You are on page 1of 11

B - PHÂN TÍCH CHI TIẾT

📌 1. HAI PHÁT HIỆN CỦA NGHỆ SĨ PHÙNG


a) Phát hiện thứ nhất: Bức danh hoạ mực Tàu thời cổ.

🎨
- Đoạn văn : “Lúc bấy giờ... mang lại”.
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền
Trung (Trung trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục
vụ cho chủ đề thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong
cuộc sống đời thường, người nghệ sỹ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng
chài. Sau bao ngày săn ảnh, Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài
xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương: ” mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào
bầu sương mù trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ”. Với Phùng đây là khoảnh khắc kì
diệu trong đời cầm máy của mình. Bởi từ khung cảnh sông nước đến con người ngư phủ, từ
đường nét, màu sắc, ánh sáng tất cả đều hài hòa tuyệt đẹp. Trong con mắt Phùng, cảnh

🎨
tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.
Cảnh đẹp bất ngờ xuất hiện trước mắt Phùng như một phần thưởng cao quý trời cho để
thưởng cho người nghệ sĩ kiên trì dày công mai phục (như Nguyễn Tuân mấy chục năm

🎨
trước đã hơn hai tuần phục cảnh mặt trời lên trên biển Cô Tô).
Ngòi bút đặc tả vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng đúng như mong ước trong tưởng
tượng của nghệ sĩ về cảnh thuyền và biển trong sương mù nhạt nhoà. Vẻ đẹp giản dị và

🎨
toàn bích của thiên nhiên mà người nghệ sĩ may mắn chớp được khoảnh khắc hiếm hoi.
Cảm xúc của người nghệ sĩ sáng tạo: bối rối, trong tim như có cái gì bóp thắt vào, cảm
thấy niềm vui của sự khám phá chân lí toàn thiện, khọảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Tất

🎨
nhiên là anh vội, không tiếc phim, bấm máy liên tục để vĩnh cửu hoá cảnh tuyệt vời
Ý nghĩa chi tiết: với nhà nghệ sĩ chân chính, không niềm vui nào bằng khám phá được
vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên nhiên và cuộc sống. Nhưng để có được khoảng khắc hiếm
hoi ấy, phải kiển trì, phải vượt khó, phải ham mê, hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp kì diệu
có khi lại đến với người nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hoà hợp kì
lạ giữa cảnh vật và con người đơn giản và hoàn mĩ.

b) Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo hành gia đình người đàn bà mặt rỗ.
- Dẫn: Nhưng đó mới là vẻ đẹp bên ngoài của bức tranh chiếc thuyền ngoài xa. Tình cờ,
Phùng lại phát hiện được một bức tranh sinh hoạt của con người xảy ra bên bờ biển ấy.

🎨
- Đoạn từ: “Ngay lúc ấy... thuyền lưới vó đã biến mất”.
Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thật bất ngờ, lí thú nhưng phát hiện thứ
hai ngay sau đó còn bất ngờ hơn nhưng chẳng lí thú chút nào mà khó hiểu và buồn đau,
căm giận. Phát hiện bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Từ trong con
thuyền đẹp như mơ ấy bước ra hai người đàn ông và đàn bà quái lạ. Và tiếp theo là cảnh
bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra vô tình trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối của

🎨
nhà nghệ sĩ - người lính chiến năm xưa.
Gã đàn ông thô lỗ, hung bạo, vũ phu, cục súc, với sức khoẻ như gấu, hình dáng cổ quái,
hắn trút sự căm giận điên cuồng vào việc đánh đập người vợ của mình bằng chiếc thắt lưng
to bận như đánh kẻ thù, hàm răng nghiên ken két, vừa đánh vừa chửi, nguyền rủa rên rỉ,

🎨
đau đớn
Chúng ta đồng cảm với sự ngạc nhiên cao độ và hành động cứu ứng kịp thời của nghệ
sĩ Phùng, khi “anh há mồm ra nhìn rồi vứt máy ảnh lao tới định cứu người đàn bà nạn nhân
của sự bạo hành man rợ”.
🎨 Nhưng trong cách tả của tác giả đã hé ra phần nào cái nguyên nhân sâu xa khiến gã đàn
ông nọ trở nên thô bạo tàn ác đến thế với vợ mình: gã gịân dữ và đau đớn vì bế tắc, hay vì

🎨
một cái gì đó mà chính gã cũng không hiểu.
Còn người đàn bà, hành động và cử chỉ của mụ càng làm Phùng ngạc nhiên, khó hiểu
hơn, khi mụ nhẫn nhịn chịu đánh, lại chắp tay vái lạy con trai vừa cứu mẹ bằng cách giật cái

🎨
thắt lưng trong tay bố và chịu hai cái tát của người bố hung bạo.
Người mẹ sợ con, xin con đừng chống lại cha mình? Người mẹ sợ con bị cha đánh
chết? Người me quá thương con, lo cho con, sợ con phạm tội với người đã sinh ra mình?
Tất cả đều mới chỉ là ức đoán, chưa có căn cứ làm sáng tò nhưng đã hiện ra trước mắt

🎨
người đọc một chú bé vùng biển gan góc, lầm lì, dũng cảm, hết lòng thương mẹ.
Và đó là là mặt trái của bức ảnh mơ màng, lãng mạn đẹp tuyệt vời kia. Nhưng đó cũng
mới là một phần bên ngoài của sự thật. Tình cờ, lại tình cờ mà may mắn, Phùng có dịp
chứng kiến và tham gia vào câu chuyện để tự mình khám phá thêm chiều sâu và bản chất
của sự thật đau buồn mà dữ dội ấy. Là người lính cũ, Phùng không thể làm ngơ trước sự
bạo hành của cái ác. Phùng cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình nhà
chài kia lại chính là thứ thuốc rửa quái đản lộn trái những thước phim anh đã dày công mới

🎨
chụp được.
Qua phát hiện thứ hai này Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh
thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà
văn muốn thể hiện cái đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái
đẹp của cuộc sống cần có thêm hạnh phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của
ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống. Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà
chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan
trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta
phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng
cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.

📌 2. CÂU CHUYỆN Ở TOÀ ÁN HUYỆN


🎨 Tác giả cố ý không đặt tên cho nhân vật của mình để tỏ rằng mụ cũng là một trong bao
nhiêu người phụ nữ vùng biển khác mà thôi. Đây không phải là một số phận, một cá tính
quá cá biệt. Người đàn bà trung niên, lam lũ, vất vả, thầm lặng, tự nguyện chịu đựng đòn
đánh của chồng như một lẽ đương nhiên, tất yếu đến vồ lí với người ngoài nhưng lại vì lí do
thật đơn giản: bà cần sức mạnh của một người đàn ông trong cuộc mưu sinh và tồn tại gia
đình đánh cá trên biển. Bà sẵn sàng chịu đựng tất cả vì đàn con đông đúc, bà chỉ mong
chúng được ăn no, khoẻ mạnh và lớn lên. Vì thế bà cay đắng và tự nguyện để lão chồng ba
ngày, năm ngày hai trận đòn nhục nhã, chỉ để hắn không bỏ đi, không rời bỏ gia đình. Đó là
sự cam chịu nhẫn nhục đầy hi sinh, đáng cảm thông, chia sẻ. Thấp thoáng trong người đàn

🎨
bà ấy là bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh cao cả.
Đó là câu chuyện về sự thật cuộc đời, giúp Đẩu và Phùng hiểu nguyên nhân thật sự
những điều tưởng chừng như vô lí vừa xảy ra. Và họ - một đại diện cho công lí, một đại diện
cho lương tâm nghệ sĩ mới nhận rõ điều này: Không thể dễ dãi, đơn giản khi nhìn nhận,

🎨
đánh giá mọị sư việc, hiện tượng cuộc sống. \
Với tư cách là một chánh án toà án nhân dân huyện, đại diện cho chính quyền và pháp
luật, một cựu binh thời đánh Đẩu có quan điểm dứt khoát, rõ ràng, bênh vực nạn nhân, giúp
chị tìm con đường giải thoát, răn đe và trừng trị kẻ ác phạm tội. Quan điểm đó là đúng,
nhưng trong trường hơp cụ thể này lại tỏ ra cực đoan và rõ ràng chưa được người bị hại tán
thành chứ đừng nói gì đến tâm phục khẩu phục. Khi nghe tâm sự thật lòng của người đàn
bà, khi hiểu ra vấn đề, phức tạp hơn anh tưởng, nhiều, Đẩu thấy hiện tại chỉ có cách theo
cách của nạn nhân, vẫn đề họ sống với nhau, và gọi lão chồng lên huyện răn đe nghiêm
khắc. Nhưng với gã đàn ông thô bạo, cục súc, đánh vợ như trò giải trí ấy, mấy lời thuyết
giáo của vị chánh án oai nghiêm nhưng xa vời kia liệu có phải như nước đổ lá khoai? Đó là
cái khó của vị quan toà chân chính thời nay.

3. PHÂN TÍCH CÁC NHÂN VẬT

🎨
a) LÃO ĐÀN ÔNG:
Cuộc sống nghèo đói, quanh năm vất vả đã biến chàng trai biển lành nhưng cục thành
gã đằn ông vũ phu, lão chồng độc ác, coi vợ như cái bao tải, để trút nỗi bực dọc, đau khổ,
buồn phiền của riêng mình. Lạ, lão lại không nghiện rượu như nhiều người đàn ông khác!
Tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn lòng ích kỉ, bản thân lão vừa
là thủ phạm vừa là nạn nhân gây nên nỗi khổ cho vợ con mình, gia đình mình. Đối xử vói
loại người này, cần phải kết hợp nhiều biện pháp lí tình, cương nhu, tác động từ nhiều phía
mới hi vọng cải tạo y từ gốc để trở lại là người chồng, người cha tốt như xưa.

🎨
b) NH N VẬT THẰNG PHÁC
Trong những gia đình như thế này, đáng thương nhất là những đứa con. Chúng bị đẩy
vào tình thế thật khó xử: làm thế nào để trọn đạo hiếu? đứng về phía ai? Thương mẹ nhưng
không thể ngăn được bố, càng không thể chống lại bố... Với tính cách giống cha như lột,
phản ứng của thằng Phác là dữ dội, quyết liệt kiểu trẻ con xốc nổi, nghĩ sao làm vậy hết
mình. Nó hết sức xông thẳng .vào người cha hung bạo, giật được cái thắt lưng từ tay gã,
nghiến răng chịu hai cái tát nảy lửa. Và lần sau còn thủ sẵn một con dao găm để đâm bố,
cứu mẹ. Tình thương mẹ vô hạn đã khiến đứa con trai quyết lòng bảo vệ mẹ. Trong mắt
thằng Phác, bố nó đâu còn là một người cha mà chỉ là lão già độc ác, lúc nào cũng chỉ
muốn hành hạ mẹ nó. Chị thằng Phác là đứa con gái can đảm mà biết nghĩ hơn nhiều. Nó
vật nhau với em để tước con dao găm, tránh cho em một việc làm hết sức dại dột, Nó chăm
sóc mẹ khi lên toà án huyện... Nguyễn Minh Châu không hướng trọng tâm vào các nhân vật
trẻ con, nhưng hai đứa bé này vẫn để lại trong người đọc không chỉ lòng thương cảm mà
còn mến yêu và xúc động.

🎨
c) NGHỆ SĨ PHÙNG
Là nhân vật, là người kể chuyện xưng tôi, là người chứng kiến trực tiếp và trực tiếp tham
gia vào câu chuyện, nhân vật Phùng là nơi gửi gắm quan điểm và suy tư của chính tác giả.
Đó là một nghệ sĩ có tài, say mê nghề nghiệp vẫn còn mang trong mình dòng máu người
lính chiến sôi nổi, chân thành. Qua chuyến đi săn tìm ảnh lịch theo yêu cầu của vị trưởng
phòng tinh khôn và khó tính, anh đã đạt kết quả mĩ mãn về chuyên môn, nhưng sâu sắc hơn
anh hiểu biết thêm được bao nhiêu sự thật cay đắng, nghịch lí của cuộc sống đời thường.
Hơn nữa anh còn thức nhận sâu sắc hơn một điều, rằng, trước khi là một nghệ sĩ biết rung
động trước cái đẹp hãy là người biết yêu ghét, buồn vui, đồng cảm chia sẻ và đấu tranh
bằng hành động chống lại cái ác, cái xấu để có cuộc sống xứng đáng với con người. Và
cuộc sống bao giờ cũng cần được khám phá, lí giải với tất cả nhận thức và tình cảm, cái
nhìn đa diện, nhiều chiều mới mong hiểu thấu diện mạo muôn màu và bản chất thực của nó.

🎨
d) NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀNG CHÀI
Về tên gọi : Cũng giống như nhân vật người vợ nhặt (truyện ngắn “Vợ Nhặt”- Kim Lân),
người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh châu cũng không được đặt tên.
Nhân vật được gọi bằng những cái tên phiếm chỉ : Người đàn bà, chị ta, mụ ,...Đây là nhân
vật tiêu biểu cho những người đàn bà vô danh ở những vùng biển khác nhau nhưng cùng

🎨
chung số phận đau thương.
Ngoại hình: xấu xí , thô kệch, mặt rỗ vì hồi nhỏ bị đậu mùa, mụ trạc ngoài 40, khuôn mặt
mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, quần áo rách rưới bạc phếch, thân người ướt

🎨
sũng ...
Hoàn cảnh gia đình, số phận
+ Nghèo khổ lam lũ, đông con, gia đình làm nghề chài lưới, sống chen chúc trên cái thuyền
chật hẹp.
+ Mụ xấu xí từ nhỏ, lại bị rỗ mặt
+ Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống
mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả
+Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh 1
con thú, với lời lẽ cay độc "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ".
Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi
đólà một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi

🎨
đau đớn tất cả vì những đứa con.
Phẩm chất, tính cách:
+ Nhẫn nhục, chịu đựng: Bị chồng trút dây thắt lưng quật tới tấp , chị vẫn nhẫn nhịn, không
hề khóc lóc kêu van, không chạy trốn, không tìm cách chống trả. Chị coi việc mình bị đánh
đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Khi được Phùng và Đẩu góp ý, đề nghị
giúp đỡ thì : "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng đượcnhưng đừng bắt con bỏ
nó" Chị cam chịu đến tội nghiệp.
+ Được mời lên tòa án để giải quyết chuyện gia đình, lúc đầu chị ta lúng túng, rụt rè tìm một
góc tường để ngồi. Chị thấy sợ hãi Khi đến một không gian lạ và cảm thấy mình thật nhỏ bé
giữa chốn công đường. Cái thế ngồi của chị như cố thu mình lại để tự vệ, cho dù đã được
Đẩu, Phùng chia sẻ và cảm thông.
+ Nguyên nhân nỗi cam chịu : Vì con cái, vì hạnh phúc gia đình. Chị hiểu cơ cực của của
cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông.
+ Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng. Sau khi biết hành động vũ phu của chồng mình đã bị
đứa con trai và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) chứng kiến, chị thấy đau đớn, vừa đau đớn
vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt
nước mắt đau khổ của người đàn bà đã ứa ra. Đó là giọt nước mắt của nhọc nhằn và chịu
đựng. Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót cho tình cảnh trớ trêu của mình,
kể cả thằng Phác, đứa con trai mà chị quý nhất. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc
phạm nhưng người đàn bà ấy không hề để ý, không hề bận tâm. Đúng là sự nhẫn nhục của
một người có nhân cách, có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ đời.
+ Yêu thương con tha thiết(" phải sống cho con chứ không thể sống cho mình")
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờbến của chị. Sự cần
thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, đểchèo chống khi phong ba bão táp, cùng
nuôi dạy các con " Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho
mình như trên đất được".
Vì thương con, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố,.... Chị
không muốn các con nhìn thấy cảnh bạo hành gia đình. Và niềm hạnh phúc lớn nhất của chị
là nhìn những đứa con chúng được ăn no,...
=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa
.
+ Người đàn bà vị tha, lạc quan :
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu niềm hạnhphúc nhỏ nhoi trong
cuộc đời bình dị ( "...nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hoà thuận")
.Chị tự động viên mình, và sống vì các con. Đặc biệt, chị không hề hận chồng mặc dù
thường xuyên bị chồng đánh đạp chửi rủa, trái lại, chị còn biết ơn lão. Chỉ Phùng, Đẩu, và
người đọc cảm thấy ngột ngạt trước cuộc sống quá ư khổ cực của chị, còn bản thân chị thì
thấy đó là sự việc rất đỗi bình thường. Chị lí giải nguyên nhân dẫn đến tính khí hung bạo
của chồng và cảm thông, tha thứ cho lão.Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng
là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con
trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.Thậm chí bà còn sẵn sàng
nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ.
Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng
+ Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời:
Ý thức được thiên chức của người phụ nữ ("Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và
nuôi con cho đến khi khôn lớn"). Chị lí giải nguyên nhân dẫn tới nỗi khổ của gia đình mình, lí
giải vì sao mình không thể, và không muốn li hôn. Câu chuyện của chị đã khiến Phùng và
Đẩu đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Sau khi nghe câu chuyện của chị, Phùng và
Đẩu mới vỡ lẽ , và rút ra bài học sâu sắc về cách nhìn đời, nhìn người. Qua câu chuyện của
người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật,
hiện tượng của cuộc sống,không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và
cuộc sống.

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người
mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau
1975. Ở giai đoạn trước, ngòi bút của ông theo khuynh hướng sử thi, đậm tính chiến đấu và
thiên hướng trữ tình lãng mạn, thời kì sau chuyển sang cảm hứng thế sự cùng những vấn
đề triết lí nhân sinh. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu
trong thời kì sau. Tác phẩm kể về chuyến đi thực tế của nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng, qua đó
thể hiện cái nhìn sâu sắc của tác giả về vấn đề nghệ thuật và cuộc sống. Những phát hiện
của nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng làm nổi bật tư tưởng của nhà văn.

Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền
Trung (Trung trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục
vụ cho chủ đề thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong
cuộc sống đời thường, người nghệ sỹ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng
chài. Sau bao ngày săn ảnh, Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài
xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương: ” mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào
bầu sương mù trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ”. Với Phùng đây là khoảnh khắc kì
diệu trong đời cầm máy của mình. Bởi từ khung cảnh sông nước đến con người ngư phủ, từ
đường nét, màu sắc, ánh sáng tất cả đều hài hòa tuyệt đẹp. Trong con mắt Phùng, cảnh
tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.

Đứng trước một bức tranh tuyệt tác của hóa công, người nghệ sĩ nhiếp ảnh trở nên “bối rối”,
“trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Điều đó cho thấy vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài
xa đã tác động mãnh liệt đến tâm hồn của người nghệ sĩ khơi dậy những cảm xúc thăng
hoa kì diệu. Trong khoảnh khắc đó, Phùng cảm giác đã khám phá ra được cái chân lí của
sự hoàn thiện, khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn khiến cho Phùng nghĩ đến lời đúc kết
của ai đó “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
Qua phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng về cái đẹp toàn bích, nhà văn Nguyễn
Minh Châu không chỉ khám phá được phần nào hiện thực cuộc sống sau chiến tranh cũng
như hành trình săn tìm nghệ thuật của người nghệ sĩ mà còn cho chúng ta thấy những chân
lí cuộc đời. Đằng sau cái đẹp của thiên nhiên, của nghệ thuật là vẻ đẹp của tâm hồn, của
con người. Bức họa kia càng thêm sống động thực sự có linh hồn khi con người là chủ thể
của bức tranh lại là những con người bình dị vùng ven biển miền Trung. Hình ảnh chiếc
thuyền ngoài xa tác động mãnh liệt đến tâm hồn Phùng, điều này chứng tỏ tâm hồn của
người nghệ sĩ rất dễ nhạy cảm, tinh tế trước cái đẹp của thiên nhiên con người. Đồng thời
qua phát hiện thứ nhất này nhà văn muốn khẳng định, những tác phẩm nghệ thuật vô giá
không phải tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của một hành trình đi tìm cái đẹp, quá trình lao
động miệt mài của người nghệ sĩ chân chính. Khi bắt gặp cảnh đẹp người nghệ sĩ thấy tâm
hồn mình trong sáng vô ngần, từ đây nhà văn muốn nhấn mạnh khả năng nhân đạo hóa con
người của nghệ thuật chân chính: cái đẹp có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nói
như Đốt-tôi-ép-xki:”cái đẹp cứu vớt con người”. Còn nhà văn Thạch Lam khẳng định: “văn
chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo, thay đổi thế giới
giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn.

Phát hiện thứ hai của Phùng là cảnh mà Phùng nhìn thấy khi chiếc thuyền tiến thẳng vào.
Phùng nhìn thấy bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ kia là một người đàn bà xấu
xí, mệt mỏi, là đứa con muốn bảo vệ mẹ lao vào bố một cách bản năng. Nó bị cha cho cái
bạt tai ngã dúi mặt xuống cát. Toàn cảnh đời ngang trái, sự thật phũ phàng.

Chứng kiến cảnh tượng đó người nghệ sĩ kinh ngạc đến sững sờ, anh như chết lặng bởi vì
không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp kì diệu của tạo hóa kia là cái ác, cái xấu đến không
thể tin được. Vừa mới đây thôi anh đã từng chiêm nghiệm: “bản thân cái đẹp chính là đạo
đức”. Thế mà cảnh tượng cuộc sống của người dân làng chài chẳng phải là đạo đức. Nghệ
sĩ Phùng là người lính từng cầm súng bảo vệ cuộc sống con người cho nên trước cảnh đó
anh thấy bất bình, thấy người đàn ông thật độc ác, tàn nhẫn. Khung cảnh nên thơ về chiếc
thuyền ngoài xa đã nhanh chóng tan vỡ, thay cho cảm xúc thăng hoa chỉ còn lại đau đớn xót
xa.

Qua phát hiện thứ hai này Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền
và biển tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn
muốn thể hiện cái đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp
của cuộc sống cần có thêm hạnh phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại
cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống. Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa
đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là
chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có
cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng cuộc
đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.

Phát hiện thứ ba của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là ở tòa án huyện. Với tấm lòng nhân hậu và
sự bất bình trước cái ác, cả Phùng và Đẩu đều hy vọng góp phần giải thoát cho người đàn
bà hàng chài khỏi người chồng vũ phu, tàn nhẫn. Họ hoàn toàn tin vào thiện chí nhưng họ
đã kinh ngạc trước một hiện thực chớ trêu: người đàn bà đau khổ ấy không muốn bỏ người
chồng tàn nhẫn. Con người bị cầm tù bởi đói nghèo tăm tối và bạo lực ấy lại tuyệt đối không
muốn giải thoát, thậm chí chị còn van xin: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng
được, đừng bắt con bỏ nó”

Trước thái độ và hành động của người đàn bà hàng chài Phùng cảm thấy “căn phòng ngủ
lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá”, đó là cảm
giác chân thực của người lính có trái tim nồng hậu không chấp nhận nổi sự bất công mong
giành lại từng quyền sống cho con người. Bất bình trước sự cam chịu nhẫn nhục tới khó
hiểu của những con người khốn khổ. Hiện thực với những mâu thuẫn éo le qua câu chuyện
của người đàn bà thất học quê mùa nhưng sâu sắc từng trải đã khiến Đẩu và Phùng trở
thành những người nông cạn, lòng tốt của các anh trở thành những lý thuyết đẹp đẽ nhưng
phi thực tế.

Qua phát hiện thứ ba này, nhà văn muốn gửi gắm ba thông điệp đến người đọc. Cái xấu
cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp (tìm hiểu sâu gia đình hàng chài Phùng lại thấy cuộc
sống nhức nhối ấy làm khuất lấp nhiều nét đẹp của không ít những thành viên trong gia
đình). Nhà văn không chấp nhận cái nhìn hời hợt bên ngoài, càng không chấp nhận kiểu
người đứng ngoài cuộc, đứng trên cao để phán xét. Và thông điệp thứ ba là: muốn giải
quyết những vấn đề của cuộc sống không chỉ dựa vào những thiện chí, pháp luật bằng
những lí thuyết đẹp đẽ mà xa rời thực tiến, ngược lại phải có những biện pháp thiết thực
mang tính toàn xã hội mới có thể giải phóng tận gốc những vấn đề tồn tại trong cuộc sống.

Những phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng rất độc đáo, qua đó truyền tải những bức
thông điệp của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng phát biểu:”Sáng tác văn học là
quá trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn người”. Thông điệp phát đi từ hình tượng
“Chiếc thuyền ngoài xa” qua những phát hiện của nghệ sĩ Phùng là sự bổ sung hết sức
thuyết phục cho thông điệp đó.

7. Phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng - Mẫu 6


Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả nổi tiếng của làng văn học Việt Nam
thời kỳ đổi mới. Ông được coi là người “mở đường tài năng và tinh anh nhất”. Trước năm
1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên, sau
năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết
lý nhân sinh. Ông khám phá con người trong cuộc đời mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn
kiếm tìm hạnh phúc, khám phá hạt ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong mỗi con người. Tiêu biểu
cho những kiếm tìm đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ là tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa, in trong tập truyện cùng tên năm 1987.

Truyện ngắn được ra đời tháng 8/1983, khi cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc qua đi. Đất
nước bước vào thời kì mới, thời kỳ độc lập thống nhất. Cuộc sống thời bình với muôn mặt
của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người trước đây
do hoàn cảnh của chiến tranh chưa được đặt ra. Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu
ấy, ”Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của
Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hướng chung của văn học
Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến “lưới vó biến mất”. Ở
phần này, tác giả đi sâu vào kể về hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo
đến “giữa phá” là câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toàn án huyện. Và phần ba còn
lại – tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.

Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh tuyệt đẹp được người nghệ sĩ Phùng ghi lại vào một
buổi sáng mờ sương ở một phá nước miền Trung. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, được cấp
trên giao cho chụp một bức ảnh chủ đề thuyền và biển để đăng trong bộ lịch năm ấy. Anh đã
đi thực tế tại tại vùng biển miền Trung nơi trước kia đã từng chiến đấu và có người bạn ở
đó. Khi đến đây anh bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đó là hình ảnh của thuyền và biển
trong sương sớm. Đây cũng chính là tình huống độc đáo của truyện qua đó ta thấy được
nhiều điều trong cuộc sống này. Nhưng sau bức tranh ấy Phùng lại có phát hiện mới.

Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống là vấn
đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc
cuốn hút theo câu truyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu truyện, khi nhân vật ở
trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế
cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt
lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện. Tình huống truyện của "Chiếc thuyền ngoài xa" là tình
huống nhận thức, khám phá. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống
của truyện được thể hiện qua hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã
giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn
chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám
phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu
rõ bên trong số phận và tâm hồn con người. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì
mới có ý nghĩa.

Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng là khung cảnh thiên nhiên hoàn mĩ, đẹp thơ mộng.
Người nghệ sĩ phát hiện ra một vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương. Đó là cảnh một chiếc
thuyền trong buổi sớm mai đang dần tiến vào bờ, cảnh tượng khiến cho người nghệ sĩ cảm
thấy may mắn và hạnh phúc khi được chứng kiến một bức tranh tuyệt vời đến như vậy. Nó
giống như “một bức tranh mực tàu của một họa sĩ thời cổ”. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe
nhòe …chiếu vào”. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con đang dần tiến vào bờ. Toàn bộ khung
cảnh từ đường nét đến màu sắc ánh sáng đều hài hòa với nhau làm nên một vẻ đẹp toàn
bích. Tác giả gọi đó là cảnh “đắt” trời cho, vẻ đẹp mà trong cuộc đời diễm phúc lắm may ra
bắt gặp được một lần. Nghệ sĩ Phùng tự nhận ra rằng cái đẹp chính là đạo đức. Trước bức
tranh mực tàu ấy Phùng cảm thấy bối rối trong tim anh như có cái gì đang bóp chặt lấy. Đó
là khoảnh khắc trong ngần của cuộc đời. Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh
phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân - thiện - mĩ
của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết.
Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải
có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân - thiện - mĩ, cái đẹp là đạo
đức.

Thế nhưng cảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tế cuộc sống lại đen tối bấy nhiêu. Đó chính là
phát hiện thứ hai của Phùng trước khung cảnh tuyệt vời ấy. Hiện thực nghiệt ngã của con
người với số phận bất hạnh của những con người nơi đây đặc biệt là người đàn bà hàng
chài hiện lên. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là người phụ nữ xấu xí và
người đàn ông hung dữ, cặp vợ chồng hiện thân cho sự lam lũ đói khổ. Chính khuôn mặt
nét người của họ đã nói lên phần nào cái cuộc sống khổ cực mà họ phải chịu. Người vợ
“trạc ngoài 40”, “mặt rỗ”, “thân hình cao lớn thô kệch”, “lưng áo bạc phếch”, “gương mặt lộ
rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới”… dường như bao nhiêu sương gió nắng
mưa của đất trời đã chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy. Còn người đàn ông thì cũng
chẳng hơn gì: “có tấm lưng rộng”, đi chân chữ bát khuôn mặt “độc, dữ”. Cả hai người đều là
hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Một cảnh tượng diễn ra
khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bỗng chốc
biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ. Hai con người khổ sở ấy đi vào phía bãi xe tăng
hỏng và thật bất ngờ trước cảnh tượng ấy: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ
gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng … lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách
dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai
hàm răng nghiến ken két...”. Trong “chiếc thuyền ngoài xa”, một sự thật còn trớ trêu, cay
đắng nữa: Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé chạy một mạch, sự giận dữ
căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông... liền dướn thẳng người vung chiếc khóa
sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông”. Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy
những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm
những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bỗng
hiện hình một sự thật cuộc sống xót xa. Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc
sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí
ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: “Nghệ
thuật không nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao). Những giọt nước mắt của người đàn bà
hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những nốt rỗ chằng chịt kia. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập
với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền.

Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản một chiều mà chứa
nhiều nghịch lý ngang trái, mâu thuẫn. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu
thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức
bên ngoài với nội dung bên trong. Khi nhìn nhận đánh giá cuộc đời thì phải có cái nhìn đa
chiều nhiều phía.

Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm
trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án
huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng,
Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ.Phùng và Đẩu
đều có ý tốt mong cho người phụ nữ ấy thoát khỏi người chồng vũ phu. Chính vì vậy người
đàn bà hàng chài đã đươc chánh án Đẩu mời đến tòa án huyện và giải pháp được đưa ra là
li hôn với chồng. Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện ban đầu chị tỏ ra rất sợ hãi khép
nép sau khi nghe những phân tích và sự giúp đỡ của Đẩu thì chị bỗng bình tĩnh và thay đổi
cách xưng hô không còn khép nép nữa mà nói ra những tâm sự những suy nghĩ của bản
thân mình. Những lời tâm sự của chị đã khiến người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm
hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí, của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân
vật Phùng nhận ra được nhiều điều.

Người đàn bà kể lại cuộc đời mình rằng: Trước kia bà cũng là một người con nhà khá giả,
nhưng sau một trận thủy đậu làm cho bà dỗ hết mặt không ai thèm lấy bà. Khi ấy ông chồng
của bà lại là người làm vườn. Bố mẹ mất đi người đàn ông ấy đã cứu vớt cuộc đời của bà
chính vì thế mà bà bị đánh đập nhưng cũng không nỡ bỏ người chồng đồng thời cũng là ân
nhân của mình. Hiện giờ cuộc sống của bà khổ về cả vật chất lẫn tinh thần.
Gia đình bà sống cùng nhau trên một con thuyền nhỏ. Con thuyền ấy vừa là phương tiện
kiếm sống lại cũng là ngôi nhà che nắng che mưa. Bà thường xuyên bị đánh đập, ba ngày
một trận nhẹ năm ngày một trận nặng. Thế nhưng bà không hề chống lại chồng mình, cam
chịu, nhẫn nhục, bà coi một việc bị đánh là một chuyện đương nhiên, thậm chí sợ các con
nhìn thấy bà xin chồng đánh khi vào bờ. Khi nghe những lời khuyên của Đẩu và Phùng, biết
lòng tốt của họ nhưng bà nhất quyết không bỏ chồng vì người chồng là chỗ dựa tinh thần
lớn nhất của gia đình nhất là khi phong ba bão táp. Người đàn bà cần chồng vì còn phải
nuôi những đứa con kia. Và hơn nữa trên thuyền cũng có những lúc gia đình hạnh phúc vui
vẻ. Người đàn bà chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường khi nhìn thấy các con
được ăn no. Thị nhận lỗi, cho rằng đẻ nhiều con là cái tội của mình. Trong suy nghĩ của
Phùng, Đẩu và thằng Phác người đàn ông kia là kẻ thô lỗ, độc ác, dã man đáng lên án.
Nhưng với người vợ thấu hiểu và cảm thông, người đàn ông ấy cũng chỉ là nạn nhân, hắn
trước kia hiền lành lắm, cũng vì cuộc sống nghèo khổ quá nên mới như vậy. Từ đó cho thấy
người đàn bà hàng chài tuy là một người phụ nữ không học hành, xấu xí nhưng lại có một
trái tim nhân hậu tiêu biểu cho nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Thị là người
chấp nhận hi sinh để sống cho các con, một người vị tha và sâu sắc lẽ đời.

Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như
vỡ lẽ ra nhiều điều. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh
vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà
bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản
trong cái nhìn về cuộc đời và con người. Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay
nó vốn là cái mình nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Vẻ
đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điệp, một triết lý. Đó
là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này.
Từ một người đàn bà nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người
đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình.

Câu chuyện kết thúc khi bức ảnh tuyệt bích được chọn in trong tấm lịch năm ấy và bức
tranh còn được treo mãi trong những gia đình sành nghệ thuật. Điều này khẳng định giá trị
nghệ thuật của bức tranh. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức
của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó. Với anh,
khi đứng trước bức ảnh đen trắng lại thấy một màu hồng trong buổi sớm ban mai và nhìn kĩ
hơn nữa lại thấy bước ra từ trong tranh là người đàn bà hàng chài lam lũ. Như vậy nếu hiểu
bức tranh thuyền và biển kia là hình ảnh của nghệ thuật và người đàn bà hàng chài bước ra
từ trong tranh là hình ảnh của cuộc đời thì nghệ thuật và cuộc đời phải gắn liền với nhau.
Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền vời cuộc sống. Nghệ thuật phải
luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.

Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về
cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng), “Chiếc thuyền
ngoài xa” đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu là đã đem đến
cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả
nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu
khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong
chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói:
“Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào
xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể
hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi người trong cõi
đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con
người. Cần một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên
ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự – triết lí của nhà văn
Nguyễn Minh Châu.

You might also like