cho chồng, dó là một tấm
lòng vị tha rất đáng trân trọng ở chị. 
à Đối với con, chị là người mẹ giàu đức hy sinh. Chị nói: đàn bà ở thuyền hcunsg tôi phải sống cho
con chứ ko thể sống cho mình. Chị đã chấp nhận sự đau khổ để hy sinh cho csống của đàn con. 
à Chị chấp nhận bị chồng đánh, có điều chỉ xin chồng đánh ở trên bờ để các con đừng nhìn thấy. Đó
là một cách ứng xử rất nhân bản. Chị không muốn con chứng kiến những điều điều xấu có thể làm
hủy hoại nhân cách của chúng và chị cũng không muốn gieo vào lòng các con thái độ căm thù đối
với người cha của chúng. 
+ Tác giả còn giúp ta nhận ra lí do chị không thể bỏ chồng thật có lí, điều đó chứng tỏ chị không
phải là người phụ nữ nông nổi, thiếu suy nghĩ, nhuc nhược, hèn nhát mà là người phụ nữ thật sâu
sắc và từng trải, biết suy nghĩ, cân nhắc cho từng hành động của mình. 
• Chị cho biết: đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để
chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con mà nhà nào cũng
trên dưới chục đứa. 
• Nguyễn Minh Châu còn giúp ta cảm nhận được những khát vọng hạnh phúc trong lòng người
đàn bà hàng chài nghèo khổ này. 
à Trong đau khổ triền miêm, chị hết sức trân trọng những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. 
à Phải yêu thương con người lắm nhà văn mới chú ý đến từng chuyển biến nhỏ trên gương mặt của
chị khi nói về hạnh phúc. Nhà văn cho ta biết, khi nói về hạnh phúc, lần đầu tiên trên khuôn mặt
xấu xí của chị chợt ửng sáng lên như một nụ cười. 
à Chị nói: Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng tôi nó được ăn no và cũng có lúc vợ chồng con
cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ. 
+ Có thể nói, người đàn bà hàng chài là biểu tượng cho tình mẫu tử, biểu tượng cho khát 
• Thông qua suy nghĩ của chị về gđình và hphúc, tác giả đã giúp ta hiểu ra được một gia đình
hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các tviên, cho dù gia đình ấy còn nhiều cảnh ngang trái, khổ đau,
nhưng chị vẫn nâng niu, trân trọng từng chút hạnh phúc nhỏ nhoi mà mình có được.Đó là thái độ
cảm thông, cái nhìn hết sức nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu đối với con người. 
– Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa còn thể hiện ngay trong quan điểm nghệ
thuật của Nguyễn Minh Châu: Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc đời và vì cuộc đời, vì con
người. 
+ Cách kết thúc tác phẩm đã cho người đọc nhiều suy nghĩ. Là tấm ảnh đen trắng nhưng mỗi lần
nhìn vào, Phùng đều thấy hiện lên cái màu hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ
anh cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh. 
• Vậy thì đâu chỉ là ảnh nghệ thuật mà chính là hiện thực cuộc đời. Nếu chỉ đơn thuần là ảnh
nghệ thuật đen trắng thì sao lại có được cái màu hồng hồng của ánh sương mai do ánh mặt trời
của ánh bình minh buổi sáng phản chiếu? 
• Và nếu chỉ là ảnh thì người đàn bà hàng chài ấy làm sao bước ra khỏi tấm ảnh để bước những
bước chậm rãi, bàn chân giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông? 
• Đó chính là quan điểm NT mà tgiả muốn gửi gắm với mọi người: NTchân chính không bao
giờ rời xa cuộc đời, nghệ thuật phải gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời, vì con người. 
• Mỗi nhà văn hãy đi vào cuộc sống, hãy sống gắn bó với con người và nhìn nhận họ một cách
đa dạng, nhiều chiều để phát hiện ra những hạt ngọc còn ẩn sâu trong tâm hồn họ, dù rằng ngoại
hình họ xấu xí và họ đang sống trong một hoàn cảnh ngang trái, khổ đau. 
+ Qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đặt ra một vấn đề để mọi người cùng suy nghĩ và giải quyết.
Đó là vấn đề về số phận và hạnh phúc của con người. 
• Cái nhìn của Nguyễn Minh Châu thật đa dạng, nhiều chiều. Ông thấy trong cuộc sống có ánh
sáng và bóng tối, nước mắt và nụ cười, bề nổi và bề chìm, khổ đau và hạnh phúc. 
• Nhưng điều quan trọng nhất là ông vẫn tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người, tin vào bản
chất tốt đẹp của xã hội sẽ làm thay đổi số phận của con người.
*Kết bài 

– Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu có một giá trị nhân đạo sâu
sắc. Giá trị nhân đạo ấy thể hiện trên nhiều phương diện: 
+ Đó là cái nhìn yêu thương, cảm thông của nhà văn về số phận bất hạnh của con người. 
+ Đó là việc phát hiện và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của những con người lao động
nghèo khổ. 
+ Đó còn là thái độ lên án nạn bạo hành trong gđình để mọi người cùng đấu tranh chống lại hiện
tượng tiêu cực này, cùng phấn đấu hướng tới việc xây dựng một gia đình hphúc. 
– Giá trị nhân đạo trong tác phẩm này còn thể hiện ngay trong quan điểm nghệ thuật tiến bộ của
ông: Nghệ thuật chân chính phải gắn với cuộc đời và vì cuộc đời, vì con người.

3) Vẻ đẹp bức tranh


– Vẻ đẹp của bức tranh được thu vào trong chiếc máy ảnh của nghệ sĩ:
+ Trước hết, đây là một chi tiết hình ảnh đẹp, đẹp bởi sự giao thoa, hòa quyện trong thiên nhiên,
đẹp bởi sắc màu lãng mạn và đẹp bởi sự huyền ảo được mang đến bởi lớp sương mù.
+ Nhưng đây cũng chính là màn gián cách, che khuất cái nhìn vốn đã từ xa của người nghệ sĩ tới
chiếc thuyền. Bởi thế nên, nhân vật tôi chỉ nhìn thấy vẻ đẹp bức tranh khi chiếc thuyền chạm mũi
bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào chứ không
nhìn rõ, không nhìn cụ thể được chiếc thuyền đó ra sao (tất nhiên, việc nhìn rõ chiếc thuyền có
khi sẽ không mang lại cảm nhận về cái đẹp tuyệt mỹ).

4) Tại sao ở nhân vật “người đàn bà hàng chài” tác giả không đặt tên mà gọi theo tên công việc
làm ăn và giới tính?
– Tác giả không đặt tên mà gọi theo tên công việc làm ăn và giới tính, người đã có chồng, người
đàn bà hàng chài vì nó vừa nêu được những nét cụ thể về cuộc đời, số phận của người phụ nữ
trong xã hội còn phải chịu nhiều những nghịch lí vừa khái quát được về những bất cập còn đang
tồn tại trong cuộc sống mỗi con người...

5) Nêu cảm nhận của anh/chị về câu nói của người đàn bà: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con
tôi chúng nó được ăn no…”.
– Câu nói của người đàn bà: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn

no…” thể hiện một tình cảm chân thành, giản dị mà sâu sắc của người mẹ nghèo

khổ, giàu tình yêu thương con cái.


6) Nêu ý nghĩa của chi tiết: “Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên
những chồng hồ sơ, giấy má”. Theo anh/chị, cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao
Công của cái phố huyện vùng biển?
– Chi tiết viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ sơ,

giấy má đã thể hiện sự chuyển biến lớn trong nhận thức của chánh án Đẩu sau khi

nghe xong những chia sẻ của người đàn bà hàng chài. Hành động rời chiếc bàn là

hành động có ý nghĩa biểu tượng, Đẩu buộc phải rời cương vị của một chánh án bởi

từ vị trí đó, từ góc nhìn đó, anh chưa hề biết gì, chưa hề hiểu gì về quyết định người

đàn bà hàng chài cả.

– Một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, cái gì

đó có lẽ chính là nhận thức của Đẩu về cái nhìn, cách nhìn. Từ cái nhìn của một

chánh án, từ cách nhìn của bổn phận, trách nhiệm, Đẩu đã chưa hiểu thấu lý do vì

sao người đàn bà hàng chài không chịu ly dị gã chồng vũ phu.

You might also like