You are on page 1of 7

I.

MỞ BÀI

Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

– Lã Nguyên đã nói về yêu cầu của văn chương nghệ thuật và thiên chức của người
nghệ sĩ “Nhà văn chân chính có sứ mệnh khơi nguồn cho dòng sông văn học đổ
ra đại dương nhân bản mênh mông”. Nguyễn Minh Châu đã ý thức được sâu sắc
thiên chức ấy của người cầm bút trong công cuộc đổi mới văn học nên trở thành
người mở đường tinh anh và tài hoa của văn học Việt Nam sau năm 1975. Đứng
trước sự thay đổi của thời đại, nhận thức được nhu cầu đổi mới văn học, Nguyễn
Minh Châu đã người tiên phong gieo những hạt giống đầu tiên trên con đường đổi
mới. Nếu như trong giai đoạn trước Nguyễn Minh Châu sáng tác theo cảm hứng sử
thi đậm nét, sau năm 1975 ông đã chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề
về đạo đức và triết lý nhân sinh. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu có sức hấp dẫn
riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét phong cách kết
hợp hài hòa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng nhân vật
được soi thấu trong quan hệ đa chiều, phức tạp và đề cao, tôn vinh những giá trị
cuộc sống. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu cho sáng
tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Đây là một tác phẩm hay đậm tính nhân
văn, thể hiện một lối tư duy mới mẻ của nhà văn về cái đẹp, nghệ thuật và số phận
con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân
cách.

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích “Người đàn bà chép miệng…ăn no” đã
giúp người đọc hiểu thêm về nhân vật người đàn bà, từ đó cảm nhận sâu sắc hơn
được vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong văn học.

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

– Nhà văn Nguyễn Minh Châu quan niệm “Tình huống truyện giữ vai trò là hạt
nhân của cấu trúc thể loại, là một lát cắt của hiện thực cuộc sống, nhưng chỉ
qua một lát cắt ấy thấy được cả vòng đời thảo mộc trăm năm”. Với quan niệm
như vậy nên trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã tạo
ra tình huống truyện hết sức độc đáo. Để trong tình huống ấy, các nhân vật phải
bộc lộ cách ứng xử, tính cách và phẩm chất. Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương
mất mát.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, vị trưởng phòng khó
tính đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh
biển buổi sáng có sương mù. Chấp nhận yêu cầu của trưởng phòng, Phùng quyết
định đến vùng biển từng là chiến trường cũ nơi anh từng chiến đấu, ở đó anh có
người bạn chiến đấu là Đẩu, hiện là chánh án toà án huyện. Sau gần một tuần mai
phục, buổi sáng hôm ấy, bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh
mà theo Phùng suốt đời cầm máy anh chưa gặp được một lần. Cảnh đẹp như “một
bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn
bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối
rối. Thậm chí, trong giây phút hạnh phúc đến tuyệt đỉnh, Phùng tưởng như
đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần
của tâm hồn”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, nhận
ra vai trò thực sự của nghệ thuật. Phùng đã bấm máy liên tục để thu hết vẻ đẹp
tuyệt đỉnh của cảnh vật vào ống kính của mình. Nhưng éo le thay khi con thuyền
ngư phủ đẹp như một giấc mơ trong bức tranh nghệ thuật đẹp một cách toàn
bích ấy tiến vào bờ thì bước xuống từ đó không phải là những con người đẹp và
toàn thiện như cổ tích mà là một người đàn bà xấu xí, một người đàn ông độc ác và
một màn bạo lực gia đình khiến cho không chỉ Phùng mà người đọc cũng sửng sốt
và đau đớn. Lão đàn ông hàng chài ra sức đánh người vợ khốn khổ một cách tàn
bạo. Trong cơn giận dữ như lửa cháy, lão vừa nghiến răng ken két vừa dùng hết
sức lực để dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào người đàn bà. Không chỉ đánh vợ
tàn độc mà lão đàn ông còn ra sức chửi rủa. Mỗi nhát quất xuống là một câu
nguyền rủa đầy nghiệt ngã dành cho vợ con: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng
mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng kì lạ là trước trận đòn như với kẻ thù của
người đàn ông, người đàn bà chỉ im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả
cũng không chạy trốn. Phùng cũng chưa kịp làm gì để giúp đỡ người đàn bà thì lại
chứng kiến màn bạo lực gia đình đau lòng hơn. Thằng Phác là con trai của lão đàn
ông và người đàn bà vì thương mẹ nên căm ghét và lao vào đánh lại cả bố để rồi
lão đàn ông tát cho thằng bé hai cái khiến nó ngã dúi xuống cát rồi bỏ đi. Vì muốn
giúp đỡ người đàn bà nên chánh án Đẩu đã gọi chị đến tòa án và trong hoàn cảnh
ấy vẻ đẹp của nhân vật người đàn bà được bộc lộ rõ nét.

2. Nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích

2.1. Số phận bất hạnh:

– Không có tên tuổi, xấu xí: Đọc đoạn trích cũng như đọc hết câu truyện người
đọc vẫn không biết tên của người đàn bà là gì, tác giả đã gọi một cách phiếm định:
khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị….như một sự
xóa mờ tên tuổi nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Chị là người vô danh, là hình
ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không
hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, người
đàn bà không phải là hiện tượng cá biệt và cũng không phải quá phổ biến nhưng ta
có thể bắt gặp đâu đó trong cuộc đời.

Trong suốt tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận dường như mọi sự bất hạnh của
cuộc đời đều trút cả lên người đàn bà: xấu, nghèo khổ, lam lũ, ít học, lại phải
thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho
các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Từ nhỏ chị đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ
mặt sau một bận lên đậu mùa. Vì xấu nên không ai lấy, chị có mang với người con
trai nhà hàng chài hay đến mua bả về đan lưới rồi thành vợ chồng, được anh ta
mang theo xuống sống dưới thuyền. Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ
có hạnh phúc và ấm êm nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam
lũ, bấp bênh, đau khổ càng làm cho diện mạo chị trở nên xấu xí và thô kệch, thể
hiện rõ qua hình ảnh lưng áo bạc phếch, gương mặt tái ngắt như buồn ngủ vì thức
trắng đêm kéo lưới, nửa thân dưới ướt sũng…Số phận, cuộc đời của chị được tác
giả tái hiện với đầy sự cảm thông, chia sẻ và càng hiện ra rõ nét hơn trong câu
chuyện của chị với Phùng và Đẩu ở toà án huyện.

– Nghèo khổ: Nghèo khổ, làm ăn khó nhọc lại còn đông con, cả gia đình hàng chài
trên dưới mười người phải sống chung trên con thuyền chật chội. Theo lời chị “từ
ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động
biển suốt hang tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm
muối…”

– Bị bạo hành: Không chỉ bị cái xấu, cái nghèo đói, lam lũ đeo đuổi mà người đàn
bà còn thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ. Như chánh án Đẩu nhận xét
trước đó thì “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có
một người chồng nào như hắn”. Còn theo lời người đàn bà thì Bất kể lúc nào thấy
khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Giá
mà lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ… Nếu như ở các đoạn văn trước, người đọc
chỉ thấy người đàn bà bị chồng đánh tàn độc thì qua lời người đàn bà trong đoạn
trích đã biết thêm việc chị bị chồng đánh là hoàn toàn vô lí. Chị không có lỗi lầm
gì nhưng lão đàn ông vẫn có thể đánh chị bất cứ lúc nào. Có lẽ, người đàn bà bị
đánh nhiều đến mức khiến chị nghĩ việc chị bị chồng đánh là lẽ đương nhiên như
những đàn ông hàng chài khác uống rượu, bị chồng đánh như một phần quen thuộc
của cuộc đời.

– Nỗi đau về tinh thần: Ngoài nỗi khổ vì vật chất, sự đau đớn về thể xác, người
đàn bà còn phải chịu nỗi đau về tinh thần. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy
đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó “Sau
này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Việc
những đứa con phải chứng kiến cảnh mẹ bị đánh khiến người đàn bà cảm thấy xấu
hổ, nhục nhã và đau đớn. Hơn nữa, chị lo lắng liệu khi những đứa con nhìn thấy
cảnh bạo lực ấy tâm hồn non nớt của chúng sẽ ra sao? Chúng sẽ nghĩ gì về bố và
mẹ? Sau này lớn lên liệu chúng có giống bố không? Chị đã cố giữ gìn một mái ấm
gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui sống, tâm hồn chúng không vẩn
đục nhưng chị hoàn toàn bất lực.

=> Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn
khổ, không có sự che chở yêu thương. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học
và lạc hậu. Số phận đầy bi kịch ấy của chị được tác giả tái hiện đầy cảm thông và
chia sẻ.

2.2. Vẻ đẹp của người đàn bà trong đoạn trích

Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh
con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có
thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ
của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Nhà văn Nguyễn
Minh Châu trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã khám phá, phát hiện ra vẻ
đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà. Vẻ đẹp của chị không dễ nhận thấy vì bị
ẩn mình trong bề ngoài thô kệch, xấu xí nhưng rất đáng trân trọng và ngợi ca.

* Thấu hiểu chồng, vị tha cao thượng

Câu nói Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh cho thấy người đàn bà
hiểu rõ nguyên nhân mình bị chồng đánh. Chị hiểu, lão đàn ông đánh mình không
phải vì bản chất tàn ác, vũ phu mà là do nghèo đói. Cuộc mưu sinh của gia đình
hơn chục người như dồn hết gánh nặng lên đôi vai của người đàn ông đã biến
người chồng hiền lành của chị trở thành ác độc. Chị hiểu lão đàn ông đánh vợ như
một cách giải tỏa đau đớn, khổ sở trong lòng như. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng
nên vì thế mà chị luôn bảo vệ chồng trước những đứa con, trước Phùng và Đẩu.
Khi Phùng hỏi “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không?” như muốn quy
kết cho lão đàn ông bản chất xấu xa, tàn ác thì người đàn bà đáp lời ngay “Không
chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Thấu hiểu chồng phải làm ăn
lam lũ, khó nhọc như vậy nên chị thậm chí còn nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về
mình cho rằng mình chính là nguyên nhân đẩy người chồng tới đau khổ “Giá tôi
đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn” và ”nhưng cái lỗi
chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Thậm chí, chị sẵn
sàng chấp bị bắt tội, phạt tù để không phải bỏ chồng.

* Thương con:

Phùng và Đẩu cho rằng người đàn bà chỉ có cách duy nhất là từ bỏ gã chồng tàn ác
và chắc chắn sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của mình nhưng trái với điều họ mong đợi
người đàn bà đã kiên quyết từ chối. Quyết định không bỏ chồng của người đàn bà
chủ yếu là vì chị thương con. Chị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là
tất cả những gì chị có trong cuộc đời của mình. Vì thương con nên chị cần có
người đàn ông để chèo chống lúc sóng gió phong ba, để cùng nuôi dạy đàn con
trên dưới mười đứa. Chị đã nói rằng đàn bà hàng chài không sống như trên đất
được mà phải sống vì con, phải gánh lấy cái khổ để nuôi con khôn lớn “Đàn bà ở
thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất
được”. Lòng thương con của chị khiến chị chấp nhận hi sinh bản thân, cam chịu
những trận đòn vũ phu của chồng, không kêu van, không trốn chạy. Thậm chí, chị
coi việc mình bị đánh đập như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời, là chuyện
đương nhiên. Cũng vì thương con, sợ con bị tổn thương nên chị mới xin chồng lên
bờ đánh. Tình mẫu tử của chị như một bản năng mãnh liệt ngàn đời của người phụ
nữ được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất, vút lên trên cái nền của cuộc
sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa của chị. Vì có những phụ nữ như chị
nên nếu ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì thiết nghĩ cũng
thật dễ hiểu.

* Sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời

Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người
phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học
nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Sự trải đời ấy của
người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành
động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án
Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường
đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo
không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải
với con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình. Chị hiểu thiện chí của Phùng và Đẩu
khi khuyên mình bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song chị càng hiểu hơn về thực
tiễn đời sống trên sông nước. Chị chắt lọc từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân
lý mộc mạc nhưng thấm vị muối mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở
thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc
sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ
phu tàn bạo. Chị cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời
sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải
gánh lấy cái khổ”. Người đàn bà quê mùa, thất học còn chỉ cho Phùng và Đẩu bất
cập trong chính sách, chủ trương của của chính quyền là Làm nhà trên đất ở một
chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất
cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được! Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ
và “ngộ” ra bao điều.

* Nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường.

Trong khổ đau, bất hạnh người đàn bà vẫn trân trọng, nâng niu những hạnh phúc
nhỏ bé, hiếm hoi. Hạnh phúc của chị là những lúc trên thuyền vợ chồng con cái vui
vẻ, hòa thuận với nhau. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà khiến
“lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Nụ
cười hạnh phúc hiếm hoi của chị được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy
khổ đau, nước mắt với đòn roi, phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn, từ những
nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Để từ đó, ta nhận ra dường niềm vui, niềm hạnh
phúc lớn nhất đối với người người đàn bà chính là sự tận tụy hi sinh cho chồng con
Khi Phùng hỏi chị “Cả đời chị có một lúc nào thật vui không?” thì câu trả lời của
người đàn bà là “Có chứ, chú ! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó
được ăn no…”. Điều đó, cho thấy niềm vui lớn nhất, hạnh phúc nhất của chị là khi
được nhìn đàn con ăn no. Người đàn bà thật sự đã làm người đọc xúc động vì tình
mẫu tử thiêng liêng. Vì các con, chị quên hết nhọc nhằn, cực khổ, chị coi những
bất hạnh, khó khăn, ngọc nhằn mà chị phải gánh chịu như những hạt cát để gió thổi
bay còn những hạnh phúc mà chị nhận được dù quá nhỏ nhoi nhưng chị vẫn hết
sức nâng niu, trận trọng, giữ gìn.

3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

Tạo tình huống truyện độc dáo mang ý nghĩa khám phá. Trong đoạn trích, nhân vật
xuất hiện trong cuộc đối thoại với Phùng và Đẩu. Ngôn ngữ đối thoại sinh động
phù hợp với tính cách nhân vật và đậm tính triết lý. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa
nghĩa. Cách kể chuyện tự nhiên, cảm xúc. Khắc hoạ nhân vật bằng việc đi sâu vào
thế giới nội tâm phức tạp và đầy mâu thuẫn trong cuộc sống thường nhật. Biện
pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người
đàn bà để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca… Ngoài
ra, với bút pháp hướng nội, cảm hứng thế sự, cách lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn
thích hợp đã làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục.

3.2. Nhận xét về vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ được thể hiện trong văn
học.

Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Tình yêu thương
giành cho những người phụ nữ càng sâu sắc bao nhiêu thì nỗi đau cho thân phận
bất hạnh của họ trong những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ
thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ theo dòng chảy đến với những Thị
Nở, người vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu. Trong tác phẩm, tác giả đã xây dựng thành công hình tượng
nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động nghèo khổ, lam lũ,
bất hạnh. Người phụ nữ ấy tuy số phận đầy bất hạnh nhưng lại có những phẩm chất
đáng quí của người phụ nữ Việt Nam, tâm hồn tỏa sáng những phẩm chất cao đẹp:
tảo tần, chịu thương, chịu khó, nhân hậu, bao dung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha,
thương chồng thương con và nhất là lòng thương yêu con vô bờ bến.

You might also like