You are on page 1of 26

BÀI 5: HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

A. Kiến thức cơ bản


I.MB:
-Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện tượng đặc
biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh
vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh... nhưng ông được xem là một trong
những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Trong
các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt".
Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho
người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng
thịt.
-Đoạn trích nhân vật Hồn Trương Ba đối thoại với ….. đã thể hiện quan niệm//chiều sâu
triết lí về con người của nhà biên kịch Lưu Quang Vũ.
II.TB
1. Giới thiệu chung
*HTB da hàng thịt là vở kịch đc LQV viết năm 1981, công diễn lần đầu năm 1984 sau đó
đc diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng
lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lý nhân văn về cuộc đời và
con ng.
*Vở kịch có 7 cảnh với sự chuyển đổi linh hoạt từ Thiên Đình đến hạ giới, đoạn trích
trong SGK thuộc cảnh 7-cảnh cuối cùng của vở kịch khi mà xung đột kịch đã phát triển
đến đỉnh điểm.
* Nhân vật chính trong vở kịch là Ông TRB là một ông lão gần 60, thích trồng vườn, yêu
cây cỏ, sống chan hòa nhân hậu với mọi người, giỏi đánh cờ. Vì sự tắc trách của Nam Tào
(gạch nhầm tên trong sổ sinh tử) mà TB chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế
Thích, Nam Tào đã sửa sai bằng cách cho hồn của TB đc tiếp tục sống trong thân xác anh
hàng thịt thô lỗ, kềnh càng mới chết gần nhà. Chính điều đó đã khiến TB rơi vào nghịch
cảnh, bi kịch khi linh hồn mình phải trú nhờ ở thân xác người khác và bắt đầu xấu đi trong
sở thích, hành vi. Tính cách của ông TB cũng dần đổi khác ngày càng xa lạ với mọi ng,
với cả chính mình.
2. Phân tích cụ thể cuộc đối thoại giữa hồn và xác// hồn và những ng thân//với Đế
Thích trong đoạn văn
a. Nguyên nhân cuộc đối thoại
b. Nội dung cuộc đối thoại
c. Nhận xét:
3. Nghệ thuật:
-Đoạn trích HTB da hàng thịt cho thấy nh thành công về nghệ thuật khi tác giả sáng tạo
cốt truyện dân gian để xây dựng và triển khai xung đột kịch một cách khéo léo hợp lý thể
hiện đc sự phát triển của tình huống, tạo ra hành động kịch phù hợp với tính cách, cùng
một lúc thể hiện đc nhiều vấn đề xã hội và triết lý sâu sắc.
-Ngôn ngữ kịch sinh động, biến hóa vừa có tính chất dân dã, bình dị dí dỏm vừa có tính
triết lý thâm trầm, kết hợp hài hòa giữa đối thoại và độc thoại…thể hiện được nội tâm
nhân vật sâu sắc
4.Câu hỏi nâng cao
a. Nhận xét về thông điệp mà nhà văn gửi gắm qua bi kịch/cuộc đối thoại của hồn
TB…
Qua cuộc đối thoại với thân xác anh hàng thịt/ người thân, hồn TB đã thấm thía những
sai lầm, ngộ nhận của chính mình về hồn và xác cũng như đối diện với hiện thực về sự
thay đổi của chính mình trong thân xác anh hang thịt. Tác giả vì thế đã gửi đến ng đọc nh
thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ quyết liệt vừa sâu sắc kín đáo về thời
đại của ông
-đc sống làm ng quý giá thật, nhưng đc sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị
mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con ng đc
sống tự nhiên hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, khi có thể xác khỏe mạnh và tâm hồn trong
sạch.
-Kh thể quá chú trọng những ham muốn của thân xác, chỉ thích hưởng thụ sống dung tục tầm
thường hoặc chỉ coi trọng đ/s tinh thần, lấy cớ tâm hồn là quý để bỏ bê những nhu cầu nâng
cao đ/s vật chất của con ng.
-Con ng phải luôn luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân mình, chống lại
sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới nh giá trị tinh thần cao quý, sống một
cuộc sống có ý nghĩa, xứng đáng với con ng.
b.. Nhận xét nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.
-Màn thoại giữa Trương Ba và Đế Thích một lần nữa khắc sâu vấn đề trung tâm nhất, cốt
lõi nhất của toàn bộ tác phẩm, đó là việc người sống vẫn có sự hài hòa giữa linh hồn và
thể xác, giữa bên trong và bên ngoài. Việc một người vẫn còn đầy khao khát sống như
Trương Ba sau quá trình trăn trở, lựa chọn đã chối từ cả hai cơ hội được sống để nhận về
mình cái chết đã cho thấy để sống cho ra một người không hề dễ dàng. Người ta không thể
sống bằng bất cứ giá nào, con người chỉ thực sự được là mình khi có sự thống nhất,
hòa hợp giữa hoạt động bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong.
- Tác giả không chỉ đặt ra vấn đề để người đọc trăn trở suy nghĩ mà đã đi đến trả lời cho
câu hỏi: sống như thế nào là sống có ý nghĩa? Trương Ba chết hẳn để đổi lại sự sống cho
anh hàng thịt, cho cu Tị, để đổi lấy tiếng cười và niềm hạnh phúc cho tất cả những người
xung quanh thì câu hỏi: sống như thế nào là có ý nghĩa đã được trả lời một cách rõ ràng:
một sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống vì mình mà còn biết
sống, biết vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người xung quanh. Rõ
ràng ở đây nhà văn đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng. Đó cũng chính là lý do cho sự
thay đổi đầy dụng ý của tác giả khi biến một người nông dân chung chung trong truyện cổ
dân gian thành một người làm vườn trong tác phẩm của mình. Hình tượng người làm
vườn chính là đại diện cho những người biết vun xới, chăm lo cho hạnh phúc của
người khác. Ở khía cạnh này chúng ta thấy tư tưởng của nhà văn dù tiến bộ và mới mẻ
đến đâu vẫn có sự bắt rễ sâu và hoàn toàn thống nhất với truyền thống, đạo lý tốt đẹp của
dân tộc.
Các đề cụ thể:
Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn trích sau. Từ đó,
nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.
-Đế Thích: Ông Trương Ba... (đắn đo rất lâu rồi quyết định) Vì lòng quí mến ông, tôi sẽ
làm cu Tị sống lại, dù có bị phạt nặng... Nhưng còn ông... rốt cuộc ông muốn nhập vào
thân thể ai?
-Hồn Trương Ba: (sau một hồi lâu): Tôi đã nghĩ kĩ... (nói chậm và khẽ) Tôi không nhập
vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!
-Đế Thích: Không thể được! Việc ông phải chết chỉ là một lầm lẫn của quan thiên đình.
Cái sai ấy đã được sửa bằng cách làm cho hồn ông được sống.
-Hồn Trương Ba: Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm
sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác.
Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn...
-Đế Thích: Không! Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào...
-Hồn Trương Ba: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ông Đế Thích ạ! Có những cái
giá đắt quá, không thể trả được... Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này,
tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong
sáng như xưa...
-Đế Thích: Ông có biết ông quyết định điều gì không? Ông sẽ không còn lại một chút gì
nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về quyết
định này, ông cũng không có được nữa.
-Hồn Trương Ba: Tôi hiểu. Ông tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này,
còn khổ hơn là cái chết. Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi
sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng
được? Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám
trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc.
I.Mở bài:
-Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện tượng đặc
biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh
vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh... nhưng ông được xem là một trong
những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Trong
các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt".
Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho
người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng
thịt.
-Đoạn trích khi nhân vật Hồn Trương Ba đối thoại với Đế Thích đã thể hiện chiều sâu
triết lí về con người của nhà biên kịch Lưu Quang Vũ “Ông Trương Ba... (đắn đo rất lâu
rồi quyết định) Vì lòng quí mến ông…… chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc”.
II.Thân bài:
1. Giới thiệu chung
*HTB da hàng thịt là vở kịch đc LQV viết năm 1981, công diễn lần đầu năm 1984 sau đó
đc diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng
lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lý nhân văn về cuộc đời và
con ng.
*Vở kịch có 7 cảnh với sự chuyển đổi linh hoạt từ Thiên Đình đến hạ giới, đoạn trích
trong SGK thuộc cảnh 7-cảnh cuối cùng của vở kịch khi mà xung đột kịch đã phát triển
đến đỉnh điểm.
* Nhân vật chính trong vở kịch là Ông TRB là một ông lão gần 60, thích trồng vườn, yêu
cây cỏ, sống chan hòa nhân hậu với mọi người, giỏi đánh cờ. Vì sự tắc trách của Nam Tào
(gạch nhầm tên trong sổ sinh tử) mà TB chết oan. Theo lời khuyên của “tiên cờ” Đế
Thích, Nam Tào đã sửa sai bằng cách cho hồn của TB đc tiếp tục sống trong thân xác anh
hàng thịt thô lỗ, kềnh càng mới chết gần nhà. Chính điều đó đã khiến TB rơi vào nghịch
cảnh, bi kịch khi linh hồn mình phải trú nhờ ở thân xác người khác và bắt đầu xấu đi trong
sở thích, hành vi. Tính cách của ông TB cũng dần đổi khác ngày càng xa lạ với mọi ng,
với cả chính mình.
2. Cảm nhận nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn trích
a. - Hoàn cảnh xuất hiện cuộc đối thoại (nguyên nhân)
* Sau cuộc đối thoại với nh ng thân TB bàng hoàng, chua chát, đau đớn nhận rõ hơn sự
thay đổi, tha hóa của linh hồn mình khi phải sống nhờ vào thân xác của ng khác. Mâu
thuẫn kịch được đẩy lên căng thẳng quyết liệt hơn để TB gặp và đối thoại với Đế Thích.
Khi gặp ĐT, hồn TB thể hiện thái độ kiên quyết từ chối, phủ nhận cuộc sống hồn một nơi
xác một nẻo “ Không thể bên trong một đằng bên ngoài một nẻo đc., ông khẳng định
ước muốn “đc là tôi toàn vẹn”. Đế Thích kh hiểu nỗi khổ của ông TB, khuyên TB nên
chấp nhận thực tế vì thế giới vốn kh toàn vẹn.
b. Phân tích nhân vật TB khi đối thoại với Đế Thích
-Để giải quyết mâu thuẫn giữa hồn TB và xác anh hàng thịt, Đế Thích gợi ý để hồn rời xác
anh hàng thịt, cho cu Tị sống lại và cho ông TB sống lại vào thân thể ng khác “Ông
Trương Ba... (đắn đo rất lâu rồi quyết định) Vì lòng quí mến ông, tôi sẽ làm cu Tị sống
lại, dù có bị phạt nặng... Nhưng còn ông... rốt cuộc ông muốn nhập vào thân thể ai?
-Nhưng hồn Trương Ba, sau một “quãng đời” vô cùng thấm thía đã qua, hình dung ra
những “nghịch cảnh” khác khi phải sống trong thân xác một đứa bé đã quyết định xin cho
cu Tị được sống và mình được chết hẳn. “Tôi đã nghĩ kĩ... (nói chậm và khẽ) Tôi không
nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!”
-Đế Thích không đồng ý với quyết định của ông TB, thanh minh rằng Thần thánh nhà trời
cũng lầm lẫn, sai lầm, và muốn sửa sai không để ông TB phải chịu thiệt thòi: “Việc ông
phải chết chỉ là một sai lầm của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được sửa bằng cách làm
cho hồn ông được sống”.
- Nghe Đế Thích trần tình (giải thích, phân trần, thanh minh) như thế, Hồn Trương Ba đã
thẳng thắn chỉ ra những sai lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được.
Chắp vá và gượng ép chỉ làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải
bù lại bằng một việc đúng khác”. Hồn Trương Ba đã lí luận đúng về những sai lầm và
cách sửa sai. Trương Ba phải chết oan vì sự sai lầm cùa các thần quan trên thiên đình. Từ
sai lầm ấy, và vì tính háo danh, muốn “người trên trời, dưới đất mới biết tới cao cờ như
thế nào” nên Đế Thích mới “chắp vá và gượng ép” cho hồn Trương Ba nhập vào xác hàng
thịt tạo nên nỗi khổ không chỉ cho Trương Ba mà còn với cả những người thân. Cũng vì
ích kỉ, háo danh mà Đế Thích quyết phạm một sai lầm khác là cho Hồn Trương Ba nhập
vào cu Tị, nếu Hồn Trương Ba không kịch liệt phản đối;
-Dù rất ham sống (“Ông tưởng tôi không ham sống hay sao?”) nhưng Hồn Trương Ba lại
quyết định “không muốn nhập vào hình thù ai nữa” vì hơn ai hết ông thấu hiểu nỗi khổ
của bản thân mình khi phải nương nhờ vào thân xác của người khác.Ông cũng không
muốn những người thân của mình phải khổ, phải liên lụy vì mình.
- Hồn Trương Ba đã rất thấm thía bi kịch sống nhờ, sống gửi, sống không được là mình,
khiến người thân phải khổ vì mình thì cuộc sống đó không còn ý nghĩa nữa “ Không thể
sống với bất cứ giá nào. Có những cái giá đắt quá k thể trả đc”. Với quyết định này,
Trương Ba đã tự viết nên cái kết có hậu cho cuộc đời mình và cho những người xung
quanh. Mặc dù sự sống của Trương Ba đã sắp đi đến hồi kết thúc nhưng Trương Ba đã tìm
thấy lại được con người thật của chính bản thân mình: “Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm
đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở
lại thanh thản, trong sáng như xưa...”. Không chỉ phục sinh lại những giá trị tốt đẹp của
bản thân, Trương Ba còn trở nên bất tử trong suy nghĩ của tất cả những người thân bằng
tình cảm nhớ thương, yêu quý. =>Nhân vật hồn Trương Ba có quan niệm sống đúng
đắn: sống là chính mình, sống vị tha, cao thượng, nhân hậu
-Đế Thích vẫn muốn thuyết phục TB “Ông có biết ông quyết định điều gì không? Ông sẽ
không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây,
ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa.” Nhưng TB cho thấy
mình đã suy nghĩ nghiêm túc, cẩn thận về quyết định của mình “Tôi hiểu. Ông tưởng tôi
không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Mà không phải
chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì
khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng được?” Chỉ khi “chết hẳn”, Hồn
Trương Ba mới tìm lại được sự thanh thản, trong sáng; những người thân của Trương Ba
cũng sẽ không còn phải khổ vì ông; thằng con của Trương Ba sẽ có cơ hội trở lại con
đường ngay thẳng. Cho đến phút cuối cùng, Hồn Trương Ba vẫn rất nhân hậu, vị tha.
Hồn Trương Ba đã đặt ngược lại vấn đề rồi đi đến kết luận: “Cuộc sống giả tạo này có lợi
cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí tưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ
bọn khốn kiếp là lợi lộc”.
-Cuối cùng, Ông chọn cái chết thật sự để cho mình đc sống mãi trong nỗi nhớ của mọi ng để
lưu lại hình ảnh một ông TB làm vườn hiền hậu trong tâm tưởng những ng thân.
=>Lựa chọn của Tb là sự lựa chọn dũng cảm và tất yếu: Dũng cảm bởi ông dám chấp nhận
cái chết, sự hư vô để đc là mình trọn vẹn. Tất yếu bởi hơn ai hết ông đã thấm thía cái bi kịch
k đc là mình khi phải sống nhờ thân xác ng khác. Ông đã nhận thức đúng về lẽ sống vì đó là
kết quả đấu tranh của một tâm hồn thanh cao, trong sáng, vượt lên nghịch cảnh.
c. Khái quát: Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý
thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình
trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát
nung nấu của nhân vật. Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp
vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời đại
chúng ta đang sống, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong
cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp
với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách.
3. Nghệ thuật:
-Đoạn trích HTB da hàng thịt cho thấy nh thành công về nghệ thuật khi tác giả sáng tạo
cốt truyện dân gian để xây dựng và triển khai xung đột kịch một cách khéo léo hợp lý thể
hiện đc sự phát triển của tình huống, tạo ra hành động kịch phù hợp với tính cách, cùng
một lúc thể hiện đc nhiều vấn đề xã hội và triết lý sâu sắc.
-Ngôn ngữ kịch sinh động, biến hóa vừa có tính chất dân dã, bình dị dí dỏm vừa có tính
triết lý thâm trầm, kết hợp hài hòa giữa đối thoại và độc thoại…
4. Nhận xét nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.
-Màn thoại giữa Trương Ba và Đế Thích một lần nữa khắc sâu vấn đề trung tâm nhất,
cốt lõi nhất của toàn bộ tác phẩm, đó là việc người sống vẫn có sự hài hòa giữa linh hồn
và thể xác, giữa bên trong và bên ngoài. Việc một người vẫn còn đầy khao khát sống như
Trương Ba sau quá trình trăn trở, lựa chọn đã chối từ cả hai cơ hội được sống để nhận về
mình cái chết đã cho thấy để sống cho ra một người không hề dễ dàng. Người ta không thể
sống bằng bất cứ giá nào, người chỉ thực sự được là mình khi có sự thống nhất, hòa hợp
giữa hoạt động bên ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong.
- Tác giả không chỉ đặt ra vấn đề để người đọc trăn trở suy nghĩ mà đã đi đến trả lời
cho câu hỏi: sống như thế nào là sống có ý nghĩa? Trương Ba chết hẳn để đổi lại sự sống
cho anh hàng thịt, cho cu Tị, để đổi lấy tiếng cười và niềm hạnh phúc cho tất cả những
người xung quanh thì câu hỏi: sống như thế nào là có ý nghĩa đã được trả lời một cách rõ
ràng: một sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người không chỉ biết sống vì mình mà
còn biết sống, biết vun đắp, thậm chí biết hi sinh cho hạnh phúc của những người
xung quanh. Rõ ràng ở đây nhà văn đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng. Đó cũng
chính là lý do cho sự thay đổi đầy dụng ý của tác giả khi biến một người nông dân chung
chung trong truyện cổ dân gian thành một người làm vườn trong tác phẩm của mình. Hình
tượng người làm vườn chính là đại diện cho những người biết vun xới, chăm lo cho hạnh
phúc của người khác. Ở khía cạnh này chúng ta thấy tư tưởng của nhà văn dù tiến bộ và
mới mẻ đến đâu vẫn có sự bắt rễ sâu và hoàn toàn thống nhất với truyền thống, đạo lý tốt
đẹp của dân tộc.
3.3.Kết bài
- Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp nhân vật hồn Trương Ba qua đoạn trích;
- Nêu cảm nghĩ về quan niệm về lẽ sống đẹp dành cho con người.

BÀI 6: SÓNG
Đề 12: Trình bày cảm nhận của anh/ chị về những khát vọng của người con gái trong tình
yêu được thể hiện qua đoạn thơ sau: 
Dữ dội và dịu êm 
Ồn ào và lặng lẽ 
Sông không hiểu nổi mình 
Sóng tìm ra tận bể 

Ôi con sóng ngày xưa 


Và ngày sau vẫn thể 
Nỗi khát vọng tình yêu 
Bồi hồi trong ngực trẻ 

Trước muôn trùng sóng bể 


Em nghĩ về anh, em 
Em nghĩ về biển lớn 
Từ nơi nào sóng lên? 

Sóng bắt đầu từ gió 


Gió bắt đầu từ đâu? 
Em cũng không biết nữa 
Khi nào ta yêu nhau 
(Trích Sóng - Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, tr.154)
Đề 12:
I. Mở bài 1
- Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Xuân Quỳnh: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu
biểu của thơ Việt Nam hiện đại. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một người phụ nữ vừa
giàu tình cảm yêu thương, vừa hồn  nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn
mãnh liệt, da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời  thường. 
-Sóng là bài thơ tình tiêu biểu cho thơ tình yêu của Xuân Quỳnh. Sóng là hình ảnh ẩn dụ
đa nghĩa, gợi lên vẻ đẹp phong phú trong tâm hồn người con gái đang yêu. 
- Khái quát nội dung của đoạn trích: 4 khổ thơ đầu thể hiện những cảm nhận của nhà thơ
về đặc tính của sóng cùng những khát vọng của người con gái khi yêu. 
MB 2: XQ là một trong số nh nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kỳ kháng
chiến chống MĨ. Thơ Ty là một mảng đặc sắc và rất tiêu biểu cho hồn thơ XQ- một trái
tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, giàu đức hy sinh và lòng vị tha. Trg thơ XQ, khát vọng
sống, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với những dự cảm lo âu, những
mong manh bất ổn.Trong chùm những bài thơ tình đó, Sóng có một vị trí thật đặc biệt bởi
đó là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ luôn luôn khao khát TY và gắn bó hết mình
với Ty. 4 khổ thơ đầu thể hiện những cảm nhận của nhà thơ về đặc tính của sóng cùng
những khát vọng của người con gái khi yêu. 
TB: 1.Khái quát chung về âm hưởng và hình tượng của bài thơ.
-Sóng là một trg những bài thơ thành công nhất của XQ về đề tài Ty, đc viết năm 1967, in
trg tập Hoa dọc chiến hào 1968. Bài thơ thể hiện chân thực, tinh tế vẻ đẹp tâm hồn ng phụ
nữ luôn khao khát đc yêu thương gắn bó, một trái tim luôn trăn trở lo âu, một tấm lòng
luôn mong đc hy sinh, dâng hiến cho ty.
- Bài thơ là sự vận động và phát triển song hành của hai hình tượng : sóng và em. Em là
cái tôi trữ tình của nh/th, là hình tg đc miêu tả trg nh cung bậc khác nhau của Ty. Sóng là
hình tg ngh/th đc XQ sáng tạo để diễn tả nh cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm
vừa phong phú vừa phức tạp của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khao khát yêu thương.
sóng chính là hình ảnh ẩn dụ cho trái tim ng phụ nữ đang yêu, là sự hóa thân, phân thân
của em...Hai hình tượng ấy khi phân đôi để soi chiếu sự tương đồng, khi hòa nhập để âm
vang, cộng hưởng. Trái tim ng phụ nữ đang yêu soi vào sóng để nhận ra mình, thông qua
sóng để thể hiện nh rung động, đam mê, khao khát.
2. Cảm nhận đoạn thơ
a. khổ 1 *Mở đầu bài thơ với nhịp ngắt 2/3 và sự đan xen các thanh bằng-trắc cuối mỗi
vế câu khiến sóng hiện lên với những trạng thái trái ngược: Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào
và lặng lẽ.
- Hai câu có tới 4 tính từ mang sắc thái tương phản về cả ngữ âm và ngữ nghĩa đã gợi ra
sự thất thường muôn đời của sóng, xen giữa những cặp từ tương phản là liên từ và gợi ra
một sự thật rằng đại dương mênh mông luôn hàm chứa, luôn tồn tại đồng thời những trạng
thái đối lập, những thay đổi đột ngột, bất ngờ.
- Đây là những biểu hiện của những con sóng ngoài biển khơi, lúc biển động phong ba
sóng dữ dội, khi trời yên biển lặng sóng dịu êm lặng lẽ. Những đối cực ấy đôi khi thật rõ
dàng có thể dự báo trước nhưng nhiều lúc cũng khó đoán, thất thường và hết sức bất ngờ.
* Nó cũng giống như người phụ nữ đang yêu tự nhận thức về những biến động trong
lòng mình, đang bộc bạch không hề giấu giếm, những trạng thái tâm lý tình cảm vừa
phong phú vừa phức tạp của mình, bởi trong tâm hồn họ khi đang yêu cũng có lúc giận
giữ hờn ghen cũng có khi dịu hiền sâu lắng. Đây cũng là những mâu thuẫn trong thống
nhất bởi tất cả đều là những biểu hiện khác nhau của một Ty chân thành, mãnh liệt.
- Tuy nhiên cấu trúc của hai câu thơ cũng bộc lộ tinh tế nỗi lòng ng phụ nữ khi yêu: sau
những dữ dội, ồn ào, cả hai câu đều kết lại bằng trạng thái lặng lẽ, dịu êm giống như ng
phụ nữ có thể vui buồn thất thường, có thể có nh biểu hiện phức tạp tới khó hiểu trg ty
nhưng cuối cùng điều họ khao khát hướng tới vẫn là cảm giác bình yên
* Vì thế hai câu thơ tiếp theo nhà thơ có cách lý giải và cắt nghĩa riêng của mình trong
hành trình khám phá tình yêu khi sóng đc đặt trg mối quan hệ với sông và với bể
Sông không hiểu nổi mình-Sóng tìm ra tận bể".
-Hình ảnh thơ cho thấy Sóng hiện lên mạnh mẽ trong hành động vượt thoát khỏi giới hạn
chật hẹp và thiếu sự đồng cảm (sông không hiểu nổi mình) của dòng sông để đến với biển
rộng bao la, đến với môi trường đích thực của nó để tìm thấy sự đồng cảm lớn lao, tìm
thấy ty đích thực. Ng phụ nữ thường khao khát nh bến bờ quen thuộc, bình yên của Ty
song kh vì thế mà cam chịu, nhẫn nhịn, họ đầy bản lĩnh để có thể chủ động kiêu hãnh và
quyết liệt hướng tìm sự đồng điệu, tri âm. Khác với người phụ nữ xưa, người phụ nữ trong
thơ Xuân Quỳnh đã đến với  tình yêu một cách chủ động, đầy tự tin, khát khao tìm đến với
một tâm hồn đồng điệu, có thể thấu hiểu, sẻ  chia, tìm đến một khung trời tình yêu cao cả,
bao dung. Chỉ về với biển khơi bát ngát, Sóng mới thực sự tìm thấy chính mình, mới nhận
thức được sức mạnh và khao khát cháy bỏng trong tâm hồn mình.
* Giống như Sóng tâm hồn người phụ nữ đang yêu say đắm và thủy chung không chấp
nhận sự tầm thường nhỏ hẹp, cũng luôn trăn trở nhìn lại tình yêu để khám phá chính mình,
luôn đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi lớn và sẵn sàng vượt qua mọi rào cản để đến với
tình yêu đích thực. Đúng là tình yêu không có điểm dừng và chỉ có những tâm hồn rộng
mở không chấp nhận ngủ quyên trong tình yêu mới, luôn tạo ra một cuộc hành trình nhằm
phát hiện và hoàn thiện mình trong tình yêu.Điều này giống như trong Thuyền và Biển,
Xuân Quỳnh đã viết "Bởi tình yêu muôn thuở-Có bao giờ đứng yên".
=> cả khổ thơ đầu chưa có một câu một chữ nào nói đến tình yêu nhưng bao trùm lên nó
là cảm xúc của tình yêu, là tâm trạng vốn có của tình yêu. Ở đây Sóng và Em phân đôi em
nhìn vào sóng để hiểu rõ hơn lòng mình.
b. Khổ 2* Có thể nói, hành trình “tìm ra tận bể” của sóng cũng là hành trình tự nhận thức
chính mình của người phụ nữ, nhận thức giá trị đích thực của tình yêu. 
-Nếu ở khổ 1, sóng đc soi chiếu trg không gian thì tới khổ 2, sóng đc miêu tả trg các chiều
thời gian của quá khứ và tương lai. Đứng trước biển, Xuân Quỳnh cảm nhận rõ nét cái
vĩnh hằng, bất diệt  của sóng:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.
- Giọng thơ cảm thán cùng với những từ chỉ thời gian ngày xưa, ngày sau, cùng ý nghĩa
khẳng định của cụm từ vẫn thế đêm đến một nhận thức về sự vĩnh hằng bất diệt của sóng.
Hàng ngàn hàng triệu năm qua những con sóng ngoài biển khơi đã, đang và sẽ còn chuyển
động không bao giờ ngừng nghỉ, hay mệt mỏi.
-Cũng như sóng, “nỗi khát vọng tình yêu” mãi mãi là niềm khao khát cháy bỏng, “bồi hồi”
trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ. Bao nhiêu thế kỉ qua, con người đã đến với tình
yêu, đã sống mà không thể thiếu tình yêu và sẽ còn yêu chừng nào còn tồn tại. Xuân
Quỳnh khẳng định một chân lí: khát vọng tình yêu là vĩnh viễn, nó không chỉ tồn tại trong
tâm hồn con người, đặc biệt là tuổi trẻ mà còn khiến người ta trở lại, tái sinh như  con
sóng biển ào lên rồi lại tan ra hòa nhập vào biển cả mãi mãi. Cũng như còn biển thì còn
sóng, còn con người thì tình yêu còn mãi. 
*Điều này không mới vì trước đó Xuân Diệu đã khẳng định:"Làm sao sống được mà
không có tình yêu-Không nhớ không thương một kẻ nào". Nhưng điều đáng nói là Xuân
Quỳnh đã cảm nhận điều đó từ trái tim của mình mượn quy luật vĩnh hằng của Sóng để
diễn tả tình yêu của mình.
=>Chỉ với hai khổ thơ bằng giọng thơ hồn nhiên chân thật đã có sự suy tư, XQ đã từ quy
luật tự nhiên mà khám phá và biểu đạt một cách rất nghệ thuật quy luật của đ/s tình cảm
con ng. Đúng là con ng luôn cần Ty nhưng quan trọng hơn cả là con ng k bao giờ tự bằng
lòng với nó mà luôn tìm cách lý giải Ty để hoàn thiện mình để sống đẹp hơn trong c/đ.
c. Khổ 3*Giấu mình trg hình tượng sóng ở kh1-kh2, tới khổ 3-4, hình tượng em đã trực
tiếp xuất hiện. Em đc đặt trg sự đối diện với muôn trùng sóng biển, trước cái vô hạn vô
biên của đất trời và t/y
-Khi đứng trc cái vô biên ng ta thường quên đi những cái nhỏ nhặt, tầm thường, nh lo toan
vặt vãnh mà chỉ nghĩ đến nh gì lớn lao, cao cả. Dòng suy ngẫm của mình đưa nhà thơ tới
nh điều lớn lao, huyền diệu đang hiện hữu trước mắt, đó là biển lớn là t/y của anh, em:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên.
-Biện pháp điệp từ và điệp cấu trúc câu “em nghĩ về” cùng những câu hỏi dồn dập: “Từ
khi nào sóng lên? Gió bắt đầu từ đâu? Khi nào ta yêu nhau?” đã  diễn tả sự trăn trở, khắc
khoải của em khi nghĩ về tình yêu.
d. Khổ 4*Vẫn biết rằng tình yêu là khát vọng muôn đời nhưng khi bước vào tình yêu con
người vẫn có nhu cầu lý giải, cắt nghĩa nguồn gốc của tình yêu. Đây là điều vốn rất tự
nhiên trong tâm lý những người đang yêu. Đến đây hình tượng sóng dường như hòa nhập
vào hình tượng em, với giọng thơ tâm tình thầm thì lời thơ tự bạch tha thiết.
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau.
-Những câu hỏi dồn dập như nh con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man kh dứt, đưa suy
ngẫm của con ng tới vô tận. Câu hỏi đầu tiên về sóng có lời đáp thật chóng vánh, rõ ràng:
sóng bắt đầu từ gió. Câu hỏi thứ hai riết ráo hơn như muốn đi đến tận cùng nguồn gốc của
Ty: gió bắt đầu từ đâu lại không có câu trả lời chính xác, cụ thể. Cái nhún vai thú nhận sự
bất lực của Xuân Quỳnh vừa đáng yêu vừa nữ tính "Em cũng không biết nữa- Khi nào ta
yêu nhau".
-Đúng là chúng ta thật khó lý giải cho rõ ràng tình yêu bởi trái tim có lý lẽ riêng của nó
mà lí trí không dễ gì hiểu được. Giống như nhà thơ Xuân Diệu- Ông hoàng của thơ tình đã
thốt lên:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu
-Nhưng chính trong cái thất bại của Xuân Quỳnh khi đi tìm câu trả lời để cắt nghĩa và lý
giải nguồn gốc của tình yêu, người đọc lại thấy thú vị vì gặp một định nghĩa riêng, một
cách lý giải riêng. Thì ra tình yêu cũng tự nhiên giống như sóng biển cũng giống như gió
trời, nó rộng lớn và thẳm sâu như thiên nhiên thật khó để hiểu hết được. Cũng chính bởi
vậy mà tình yêu luôn tạo ra sự bí ẩn, lãng mạn và có sức hút với con người bao đời nay
-Cấu trúc đảo trong hai câu cuối của khổ thơ: đáp trước-hỏi sau khiến câu trả lời duyên
dáng như một nụ cười vừa bối rối vừa hạnh phúc: bối rối vì sự bất lực của lý trí, và hạnh
phúc khi nhận ra một điều kỳ diệu là Ty kh cần một lý do nào, t/y lớn lao hơn mọi thứ lý
trí trên đời, ty hồn nhiên, giản dị mà mãnh liệt, như sóng như gió như biển...
*Nghệ thuật: Thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởng của
những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gởi gắm tâm
tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn ng phụ nữ khi yêu. Cấu trúc
bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình tượng sóng-bờ, anh-em cũng góp phần
làm nên nét đặc sắc cho bài thơ
III. Kết Bài:
Bằng sự thấu hiểu, đồng cảm của “người trong cuộc”, Xuân Quỳnh đã khám phá, thể hiện
một cách chân  thực và sâu sắc về thế giới tâm hồn của người con gái trong tình yêu.
Hành trình của sóng chính là hành trình của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu mà khởi
đầu là từ bỏ cái chật hẹp để đến với tình yêu bao la rộng lớn. Khát vọng được sống hết
mình trong tình yêu, vĩnh viễn hòa tình yêu cho thấy trước sau Xuân Quỳnh vẫn là nhà thơ
của tình yêu và những khát vọng hạnh phúc cao đẹp.
Đề 16: Anh/Chị hãy cảm nhận đoạn thơ sau để làm rõ vẻ đẹp tình yêu của nhân vật
trữ tình trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ  
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
 
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương 

Ở ngoài kia đại dương 


Trăm ngàn con sóng đó 
Con nào chẳng tới bờ 
Dù muôn vời cách trở 

Cuộc đời tuy dài thế 


Năm tháng vẫn đi qua 
Như biển kia dẫu rộng 
Mây vẫn bay về xa 

Làm sao được tan ra 


Thành trăm con sóng nhỏ 
Giữa biển lớn tình yêu 
Để ngàn năm còn vỗ. 
 (Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ Văn 12, NXB GD)
MB 2:
-XQ là một trong số nh nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kỳ kháng chiến
chống Mĩ. Thơ Ty là một mảng đặc sắc và rất tiêu biểu cho hồn thơ XQ- một trái tim phụ
nữ hồn hậu, chân thành, giàu đức hy sinh và lòng vị tha. Trg thơ XQ, khát vọng sống,
khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt luôn gắn liền với những dự cảm lo âu, những mong
manh bất ổn.Trong chùm những bài thơ tình đó, Sóng có một vị trí thật đặc biệt bởi đó
là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ luôn luôn khao khát TY và gắn bó hết mình
với Ty.
-Giới thiệu vị trí và nội dung chính các đoạn thơ: 5 khổ thơ cuối đã mang đến nỗi nhớ
da diết, mãnh liệt và nhiều cung bậc cảm xúc trg TY
TB: 1. Khái quát chung về âm hưởng và hình tượng của bài thơ.
-Sóng là một trg những bài thơ thành công nhất của XQ về đề tài Ty, đc viết năm 1967, in
trg tập Hoa dọc chiến hào 1968. Bài thơ thể hiện chân thực, tinh tế vẻ đẹp tâm hồn ng phụ
nữ luôn khao khát đc yêu thương gắn bó, một trái tim luôn trăn trở lo âu, một tấm lòng
luôn mong đc hy sinh, dâng hiến cho ty.
- Bài thơ là sự vận động và phát triển song hành của hai hình tượng: sóng và em. Em là
cái tôi trữ tình của nh/th, là hình tượng đc miêu tả trong những cung bậc khác nhau của
Ty. Sóng là hình tượng ngh/th đc XQ sáng tạo để diễn tả nh cảm xúc, tâm trạng, những
sắc thái tình cảm vừa phong phú vừa phức tạp của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khao
khát yêu thương. sóng chính là hình ảnh ẩn dụ cho trái tim ng phụ nữ cho trái tim ng phụ
nữ đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của em...Hai hình tượng ấy khi phân đôi để soi
chiếu sự tương đồng, khi hòa nhập để âm vang, cộng hưởng. Trái tim ng phụ nữ đang yêu
soi vào sóng để nhận ra mình, thông qua sóng để thể hiện nh rung động, đam mê, khao
khát.
-Khái quát chung về đoạn thơ trước: ở nh đoạn thơ trước, sóng hiện lên với hành trình
khám phá chính mình cũng giống như ng phụ nữ khi yêu muốn tìm hiểu cắt nghĩa nguồn
gốc cuả TY để nhận thấy ty là tình cảm tự nhiên, là khao khát mãnh liệt của con ng bao
đời nay. Tiếp đó Ty đã đx thể hiện chân thành tha thiết với nhiều cung bậc cảm xúc khác
nhau
2. Cảm nhận đoạn thơ
a. Khổ 5*Tình yêu thường gắn liền với nỗi nhớ đặc biệt là khi xa cách. Có thể nói rằng
nỗi nhớ là biểu hiện cụ thể và sinh động nhất của tình yêu.
- Ca dao xưa đã nói rất nhiều bài hay về nỗi nhớ trong tình yêu như:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi-
Như đứng đống lửa như ngồi đống than".-
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ....
-Xuân Diệu đã viết:
Uống xong khát lại là tình-
Gặp rồi lại nhớ là mình với ta”.
-Ở bài thơ này Xuân Quỳnh đã mượn sóng để diễn tả nỗi nhớ của mình, đã soi rọi vào
sóng để thấy sự sâu thẳm mênh mang của nỗi nhớ.
*Vì thế trong bốn câu thơ đầu của khổ thơ này hình tượng Sóng được lặp đi lặp lại ba
lần như điệp khúc của một bản tình ca với những giai điệu da diết như nỗi ám ảnh thường
trực về tình yêu và nỗi nhớ:.
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ đươc
-Những con sóng gối lên nhau hối hả xô bờ cũng là một ẩn dụ nghệ thuật về những đợt
sóng lòng đang trào dâng trong tâm hồn người phụ nữ. Nỗi nhó đó choáng đầy tầng sâu
(dưới lòng sâu), lấp phủ bề rộng (trên mặt nước), tức là bao trùm mọi không gian.
-Nó còn chiếm lĩnh mọi thời điểm mọi thời khắc cả ban ngày lẫn ban đêm đều không ngủ
được, tức là nỗi nhớ bao trùm thời gian.
* Nhưng dường như với Xuân Quỳnh thế vẫn chưa đủ, nỗi nhớ còn được đẩy lên đến tận
cùng của tâm linh khi hình tượng em không mượn sóng mà diễn tả trực tiếp tình cảm
của mình, nỗi nhớ da diết của mình
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
- Cái thức trong giấc mơ nói lên sự thật của nỗi lòng rằng nỗi nhớ xâm chiếm cả tâm hồn
em không chỉ trong cõi thực mà còn thường trực cả trong cõi mộng, cõi vô thức tiềm thức.
* Như vậy khổ thơ đã thể hiện chân thành và táo bạo nỗi nhớ của người phụ nữ trong
tình yêu không giống như tâm lý của người phụ nữ phương Đông xưa nay thường vẫn
tránh bộc lộ tình cảm của mình trong tình yêu đôi lứa. Ở đây nhân vật trữ tình vừa rọi
mình vào sóng vừa tách mình ra để cảm nhận và thể hiện hết những cung bậc cảm xúc của
tình yêu để sống thật với tình cảm của mình. Hình tượng thơ cho thấy nh khát khao mãnh
liệt của ng phụ nữ: sóng khao khát hướng vào bờ, em khao khát có đc anh, ty hiện lên đằm
thắm, giản dị và trong sáng, thủy chung.
Khổ 6:* Yêu là nhớ nhưng đó chưa phải là tất cả vì thế ở khổ thơ tiếp theo nhà thơ
khẳng định một lần nữa tình cảm của mình:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
- Nếu phương Bắc, phương Nam gợi nh kh gian xa xôi, cách trở, nh kh gian thường đc lấy
làm biểu tượng cho sự xa cách trg ty, trg c/đ ( Vừa thoáng tiếng còi tàu-Lòng đã Nam xa
Bắc –XQ ), thì các động từ ngược hướng như ngược-xuôi lại thể hiện nh vất vả, gian khó,
truân chuyên...
- Có một sự khác biệt trg cách diễn đạt của XQ so với quy ước cũng như tâm thế thông
thường khi nhà thơ dùng cách nói ngược: Xuôi về phương Bắc, ngược về phương Nam
cùng điệp từ “dẫu” ở đầu hai câu thơ để hé mở những éo le, trắc trở có thể xuất hiện trg
tình yêu và khẳng định bản lĩnh kiên cường của ng phụ nữ dù cuộc đời có nghịch lý trái
ngang, éo le, trắc trở đến mức nào thì em cũng chỉ hướng về một nơi duy nhất, một
phương duy nhất có anh. “Phương anh” là phương của tình yêu thủy chung và bền chặt,
phương trời có anh đẹp đẽ, ấm áp, tươi sáng; mọi phương kh có anh trở nên lạnh lẽo, u
buồn:
Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại
Ngọn gió buồn vẫn thổi phía không anh
- XQ đã cho thấy một quan niệm thật đẹp khi khẳng định ty đích thực kh phụ thuộc vào
những kh gian Nam- Bắc, nh phương hướng ngược –xuôi, trái tim chỉ biết yêu thương thì
kh bận tâm đến nh lô-gic khách quan của c/đ.Nếu như ở khổ trước, nhà thơ bộc lộ nỗi nhớ
nồng nàn, sâu đậm trg ty thì ở khổ này, sắc thái cảm xúc cơ bản vẫn là nõi nhớ tha thiết
hướng về anh. Nhưng thay cho từ nhớ đã là nghĩ- trong nghĩ có cả yêu thương, mông
nhớ, trăn trở, lo âu, giận hờn buồn bã...kh chỉ là nỗi nhớ bất chợt, anh đã trở thành ý nghĩ
luôn canh cánh, thường trực trg lòng em; nếu nhớ là xúc cảm tự nhiên, cảm tính thì nghĩ là
tình cảm lâu bền, lắng đọng những suy tư sâu sắc, chín chắn.
Khổ 7:* Như chưa thỏa mãn với khẳng định ấy nhà thơ tiếp tục nhấn mạnh tình cảm
của mình ở khổ thơ sau :
Ở ngoài kia đại đương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
-Sóng cũng giống như tình yêu không phải dễ dàng đếm được bến bờ hạnh phúc nhưng
nếu là tình yêu chân thành và đích thực thì nó sẽ vượt qua mọi trở ngại và rào cản để tới
bờ giống như em bước qua một khó khăn cách trở để cập bến hạnh phúc.
*Như vậy, trong cảm nhận của mình em tự thấy mình là sóng, anh là bờ-là cái đích mà
Ty của em hướng tới. Theo quan niệm truyền thống thì trong Ty đôi lứa, yếu tố động hay
di chuyển thường được dùng để nói về ng con trai, yếu tố tĩnh đc dùng để nói về ng con
gái như trong ca dao “thuyền ơi có nhớ bến kh-Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
vì thế nói như XQ là cảm nhận và so sánh mới mẻ, mạnh bạo. Nữ sĩ đã làm nên nét mới
mẻ, táo bạo rất hiện đại trong hình tượng nhân vật em. Điều này thể hiện sự thay đổi trong
tâm thế và cách nhìn: ng phụ nữ ở thời đại mới đc làm chủ cuộc đời, đc trân trọng,
bình đẳng, tự họ có thể hoàn toàn chủ động giãi bày tình cảm, cảm xúc của mình.
Khổ 8:*Không dừng lại trg niềm tin và ty như một kết cục có hậu, trái tim nhạy cảm giàu
suy tư của XQ tiếp tục mở ra nh trăn trở khi dòng suy ngẫm hiện hữu những h/a của thời
gian và kh gian
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn trôi về xa
*Là một nhà thơ, lại là một nhà thơ nữ, hơn ai hết, Xuân Quỳnh là người nhạy cảm với sự
trôi chảy của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Ý thức về thời gian trong chị, thường
đi liền với lo âu và khát khao nắm lấy hạnh phúc trong hiện tại. Tuy lúc này thời gian với
Xuân Quỳnh dường như còn ở cả phía trước, cuộc đời còn rộng dài nhưng lo lắng về cái
hữu hạn của đời người, sự mong manh khó bền chặt của hạnh phúc đã hiện ra trong tâm
tưởng. Bởi vậy, Thời gian và kh gian đc đặt trg hai bình diện đối lập: cuộc đời và năm
tháng; biển cả và mây trời. C/đ là quỹ thời gian ngắn ngủi của mỗi kiếp ng, năm tháng
hoán dụ cho dòng thời gian vô thủy vô chung, biển cả là một kh gian mênh mông nhưng
vẫn chỉ là hữu hạn, còn mây trời lại gợi sự phiêu du trg vũ trụ vô cùng vô tận.
*Thơ Xuân Quỳnh rất giản dị và đặc biệt thành thật. Chị làm thơ giống như đặt trái tim
mình lên trang giấy bởi vậy nó có thể đến thẳng với trái tim người đọc kh cần qua những
kỹ thuật ngôn từ. Do đó có lẽ đây là khổ thơ duy nhất trong bài thơ có vẻ mơ hồ vì cách
nói hàm ý.
- Thì ra cuộc đời tuy dài nhưng không phải là vô hạn bởi năm tháng vẫn đi qua cđ mỗi ng;.
Biển tuy rộng mênh mông, bát ngát nhưng không phải là vô cùng vì mây vẫn có thể bay
xa ngòai biển.
-Đằng sau những câu thơ nói về sự trường tồn của thiên nhiên người đọc vẫn nhận ra một
hiện thực đối lập đó là sự hữu hạn của đời người và sự ngắn ngủi, mong manh, sương khói
khó bền chặt của tình yêu. Phải chăng vì thế nên có khi đang ngập tràn hạnh phúc trong
Ty, chị vẫn kh tránh khỏi những lo âu, thảng thốt;
+ Em lo âu trước xa tắp đg tình
Trái tim đập những điều k thể nói
+Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết tình anh có đổi thay
+Em đâu dám nghĩ Ty là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai đã xa rồi.
Khổ 9:* Nhà thơ lo âu mà không dẫn đến bi quan bởi cuối cùng đã tìm ra giải pháp.
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
-Xuân Quỳnh đã chọn cho mình cách ứng xử thật đẹp và tích cực đó là hóa thân thành
trăm con sóng nhỏ, được tan ra giữa biển lớn tình yêu để vĩnh viễn hòa tình yêu của mình
để nó sống mãi với thời gian và năm tháng.
-Khát vọng hòa nhập vào tình yêu lớn tình yêu cuộc đời để tình yêu đôi lứa mãi mãi bất tử
là một khát vọng nhân văn cao đẹp và mãnh liệt của Xuân Quỳnh. Điều này một lần nữa
cho thấy trái tim thành thật, chân thành của nhà thơ .
*Nghệ thuật: Thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởng của
những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gởi gắm tâm
tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn ng phụ nữ khi yêu. - Giọng
điệu tha thiết chân thành, ít nhiều có sự phấp phỏng lo âu. Cấu trúc theo kiểu đan xen giữa
hình tượng sóng-bờ, anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ
2.2. Bình luận vẻ đẹp tình yêu của nhân vật trữ tình trong bài thơ: 
- Qua hình tượng sóng bài thơ khắc họa vẻ đẹp tình yêu: và tâm hồn người phụ nữ Việt
Nam trong  tình yêu: thiết tha, nồng nàn, mãnh liệt, đắm say mà cũng rất trong sáng, cao
cả, một tình yêu chung thuỷ mà trọn vẹn vượt qua thử thách của thời gian và sự hữu hạn
của đời người  nhưng luôn biết gắn chặt với cuộc đời, với mọi người chứ không ích kỉ, cá
nhân. 
- bài thơ cũng cho thấy nét mới mẻ, táo bạo rất hiện đại trong hình tượng nhân vật em: ng
phụ nữ ở thời đại mới đc làm chủ cuộc đời, đc trân trọng, bình đẳng, tự họ có thể
hoàn toàn chủ động giãi bày tình cảm, cảm xúc của mình.
- Từ đó ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình, cái tôi Xuân Quỳnh chân thành đằm
thắm, mãnh liệt và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. 
- Tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người. 
III. Kết Bài: Hành trình của sóng chính là hành trình của tâm hồn người phụ nữ trong tình
yêu mà khởi đầu là từ bỏ cái chật hẹp để đến với tình yêu bao la rộng lớn. Khát vọng được
sống hết mình trong tình yêu, vĩnh viễn hòa tình yêu cho thấy trước sau Xuân Quỳnh vẫn
là nhà thơ của tình yêu và những khát vọng hạnh phúc cao đẹp.
Bài 7: Tây Tiến
A. Kiến thức cơ bản
I.Mở Bài
-Hình ảnh người lính Việt Nam nói chung và hình ảnh người lính thời chống Pháp nói
riêng, từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn cảm hứng lớn. Các nhà thơ viết về họ
với tất cả niềm kiêu hãnh cảm phục tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy Tây
Tiến vẫn là một bài thơ có vị trí đặc biệt: với chất lãng mạn, hào hoa tạo ra sức hấp dẫn,
làm lay động, say mê bao tâm hồn bạn đọc. Trong bài thơ ấy người ta thấy hiện lên
sừng sững bức tượng đài người lính với bút pháp lãng mạn, cảm hứng bi tráng hào
hùng.
II. TB
1.Khái quát chung về tác phẩm:
-Tây Tiến là đoàn quân được thành lập 1947 có nhiệm vụ phối hợp với các ban Lào
đánh tiêu hao lực lượng địch, bảo vệ hành lang phía tây của tổ quốc và tuyên truyền vận
động nhân dân tham gia kháng chiến. Địa bàn hoạt động ở vùng núi Tây Bắc rộng lớn và
hiểm trở hoang vu dữ dội, vô vàn khó khăn
-Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là học sinh sinh viên, họ đều là trí thức trẻ hào hoa thanh
lịch, với tâm hồn tiểu tư sản mộng mơ lãng mạn lần đầu đến với mảnh đất TB xa xôi của
TQ. Bài thơ đc viết trg thời kỳ đầu kháng chiến chống Ph, đời sống bộ đội gặp rất nhiều
khó khăn; đặc biệt đơn vị TT chiến đấu trg hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về
vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu
rất dũng cảm với tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”
-Năm 1947, QD là đại đội trưởng trung đoàn Tây Tiến, tới cuối 1948, ông đc lệnh
chuyển sang đơn vị khác. Một thời gian sau, khi đang ở Phù Lưu Chanh (một làng quê
hiền hòa bên dòng sông Đáy) nhớ về đơn vị cũ ông đã sáng tác bài thơ này. Lúc đầu bài
thơ có tên là “Nhớ Tây Tiến” nhưng sau đó khi in lại tác giả đã sửa nhan đề thành Tây
Tiến thể hiện nỗi nhớ lặn xuống tầng sâu trong tâm hồn để chỉ còn hiển hiện một mối quan
tâm, một ánh mắt đau đáu hướng đến một TT ở trong lòng.
2. Bố cục và mạch c/x: cả bài thơ là nỗi nhớ con ng cảnh vật, nh chặng đg hành quân,
h/a ng lính TT
-Khổ 1: hình ảnh đoàn quân TT trên những chặng đg hành quân gian khổ với Tn TB hùng
vĩ, hoang sơ
-Khổ 2: Kỷ niệm về tình quân dân trong đêm liên hoan và vẻ đẹp thơ mộng của núi từng
-Khổ 3: Chân dung đoàn quân TT và sự hy sinh bi tráng của họ.
-Khổ 4: Nhà thơ phải dời xa đơn vị, gửi lòng mình mãi mãi gắn bó với miền tây và TT.
B. Các đề cụ thể:
Khổ 1: Cảm nhận …..
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
I.Mở Bài
II. TB
1.Khái quát chung về tác phẩm:
…….. Nỗi nhớ đó bao phủ khắp không gian rừng núi, gắn với những chặng đường
hành quân
2.Phân tích đoạn thơ
a. Nội dung:
**Nhớ về Tây Bắc trước hết là nhớ về một miền đất xa xôi heo hút với đặc trưng
nhiều sương mờ
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
-Thiên nhiên Tây Bắc hiện về trong ký ức của nhà thơ bắt đầu với những cái tên của xứ lạ
mà chỉ mới nghe thôi những chàng trai đất Hà Thành thấy xa xôi lạ lẫm:"Sài khao, Mường
lát". Bản thân các địa danh đó đã mang đến ấn tượng về vẻ heo hút của chốn rừng núi
hoang vu
-Câu thơ nào dường như cũng có một lớp sương mờ khiến cho nét cụ thể bị xóa nhòa:
sương mù ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở mường Lát. Cùng với màn sương của thiên
nhiên còn là màn sương mờ của kỷ niệm của nỗi nhớ thương. Bút pháp hiện thực trong
câu thơ đã gợi tả chân thực sự khắc nghiệt của thiên nhiên, khí hậu TB qua hình ảnh một
đoàn quân dãi dầu mỏi mệt thấp thoáng ẩn hiện trong sương núi “Sài Khao sương lấp
đoàn quân mỏi”
- Nhưng điều đặc biệt là lớp sương ấy không phải là màn sương giăng mắc mỏng manh
thơ mộng mà là "Sương lấp" tức là như cả một núi sương sẵn sàng đè bẹp cả đoàn quân
mỏi mệt. Nhịp ngắt 4/4 khiến trọng tâm rơi vào động từ “lấp”, vì thế nhân lên độ rộng, độ
đậm đặc của sương gợi lên hình ảnh sương rừng mênh mông, dày đặc che kín cả đoàn
quân. Nó diễn tả đặc trưng của thiên nhiên TB nhiều sương mờ vùa gợi lại đúng cái
hồn của nơi đây khiến ng đọc có cảm giác bắt gặp một tứ thơ quen thuộc của thơ lãng mạn
vì thơ lãng mạn thích giãi bày nhất là nỗi buồn và thi nhân thường miêu tả những chiều
sương, trăng mờ để làm nền, gợi cớ cho nỗi buồn
-Hình ảnh này cũng khiến ng đọc nhớ đến hình ảnh nh ng chiến sĩ đi trong sương như
trong bài thơ “Tây bắc” của Tố Hữu: “Lại những ngày đi rét với sương//Ngô bung xôi
nhạt nước lưng bương” để thấy con đường hành quân của các chiến sĩ thật vất vả, gian lao.
-có lẽ chính màn “sương lấp’ đó còn gợi ra sự huyền ảo lung linh cho không gian rừng
núi khiến cho hình ảnh “hoa về trong đêm hơi’ có thể có nhiều cách hiểu khác nhau:
+ Nó gợi ra cảnh bộ đội về bản trong đêm sương phải đốt đuốc soi đg và những bó đuốc
giống như những bông hoa lửa lập lòe, lung linh
+So sánh với câu thơ của đại thi hào Ng Du “đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông’ lại thấy
hoa lựu đỏ như lửa làm tăng thêm sức nóng của mùa hè và sự chói gắt của màu hoa còn
trong bài thơ này hoa lửa (đuốc) trong đêm sương làm giảm độ nóng gắt của lửa, tăng sự
lung linh của đêm rừng.
+cách hiểu khác là hoa vẫn là hoa của thiên nhiên nhưng hay ở cách nói ‘hoa về trong
đêm hơi’. Đêm TB nhiều sương, cảnh núi rừng mênh mông, một cánh hoa bất ngờ xuất
hiện làm ấm lòng những ng chiến sĩ. Vì vậy có lẽ nhà thơ kh viết “hoa nở’ mà viết ‘hoa
về’ gợi cảm giác thân mật, quen thân và hoa đã trở thành ng bạn có linh hồn tìm về với ng
giữa chốn heo hút làm nên vẻ đẹp trữ tình giàu chất thơ. Vậy là sự khắc nghiệt của thiên
nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị Bằng những tâm hồn lãng mạn, hào hoa khiến
cho bức tranh TN núi rừng TB hiện lên thật đẹp thật đặc biệt
**Nhắc đến miền Miền Tây Bắc bên cạnh sự xa xôi heo hút huyền ảo, thơ mộng chúng ta
không thể không nhắc đến sự hùng vĩ và hiểm trở của dốc núi. Ba câu thơ tiếp theo đã
tái hiện chặng đường hành quan gian lao, vất vả, ý chí bất khuất kiên cường và tinh thần
lạc quan yêu đời của ng lính Tây Tiến qua những dốc núi, đỉnh đèo
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
-Câu thơ đầu tiên trực tiếp miêu tả dốc núi trập trùng, hiểm trở: Dốc lên khúc khuỷu
dốc thăm thẳm
+ Sự phối hợp dày đặc của 5 thanh trắc đã tạo ra âm hưởng gập ghềnh cho một câu thơ 7
chữ, khiến cho ng đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành quân gian truân, vất vả vô
cùng của chiến sĩ Tây Tiến trong một địa hình mà sự hiểm trở hiện hữu ngay trong nhạc
điệu của câu thơ.Vì thế, Chúng ta dường như có thể tượng tượng ra hơi thở của người lính
sau khi leo dốc nặng nhọc vất vả, đứt đoạn như muốn hụt hơi.
+Nhịp thơ 2/2/1/2 là nhịp thơ bất thường kết hợp với điệp từ “dốc” ở đầu 2 vế thơ nhấn
mạnh sự trùng điệp, chất ngất của nh con dốc. dường như con dốc này chưa qua con dốc
khác đã đợi sẵn, núi rừng không ngừng thử thách ý chí, nghị lực của nh ng lính trẻ.
+Những từ láy gợi hình "khúc khuỷu, thăm thẳm" đã cộng hưởng nghĩa diễn tả cụ thể cái
gập ghềnh cheo leo của những con dốc. Nếu “khúc khuỷu” là sự gồ ghề, gập gềnh của
những dốc núi dưới chân ng chiến sĩ thì “thăm thẳm” lại gợi ra chiều sâu hun hút khôn
cùng (kh nhìn thấy đáy) của những con dốc
-Độ cao của những đèo những dốc núi tiếp tục đc khắc họa cụ thể và tô đậm ở câu
thơ tiếp theo: Heo hút cồn mây súng ngửi trời
+Từ láy “ heo hút” vừa gợi cao, vừa gợi sâu vừa gợi vắng đc đảo lên đầu câu thơ nhấn
mạnh sự hoang sơ, vắng lạng như vô tận của những dộc núi miền Tây trong cảm nhận của
nh ng lính trẻ lần đầu tiên đặt chân đến với TB
+”Cồn mây” là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc gợi ra mây núi bộn bề chồng chất dựng lên thành
cồn, thành dốc. Câu thơ gián tiếp gợi ra liên tưởng dốc núi cao đến mức con đường như
lẫn vào mây, mây bao phủ đường núi, mây mờ mịt trập trùng, mây khiến cho con đường
hành quân của ng chiến sĩ thêm cheo leo, hiểm trở, hoang vu.
+Vế sau của câu thơ tiếp tục gợi ra độ cao của dốc núi khi ng lính như đi trong mây, mũi
sung chạm tới đỉnh trời “ súng ngửi trời”. Đây là một cảm nhận có thực của thị giác khi nh
ng lính hành quân trên dốc núi đầy vất vả đã tếu táo đùa vui rằng mũi sung chạm tới trời-
ngửi trời. biện pháp nhân hóa cho thấy tâm hồn trẻ trung của những ng lính phong trần coi
thường mọi gian lao, ngang tàng kiêu hùng đang chinh phục độ cao
-Dốc núi miền Tây tiếp tục đc miêu tả và khắc họa trong một nét vẽ gân guốc: "Ngàn
thước lên cao, ngàn thước xuống”
+Điệp ngữ “ngàn thước” là ước lệ nghệ thuật có tính định lượng khắc họa vẻ đẹp hùng
vĩ, kỳ thú của dốc núi miền Tây. Nó kết hợp với hai động từ đối lập “ lên-xuống” tạo ra
hai nét vẽ tương phản trong cùng một câu thơ, một nét vút lên "Ngàn thước lên cao”, một
nét bay xuống “ngàn thước xuống" tô đậm cảm giác về một nét gập đột ngột dữ dội cho
câu thơ, gợi tả độ cao của dốc núi, độ sâu của vực, gợi ra hai vách núi đứng sừng sững
trước mặt đoàn quân.=>chỉ sử dụng ngôn từ mà tạo nên hình nên khối thì đúng là phong
cách thơ của QD “thi trung hữu họa”
=>Ba câu thơ đặc biệt giàu chất tạo hình và biểu cảm đã khắc họa đồng thời vẻ đẹp hùng
vĩ, kỳ thú và sự hiểm trở của dốc núi miền Tây. Qua bức tranh thiên nhiên đặt trong sự trải
nghiệm của chiến sĩ TT trên đường hành quân, có thể thấy đc vẻ đẹp tâm hồn của họ: lạc
quan, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, vất vả. Những thử thách của thiên nhiên
dường như chỉ càng làm nổi bật hơn sức mạnh tâm hồn, ý chí và tư chất nghệ sĩ của ng
lính trẻ.
* Sau nh câu thơ đặc tả sự hun hút gập ghềnh của nh dốc núi, đèo cao, vực sâu, câu thơ
tiếp theo gợi ra nh giây phút ng lính tạm dừng chân, nghỉ giải lao trên đỉnh dốc: “Nhà
ai Pha Luông mưa xa khơi”
+ câu thơ sử dụng toàn thanh bằng gợi ra ánh mắt người lính bình thản hướng về phía
chân trời, và thấy xa xa nhà ai đang thấp thoáng ẩn hiện trong màn không gian mờ ảo của
núi rừng, sương núi như những cánh buồm đang bồng bềnh trong biển sương.
+hình ảnh “mưa xa khơi” có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lung mờ mịt như tan
loãng trong biển mưa, kh gian bỗng như mênh mang xa vời hơn.
+Sắc thái phiếm chỉ của “nhà ai” khiến câu thơ như một thoáng trầm lắng suy tư của ng
lính trẻ để dòng cảm xúc chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa không gian xa lạ, mênh mông, trào
lên nỗi nhớ nhung ánh mắt của ng lính hướng đến ngôi nhà để tìm kiếm cảm giác bình
yên, ấm áp
**Thiên nhiên bí hiểm hoang sơ đầy ghê sợ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
-Biện pháp nhân hóa khiến thiên nhiên như có linh hồn vừa dữ tợn vừa thâm hiểm vừa
đầy dã tâm. Thác nước gầm rú, gào thét, phô diễn sức mạnh của mình còn chúa sơn lâm
đêm đêm lẩn khuất ẩn hiện để “true ng” tưc là kh những muốn lấy đi tính mạng mà còn
muốn áp đảo, đánh đòn cân não trước khi ra tay.
-Hai từ chỉ thời gian:"Chiều chiều, đêm đêm" đặt ở đầu 2 đoạn thơ nhấn mạnh ở mọi
thời khắc thiên nhiên miền tây không ngừng thử thách sự can đảm của con người, đặc biệt
là nh ng lính trẻ đến từ Hà thành
=> Nó khiến cho chân dung của nh chiến sĩ TT hiện lên thật mạnh mẽ, họ đã hành quân
qua những vùng đất hoang sơ vắng bóng con ng, họ đã in dấu chân mình trên những vùng
đất tưởng như là vương quốc riêng của mây trời heo hút, thiên nhiên bí ẩn thâm u. Họ đã
vượt qua những gian truân vất vả bằng khí phách kiên cường, lòng dũng cảm.
-Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn đã đc QD sử dụng trong phép đối thanh rất
tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu thơ trên có các tiếng miêu tả thác nước ở những thanh
trắc như “thác, thét” thì ở câu dưới, khi miêu tả bước chân của con cọp, tác giả cũng sử
dụng thanh trắc nhưng ở nh âm vực thấp như “cọp, Hịch”. Nó đã gợi ra âm thanh của thác
nước man dại và tiếng bước chân của con cọp đang rình rập đâu đây.
=> vậy là chất hoang dã đầy bí ẩn của rừng thiêng được phác họa không phải bằng những
nét bạo tay gân guốc như ở trên mà dùng âm thanh của thác nước giữa rừng sâu và hình
ảnh chúa sơn lâm để đặc tả.
Hình ảnh ng lính trên nền TN TB:
** Sự vất vả gian truân cũng như vẻ đẹp trg tâm hồn ng lính TT ít nhiều đc thể hiện trg
những câu thơ miêu tả cảnh TN miền Tây và hành trình qua miền Tây, song còn có nh câu
thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh ng lính và kỷ niệm của họ trg chặng đg hành quân
**Ng lính Tây Tiến hiện lên tinh nghịch đầy chất lính qua hình ảnh “súng ngửi trời".
-Súng đã được nhân hóa khiến cho động từ ngửi được sử dụng như một nhãn tự của câu
thơ vừa diễn tả sự mạnh mẽ vừa bộc lộ được vẻ hồn nhiên tinh nghịch. sau khi vượt một
chặng đg dài với núi cao, đèo sâu, vực thẳm, họ tếu táo đùa vui “súng ngửi trời’.
-liên tưởng hình ảnh này với anh vệ quốc quân trong thơ Tố Hữu, chúng ta vân thấy điểm
chung của ng lính là sự hồn nhiên, trẻ trung, lạc quan, ý chí vươn lên làm chủ trận địa.
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo.
**Trước thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt lính Tây Tiến không tránh khỏi hy sinh mất
mát.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời
-Từ láy dãi dầu đã thể hiện tất cả những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua
miền Tây, khi vượt qua những ngọn núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, qua những nắng
sương, mưa gió... Hai câu thơ tựa như một bức ký họa đầy ấn tượng về ng lính TT. Có thể
hiểu đây là hình ảnh ng lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút
dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc nhưng vô tư, trẻ trung;
- Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả một thực tế đau xót trên chiến trường khi ng lính
kiệt sức, gục ngã không thể bước tiếp cùng đồng đội. Trước thiên nhiên dữ dội, khắc
nghiệt lính Tây Tiến không tránh khỏi hy sinh mất mát, nhưng cái chết của họ được miêu
tả rất nhẹ nhàng chỉ đơn giản là “kh bước nữa”, “bỏ quên đời’ tức là như chỉ ngủ thiếp đi
mấy phút đi vào cõi vĩnh hằng, thanh thản, nhẹ nhàng.
- Ng lính gục xuống khi đang đi giữa hàng quân, nhưng súng mũ vẫn bên mình, vậy là dù
không vượt qua được khó khăn nhưng anh vẫn kh thoái lui, kh chùn bước, kh rời bỏ đội
ngũ. Ngòi bút lãng mạn khiến cho cái chết mệt lả vì sốt rét trở nên thật đẹp, đặc biệt chết
trong tư thế của người lính không rời vũ khí.
-Có vẻ như nhà thơ kh vô tình khi giữa những câu thơ nói về thiên nhiên hùng vĩ hiểm trở
lại xen vào 2 câu thơ nói về sự hy sinh của người lính trẻ. Phải chăng tác giả muốn nói lên
1 hiện thực kh thể chối bỏ đó là sự gian khổ, khốc liệt của chiến tranh. Chỉ có điều cái
nhìn lãng mạn-bi tráng khiến cho hiện thực đó, sự mất mát đó không hề bi lụy mà rất hào
hùng. Qua đây ta cũng thấy vẻ đẹp hào hùng của ng chiến sĩ kiên cường sẵn sàng đương
đầu với tất cả những thử thách, gian truân
** Con đg hành quân của chiến sĩ TT kh chỉ có gian truân vất vả mà còn có cả những kỷ
niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình. Khép lại khổ thơ đầu người lính hiện lên trong tình
quân dân ấm áp.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
-Hai câu thơ là những cụm từ ngữ đã đc xóa đi nh yếu tố kết nối, trở thành một tập hợp từ
chỉ ấn tượng của thị giác, khứu giác, xúc giác, thính giác: TT cơm lên khói, Mai Châu
thơm nếp xôi
- Đây là hình ảnh có thực bởi những chặng đường hành quân vất vả các anh đã nghỉ chân
tại những bản làng Tây Bắc và họ được được sống trong tình yêu thương của đồng bào với
sự đầm ấm của khói bếp và tình ng, nó mang lại cho các anh cảm giác thanh bình thật
hiếm hoi, quý giá trg chiến tranh. Giống như âm thanh Tiếng gà trưa trên đg hành quân
của anh chiến sĩ trg bài thơ của Xuân Quỳnh, hương nếp thơm đầu mùa ở Mai Châu sẽ
mãi là một kỷ niệm khó quên về tình quân dân ấm áp trg c/đ ng lính chiến.
--Vì thế nhà thơ đã thốt lên "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói"-câu thơ có nhiều thanh trắc ở
âm bậc cao gợi ra những làn khói đang bốc cao dần. Mai châu mùa em....không rõ chủ thể
nhưng vẫn hay ở sức gợi: Nó gợi cái nồng nàn, quấn quít ở tình ng trong hương nếp thơm.
Câu thơ này gợi ra nhiều cách hiểu:
+ Có thể hiểu các c/s TT dừng chân ở MC giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt
hương nếp thơm đầu mùa từ bàn tay dịu dàng của các cô gái Mai Châu
+ Cũng có thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa thật lãng mạn từ hai chữ mùa em: ng ta
thường nói mùa hoa, mùa quả...đó là thời điểm căng tràn sung mãn đầy ắp sắc hương của
hoa trái...QD đã tạo ra một nét nghĩa táo bạo và thật đa tình trg tập hợp từ mới mẻ mùa
em khiến cho MC kh chỉ là một địa danh gắn với kỷ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa
của tình quân dân sâu nặng.
=>Thì ra Tây Bắc không chỉ có núi cao, rừng núi hoang vu bí ẩn, mà ở đó còn có những
bản làng nên thơ có khói bếp quện cùng sương núi với hương thơm quyến rũ của sợi nếp
cùng tình quân dân mộc mạc giản dị. Vì thế khép lại đoạn thơ vẫn là nỗi nhớ, song k còn
là khung cảnh của núi cao đèo sâu mà là cảnh sinh hoạt bình yên ấm áp.
=>mặt khác, hai câu thơ trên có nhiệm vụ chuyển đoạn: cảnh miền tây hùng vĩ lùi dần
khuất hẳn đi rồi hiện ra vẻ đẹp bất ngờ độc đáo khác ở phần 2 là vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng
gắn với kỷ niệm của ng c/sĩ.
b. Về nghệ thuật: Tinh thần bi tráng, Bút pháp lãng mạn, ngôn ngữ tài hoa và xúc cảm
mãnh liệt; hình ảnh thơ sáng tạo, kết hợp từ Hán Việt và thuần Việt; nhiều biện pháp tu từ
đã làm nên sức sống của hình tượng nghệ thuật, rung động người đọc.
3. Nhận xét về bút pháp lãng mạn:
-Sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh ấn tượng, thủ pháp cường điệu, tương phản tô đậm những
nét độc đáo khác thường, những vẻ đẹp cao cả, lý tưởng.
-Làm nổi bật chất hào hoa kiêu dũng của hình tượng ng lính TT, thể hiện hồn thơ phóng
khoáng, lãng mạn, tài hoa của QD
III. KB:
Có thể nói Tây Tiến là một tượng đài bằng thơ mà Quang Dũng với một tấm chân tình đã
dựng lên để tưởng niệm những chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc cũng như là để tưởng nhớ
cả một thế hệ thanh niên ưu tú của dân tộc sau cách mạng tháng 8 đã hăng hái ra đi cứu
nước và nhiều người ko trở về
Khổ 3-Đề 9:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thêm
Rải rác biên cương, mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(“Tây Tiến” – Quang Dũng, Ngữ văn 12, tập1, NXB Giáo dục, 2008)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, rút ra nhận xét âm hưởng bi tráng về
hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng.// nhận xét về bút pháp lãng mạn của nhà
thơ Quang Dũng (Đề thi dự bị năm 2019)

I.Mở Bài
….Trong bài thơ ấy người ta thấy hiện lên sừng sững bức tượng đài người lính với bút
pháp lãng mạn, cảm hứng bi tráng hào hùng ở 8 câu thơ của đoạn 3: trích thơ
II. TB
1.Khái quát chung về tác phẩm:
……Nỗi nhớ đó bao phủ khắp không gian rừng núi, gắn với những chặng đường hành
quân, những đêm liên hoan đốt lửa trại đặc biệt là chân dung đoàn quân TT ở khổ 3.
2.Phân tích đoạn thơ
a. Nội dung:
**CĐ: Tuy đã xuất hiện thoáng qua ở đoạn trước nhưng đến đây hình ảnh người lính Tây
Tiến được diễn tả tập trung hơn. Phải chăng ở đoạn 1 và đoạn 2 nhà thơ có dụng ý phác
họa cái nền hoang sơ, diễm lệ của Tây Bắc để làm nội bật hình ảnh người lính ở đoạn tiếp
theo.
***Hình ảnh anh bộ đội thời chống Pháp là hình ảnh khá quen thuộc:
-Trong bài thơ Đông Chí của Chính Hữu
-Rồi đến bài “Nhớ” của Hồng Nguyên
** Bút pháp lãng mạn khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên thật khác thường
mà trước hết là dáng vẻ oai phong và dữ dội.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
** Bức tượng đài chiến sĩ TT kh chỉ có nét ngang tàng oai phong trg dáng vẻ dữ dội, uy
nghi mà còn đc thể hiện ở chiều sâu đẹp đẽ trg tâm hồn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
- Mắt trừng
-HN dáng kiều thơm
**Đánh giá
**Sự hy sinh anh dũng của Người lính Tây Tiến hiện ra trong bốn câu thơ tiếp theo với vẻ
đẹp bi tráng khi sẵn sảng hiến dâng đời mình cho Tổ Quốc.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
b. Về nghệ thuật: Tinh thần bi tráng, Bút pháp lãng mạn, ngôn ngữ tài hoa và xúc cảm
mãnh liệt; hình ảnh thơ sáng tạo, kết hợp từ Hán Việt và thuần Việt; nhiều biện pháp tu từ
đã làm nên sức sống của hình tượng nghệ thuật, rung động người đọc.
3. Rút ra nhận xét âm hưởng bi tráng về hình tượng người lính trong thơ Quang
Dũng.
- Âm hưởng bi tráng hội tụ trong mình nó yếu tố Bi và yếu tố Tráng; có mất mát, đau
thương song không bi lụy; gian khổ, hi sinh song vẫn rất hào hùng, tráng lệ. Âm hưởng bi
tráng có cội nguồn từ chiến trường Tây Tiến ác liệt, từ tinh thần quả cảm và tâm hồn lạc
quan của những chàng trai Hà thành, từ tấm lòng đồng cảm và trân trọng đồng chí đồng
đội của nhà thơ;
- Giọng thơ cổ kính cùng việc nhấn mạnh nét trượng phu của người lính cũng góp phần
làm tăng tính chất bi tráng của tác phẩm.
- Âm hưởng bi tráng cùng với cảm hứng lãng mạn làm nên vẻ đẹp độc đáo của hình tượng
người lính Tây Tiến; có ý nghĩa giáo dục nhận thức và bồi đắp tình cảm, trách nhiệm cho
thế hệ hôm nay và mai sau.
III. KB:
Có thể nói Tây Tiến là một tượng đài bằng thơ mà Quang Dũng với một tấm chân tình đã
dựng lên để tưởng niệm những chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc cũng như là để tưởng nhớ
cả một thế hệ thanh niên ưu tú của dân tộc sau cách mạng tháng 8 đã hăng hái ra đi cứu
nước và nhiều người ko trở về

You might also like